(Nguồn ảnh: Internet)
|
QUẢ BÁO VÌ ÁC KHẨU
(Truyện chép từ kinh Phật)
*
Câu chuyện thứ nhất:
ÁC KHẨU VÀ QUẢ BÁO
Ngày xưa, trong thành Xá Vệ có một người nhà rất
giàu, tên gọi là Sư Chất, đã hơn 40 tuổi rồi mà chưa có con. Hai vợ chồng rất
lo lắng, liền đến một nhà Bà-la-môn xin bốc một quẻ bói xem sau này có sinh
được đứa con trai hay con gái nào không? Nhưng họ vô cùng thất vọng nghe thầy
bói trả lời rằng suốt đời họ sẽ không có con.
Sư Chất nghe thế không chịu tin, lại đi tìm một
ông thầy tướng số khác, cao tay ấn hơn, nhiều kinh nghiệm hơn xin bốc quẻ. Lạ
thay, vị thầy tướng này vốn được mọi người tôn kính và khen ngợi là bói linh
như thần, lại cũng làm cho Sư Chất thất vọng.
Sư Chất đi về mà lòng phiền muộn, bỗng sực nhớ
đến bậc đại thánh Thích-ca Mâu-ni, tự nghĩ:
- Đức Phật là giáo chủ của trời và người, là
bậc Nhất thiết trí, không có gì là Ngài không biết, không có gì là Ngài không
hiểu, tại sao ta lại không đến gặp Ngài xin chỉ giáo?
Nghĩ đến đây ông bèn nhắm hướng tinh xá Kỳ Viên
mà đi. Cung kính đảnh lễ đức Phật xong, ông chắp tay bạch:
- Bạch đức Thế Tôn đại bi, xin Ngài thương
xót chúng sinh ngu si mà chỉ giáo. Con có chút ưu tư, năm nay đã hơn 40 mà chưa
có đứa con trai nối dõi, đó là do nhân duyên gì, cúi xin đức Phật khai thị.
Đức Phật trả lời:
- Không lâu nữa ông sẽ có một đứa con trai,
vừa có phúc lại vừa có đức, chỉ có điều là khi nó vừa lớn nó sẽ xin xuất gia.
Nghe tin này Sư Chất rất đỗi vui mừng, thành tâm
đảnh lễ chân Phật, rồi thỉnh cầu:
- Cầu xin Thế Tôn và chư tăng cho phép chúng
con được cúng dường vào trưa mai, để chúng con được kết thêm thiện duyên và
trồng chủng tử vào ruộng phước của Như Lai.
Đức Phật nhận lời rồi, Sư Chất hoan hỉ quay về
chuẩn bị đàn trai. Hôm sau ông dẫn đầu gia nhân, chân thành cúng dường những
món ăn thức uống ngon lành đẹp mắt nhất.
Đức Phật nhận cúng dường xong, thuyết một thời
pháp rồi dẫn tăng chúng quay về tinh xá. Đi được nửa đường, đức Phật và tăng
chúng ngồi dưới một gốc cây bên bờ sông nghỉ ngơi. Bỗng từ trên cây, một con
khỉ nhảy xuống xin mượn bình bát của đức Phật. Nó ôm bình bát chạy đi thật xa
rồi quay về, trong bình bát chứa đầy mật ngọt. Nó dùng hai tay kính cẩn dâng
bình bát lên đức Phật, Ngài nhận lấy và chia cho chư tăng dùng để con khỉ được
nhiều phúc đức. Con khỉ thấy thế mừng rỡ nhảy nhót.
Không lâu sau nó đến ngày tận số, đầu thai làm
người, sinh vào nhà của Sư Chất.
Lúc nó sinh ra, trong nhà phàm có vật dụng gì có
thể chứa đựng thức ăn, thì vật dụng ấy bỗng đầy ắp mật và đường. Vợ chồng Sư
Chất thấy điều quái dị, bèn do nhân duyên này đặt tên con là Mật Thắng.
Thời gian vùn vụt trôi mau như tên bắn, hơn mười
năm trôi qua như trong nháy mắt, Mật Thắng nay đã lớn khôn. Chú bé chán ngán
chuyện thế tục, xin phép cha mẹ cho mình được xuất gia, cha mẹ hết sức vui mừng
mà trả lời:
- Lúc con chưa ra đời, đức Phật đã biết sẽ
có ngày hôm nay. Bây giờ con muốn xuất gia, cha mẹ rất hoan hỉ. Không bao giờ
cha mẹ ngăn chặn con một cách vô lý.
Được cha mẹ hoan hỉ cho phép rồi, Mật Thắng đến
tinh xá Kỳ Viên xin xuất gia với đức Phật. Nhờ có tiền duyên, Mật Thắng chứng
quả rất mau.
Một hôm, thầy đang trên đường đi độ hóa với các
bạn đồng tu, cảm thấy vừa nóng vừa khát lạ thường, ai nấy đều ao ước có một cái
gì để uống. Tỳ-kheo Mật Thắng bèn cầm bát tung lên trời rồi sau đó dùng hai tay
tiếp lấy bát trở về. Bấy giờ trong bát đựng đầy mật ngọt, Mật Thắng bèn chia
cho chúng tăng giải khát.
Về tới tinh xá, một vị tỳ-kheo đi tìm đức Phật
xin thỉnh giáo:
- Bạch Thế Tôn, trong quá khứ tỳ-kheo Mật
Thắng đã tu phúc đức gì mà bây giờ bất cứ lúc nào, ở đâu cũng có thể có đường
và mật?
Đức Phật trả lời:
- Các ông có nhớ có một lần lâu lắm rồi, có
một con khỉ đem mật ngọt đến cúng dường Như Lai và chúng tăng không? Nhờ bố thí
với thiện tâm, nên sau khi chết rồi nó được sinh ra làm người, và nhờ nó chân
thành cúng mật ngọt cho Phật nên kiếp này nó có thể được đường và mật bất cứ
lúc nào và ở đâu.
Đức Phật nói xong, vị tỳ-kheo nọ hỏi tiếp:
- Bạch Thế Tôn! Thế thì tiền kiếp Mật Thắng
do nhân duyên gì mà bị đọa làm thân khỉ?
Lúc ấy xung quanh đức Phật có rất nhiều đệ tử vân
tập, Ngài nhìn họ một lúc rồi đáp:
- Thầy ấy bị đọa xuống làm khỉ là do một
nhân duyên xảy ra cách đây 500 kiếp về trước, thời đức Như Lai Ca-diếp còn tại
thế. Lúc đó có một vị tỳ-kheo trẻ tuổi, tình cờ thấy một vị tỳ-kheo khác đang
băng qua một con suối nhỏ, vị trẻ tuổi bèn cười chế nhạo, bảo là dáng điệu của
vị tỳ-kheo kia giống hệt như con khỉ. Nhưng sau đó thầy ấy tự biết lỗi lầm của
mình, đến xin sám hối với vị tỳ-kheo mà mình đã chế nhạo. Vị tỳ-kheo trẻ tuổi
đã phạm tội ác khẩu nên bị đọa xuống làm khỉ, tuy nhiên nhờ thắng duyên biết
sám hối nên kiếp này mới được gặp Phật và được Phật độ, chứng quả A-la-hán một
cách mau chóng.
Nghe đức Phật giảng xong, các vị tỳ-kheo đều nhận
ra rằng một câu nói ác cũng có thể chiêu cảm nghiệp khổ, vì thế không còn ai
dám ác khẩu, ngay cả đến một câu nói đùa cũng không dám nói. Bởi vì luật
nhân quả không bỏ sót bất cứ một người nào.
Câu chuyện thứ nhì:
NÓI LỜI ÁC PHẢI CHỊU QUẢ BÁO
Lúc đức Phật thuyết pháp ở thành Tỳ Gia Lê, có
một người tên là Ca La Việt, được nhìn thấy tôn nhan của Thế Tôn, sinh lòng hân
hoan vô hạn, bèn thỉnh đức Phật đến nhà để có dịp thành tâm cúng dường.
Khi đức Phật đến và từ bi chú nguyện cho ông, Ca
La Việt trân trọng đứng lên cung thỉnh Thế Tôn thuyết giảng ý nghĩa chân thật
của Phật pháp. Đức Phật mỉm cười, từ miệng Ngài phóng ra một luồng ánh sáng năm
màu rực rỡ, luồng ánh sáng này lập tức nhiễu quanh Ngài ba vòng rồi mới ẩn vào
đỉnh đầu của Ngài mà biến mất.
Ngài A Nan thấy thế, vội sửa y phục đến trước đức
Phật mà bạch rằng:
– Bạch Thế Tôn! Phật không khi nào cười mà không
có nguyên do. Hôm nay Thế Tôn cười, chắc là có điều gì muốn khai thị cho chúng
con. Chúng con vô cùng ngưỡng mong được nghe Thế Tôn từ bi thuyết pháp.
Đức Phật lại cười đáp:
– Được rồi, A Nan! Ta biết ông lúc nào cũng vì
chúng sinh mà mong muốn vạch ra một con đường đưa đến giải thoát, cho nên bây
giờ ta sẽ vì ông mà thuyết giảng.
Cách đây rất lâu, tại một vương quốc nọ, có 500
người lái buôn chuyên đi đào quật các mỏ vàng ngọc châu báu. Có một hôm, họ vào
biển sâu tìm kho tàng. Tìm được kho tàng rồi, trên đường về, họ sợ gặp sóng dữ
nguy hiểm nên mới bỏ thuyền mà đi trên đất liền. Ngày hôm ấy họ băng qua một
ngọn núi cao, khi mặt trời đã ngả về tây, mọi người nằm ngay xuống đất mà ngủ,
hẹn nhau rằng hôm sau khi trời vừa hừng sáng thì phải lập tức lên đường.
Quả nhiên, sáng sớm ngày hôm sau, 499 người thức
dậy đúng giờ chuẩn bị hành trang xong xuôi là khởi hành ngay, chỉ có một người
không ai nhìn thấy mà đánh thức nên vẫn còn nằm ngủ say ở đó.
Khi người này mở mắt tỉnh giấc thì đã lạc mất
đồng bạn, cuống cuồng chạy ra đường núi những tưởng bắt kịp đoàn người kia,
nhưng đã muộn mất rồi! Người này chạy tới chạy lui, nhưng chạy đường nào đi nữa
cũng không ra khỏi được những hẻm núi quanh co hiểm trở.
Đúng lúc ấy, gió bắc bỗng nổi dậy rít lên giận
dữ, trong chớp nhoáng một trận cuồng phong thổi tới làm cho cát đá bay loạn xạ,
từng tảng băng tuyết ào ạt rơi xuống, con đường núi trước mặt phút chốc đã bị
băng tuyết phủ kín, không trông thấy đâu nữa.
Con đường về nay đã không còn, người lái buôn này
tuyệt vọng ôm mặt khóc ròng, nước mắt lả chả.
Trong những hẻm núi quanh co đó có một cây gỗ
thơm Chiên Đàn, hấp thụ tinh hoa của trời đất từ lâu đời nên có được tánh linh
và biến thành một vị thần cây. Thần cây biết được nỗi thống khổ của người lái
buôn lạc đường nên phát tâm cứu giúp, đến trước người này mà nói rằng:
- Ông có thể tạm thời đến chỗ của ta mà ở, chuyện
ăn uống, quần áo đã có ta lo liệu, chờ tới mùa xuân năm sau, băng tuyết tan rồi
sẽ tìm ra đường về.
Người lái buôn đã đến bước đường cùng, nghe thế
mừng rỡ vô cùng, từ đó bèn trú ngụ dưới gốc cây Chiên Đàn này.
Thời gian qua như tên bay, chẳng mấy chốc mùa
xuân đã đến, băng tuyết đã tan, đường về đã hiện ra trước mắt, người lái buôn
lạc đường mới nói với thần cây:
- Khi tôi cùng đường mạt lộ, hân hạnh được ngài
cứu vớt mới sống sót được tới ngày hôm nay, chỉ hận là trong người không có vật
gì để báo đáp ơn ngài. Bây giờ tôi còn chút cha già phải về phụng dưỡng, xin
ngài vui lòng đưa đường chỉ lối cho tôi về.
- Được - thần cây cười nói và đưa cho người này
một cái bánh bằng vàng -, ông cứ đi thẳng trước mặt thì sẽ đến một ngôi thành
nhỏ, cứ ven theo ngôi thành ấy thì sẽ tìm được đường về nhà.
Nghe xong, người lái buôn lạc đường mới cáo biệt
thần cây:
- Gốc cây này mùi hương ngào ngạt thanh khiết
không gì sánh bằng, trên thế gian chắc chắn không có một gốc cây thứ hai như
thế. Hôm nay tôi từ biệt ngài mà về chốn xa xôi, có lẽ suốt đời tôi sẽ không
được gặp lại ngài nữa, chỉ ao ước ngài vui lòng cho tôi biết tên.
Thần cây trả lời:
- Ông hãy đi về đi, tìm biết tên ta mà làm gì.
Người lái buôn nói:
- Tôi rất xấu hổ, lúc cùng đường gặp ngài nên
được sống sót, tính lại hơn một trăm ngày đã trôi qua mà chưa báo đáp được mảy
may nào công ơn to lớn của ngài, thật ra tôi không làm gì khác được là xin được
biết quý danh để khi về tới nhà, tôi có thể kể cho người nhà biết đến công đức
của ngài.
Thần cây thấy người lái buôn có vẻ thành thật,
không nỡ từ chối hảo ý của người này nên thẳng thắn nói tên mình là Chiên Đàn,
nhưng dặn đi dặn lại mấy lượt:
- Rễ nhánh của ta có thể trị được tất cả các loại
bệnh của thế gian, mùi hương của ta bay ngát bốn phương trời, ở xa cũng có thể
ngửi thấy, có thể nói là trên đời có một không hai. Nhưng nếu mọi người biết
được sự hiện diện của ta, lòng tham không đáy của họ sẽ khiến họ đến đốn ngã ta
mất. Vì thế, ta hy vọng ông sẽ không nói với ai chỗ ta ở.
Người lái buôn cám ơn thần cây rồi, đi theo lộ
trình thần cây chỉ dẫn, quả nhiên về được tới nhà của mình. Sau đó ông sống
những chuỗi ngày an vui hạnh phúc bên cạnh cha mẹ và vô số bạn bè thân thích.
Sau đó không lâu, nhà vua bỗng mắc bệnh đau đầu,
thuốc thang mọi thứ đều vô hiệu, sau gặp một vị thầy thuốc danh tiếng nói cho
biết rằng chỉ có một phương thuốc chữa được bệnh của vua, đó là làm sao tìm cho
ra một cây Chiên Đàn, lấy lá rán lên làm thuốc mà uống.
Nhà vua nghe thế, lập tức xuống chiếu nói rằng,
hễ ai tìm được cây gỗ thơm Chiên Đàn thì sẽ được phong thưởng hậu hĩ, chưa kể
còn được vua gả công chúa cho nữa.
Lệnh vua truyền xuống chẳng mấy chốc đã tới tai
người lái buôn ngày nào đi lạc đường. Người này tuy mặt người nhưng lòng thú,
tâm tham dục quyến rũ không sao cưỡng được, nên quên mất ơn cứu mạng và những
lời căn dặn năm lần bảy lượt của thần cây, lén lút chạy đi nói với nhà vua là
mình biết chỗ có cây Chiên Đàn.
Nhà vua liền phái một đoàn dũng sĩ đi theo gã lái
buôn để đốn cây Chiên Đàn mang về.
Thế là một đoàn người rầm rộ, ngày đi đêm nghỉ
không một ngày nào ngừng, quả nhiên đến được chỗ có cây chiên đàn. Mọi người
ngước lên chỉ thấy cành lá sum sê, thân cây sừng sững chót vót. Bọn vệ sĩ thấy
cây như thế, không ai nỡ ra tay đốn. Nhưng nếu về tay không thì cái tội khi
quân, cưỡng lệnh vua làm sao trốn thoát? Đang phân vân lưỡng lự thì bỗng có
tiếng nói vang rền từ trên không vọng xuống:
- Ta là thần của gốc cây này, quý vị nếu muốn đốn
cây thì cứ việc ra tay. Chỉ xin quý vị cố gắng giữ gìn rễ cây để cây đừng chết
hẳn. Đốn cây xong, xin quý vị kiếm xác của một người mới chết, lấy máu người
này bôi lên rễ cây, rồi lấy ruột gan đắp lên trên, cây sẽ có thể sống lại như
cũ.
Nghe đến đây, ai nấy mỗi người một tay đưa búa
lên chém, thân cây ngã xuống đánh ầm một tiếng. Đúng lúc đó, người lái buôn
đứng bên cạnh đang mải mê ngước đầu lên nhìn bỗng rú lên rồi ngã xuống đất. Mọi
người hớt hải chạy đến thì thấy trên thân của người này máu chảy dầm dề. Thì ra
người này không hiểu sao bỗng vấp phải một cái rễ cây mà ngã xuống, bị trúng
ngay chỗ hiểm. Thật đáng thương, tiền lãnh thưởng thì chưa thấy đồng nào mà
tính mệnh thì than ôi đã đi đời!
Lúc mọi người còn đang bàn tán sôi nổi bên cạnh
thi thể của người lái buôn xấu số, thì có một người lên tiếng:
- Lúc nãy tôi nghe có tiếng người nói từ trên
không vọng xuống, bảo kiếm xác người mới chết lấy máu mà bôi lên, rồi lấy ruột
gan mà đắp lên rễ cây. Lúc đó tôi hoang mang tự hỏi, ở một nơi hoang vắng như thế
này thì lấy đâu ra xác người? Nào ngờ người lái buôn này lại chết bất đắc kỳ
tử, hay có thể ông ta vừa tới số cũng không chừng, thôi thì chúng ta hãy tạm
lấy máu và ruột gan ông ta đắp lên rễ cây vậy.
Mọi người ai nấy đều đồng lòng hưởng ứng, khi họ
hoàn tất việc này, trong nháy mắt rễ cây bỗng đâm ra tua tủa và cành lá vươn
lên rậm rạp, gốc cây sum sê tươi tốt như thể chưa từng bị đốn xuống bao giờ.
Nhà vua nhờ uống thuốc chế từ cây Chiên Đàn nên
bệnh đau đầu phút chốc đã lành, bèn truyền lệnh cho tất cả thần dân, ai có bệnh
thì hãy đến lấy thuốc Chiên Đàn còn lại đem về uống, chẳng bao lâu, bệnh tật
nào cũng chữa lành hết. Từ đó đất nước thanh bình, quốc thái dân an, hưởng hạnh
phúc lâu dài.
Ngài A Nan nghe đức Phật kể đến đây, bèn rời chỗ
ngồi, tiến lên lễ Phật bạch rằng:
- Người lái buôn lạc đường sao lại vong ơn bội
nghĩa, quên lời dặn dò của thần cây? Tại sao vì muốn lãnh thưởng mà lại làm
chuyện trái với lẽ phải như thế kia?
Đức Phật là một vị đại giác, Ngài biết một cách
rõ ràng mọi dây mơ rễ má của từng quan hệ nhân quả một, nên trả lời ngài A Nan:
- Ngày xưa khi Phật Duy Vệ còn tại thế, có
ba cha con nhà nọ. Người cha chăm chỉ thực hành ngũ giới, thập thiện, nghiêm
trì bát quan trai giới, tinh tiến, không giải đãi. Người con trưởng cũng hay ở
giữa sân hướng lên không trung mà đốt hương lễ bái, cúng dường chư Phật trong
mười phương. Còn người con út lại ngu si không biết tôn kính Tam Bảo, thường
lấy áo quần không thanh khiết mà đậy lên những nén hương này. Người con trưởng
nói:
- Hành động mày làm rất tội lỗi, làm sao mày có
thể ngang ngược làm chuyện xúc phạm như thế được!
Người con út không những không hối lỗi mà còn
dùng lời thô ác mắng lại anh:
- Hứ! Sao anh dám xía vô chuyện của tôi? Tôi thề
chặt đứt chân anh mới hả lòng!
Người con trưởng không nén được cơn giận mới trả
lời:
- Đồ mất dạy, tao giết mày chết bây giờ!
Người cha đứng bên cạnh cũng nổi cáu lên mà ôm
đầu than:
- Chúng bây hai đứa cãi nhau ồn ào quá, làm tao
bực bội nhức cả cái đầu đây này!
Người con trưởng nói:
- Con sẵn sàng mổ thân con ra làm thuốc chữa cho
cha lành bệnh.
Đức Phật nói đến đây, ngừng lại một lúc rồi nói
tiếp:
- Ai cũng thế, không nên thốt lời vọng ngữ! Kiếp
này tạo khẩu nghiệp, về sau thế nào cũng bị báo ứng. Như đứa con út vừa nói ban
nãy, vì niệm ác khởi lên muốn chặt đứt chân anh, quả nhiên về sau đem người đến
đốn cây, tức là người anh đầu thai lên làm thần cây. Người con trưởng đòi giết
em, quả nhiên sau đó thực hiện lời nói của mình. Còn ông vua bị bệnh đau đầu
chính là cha của anh em nhà ấy, nhờ phụng trì trai giới một cách tinh tấn nên
sinh ra được mọi người tôn quý, nhưng chỉ vì khi hai đứa con của ông cãi nhau,
ông đã từng nói “làm cho tao nhức đầu quá” nên về sau quả nhiên bị bệnh đau
đầu.
Những người này, người nào cũng đã từng thốt lời
vọng ngữ bừa bãi, nên mỗi người đều chịu quả báo lời nói của mình.
Cho nên nói rằng, nhân quả báo ứng như bóng theo
hình, không mảy may sai chạy là như vậy.
Đức Phật thuyết về vấn đề giữ giới thân khẩu ý
xong, ông Ca La Việt đứng bên cạnh Ngài lập tức chứng quả Tu Đà Hoàn. Trong nhà
ông có bao nhiêu tài sản, ông đem lên cúng dường hết để dùng vào việc truyền bá
rộng rãi Chánh pháp. Xong, ông còn đưa vợ con đi quy y Phật, để họ được bước
trên con đường chính giác.
Câu chuyện thứ ba:
ÁC KHẨU LƯỠNG THIỆT
Ngày xưa có một ông trưởng giả rất giàu có, tiền
muôn bạc triệu, tài sản dùng suốt đời không hết, lại có người vợ vừa xinh đẹp
vừa hiền đức, nên đã hạnh phúc lại càng hạnh phúc hơn.
Nhưng niềm vui của ông ngắn ngủi, hạnh phúc thật
vô thường, người ta chẳng thường nói “hoa không nở ba tháng, người không sướng
ba năm” đó sao? Chẳng bao lâu sau, vị phú ông này từ từ rơi vào hố thẳm của khổ
đau. Không ai còn thấy ông với vẻ mặt hân hoan của những ngày hạnh phúc xưa
nữa. Tại sao vậy? Vì đứa con trai của ông mà ra cả.
Ông lập gia đình một thời gian lâu mới sinh được
một đứa con trai, ngày đứa bé ra đời ông vui mừng khôn kể xiết. Nhưng bất hạnh
thay, đứa con ông chỉ mới khóc oe oe chào đời đã vương bệnh nặng. Theo lời thầy
thuốc chẩn bệnh thì đó là những mụn nhọt độc hại mọc trên da đứa bé khiến nó
khóc cả ngày, thế nhưng danh y nào mời đến cũng đều lắc đầu chịu thua. Vì thế
mà nét mặt ông càng ngày càng ủ dột buồn rầu.
Tội nghiệp đứa bé, rất nhiều thầy thuốc đã bó tay
rồi, mà nó vẫn cứ đêm ngày khóc la vì đau đớn, cuộc sống thật là khổ sở.
Tiếng khóc gào rên rỉ của nó làm náo động tới bà
con làng xóm, nên người ta đặt tên cho nó là thằng “Khóc Gào”.
Ngày qua như nước trôi, cuốn đi những năm tháng
thơ ấu của Khóc Gào, chẳng bao lâu cậu đã lớn khôn, nhưng bệnh tật trên người
thì vẫn chẳng hề giảm bớt chút nào. Đêm ngày cậu vẫn phải chịu đựng đau đớn, ai
nghe tiếng rên khóc cũng phải buồn cho cậu.
Gần nhà cậu có một ông hàng xóm già, nghe tiếng
rên la đau đớn của Khóc Gào, trong lòng thấy bất nhẫn, bèn tìm đến nhà cậu thăm
hỏi và nói với cậu rằng:
- Tôi nghe rất nhiều người về khen ngợi tán thán
rằng tại Tinh xá Kỳ Viên có một vị Đại Y Vương, bệnh trên thân hoặc bệnh trong
tâm của chúng ta Ngài đều có thể chữa trị được hết. Ngài có phương tiện thần
thông nhiệm mầu, bệnh của cậu có trầm trọng đến đâu cũng sẽ tức khắc lành, cậu
nên mau mau tìm đến Ngài cầu xin chữa bệnh.
Khóc Gào nghe người hàng xóm nói thế, vui mừng vô
kể, vội mang tấm thân bệnh hoạn tìm đến Tinh xá Kỳ Viên xin được gặp đức Phật.
Khi Khóc Gào nhìn thấy 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp
trên thân uy nghi sáng chói của Phật, cậu hân hoan tán thán ngay. Những đau đớn
khổ não của cậu giảm thiểu đi rất nhiều, lập tức gieo cả năm vóc xuống đất lễ
bái đức Phật.
Đức Phật từ bi chưa từng bỏ rơi bất cứ chúng sinh
bệnh khổ nào, nên khi thấy Khóc Gào tới, Ngài rất hoan hỉ, bèn tuyên thuyết cho
cậu những pháp môn thù thắng có năng lực diệt trừ tất cả mọi khổ não.
Khóc Gào nghe đức Phật thuyết pháp xong bèn sám
hối tội lỗi. Lúc ấy nhọt độc đã hành hạ cậu trên mười năm qua lập tức tan biến,
bệnh khổ của cậu hoàn toàn được tiêu trừ, nên tâm cậu sinh khởi niềm cung kính
hoan hỉ chân thành, cậu bèn cầu xin đức Phật cho phép cậu được xuất gia làm
tỳ-kheo. Cậu tu hành tinh tiến, chẳng bao lâu chứng đắc quả A-la-hán.
Các vị tỳ-kheo khác thấy tình cảnh của Khóc Gào
như thế, thấy đó là điều rất hy hữu, bèn thỉnh Thế Tôn nói về nhân duyên khiến
cho cậu phải chịu quả báo lúc trước. Đức Phật giảng cho các đệ tử nghe rằng:
- Vô lượng kiếp về trước, ở thành Ba La Nại có
hai vị phú ông nọ. Bình thường hai người đã không ưa nhau và đố kỵ nhau, nên
một trong hai người đem rất nhiều vàng bạc châu báu lên dâng tặng nhà vua. Khi
nhà vua nhận những vật cống hiến của ông này rồi thì rất quý trọng ông. Vì thế
khi ông này gièm siểm ông kia trước mặt nhà vua rằng “người ấy vô cùng hiểm ác,
thường dùng mưu độc ám hại tôi, xin đại vương hãy nghiêm trị người ác để bảo vệ
dân lành”, thì nhà vua vốn đã nhận vật cống hiến nên không còn sáng suốt nhận
định, nhất nhất tin lời ông này và ra lệnh bắt giam, không đếm xỉa tới những
lời biện hộ của người kia, còn đem ra tra tấn tàn khốc.
Người này phải chịu tất cả những hình phạt đau
đớn nhất, thương tích đầy thân như vẩy cá, phải nhờ gia đình xuất tiền chuộc
tội mới được thả về nhà.
Về tới nhà ông suy nghĩ không ngừng, thấy rằng
con người vì có thân cho nên mới có khổ, mới bị lắm tai nhiều họa, mình và
người kia không hề có oán thù chi mà họ lại có thể hại mình đến mức thân tàn ma
dại như thế này. Không lâu sau, ông bỏ gia đình vào núi tu hành và thành Bích
Chi Phật.
Vị Bích Chi Phật phát tâm đại từ bi, sợ rằng
người kia kiếp sau sẽ chịu quả báo đau khổ nên tới nhà người ấy thị hiện đủ
loại thần thông, khiến người kia thấy những biến hóa bất khả tư nghì như thế,
sinh tâm kính ngưỡng, lập tức thỉnh Bích Chi Phật lên tòa ngồi và chuẩn bị đủ
loại thực phẩm đặc biệt để cúng dường và sám hối tội cũ của mình đối với Ngài.
Đức Phật nói đến đây, ngừng một lúc rồi nói tiếp:
- Các ông phải biết, người sàm tấu với vua chính
là tỳ-kheo Khóc Gào đã chịu khổ trong kiếp này. Sau, nhờ ân huệ của Bích Chi
Phật, sám hối tội lỗi cũ, và nhờ công đức thành kính quy y Tam Bảo nên ngày nay
được Như Lai cứu độ, mau đắc quả thánh.
Đừng nghĩ rằng những lời sàm tấu nói ra mà không
ai biết. Nghiệp tội không trốn được, dẫu trong đường tơ kẽ tóc. Nhưng đã phạm
tội như thế rồi mà biết sám hối thì có thể được cứu độ.
0 comments:
Đăng nhận xét