(Nguồn ảnh: internet) |
NGHỆ NHÂN
*
(Nhà văn Ngọc Châu) |
Thế là cuối cùng
mình cũng đã xuất ngoại, ông cay đắng khi rời máy bay. Đã chết tất cả những ham
mê, hoài bão cùng ước mong đi đây đi đó ra ngoài biên giới. Làm người ai chẳng
có thứ đó, chúng cũng đã nhen nhúm ở trong ông bao năm. Lúc này lại thấy cay
đắng.
Chẳng phải vì chuyến xuất ngoại muộn mằn khi đã
đến tuổi "tri thiên mệnh". Nhưng đây là chuyến du lịch bất đắc dĩ.
Nếu bà vợ trẻ kém chồng hơn một giáp không dẫn ông đến phòng cấp hộ chiếu, bắt
ngồi chờ để làm mọi thủ tục cần thiết cho chiếc giấy thông hành ra nuớc ngoài,
không liên hệ với Du lịch "Rét tua, ấm tua" gì đấy rồi lại nhờ một
con bé hướng dẫn viên dẻo mồm đốc thúc, hướng dẫn, nhắc nhở thì chưa
chắc giờ đây ông đã chui ra khỏi máy bay ở sân bay thủ đô của nuớc láng giềng
phuơng Bắc như thế này.
Lờ mờ biết về ý đồ của bà vợ trẻ khi cố bắt mình
tham gia chuyến du lịch này cùng với vợ chồng một cô bạn của bà ta. Người ta
đang muốn làm điều gì đó. Ông thoáng nghĩ đến chuyện bồ bịch của nguời đàn bà
chớm tuổi hồi xuân trong khi mình không còn hăng hái trong chuyện "sửa
soạn yên cương" và thường phải "hạ mã" khi chưa đến đích. Chuyện
như thế làm người đàn ông nghẹn trong tim. Càng đau đớn hơn khi ngày
xưa họ đã đến với nhau bằng tình yêu, đã cùng nếm trải bao nhiêu cay đắng, cả những
ngọt bùi tuy thật hiếm hoi.
Ngày ấy cô học sinh thành phố nhí nhảnh về sơ tán
ở cái làng Bảo Hà hẻo lánh giữa miền quê Vĩnh Bảo, chỉ có ốc đàn với bèo hoa
dâu. Cô thích ngồi xem chú "đục gỗ khéo tay" làm những ông
phỗng, những con rối nuớc, rối cạn và nghe "ông chú" kể về những cụ tổ
xa xưa của làng nghề, đôi lúc minh họa bằng những câu thơ nửa cổ nửa kim chỉ
hiểu lơ mơ nhưng lạ lẫm và thích thú.
Đặt bức tượng Di lặc vừa điểm xong đôi nhãn xuống
nền nhà ngổn ngang gỗ vụn, anh nghệ nhân tài hoa đã đến tuổi " nhi
lập" của làng nghề cổ truyền đọc như trêu cô bé đang tròn mắt ngắm nghía
tác phẩm của mình
Sinh ư nghệ tử ư
nghệ
Thánh nhân dạy
người ta thế
Dạy kiếp người quen
với đói nghèo
Dạy cách cười cả
lúc treo niêu..
Cô bé lém lỉnh cuời hồn nhiên
- Chú ơi, niêu nhà chú mà không treo thì
con mèo muớp nó chén hết con cá sộp chú mới câu đuợc sáng nay. Mà nó không ăn
vụng thì cháu cũng gắp trộm. Chú cứ đợi đấy mà xem!
Niêu treo mặc kệ
niêu treo
Cháu cao hơn con
mèo
Cháu
gắp khúc giữa cơ..
Tiếng cười trong trẻo chạy theo chân cô học sinh
sơ tán mới mười lăm tuổi làm "ông chú" nổi tiếng dí dỏm, khéo tay đâm
ra đỏ mặt.
Bốn năm sau, vào lúc người ta không có nghề để
làm, không có gì để ăn cho đúng kiểu một con người thì cô bé năm xưa lại xuất
hiện. Đã là một thiếu nữ. Xinh xắn và nghịch ngợm.
- Chú ơi, niêu nhà chú hồi này thế nào, có gì để
phải treo lên không?
Chưa kịp trả lời thì cô đã ngồi thụp xuống, nhấc
chú Tễu lăn lóc giữa vụn gỗ lên ngắm nghía rồi lại nói như máy
- Chú ạ, cháu làm hợp đồng thời vụ cho công ty
Xuất khẩu Mỹ nghệ. Mà chẳng có gì mỹ nghệ lắm đâu. Mấy cái lẵng mây
mốc meo. Con sư bằng than đá chỉ nhỡ tay một tí là tử - một
tràng cười ròn tan. Cháu đã phải đền tiền một con do lau chùi mạnh tay đấy.
- Còn chú dạo này - cô chuyển tia nhìn từ chú Tễu
lên mặt "chú đục gỗ khéo tay"- trông còn tơn tớn hơn chú Tễu. Mà sao
lại gọi là chú nhỉ, là anh Tễu hay cậu Tễu có hay hơn không?!
Chả hiểu câu nói vô tình hay hữu ý, chỉ biết
"ông chú" vẫn mồm mép ở đâu đâu tự dưng chỉ biết cuời gượng gạo và đỏ
mặt truớc cô nàng nho nhỏ, chân nhảy như thỏ, cười như ngô nổ, chú
Tễu cũng đánh đổ..
Sau này, khi đã thành vợ thành chồng, cùng chung
sức trong hợp tác xã thủ công mỹ nghệ ông thường trêu cô vợ trẻ như vậy. Lần ấy
ông chỉ tò mò ngồi nghe cô trình bày về phương án dựng Hợp tác xã Điêu khắc-
Sơn mài. " Anh Tễu" sẽ tìm mời các nghệ nhân của làng, xã
và tổ chức sản xuất đồ điêu khắc bằng chất liệu gỗ mít với lớp phủ sơn mài nổi
tiếng tuyệt văn diệu truyền đời đã mấy trăm năm từ cụ cao tằng tổ tỷ
Nguyễn Công Huệ. "Cô Thỏ" sẽ chạy đi chạy lại làm con thoi với đầu ra
là Công ty Xuất khẩu Thủ công Mỹ nghệ.
Bao nhiêu nhiệt tình, bao nhiêu nỗ lực đã bỏ ra
vào ngày đó. Suối tình của đôi vợ chồng tưởng như không bao giờ cạn nhưng không
thể nào tràn bờ vì ngoài đôi bờ nhỏ nhoi của họ là cả một sa mạc mênh mông của
thói quan liêu bao cấp, bảo thủ và trì trệ. Một thời chỉ thấy những anh
khố son bòn anh khố nâu và "thành phần cơ bản", trước kia từng
là động lực của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, được dung dưỡng mãi tác
phong ăn thì có, mó thì không.
Ông đã uất ức với nghề cổ truyền của tổ tiên khi
nó không cứu đuợc đứa con gái đầu lòng yêu quý. Con bé giống mẹ nên ông coi nó
như báu vật. Thế mà nó chết. Chẳng phải vì bệnh gì quá hiểm nghèo, chỉ không có
tiền thuê phương tiện để kịp thời đưa ra bệnh viện ngoài thành phố, sau khi đã
phải chờ hai ngày vì người có quyền ký giấy giới thiệu đi vắng.
Ông đã định nghe lời cô Thỏ nhập vào dòng chảy
của những người di tản khốn khổ vào thời kỳ đó. Khá đông bạn bè và
người quen của hai vợ chồng ông đã liều mình như chẳng có. Để đổi
lấy một tương lai cũng không biết ra sao. Đủ mọi loại người. Từ khố rách áo
ôm đến những bàn tay, khối óc không phải nặn ra bằng đất thó.Ông đã
giữ cô ấy ở lại chỉ vì nhớ tới chuyện cụ tổ của làng nghề đã từng khốn
khổ khi làm lao công ở xứ người. Chính tại mảnh đất ông đang buớc xuống lúc
này.
Hai vợ chồng bỏ quê, dắt díu nhau vào miền đất đỏ
Tây Nguyên. Những ngày chờ đợi xin phép khai hoang ông lang thang thăm thú các
buôn làng người Jơrai. Đứng hàng giờ ngắm nghía những cột kưt, cộtklao ở
nóc và bốn xung quanh những ngôi nhà mồ. Người Jơrai chỉ dùng rìu và dao đẽo
gọt các pho tuợng từ thân và gốc cây nhưng không thiếu một hình thể gì. Họ
không quan tâm đến kích thước, tỷ lệ và hình khối nhưng tuợng nhà mồ rất thực
và sống động. Thi thoảng có những cột tượng làm ông phải thán phục vì tính uớc
lệ và cuờng điệu hết sức bay bổng của người dân miền đất bazan.
Chợt sững người truớc một cột tượng đẽo gọt thô
sơ nhưng sao giống đứa con gái đã mất của mình đến thế. Người nghệ nhân bàng
hoàng bước vào bên trong. Đây là ngôi nhà mồ của một cô bé chết lúc sáu tuổi,
đúng bằng tuổi của con gái ông khi nó mất vì bệnh sởi. Người ta vừa làm lễ bỏ
mả cho con bé sau hai năm hung táng. Lúc đó ông chưa hiểu gì về tục lệ ma chay
của người Jơrai nhưng sau biết rằng lễ bỏ mả là nghi lễ cuối cùng tiễn đưa một
linh hồn về với thế giới vĩnh hằng, thường tiến hành long trọng sau khi chôn từ
một đến mười năm tuỳ gia cảnh. Sau lễ đó nguời nhà không phải cúng và thăm nom
mộ thường xuyên như truớc nữa.
Chiều hôm đó ông kiếm đuợc một cây mít khô trong
rừng. Đẽo gọt đuợc một khúc phôi mượt mà. Gỗ mít là thứ gỗ rất thích
hợp với việc tạc tuợng. Độ mềm và dai đều vừa đủ. Thớ không thô và không dễ
bong tách như một số loại gỗ khác, dù quý và đắt hơn. Chúng cũng có
thể tạc tượng nhưng lưỡi dao của nghệ nhân sẽ không thể tự do bay bổng như khi
tạo hồn cho bức tuợng bằng gỗ mít. Ông giấu vợ, hí húi với mấy lưỡi dao điêu
khắc rèn mài đặc biệt từ một gọng ô cổ, sắc và dai không kém các
thanh kiếm Can Tuơng, Mạc Tà thời Xuân Thu- Chiến Quốc trong dã sử Tàu.
Cho bà ấy biết làm gì. Chính ông cũng đã mấy lần
rỏ nước mắt khi tạo lại dáng hình của đứa con đã mất. Đàn bà yếu
lòng hơn đàn ông. Mà bà ấy còn bao việc đang phải lo lắng, chạy vạy. Ôm bức
tuợng con gái đến đặt vào ngôi nhà mồ của cô bé Jơrai, ông cầu chúc cho cả hai
đứa được siêu sinh tịnh độ mà lòng nhói đau vì những người sinh thành ra chúng
đã bó tay, không làm được những gì lũ trẻ kia mong đợi. Để chúng phải chết khi
chưa thành niên. Vì bất lực, bó tay truớc những bất công của cuộc đời.
Có lẽ nỗi đau của người tạc tượng đã động đến
oanh linh của núi rừng nên miền đất của nền văn hoá cồng chiêng đã không nỡ hắt
hủi con người tài hoa. Dù sau đấy ông ta bỏ nghề, chỉ lúc nào vợ đi
công chuyện mới tranh thủ tạc vài bức tuợng, gửi cả trong khu nhà mồ của buôn
làng người Jơrai..
Phải nhận rằng mọi thành công đều
có nỗ lực của bà ấy- vị khách du bất đắc dĩ thầm nghĩ-
Ông cai quản ở nhà là chính. Việc tiêu thụ, giao dịch sản phẩm do
đôi chân và cái mồm khéo léo của cô Thỏ ngày xưa. Giờ đây hai vợ chồng đã có
mấy chục hecta cà phê, tiêu và một đàn bò đứng kín bãi trước nhà. Có điều quy
luật bù trừ hình như luôn luôn hiện diện. Ông vẫn tự hỏi liệu có doanh nhân tài
ba nào lách đuợc luật tạo hoá để tài sản tăng lên mà các giá trị tinh thần của
gia đình và hôn nhân không bị giảm đi.
Từ ngày dư dật đồng tiền, làm ra những
thứ không chỉ để ăn như ngày xưa, đã xuất hiện nhiều nguời khách. Bạn làm ăn.
Sếp nọ, sếp kia. Các điểm hội tụ. Thời trang doanh nhân. Rồi những hôm vắng
nhà, những chuyến đi công chuyện. Nụ cuời ỡm ờ giả lả của chủ, của khách. Ghen
tuông đã thoáng hiện trong lòng ông.
Sau chuyến đi tìm hiểu thị truờng Hoa Bắc phải
đến vài tuần, bà ta trở về thúc ông đi du lịch phuơng Bắc. Bất đáo Truờng
Thành phi hảo hán, bà ấy nói thế nhưng mình thì hảo hán nỗi gì, từ ngày bỏ nghề
tạc tượng ông gần như thành cái bóng. Đã không hứng khởi từ đầu
chuyến đi, càng thêm bực khi gặp thời tiết xấu.
Người ta nói thăm Bắc Kinh tốt nhất là vào tháng
tư, tháng năm, lúc ấy đang là cuối xuân Trung Hoa. Ông đi chuyến này vào lúc
thời tiết thất thường nhất -nóng thì nóng quá, mưa thì mưa quá trời. Chuyến bay
khứ hồi phải hoãn vì thời tiết xấu, mọi nguời đều bực bội, riêng con bé hướng
dẫn viên dẻo mồm- hệt cô Thỏ ngày xưa như ông thầm nhận xét- vẫn tươi tắn như
không. Cô bé tranh thủ ngày mưa đưa ba người khách gồm ông và vợ chồng cô bạn
đi thăm xưởng chế tác Cảnh Thái Lam. Dần dà ông bị cuốn hút vào câu chuyện
của nguời hướng dẫn. Thật kỳ lạ. Những bình, lọ và đồ trang trí đủ màu sắc kia
không phải bằng sứ hay ngọc thạch như người ta tuởng. Chúng làm bằng
đồng và được phủ men đặc biệt ở bên ngoài. Té ra vào thời nhà Lê, khi tổ sư
Nguyễn Công Huệ đã đuợc trả về quê hương sau nhiều năm bị bắt sang tạc tượng và
chế đồ nội thất cho triều đình nhà Minh thì vua Minh Cảnh Thái đã tập trung tất
cả nghệ nhân tài danh của Trung Hoa để tìm cách làm ra chiếc bình sứ đặc
biệt. Phải có màu sắc đẹp và thanh nhã như đồ gốm sứ nhưng không bị vỡ khi
đánh rơi. Đó là yêu cầu của vị Thiên Tử này đưa ra sau khi ngài lỡ tay làm rơi
vỡ chiếc bình ngọc Lam thạch kỷ vật của nguời tình!
Ông ta mới là Con Trời thôi mà đã có yêu cầu ghê
gớm như thế, thảo nào giới doanh nhân như vợ ông không phải tìm cách chiều các
Thượng Đế đích thực của ngày nay! -Nghệ nhân của làng Bảo Hà suy nghĩ một cách
hài hước- Và từ ngày xưa nguời Trung Hoa đã thoả mãn đuợc Con Trời,
đến bây giờ vẫn là bí quyết độc quyền của đất nước họ với thương hiệu nổi tiếng
toàn cầu Lam Cảnh Thái. Nhiều công đoạn cũng phải làm bằng tay như nghề
tạc tuợng sơn mài của làng ông.
Ông để ý xem nguời thợ đang quấn và gắn keo những
sợi dây đồng nhỏ, có tiết diện khác nhau xung quanh cốt đồng mỏng của một bình
hoa to để tạo thành hoa văn theo mẫu hàng hoá tại phân xưởng giới thiệu công
nghệ. Sau đấy người ta sẽ phủ lớp men đặc biệt rồi đem nung.
Mấu chốt công nghệ của họ nằm ở keo dán và lớp
men cơ, ông nghĩ. Việc gia công kia không cần bàn tay thợ giỏi như nghề tạc
tuợng. Và bí quyết của điêu khắc Vĩnh Lại - Bảo Hà quê ông cũng nằm ở phần chế
tạo sơn mài..
Thấy ông chuyên tâm xem xét chồng cô
bạn nháy vợ, trao đổi với hướng dẫn viên rồi kéo nhau ra ngoài, có
thể họ đói rồi nhưng cô hướng dẫn vẫn đứng cạnh ông. Cô này khá quen với người
thợ Tàu, chắc đã nhiều lần cô ta dẫn đoàn du lịch vào tham quan và mua hàng ở
đây. Thấy ông xem chăm chú, cô nói chuyện với bác thợ rồi mời nhau
cùng ăn trưa vì đã đến giờ nghỉ. Hoá ra ông ta là cổ đông chính đồng thời là
Chủ tịch Hội đồng Quản trị của hãng, tên là Kỳ Hưu (hay Kỳ Hươu gì đấy). Rất
vui tính. Tiếc rằng cô Thỏ không thể phiên dịch nhanh và thoát hết
từ ý của cả hai bên. Ông cho biết thỉnh thoảng nhớ nghề lại xuống
phân xưởng giới thiệu công nghệ này làm một lúc, cũng là cơ hội để giao tiếp
với khách hàng.
"Trời đất, bọn Tàu này có nhiễu
thứ người mình phải học lắm.." Khách chưa hết ngạc nhiên đã
phải trả lời những câu hỏi vồn vã của chủ khi biết ông là nghệ nhân điêu khắc
gỗ qua lời giới thiệu của cô hướng dẫn viên du lịch. Từ nhà ăn nhân viên ông ta
xin phép chạy về ít phút rồi mang ra một bức tuợng La Hán cao cỡ bốn mươi phân.
Tuợng La Hán ngồi này có một chân trái giơ lên trông thiếu tự nhiên nhưng nghệ
nhân làng Bảo Hà lập tức nhận ra dấu ấn của tác giả. Chắc chắn nó xuất xứ từ
Việt Nam. Là tác phẩm của một vị cao tằng tổ của dòng họ ông. Nhưng sao người
ta lại có đuợc nó?
Khách cầm bức tượng, chăm chú xem xét. Đã hiểu rõ
phần nào xuất xứ nhưng vẫn lặng yên chờ lời giới thiệu của chủ.
- Cái này, cái này...(cô huớng dẫn viên bắt đầu
dịch cho ông nghe) đã có ở nhà tôi nhiều đời lắm rồi. Phả hệ ghi lại
rằng sau khi vua Lê bên nuớc các ông, tên huý ngài là Lê Lọi hay Lê Lội tôi
không rõ lắm, cử đoàn sứ thần sang xin hoà hiếu với vua Anh Tông nhà Minh thì
có nhiều tù binh và lao công đuợc trả về quê cũ. Huệ Công là thợ điêu khắc gỗ
giỏi người An Nam cũng đuợc trả về. Khi ở bên này ông ấy có quen với cụ tằng tổ
tỷ nhà chúng tôi nên về sau học trò của Huệ Công là Vượng Công có gửi sang tặng
gia tộc chúng tôi bức tuợng này..
- Vâng, tôi cũng đã ngờ ngợ khi thấy hình đầu con
voi rất nhỏ khắc ở gáy bức tuợng, người không lưu ý thì không nhận ra - Khách
gật gù - Chắc chắn là do bàn tay của Kỳ Tài hầu Tô Phú Vượng. Đúng ngài là học
trò của tổ sư Nguyễn Công Huệ tức Huệ Công như ông vừa nói.
- Hảo a, hảo a! - Cả chủ nhân và cô hướng dẫn
cùng bật ra nhưng cô bé vội che mồm cuời, nghe rồi dịch tiếp - Tốt quá. Vậy là
có duyên kỳ ngộ à - Chủ vẫy cô nhân viên nhà ăn đưa ra chai Mao-đài cùng mấy
chiếc ly, tự tay mở rót và chạm cốc khách. Chẳng hiểu Nữ-nhi-hồng với
Trạng-nguyên-hồng ngày xưa ra sao nhưng thứ Mao-đài này thật sự làm người ta
kinh ngạc. Phong vị khác hẳn các chai nhãn vàng, nhãn xanh của loại Jonnie
Walker xứ Britan ông vẫn thường phải cùng bà vợ chạm cốc khi có các sếp đến
nhà. Nhưng khó có thể quên mùi vị này dù khách không phải là người sành cho
lắm.
Có một điều ông không hiểu. Tại sao Kỳ Tài hầu
lại tạc bức tuợng La Hán co một chân như vậy? Hình như các chùa ở nước mình
không có bức tuợng nào như thế.
- Tôi chắc là Huệ Công đã kể cho học trò ngài
nghe về chuyện Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương hồi hàn vi đã từng là chú tiểu ở
chùa - Chủ nói khi thấy khách chăm chú xem xét bên chân co của bức tuợng- Phải
lau hàng trăm pho tuợng trong chùa nên một lần chú tiểu đã cáu kỉnh đập vào
chân pho tuợng La Hán " Co lên cho người ta lau!" La Hán sợ oai của
chân mệnh thiên tử vội co chân lên nhưng vị sư trụ trì
ngôi chùa tình cờ nhìn thấy, sợ quá vội cử chú tiểu đi học ở chùa khác. Chú
tiểu-thiên tử ra đi vội vàng, quên bãi miễn lệnh thành ra pho tuợng La Hán ấy
cứ co chân lên mãi!
- Nhưng đây là bức tuợng đầu tiên do nghệ nhân
tạc ra - chủ tiếp tục giải thích- Phải nói Kỳ.. à Vượng Công của nước ông rất
thông tuệ và tinh ý. Chỉ đuợc nghe kể chuyện lại mà nghĩ ngay ra việc tạc tuợng
La Hán co chân. Sau này các chùa ở quanh Tây An và Nam Kinh bên chúng tôi cũng
đều tạc tuợng La Hán co chân theo tích ngày xưa. Hảo a, khách du thích lắm
a! - Chủ phấn khích nói xen tiếng Việt-Bây giờ hậu
duệ hai nhà bắt tay nhau liên thương sản phẩm thì tốt lắm a!
Hình như cô Thỏ nhà mình đã có ý đồ liên thương
với bên này nên mới thúc mình đi du lịch - ông chợt nghĩ - Ngày xưa
cô ấy đã đánh đổ chú Tễu, bây giờ còn định đánh những ai nữa đây?!
Vui chuyện khách cũng kể cho chủ nghe thêm về
Vượng Công. Chuyện ngày xưa cụ chế tác ngai vàng cho vua Lê Cảnh Hưng. Lúc hoàn
thành kiệt tác, khoái chí qúa đã ngồi thử vào nên bị tống ngục về tội khi
quân. May là cụ kiếm đuợc bảy hạt gạo nếp từ chiếc chổi rơm mới. Bảy
hạt gạo biến thành bảy con voi tinh xảo khiến viên quan coi ngục
phải đệ trình Hoàng Thượng ngự lãm. Thói quen tạc đầu voi tí xíu vào các kiệt
tác khác như một chữ ký kín đáo của cụ chắc chắn bắt đầu từ lần
thoát chết, lại đuợc ban tuớc Kỳ Tài hầu do Hoàng thuợng cảm mến
tài năng. Cả chuyện bức đại tuợng Linh Lang đại vương của làng mình
có thể đứng lên chào mỗi khi có khách vào tham quan chiêm nguỡng, chẳng khác gì
các tuợng trong miếu Gia Cát Võ hầu từng khiến Tư Mã Ý kinh hoàng trong truyện
Tam Quốc diễn nghĩa.
Chẳng hiểu họ liên lạc với nhau từ bao giờ mà khi
ông lên chuyến bay khứ hồi thì cô hướng dẫn viên (Thỏ con như ông vẫn gọi) đưa
cho ông một bức thư của Thỏ lớn cô đã mang theo từ đầu chuyến đi.
"Anh
Tễu yêu quý! Chúc mừng anh đã thành Hảo Hán! Nhưng em còn muốn hơn thế
nữa. Muốn anh Tễu-Bảo Hà của em có mặt trên toàn thế giới cơ. Là người kinh
doanh mà không còn ham mê và sự liều lĩnh thì coi như đã chết phải không anh.
Em muốn anh trở về với tài năng của anh, muốn chúng ta có thêm tài sản bằng bàn
tay mà em đã yêu từ lúc còn là cô bé con, anh có hiểu không?
Hai năm truớc em đã
mua khu đồi mít cỗi của một chủ vườn đang định chặt hết đi để thay bằng giống
mít tố nữ Thái Lan. Mua cho anh Tễu của em. Để anh có bột mà gột nên
tuợng vàng đấy ạ. Nhưng em giấu anh, cũng như giấu anh việc vẫn thường xuyên
đến nhà mồ thăm hai đứa nó, thăm những bức tượng anh tạc rồi gửi ở đấy lúc em
đi vắng. Anh đừng có nghĩ vớ vẩn về cô Thỏ của anh đấy nhá, em muốn cơ ngơi của
chúng ta phải phần lớn là do bàn tay tài hoa của anh làm ra cơ. Tới
đây anh sẽ hiểu ra câu châm ngôn "Bố đĩ giàu bố đĩ tiên, ông Sếp kiết tiền
ông Sếp xéo"- là câu mẹ chồng em hay nói khi em mới về làm dâu xứ "
thuốc nào Vĩnh Bẩu", em chỉ thay ông Lý bằng ông Sếp - Họ chỉ là bạn làm
ăn thôi bố đĩ ạ.
Em biết anh Tễu bây
giờ hiếm khi tơn tớn được như ngày xưa. Một phần cũng tại cô Thỏ, nhưng cái
chính là công việc buộc phải thế. Có những chuyện làm ăn em đã giấu
vì không muốn anh phải bận tâm nhưng bao giờ em cũng thích được là Cô nàng
nho nhỏ, chân nhảy như thỏ.. để tròn mắt ngắm nhìn những tác phẩm do bàn
tay anh Tễu nhà mình làm ra.."
Còn có một bức thư
điện tử mới gửi nữa: "Công ty Cảnh Thái Lam đã gửi sang
cho mình các thông tin cần thiết cho việc liên thương giữa hai bên. Mình sẽ làm
đại lý bán Lam Cảnh thái còn họ đại lý bán đồ gỗ sơn mài-điêu khắc Kỳ Tài cho
mình. Giờ anh Tễu đã có đủ điều kiện để thực hiện ước mơ của cô Thỏ khi cô ấy
tình nguyện trở thành dâu con của làng Bảo Hà. Cấm anh suy nghĩ lăn tăn gì về
em. Chỉ bên anh Tễu cô Thỏ mới có thể cười như ngô nổ, không có anh Tễu thì cô
Thỏ chỉ thành đựơc món sốt vang thiu mà thôi.
Về nhà chuyến này
anh hãy tạt qua quê mình rủ bạn nghề cùng vào anh nhá. Vợ chồng mình đủ sức trả
mức luơng ưu đãi cho nghệ nhân. Hoặc có thể mở một chi nhánh của
Công ty Kỳ Tài ở quê cũng đuợc anh ạ.
Hãy bảo trọng anh
nhá!"
Mời thư giãn với nhạc phẩm THÁNG TƯ VỀ
của Dương Thụ, qua tiếng hát Hồng Nhung:
*.
NGỌC CHÂU (tên thật: Nguyễn Ngọc Châu)
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông, Ngô Quyền, Hải
Phòng.
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
Điện thoại: 0313.825.226 - 076 9284620
.
..............................................................................................................
- Cập
nhật theo bản lưu trữ tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét