(Nguồn ảnh: internet) |
ĐÓA HOA HỒNG
CHO NGƯỜI BÌNH THƠ
*
Từ Một Bình Luận Trên Facebook
(Tác giả Phạm Đức Nhì) |
Mới đây,
dưới bài viết Hồn Thơ Và Cảm Xúc (1) của tôi trên Facebook có hai bình luận
của Vân Anh; đúng ra là một bình luận được chia làm hai phần - phần đầu là 4
câu thơ và phần sau có vẻ như là lý do chị đã viết 4 câu thơ đó.
Dưới đây
là nguyên văn bình luận:
Không là dòng chảy trong mương
Không là sóng cả đại dương thăng trầm
Người – êm ái mạch nước ngầm
Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về.
Cám ơn
anh Nhì Phạm.
Bài viết
của anh thật thú vị. Em cũng từng nguệch ngoạc đôi dòng nhưng vẫn chưa thấy
dáng dấp thơ trong đó. Đọc bài viết của anh và ngộ ra khá nhiều lỗ hổng trong
những dòng nguệch ngoạc của mình.
Tôi trả
lời:
Cảm thấy
vui khi đọc những dòng "tự thú" của em. Ít ra là bài viết của anh đã
có ích cho một người. Rất Yêu Quý em, Vân Anh ạ.
Bốn câu
thơ của em hay lắm. Hôm nào có hứng sẽ có mấy dòng "chọc phá" em.
Bài Thơ Đã Có Tựa Đề
Sau khi
cùng tôi trao đổi qua mục nhắn tin của Facebook, chị đã chọn cho đoạn thơ một
tựa đề. Và bài thơ đã có bộ mặt hoàn chỉnh như sau:
MẠCH
NƯỚC NGẦM
Không là dòng chảy trong mương
Không là sóng cả đại dương thăng trầm
Người – êm ái mạch nước ngầm
Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về.
(Vân
Anh)
Tứ Thơ
Tứ thơ
dựa trên văn bản:
Không là
dòng chảy trong mương, cũng không phải đại dương sóng cả, Người là mạch nước
ngầm, êm ái chảy trong tâm hồn tôi suốt những tháng năm vụng về.
Tứ thơ
đúng là “kín như bưng”.
Cũng
may, nhờ có phần sau của bình luận, tứ thơ có diện mạo dễ coi và dễ hiểu như
sau:
Nhờ đọc
và tiếp nhận “hương hoa” của những bài bình thơ từ 4 phương, 8 hướng, tác giả
chợt “ngộ” ra rằng những nhà bình thơ (đúng ra là tác phẩm của họ), không là
dòng chảy trong mương, cũng không phải đại dương sóng cả, mà hình như là một
mạch nước ngầm, nhẹ nhàng êm ái chảy trong tâm hồn suốt những tháng năm chị còn
vụng về trong việc sáng tác cũng như cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca.
Ý: Chính
những nhà bình thơ đã giúp thi sĩ chỉnh sửa những vụng về, bất cập trong thơ họ
sáng tác cũng như cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca của họ.
Thể Thơ
Mạch
Nước Ngầm được viết bằng thể thơ lục bát, vần gieo đầy đủ, gần như là chính vận
(mương/dương, trầm /ngầm, ngầm/năm)
nhưng bài thơ ngắn (4 câu) nên vần chỉ vừa độ ngọt, không có hội chứng nhàm
chán vần.
Nhịp
điệu không mới theo nghĩa đột phá, tiên phong nhưng cũng không quá cũ. Câu 2 có
đảo ngữ của tĩnh từ “sóng cả”; câu 3
có đảo ngữ của tĩnh từ “êm ái” với
nhịp 1/2/3 (Người/ êm ái/ mạch nước ngầm)
cũng khá lạ nhưng rất tự nhiên, không có vẻ “cố làm mới” một cách gượng gạo.
Nói
chung, bài thơ gọn, đẹp về mặt hình thức.
Ngôn Ngữ, Hình Tượng
Ngôn ngữ
ở câu đầu “Không là dòng chảy trong
mương” có nét đẹp giản dị dân dã của cô gái quê. Đến câu thứ
hai “Không là sóng cả đại dương
thăng trầm” nét đẹp đã có chút ít vẻ cao sang. Về ý nghĩa, cả 2 câu
đều tương hợp với - và trong chừng mực nào đó, có đóng góp cho - tứ thơ, nhưng
cũng chỉ là những diễn viên phụ, đóng vai dọn cảnh.
Đến 2
câu cuối:
Người – êm ái mạch nước ngầm
Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về
sự thăng
hoa đã hiện ra rất rõ ràng. Đài các, quý phái nhưng không kênh kiệu lố lăng;
trang điểm theo sát cung cách, thời trang đương đại nhưng vẫn duyên dáng, dễ
mến. Và quan trọng hơn, hồn cốt của bài thơ nằm ở 2 câu này.
“Người”: Danh từ, có thể số ít và cũng có
thể số nhiều (hiểu với nghĩa số nhiều thì đúng hơn) – là nhà bình thơ, cũng có
thể hiểu với nghĩa “hương hoa” của
những tác phẩm bình thơ, hay khái quát hơn là công việc bình thơ.
“Êm ái, mạch nước ngầm”: Khác với lời
giải của một bài toán, những nhận định hay, dở về một bài thơ hoặc những đúng,
sai liên quan đến lý thuyết thơ đều chưa phải là kết luận chung cuộc. Chúng còn
phải chịu thử thách của nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều, trước khi
đủ độ khả tín để thuyết phục người đọc. “Hương
hoa” của những bài bình thơ, nói chung là công việc bình thơ, được tác giả
gọi là “mạch nước ngầm êm ái”. Nhờ “mạch nước ngầm êm ái” đó tác giả có thể
chỉnh sửa những “vụng về” trong thơ, cũng như những thiếu sót, bất cập trong
cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca của mình.
“Chảy
trong tôi”: Tiến trình thẩm thấu nội dung và tiêu hóa các bài bình thơ
trong tâm hồn người đọc, ở đây là tác giả Mạch Nước Ngầm.
“Suốt tháng năm”: Học hỏi để biết
thế nào là thơ hay, thế nào là thơ dở, để có nhận định đúng đắn về thơ nói
chung, không phải chỉ một sớm, một chiều mà là công việc lâu dài; có thể nói
“Còn làm thơ, còn thưởng thức thơ - nếu muốn làm thơ hay, thưởng thức thơ sành
điệu - là còn phải học”.
“Vụng về”: Những yếu kém, khuyết
điểm của thi sĩ biểu hiện trong tác phẩm hoặc trong cách nhìn nhận, đánh giá
thơ ca.
Cả 14
chữ kết nối với nhau chặt chẽ, đắc địa đến từng chữ một – nghĩa là không thể
thay thế bất cứ chữ nào bằng chữ khác hoặc hoán chuyển vị trí bất cứ chữ nào
(hoặc nhóm chữ nào) với chữ khác (hoặc nhóm chữ khác), mà không làm giảm cái
hay, cái đẹp tuyệt vời của cả đoạn thơ.
Thêm vào
đó, để giải thích “tàm tạm” 14 chữ này tôi đã phải “gói gọn” trong 279 chữ (tỉ
lệ 1/20). Có thể nói sức nén của những con chữ trong đoạn thơ này thật ghê gớm.
Bố cục:
Bố cục
hay thế trận của bài thơ liền lạc, gắn bó chặt chẽ. Hai câu đầu tuy không đắc
địa đến từng chữ một như 2 câu sau nhưng cũng cần thiết để làm nổi bật tứ thơ.
Chữ nào cũng làm tròn nhiệm vụ của mình. Không có chữ thừa, “vô tích sự”.
Thủ Pháp Phúng Dụ
Mạch Nước Ngầm của Vân Anh sử dụng thủ pháp phúng dụ (allegory)
- mượn một hình ảnh trực quan để bóng gió diễn đạt một ý tưởng trừu tượng.
Hình ảnh trực quan ở đây là “mạch nước ngầm”; ý tưởng trừu tượng là công việc
bình thơ. Có điều “mạch nước ngầm” lại là “mạch nước ngầm” chảy trong tâm hồn
nên không được trực quan cho lắm. Do đó, sợi dây nối giữa công việc
bình thơ và “mạch nước ngầm” –
qua tài diễn đạt của thi sĩ – dù rất hợp lý, chắc chắn và kín kẽ (không để lầm
lẫn “ý tưởng trừu tượng” này với “ý tưởng trừu tượng” khác) nhưng lại quá kín,
không thể “nhận diện” bằng “mắt thường”.
Có thể
nói nếu chỉ dựa vào văn bản thì độc giả, kể cả những vị nhạy bén, có kinh
nghiệm, cũng khó mà thấy được tứ thơ. Sợi dây nối của thủ pháp phúng dụ không
hiện hình, bài thơ sẽ là một câu đố bí hiểm, chỉ tác giả mới có câu trả lời.
Đây là lỗi kỹ thuật mà thi sĩ sử dụng các thủ pháp ẩn dụ, phúng dụ, “gợi, không
kể” thường mắc phải. Nếu không có “thuốc chữa” bài thơ sẽ đi vào quên lãng một
cách hết sức oan uổng.
Chính vì
thế, tạm coi là người trong cuộc, tôi đã mạnh dạn đưa vào bài viết phần sau của
bình luận nhằm “hé mở cánh cửa” để độc giả có thể bước vào thưởng thức cái hay,
cái đẹp, cái độc đáo của bài thơ. Đối với lỗi kỹ thuật kiểu này, chỉ cần chữa
trị một lần. Sau đó, chỉ một chú thích nhỏ, hoặc nếu bài thơ có sức sống, dù
chẳng chú thích, người đọc cũng dễ dàng biết được căn nguyên, nguồn cội để
“bắt” được ý tứ của bài thơ.
Thông Điệp Sau Cùng
Viết với
tâm thế của người thọ nhận, Vân Anh giống như một bệnh nhân mắc chứng “vụng
thơ”, được các bác sĩ từ khắp nơi gởi về tặng mỗi người một loại thuốc. Chị
tuyển lựa rồi gộp chung lại chế biến thành một món thuốc riêng, uống vào thành
“mạch nước ngầm” lưu chuyển trong người mình. Nhờ món thuốc ấy, vi trùng gây
bệnh mỗi ngày một chết bớt hoặc yếu dần.
Mới đây,
khi có cảm giác là mình đã khỏi bệnh, chị bày tỏ tâm sự của mình bằng một bài
thơ. Hai chữ “vụng về” trong bài thơ
là thủ pháp “gợi, không kể” (Show, Don’t tell). Khi nghe bệnh nhân thố lộ là
nhờ “thuốc” của mình chị đã khỏi bệnh, các bác sĩ - ẩn trong phép phúng dụ là
các nhà bình thơ - sẽ mỉm cười khi thấy trước mắt mình một chiếc cầu ngắn. Bước
qua chiếc cầu ngắn đó bằng một chút liên tưởng, họ sẽ nhận ra: “Chữa trị
chứng bệnh ‘vụng thơ’ là nhiệm vụ chính của mình, của công việc bình thơ”.
Không ít
nhà bình thơ, với số lượng bài viết đáng nể, vẫn tiếp tục bình thơ không bàn
thi pháp hoặc chỉ khen không chê, nghĩa là không để ý, hoặc tác động được rất
ít, đến chứng bệnh “vụng thơ” của tác giả. Với Mạch Nước Ngầm, Vân Anh thể
hiện lòng biết ơn sâu sắc của chị đối với những người làm công việc bình thơ,
nhưng cũng rất tế nhị, nhắc khéo họ quan tâm đến hai chữ “vụng về” của thi sĩ.
Cái Dở Của Phúng Dụ lại Thành Hay
Như đã
nói ở trên, phúng dụ là mượn một hình ảnh trực quan để bóng gió diễn đạt
một ý tưởng trừu tượng. Nhưng hình ảnh trực quan trong bài thơ là “mạch nước
ngầm” mà lại là “mạch nước ngầm” chảy trong tâm hồn nên không
được “trực quan” cho lắm. Hậu quả là độc giả rất khó “bắt” được tứ thơ.
Tuy nhiên, khi đã “hé mở cánh cửa” thì cái “mông lung sương khói” của “mạch
nước ngầm chảy trong tâm hồn” lại trở thành cây cầu liên tưởng rất đẹp khiến
độc giả thật sảng khoái khi đi trên đường đến bến đỗ của tứ thơ, rồi sau đó
hiểu được ẩn ý của tác giả.
Tôi
không biết Vân Anh vô tình hay cố ý. Nhưng dù gì đi nữa, cuối cùng cái dở của
phép phúng dụ lại thành hay.
Sự Kín Kẽ Của Phúng Dụ
Trong
các cuộc trao đổi, tranh luận về thơ, có một câu nói thường được đưa ra, đại ý:
“Mỗi người có một ‘bộ’ tâm tư, tình cảm khác
nhau, nên khi đọc một bài thơ họ có quyền hiểu theo ‘hệ quy chiếu’ của riêng
họ, có khi khác xa với ý của tác giả.”
Tôi
không nghĩ như vậy. Thi sĩ làm thơ là để chia sẻ nỗi lòng, tâm sự - những vui
buồn, ưu tư, băn khoăn, yêu thương, thù hận … của mình trước cảnh đời - với độc
giả; còn có được sự thông cảm hoặc đồng cảm hay không lại là chuyện khác. Nhưng
chắc là ít ai bỏ tim óc ra làm thơ lại muốn thấy thiên hạ không cần tìm hiểu
nỗi lòng, tâm sự của mình mà chỉ mượn bài thơ làm “bệ” để “phóng” tâm hồn họ đi
trăm phương ngàn hướng.
Làm thơ
mà để độc giả (có trình độ) không “bắt” được tứ thơ, không hiểu được nỗi lòng
của mình, hoặc nỗi lòng này lại hiểu lầm thành nỗi lòng khác, thì theo tôi,
trách nhiệm phần lớn thuộc về thi sĩ.
Dĩ
nhiên, có những câu, những đoạn thơ gợi cho người đọc những kỷ niệm vui, buồn
của một thời xa xưa, có khi không giống với khung cảnh của bài thơ, hoặc vùng
trời ước mơ của thi sĩ (nhưng cả bài thì lại khác). Thỉnh thoảng cũng có những
bài thơ mà ở đoạn cuối tác giả tự tìm đến một chân trời rộng mở để thả hồn mình
vào mênh mông. Lúc nó người đọc tha hồ “phóng” tâm hồn đến bất cứ nơi nào mình
muốn.
Tôi nhớ
đến bài thơ Mắt Bồ Câu của Nguyễn Khắc Phước. Khi thi sĩ chạy 150 cây số
chỉ để về đứng lặng, ngắm ngã ba sông, rồi:
chép giấc mơ vào con thuyền giấy
thả trôi vào mênh mông (2)
thì
trong khung cảnh đó, độc giả - với cùng nỗi nhớ thương, tiếc nuối như tác giả -
có quyền thả con thuyền giấy của riêng mình trôi đến bến bờ nào cũng được.
Nhưng
đại đa số những bài thơ khác, viết là để bộc lộ, chia sẻ tâm tình. Mạch
Nước Ngầm của Vân Anh thuộc loại này. Nhưng đặc biệt, nhờ ngôn ngữ của
bài thơ chắt lọc, đắc địa đến từng chữ một (ở 2 câu cuối), thủ pháp phúng dụ
lại không một khe hở, nên khi đã “hé mở cánh cửa” để độc giả bước vào khung
cảnh của bài thơ thì họ chỉ có một đường cùng đi với tác giả đến bến đỗ của tứ
thơ. Rồi sau đó bước qua một chiếc cầu ngắn nữa của thủ pháp “gợi, không kể” để
hiểu thông điệp của bài thơ. Không có con đường nào khác.
Với bài
thơ sử dụng đến 2 biện pháp tu từ (phúng dụ và “gợi, không kể”) - trong đó
“hình ảnh trực quan” của phúng dụ lại cũng “mông lung sương khói” - như Mạch
Nước Ngầm mà vẫn không để độc giả có lý do (chính đáng) rẽ ngang, rẽ dọc, vẫn
thẳng một đường đi đến cánh cửa tâm hồn mình - thì thi sĩ quả là “cao tay ấn”.
Đây là
ưu điểm rất đáng khen của Mạch Nước Ngầm.
Khí Tông Và Kiếm Tông
Võ học
Hoa Sơn chia làm hai phe: Kiếm Tông và Khí Tông. Kiếm tông lấy chiêu thức làm
chính - cứ luyện kiếm thành thục thì nội công tự động tăng tiến. Ngược lại, Khí
Tông lấy khí làm gốc, nội công vững thì kiếm pháp có chỗ dựa để tiến xa hơn.
(3)
Thơ của
phe Kiếm Tông chú trọng kỹ thuật thơ - ngôn ngữ, hình tượng, thế trận chữ nghĩa
và các biện pháp tu từ. Thi sĩ của phe Kiếm Tông ít nhiều đều treo giải thưởng
cho người “bắt” được, hiểu được ý tứ của bài thơ. Đó là cảm giác sung sướng khó
tả khi khám phá ra con đường chứa đầy hoa thơm cỏ lạ, và cứ thế từng bước đi đến
cánh cửa tâm hồn của tác giả.
Trong
thơ của phe Kiếm Tông cảm xúc tầng 1 và tầng 2 thường mạnh, hoặc rất mạnh. Cảm
xúc tầng 3 (đỉnh điểm là hồn thơ) thường vắng bóng (hoặc rất nhẹ, không đáng
kể).
Một số
bài thơ nổi tiếng của phe Kiếm Tông là: Sông Lấp của Tú Xương (4), Lương
Châu Từ của Vương Hàn (5), Bánh Vẽ của Chế Lan Viên (6)…
Thơ của
phe Khí Tông chú trọng cảm xúc. Các phương tiện thẩm mỹ khác của thi pháp chỉ
là phương tiện để khơi dòng cho cảm xúc tuôn chảy. Trong những bài thơ thành
công của phe Khí Tông, cảm xúc tầng 3 rất mạnh, nhiều bài lên tới đỉnh điểm. Đó
là lúc thi sĩ nổi điên, cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí, Hồn Thơ lai láng. Lời
thơ là tiếng lòng chân thật của thi sĩ. Bài thơ đã dành được phần thưởng cao
quý nhất - bước vào Bến Bờ Thi Ca.
Vài bài
thơ nổi tiếng (đã bước vào Bến Bờ Thi Ca) của phe Khí Tông là: Say
Đi Em của Vũ Hoàng Chương (7), Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc của Nguyễn Duy
(8), Tạ
Lỗi Trường Sơn của Đỗ Trung Quân (9)… Ở đây, tôi chỉ dựa vào trạng thái
“lạc thần trí“ của thi sĩ (có tiếng lòng chân thật) để đưa bài thơ vào Bến Bờ
Thi Ca. Vị trí cao thấp của thi phẩm trong Bến Bờ Thi Ca còn tùy thuộc những
phương tiện thẩm mỹ khác của thi pháp.
“Mạch
Nước Ngầm” Của Vân Anh Thuộc Kiếm Tông Hay Khí Tông?
Mạch Nước Ngầm có những đặc điểm sau đây:
1/ Bài
thơ bày tỏ lòng biết ơn, nhưng cũng là lời nhắc khéo để giới bình thơ nhìn lại
nhiệm vụ của mình: Ca ngợi cái hay cái đẹp nhưng cũng đừng quên chỉnh sửa những
vụng về, bất cập của thơ.
2/ Ngôn
ngữ chắt lọc, đắc địa - đặc biệt ở 2 câu cuối.
3/ Vần
vừa đủ độ ngọt, nhịp điệu của thể thơ lục bát không ở vị thế tiên phong nhưng
cũng không quá cũ.
4/ Thế
trận chặt chẽ
5/ Thủ
pháp phúng dụ kín kẽ.
6/ “Gợi,
không kể” mời gọi một “liên tưởng gần”, cây cầu ngắn, dễ bước qua.
7/ Phúng
dụ kết hợp với “gợi, không kể” đưa độc giả vào một cuộc phiêu lưu lý thú để vào
bến đỗ của tứ thơ rồi sau đó bắt gặp thông điệp của tác giả.
8/ Bài
thơ ngắn, thiên về kỹ thuật (chiêu thức) nên không có cảm xúc tầng 3. Tuy
nhiên, cảm xúc tầng 1 và tầng 2 rất mạnh.
Tóm lại,
Mạch
Nước Ngầm thuộc phe Kiếm Tông, nhưng có thể nói, nó là một trong số ít
những cao thủ của phe kiếm này.
Kết Luận
Vân Anh
hiện đang là giáo viên Tiểu Học. Chị có năng khiếu về thơ nhưng hiểu biết sâu
sắc về kỹ thuật thơ của chị, theo tôi, đều được lựa lọc, học hỏi từ Đại Học
Trường Đời. Nếu xem Mạch Nước Ngầm là luận văn tốt nghiệp thì chị xứng đáng được
chấm đỗ Ưu hạng.
Đọc thơ
chị, thấy cũng có một số bài viết theo lối Khí Công – thiên về cảm xúc. Tôi
mong rằng sẽ có một lúc nào đó, gặp một cảnh đời nào đó, khiến chị nổi điên –
điên vì quá yêu thương, buồn chán, thù hận … _ cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí,
thì với kỹ thuật thơ chắc tay như thế, việc cho ra đời một bài thơ có thể hiên
ngang bước vào Bến Bờ Thi Ca, với chị, cũng không quá tầm tay với.
Xin cám
ơn Vân Anh. Chị đã tặng chúng tôi - những người đang miệt mài, say sưa với công
việc bình thơ - thi phẩm Mạch Nước Ngầm, đẹp như một đóa hoa hồng tươi
thắm.
___________
Chú
thích:
1/ Hồn
Thơ Và Cảm Xúc, FB nhipham
2/
“Mắt Bồ Câu – Bài Thơ Mới Đọc Lần Đầu, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
3/
Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung.
4/
Sông Lấp - Một Bài Thơ Toàn Bích, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
5/
Lương Châu Từ - Rượu Và Nỗi Sầu Chinh Chiến, Phạm Đức nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
6/
“Bánh Vẽ” Và Nhân Cách Môt Nhà Thơ, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
7/ Say
Đi Em - Một Bài Thơ Tới Bến, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
8/
Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Nỗi Đau Quặn Thắt Của Một Người Việt Yêu Nước, Phạm Đức
Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
9/ Tạ
Lỗi Trường Sơn – Bài Thơ Ngược Dòng Nóng Bỏng, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
Mời thư giãn với nhạc phẩm CHẢY ĐI SÔNG ƠI
của Phó Đức Phương, qua tiếng hát Ngọc Tân:
*.
PHẠM ĐỨC NHÌ
Địa chỉ: League
City , Hoa Kỳ.
Email: nhidpham@gmail.com
.
.
.............................................................................................................
- Cập
nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 29.06.2019.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét