(Nguồn ảnh: internet) |
ĐỌC “KHUNG TRỜI CŨ”
THƠ TUỆ SĨ
*
KHUNG TRỜI CŨ
Ðôi mắt ướt tuổi vàng khung
trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên
đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du
thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện
trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn
thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa
tan
Cười với nắng một ngày sao
chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn
chăng!
Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi
ngàn
*.
TUỆ SỸ
LỜI
BÌNH:
(Tác giả Châu Thạch) |
Tuệ Sĩ là một nhà thơ
được mên mộ, một thiền sư được kính trọng. Ngài còn là một tù nhân lương tâm
chịu án tử hình. Cuộc đời ngài và thơ ngài đã được viết hàng ngàn trang và sẽ
đi vào lịch sử, văn học sử. Bài thơ “Khung
Trời Cũ” của ngài là một bài được nhà
thơ Bùi Giáng, cũng là một nhà thơ được trọng vọng bậc nhất Việt Nam đánh giá là một bài thơ “đã
trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.”
Trước hết, ta hãy thưởng
thức khổ đầu của bài thơ “Khung Trời Cũ”:
Ðôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Bình về ba chữ “đôi
mắt ướt”, nhà thơ Bùi Giáng đã viết: “Đôi mắt ướt? Đôi mắt của ai? Vì
sao ướt? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh? Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ
một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ. Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai
ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội
cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi
bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi
chăng?”
Bùi giáng không bình hai
chữ “tuổi vàng. Thế nhưng ta biết “tuổi vàng” cũng có nhiều
nghĩa. Tuổi vàng là tuổi thời thanh xuân trẻ đẹp. Tuổi vàng cũng là tuổi về già
như lá vàng ảm đạm.
Về cụm từ “khung trời
hội cũ” Bùi Giáng viết: “Đôi mắt ướt tuổi vàng /Khung trời /Hội cũ. Xin
xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài
niệm. Hoài niệm gì? - Cung trời hội cũ. Một hội đạp thanh ? Một hội nao nức ? -
"Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?".
Về câu thơ “Áo màu
xanh không xanh mãi trên đồi hoang” nhà thơ Bùi Giáng viết: “Áo nào màu
xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng
và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối?” Bùi giáng cho biết, Tuệ
Sĩ vốn xưa kia có một thời ở Lào nên có thể “áo màu xanh” là áo của cô
gái Lào thuở ấy.
Đọc khổ thơ nầy, Châu
Thạch liên nghĩ đến “đôi mắt ướt” không phải là đôi mắt lệ trào mà cũng
không phải là đôi mắt long lanh. Ở đây Tuệ Sĩ không nói rõ đôi mắt của ai những
có thể hiểu ngầm là đôi mắt cúa chính nhà thơ.
Nhà thơ là một tu sĩ đầy
đạo hạnh, cho nên khó mà ngài chú ý đến một đôi mắt long lanh của giai nhân nào
đó để đến nỗi thành thơ, cho nên cũng khó mà làm cho đôi mắt ngài ướt lệ bởi
cái tâm ngài đã đi vào cõi tịnh, không khóc cười cho sinh diệt của trần gian.
Vậy “đôi mắt ướt”
của Tuệ Sĩ là đôi mắt gì? Đó là đôi mắt huệ. “Đôi mắt thấu rõ, thông suốt,
vượt ra ngoài chấp trước, không hề vương vấn, không hề lưu lại, không chìm nơi
cảnh, chẳng đọng nơi tâm, phủ sạch mê mờ. Nhìn mà không đắm, thấy mà không
vương không khởi, thấy đơn thuần chỉ là thấy, thấy như là không thấy, thấy một
cách rõ ràng chân thật, thấy trọn vẹn tận cùng thể tánh các pháp, cái thấy đó
mới là đích thực”. Cái thấy đó nằm trong “đôi mắt ướt” của thi nhân.
Từ quan niệm về cái thấy
trong đôi mắt ướt của thi nhân, Châu Thạch nghĩ rằng hai chữ “tuổi vàng” cũng
không để chỉ thời thanh xuân trai trẻ hay thời già lão của đời người. Bởi vì
với cái nhìn Phật pháp như thế, thì những biến động vô thường của kiếp sống,
ngài sẽ thấy xa hơn một đời người ngắn ngủi..
Vậy thì “tuổi vàng” ở đây
là tuổi của linh hồn, tức là tuổi mà linh hồn tồn tại qua bao nhiêu kiếp cho
đến nay. Hiểu như thế vì chúng ta suy diễn từ cụm từ “khung trời hội cũ”
của câu thơ. Ta để ý đến chữ “hội”. Hội là tề tựu lại, là tập trung lại.
Vậy “khung trời hội cũ” là khung trời
của bao nhiêu kiếp sống mà nhà thơ đã trãi qua được hoài niệm lại, hay
được thấy lại trong đôi mắt ướt là đôi mắt thông tuệ, đôi mắt nhìn thấy bánh xe
luân hồi đã quay trong những đời quá khứ của thi nhân.
Vậy thì qua câu thơ “Đôi
mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ” có thể hiểu Tuệ Sĩ đã “quán” được,
nghĩa là đã thấy được quá khứ, thấy được những tiền kiếp của linh hồn mình.
Từ câu thơ thứ hai “Áo
màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang” ta liên nghĩ đến bốn câu trong bài
thơ “Hợp Tan” của Vũ Hàng Chương:
Phải chăng từ độ ấy quan san
Trời Đất cùng nhau nỗi hợp tan
Nhưng chỉ mình ta phai áo lục
Còn Khanh sau trước vẫn hồng nhan
(Hợp tan)
Đọc Vũ Hoàng Chương ta
hiểu “áo lục” là áo của thi nhân hay nói chung là áo của kẻ sĩ, của
người nho nhã. Do vậy ta suy diển được câu thơ “Áo màu xanh không xanh mãi
trên đồi hoang” nói về sự phai màu của chiếc áo kẻ sĩ phải dãi đầu nắng mưa
nơi thâm sơn cùng cốc.
Như thế “Áo màu xanh”
chắc chắn không phải của một nàng trinh nữ nào đó trên đất Mường hay trên đất
Lào xa xôi mà một tu sĩ Phật pháp cao thâm như Tuệ Sĩ có thể lưu lại trong tâm
mình bởi “một lần nhìn đắm đuối”. Cho dầu Tuệ Sĩ là một nhà thơ chăng
nữa, thì dưới con mắt đạo mạo cúa bậc chân tu, cái nhìn “áo màu xanh”
phải đem đến một suy tư cao hơn với cái nhìn trần tục như ta .
Vậy thì qua thơ, ta có
thể hình dung Tuệ Sĩ đang ngồi một mình trên đồi cao vắng vẽ, quán tưởng thấy
tiền kiếp của mình, và bởi một phút nhìn thấy bất ngờ đó, nhà thơ biết được
linh hồn mình lang thang qua bao thế hệ như là một tên du thủ: “Phút vội vã
bỗng thấy mình du thủ”. Du thủ du thực hiểu nghĩa xấu là chơi bời lêu lỏng, xấu
xa, hung bạo. hiểu theo nghĩa bình thường thì là người nay đây mai đó, sống
lông bông không ổn định.
Du thủ hiểu theo nghĩa
thơ Tuệ Sĩ là một con người cô đôc đi mãi mê trong vô định, từ kiếp nầy lang
thang qua kiếp khác, để bây giờ ngồi đây “Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện
trăng tàn”.
Khuya là hình ảnh cúa đêm
thế gian mờ tối, trăng tàn là sự sáng của trăng sắp tắt, hay là hình ảnh của
đời người đi qua muôn kiếp, chẳng khác chi những đêm trăng tàn trên trần thế.
Tuệ sĩ đã “Thắp đèn
khuya ngồi kể chuyện trăng tàn”. Nhà thơ kể cho ai nghe đây? Kể cho mình
nghe, trước sự vô thường, phôi pha, biến động thầm lặng của đất trời:
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng!
Nhà thơ Bùi Giáng đã bình
khổ thơ nầy như sau:
“Thy nhân đã mấy phen
ngồi ngó trăng tàn? Ngồi trên một đỉnh đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút
ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải? Đỉnh đá và hạt
muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương
màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó
là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuyết nguyệt phiêu du”
Nhà thơ Tuệ Sĩ đã đem
đỉnh đá và hạt muốn đặt ngang nhau. Ta
thây hạt muối tan mau, đỉnh đá tồn tại ngàn năm nhưng rồi cũng sẽ tan một thời
kỳ nào đó, Hiện giờ cả hai chưa tan nhưng sự phù du của nó có khác gì nhau. Đối
với thiên nhiên “ngàn năm như một ngày, một ngày như ngàn năm” vậy. Nhà thơ hiểu luật
vô thường nên cười với một ngày nắng qua mau và tự tại khi thấy nay mùa đông
mai đã mùa hạ rồi.
Khổ thơ cho ta thấy một
thế giới lạnh lùng biến động, muôn vật đều đồng một thể, thay đổi trong cái thời gian lạnh lùng mà sự
ngắn dài của tháng năm trở thành vô nghĩa. Khổ thơ cũng dạy nhìn đời bằng cái
tâm trung tính, vắng lặng với nụ cười như nụ cười vô tư trong nắng.
Cuối cùng nhà thơ tự thú
mình chưa già mà đã mỏi gối chồn chân:
Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Ở vế thơ trên Tuệ Sĩ nói
mình đang ngồi trên “Đỉnh đá nầy” để thấy “đồi hoang”, “núi
lạnh” và “biển im”. Vậy nhưng bây giờ nhà thơ “ngó lại” thì
thấy “bốn vách tường ủ rủ”. Đây là bức tường của những kiếp nhân sinh,
bức tường khổ đế, bức tường sinh lão bệnh tử. Đúng ra là bức tường thời gian
nhốt bánh xe luân hồi trong đó để Tuệ Sĩ hay loài người cứ phải lang thang
trong đó vạn ngàn năm.
Bài thơ cho ta thấy một tuổi
vàng, một tuổi muối, một tuổi đá đều như nhau cả, Tất cả sẽ từ tuổi nầy đi qua
tuổi khác, lang thang trong thời gian vô định như bốn bức tường nhốt linh hồn ta trong trủng bóng chết đời
đời mà dầu tu hành như thiền sư cũng chưa thể thoát ra! Đọc bài thơ linh hồn ta
cảm nhận được hết cái thú đau thương là cái thú được nghe tiếng thơ trong sáng
vô biên viết về sự trầm tư trong linh hồn cúa một thiền sư đức cao trọng vọng./.
Mời thư giãn với nhạc phẩm ĐƯỜNG VỀ QUÊ HƯƠNG
của Lam Phương, qua tiếng hát Đan Nguyên:
*.
CHÂU THẠCH
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 13.05.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét