CHÍN NĂM ĐÈN SÁCH - Truyện ký Nguyễn Bàng (Sài Gòn)

Leave a Comment
(Trường Đồng Khánh - Trưng Vương mang tên Nguyễn Trãi từ 1950-1956 ; Ảnh: tác giả cung cấp)
CHÍN NĂM ĐÈN SÁCH
(Truyện ký của Nguyễn Bàng)
*
1.
(Nhà văn Nguyễn Bàng)
Tôi bắt đầu được cắp sách đến trường năm 12 tuổi. Nhưng tôi biết đọc biết viết từ năm 9 tuổi.
Nguyên do là năm 1946, u tôi đem ba chị em tôi tản cư theo gia đình cậu mợ tôi lên ấp Đại Bái ở tỉnh Phúc Yên, nơi cậu tôi đã làm trưởng ty điền địa trước năm 1945, cũng là nơi có cái ấp 500 mẫu ruộng thuộc sở hữu của người em trai ruột mợ tôi, ông Đỗ Đình Cận. Họ Đỗ Đình là một dòng họ lớn, nổi tiếng và có thế lực, gốc rễ từ Ý Yên, Nam Định khởi phát mạnh từ đời ông Đỗ Đình Thông, còn gọi là Hàn Thông, có công với người Pháp trong cuộc xâm lược Bắc Kỳ từ cuối thế kỷ 19. Mợ tôi, bà Đào Thị Ý là con gái đầu lòng ông Đỗ Đình Đạt. Ông Đạt là con thứ ông Hàn Thông cũng có 500 mẫu ruộng ở vùng Hải Dương. Ông Đỗ Đình Cận không tản cư mà vẫn ở lại Hà Nội nên ủy quyền cho cậu mợ tôi trông nom khu ấp của ông. Vốn con nhà nông lại kinh qua mấy năm trưởng ty điền địa Phúc Yên, cậu tôi về ấp tự cày cấy làm kế sinh nhai cho gia đình. U tôi cùng chị gái tôi năm đó 14 tuổi cũng nhận ruộng cấy từ cậu mợ tôi. Tôi và anh Hồng chăn trâu và chăn vịt. 
Năm 1947, một đơn vị bộ đội mấy chục anh về đóng nhờ ở ấp Đại Bái khoảng 3 tháng. Chỉ Huy là anh Thắng, chỉ biết anh bảo tên anh Thắng còn họ là gì không ai hỏi và cũng không ai nghe nói. Anh Thắng người Hà Nội, đang theo học dở dang trung học; hay hát và  hát cũng rất hay. Hai bài anh thường hát cho mọi người nghe, chẳng ai biết tên là bài gì của ai sáng tác mà chỉ nhớ câu mở đầu: “Mùa đông đã đến nơi rồi” và “Ai về chợ huyên Thanh Vân”. Anh Thắng ơi, hát bài “Mùa đông đã đến nơi rồi” cho chúng em nghe đi!; Anh Thắng ơi, dạy chúng em bài hát “Ai về chợ huyện Thanh Vân” tối nay nhé! Mọi người thường yêu cầu anh như thế. Anh Thắng không chỉ nhiệt tình hát cho mọi người nghe, dạy mọi người hát mà còn bày cả việc dạy chữ cho mọi người. Lớp học của anh mở ngay giữa sân nhà chính của cậu mợ tôi ở trong ấp. Trừ cậu mợ tôi, và một vài người đã biết chữ như bác Hanh, anh Hồng, hai chị em Vị, Nguyên con cậu Đài tôi đã mất được cậu Đổng với đạo nghĩa “sảy cha còn chú” nuôi dạy , không học anh Thắng còn lại những người không biết chữ ai nấy đều theo học, trong đó có u tôi, chị Đô và tất  nhiên là có tôi. Anh Thắng lấy nong nia làm bảng, vôi trắng khô làm phấn; chúng tôi lấy que tre làm bút, lấy mặt sân đất làm giấy vở. 
Dạo ấy để mọi người tích cực học bình dân học vụ, một phần vì các chợ có lệ, ai muốn được vào mua bán thì phải đọc được mấy chữ viết trên những cái nong nia hay trên những tấm ván treo chắn ngay lối ngoài cổng chợ. Vì thê, người lớn tuổi học anh Thắng để mong biết đọc, thoát cái cảnh phải trốn chui trốn lủi để lẻn vào trong chợ như kẻ cắp. Trẻ con thì học để không bị lêu lêu khi đứa này đố đứa kia viết hay đọc đúng từng chữ một trên nền đất và rồi mơ ước sẽ đọc được mấy cuốn truyện nôm khuyết danh như Trương Chi, Thạch Sanh, Hoàng Trừu ...trong cái kệ sách ở ngôi nhà lớn của cậu mợ tôicho người già nghe. Khi đơn vị của anh Thắng rời ấp thì hầu hết mọi người đều thoát nạn mù chữ. Bọn trẻ chúng tôi tự học thêm theo cách riêng của mỗi đứa. Tôi dược cậu tôi cho mấy mẩu bút chì cũ mà tôi coi như của quý hiếm rồi cậu tôi bày cho cách kiếm lá chuối khô vuốt cho phẳng phiu làm giáy mà tập viết.
Cuối hè năm 1949, gia đình tôi lại theo cậu tôi hồi cư. Gia đình cậu tôi vào thành phố Hà Nội còn u con tôi về quê. Bấy giờ, u tôi mới đem gói chè và chùm trầu cau dẫn tôi đến nhà thầy giáo Đính, một ông chú tron họ xin cho tôi được vào học lớp Năm ở trường làng. Gọi là trường nhưng đâu có phải trường. Làng Dịch Vọng năm đó chỉ có 4 lớp tiểu học, học nhờ trong gian đình của thôn Tiền: Hai lớp Ba và Nhì học buổi sáng do thầy Lê Văn Nhân dạy; hai lớp Tư và Năm học buổi chiều do thầy Nguyễn Văn Đính dứng lớp. Như vậy, thầy nào cũng dạy hai lớp cùng một buổi. Đình Hà được mượn để làm lớp học. Cả gian giữa rộng lớn của đình, nửa này là lớp Tư, nửa kia là lớp Năm quay lưng với nhau không có vách ngăn mà chỉ cách nhau một lối đi rộng chừng 2 mét. Đang dạy lớp Năm chúng tôi, muốn sang lớp Tư bên cạnh, thầy Đính viết bài lên bảng cho lớp tôi rồi gõ thước cạch cạch lên bàn ra hiệu cho chúng tôi bắt đầu tự ngồi làm bài hay chép bài rồi thầy sang bên lớp Tư. Vậy mà học trò rất ngoan, khi không có thày đều yên lặng cắm cúi tự học, không đứa nào dám nói to, tự đứng lên ngồi xuống chứ đừng nói chuyện dám không có thầy ma mất trật tự, trêu ghẹo hay đánh chửi nhau.
(Nhà văn Nguyễn Bàng năm 14 tuổi)
Học lớp Năm chừng ba tháng, thầy Đính bảo u tôi, thằng cu con nhà chị nó sáng dạ, biết đọc biết viết rất nhanh, tôi cho nó lên học luôn lớp Tư cho khỏi phí. Thầy đâu biết tôi đã biết chữ từ khi được anh Thắng dạy! Thế là chỉ trong vòng ba tháng, tôi đã học xong lớp Năm và được lên ngay lớp Tư học nốt năm học.
Năm sau, cậu tôi đã có việc làm ở Sở Canh Nông đóng trong khuôn viên vườn Bách Thảo. Gia đình cậu cũng không ở nhờ nhà mẹ vợ là bà Tư trên phố Hàng Trống nữa mà chuyển về ở nhờ nhà ông Năm, em trai bà Tư, cậu ruột mợ tôi ở phố Phù Đổng Thiên Vương. Ông Năm làm việc ở sở Đoan Hải Phòng nên còn có nhà riêng ở phố Tám Gian dưới đó, ông ở cùng vợ và đứa con trai nhỏ. Ngôi nhà 2 tầng rộng rãi và đẹp như một biệt thự phố của ông ở phố Phù Đổng Thiên Vương trên Hà Nội này giao cho em gái ông là bà Sáu cai quản đồng thời trông nom dạy dỗ ba cô cháu gái, con của vợ chồng ông anh. Hai cô chị tên là Ngọc và Yến đã đến tuổi cập kê, thôi học ở nhà chờ kén rể; cô em thứ ba tên là Ninh đang theo học trường Sainte Marie. Bà Sáu là một con chiên ngoan đạo, không lấy chồng, sống rất mực thước gia giáo từ lời ăn tiếng nói đến bước đi, cách đứng ngồi. Dù chưa có nhà riêng nhưng nhà ông cậu mợ của tôi khá rộng, cậu tôi cho đem ba đứa cháu ở quê ra nuôi cho ăn học: hai anh em tôi Hồng, Bàng và chị Thông, con gái bác chánh Hanh, anh cả của u tôi và cậu. Nhưng chưa được mấy ngày thì chị Thông nhớ nhà đòi về, bác chánh Hanh chiều con cũng ưng thuận nên cậu tôi không dám nói năng gì. Ít lâu sau, anh Hồng tôi cũng bỏ trốn nốt. Cậu tôi cho người về quê bảo với u tôi “Thằng Hồng nó không muốn đi học mà muốn ở nhà rồi đi hót cứt, chị phải đưa nó ra ngay”. U tôi sợ cậu tôi giận nên đuổi không cho anh ấy ở quê nhưng anh ấy cứ lì ra không chịu ra Hà Nội học. Vì thế,  cậu tôi sai người đầy tớ là anh Lê về làng, mua một cái rọ lợn to, doạ tìm bắt anh Hồng nhốt vào đó đem ra cho cậu nhưng anh ấy vẫn không ra mà tìm cách chạy trốn trui trốn lủi, có lần còn chạy tít xuống cánh đồng Bông. Bấy giờ Tây đóng ở bốt Cầu Giấy hay càn xuống làng, cậu tôi sợ Tây thấy anh ấy chạy trên bờ ruộng sẽ bắn chết nên đành nuốt giận và không thèm quan tâm đến thằng cháu ấy nữa. 
Nghe u tôi nói, ông giáo Đính bảo tôi học được, cậu tôi bảo thế thì cho nó thi nhẩy cóc từ lớp từ Tư vào thẳng lớp Nhì. Rồi cậu tôi tính toán, muốn vậy phỉ tìm  một trường nhỏ lại xa trung tâm Hà Nội, ít học sinh giỏi thi mới ăn chắc. Và cậu đã tìm ra trường Đỗ Hữu Vị ở tận trên mạn đường Quán Thánh gần sở Canh nông của cậu. Tôi Thi và đã đỗ đúng như toan tính đó. Và thế là, hàng ngày, sau khi ăn bát cơm rang điểm tâm, tôi ra chợ Hôm, bắt xe điện từ chợ Hôm lên Bờ Hồ, qua chợ Đồng Xuân đến Quán Thánh thì xuống vào trường học. Hôm nào không phải học chiều thì tan trường, tôi lại ra Quan Thánh băt tầu điện về nhà. Hôm nào phải học chiều thì nghe lời cậu tôi, đi bộ lên sở Canh Nông ăn cơm nắm rồi tha thẩn chơi quanh quẩn ngoài cổng sở, bên những lùm cây xum xuê của khu vườn Bách Thảo.
Dạo đó, ngoài cái tên trường Dịch Vọng mang tên của làng mình mà tôi đã học thầy Đính ở đó một năm, tôi không biết thêm tên một trường nào khác. Nay học trường Đỗ hữu Vị, tôi không hiểu Đỗ Hữu Vị là ai mà lại được đặt tên cho một trường học. Tôi đem thắc mắc đó hỏi cậu tôi thì được cậu giảng giải:
Đỗ Hữu Vị là tên một viên đại uý không quân đắc lực của người Pháp, có bố là Đỗ Hữu Phương được Pháp phong hàm Tổng đốc, tục gọi là Tổng đốc Phương. Xuất thân hộ trưởng, lần thăng huyện, phủ, đốc phủ sứ ở  Chợ Lớn cho đến khi hưu trí, Đỗ Hữu Phương được Pháp thưởng cho tam đẳng bội tinh, triều đình Huế phong hàm Tổng đốc, chết năm 73 tuổi.
Các con ông là Đỗ Hữu Chẩn (Đại tá quân đội Pháp), Đỗ Hữu Trí (gọi là Trí Chánh án), Đỗ Hữu Vị (Đại úy không quân) đều là tay sai đắc lực của thực dân Pháp. Con gái là Đỗ Thị Nhàn có chồng là Hoàng Trọng Phu người Hà Tĩnh làm Tổng đốc Hà Đông, gia phong Thái tử Thiếu bảo, Hiệp biện đại học sĩ và một người nữa là Đỗ Thị Dần, có chồng là Lê Nhiếp, Tri phủ Vinh Tường, Vĩnh Yên.
Lúc thịnh thời, nhằm Tết Nguyên đán, Đỗ Hữu Phương có câu đối dán trước nhà nhằm thách người đối được sẽ được thưởng, nguyên văn:
Đất Chợ Lớn có nhà họ Đỗ;
Đỗ một nhà: “ngũ phước tam đa”.
Sau đó có kẻ vô danh gởi đến câu đáp như sau; nhưng không nhận thưởng:
“Cù lao Rồng có lũ thằng phung;
Phung một lũ “Cửu trùng bát nhã”.
để nói về tư cách, hành vi của cha con ông.
Sau này các con Đõ Hữu Phương đều xin quốc tịch Pháp lấy họ Chan (Chẩn).
Trường Tiểu học Đỗ Hữu Vị đúng là một trường nhỏ, chỉ có một dẫy nhà một tầng mái ngói khoảng chục phòng học. Sân trường không rộng nhưng rợp tán lá bàng. Tôi chỉ học ở đó hơn 2 tháng nên không có nhiều kỷ niệm. Duy có một việc luôn ám ảnh trong đầu mà tôi không biết hỏi ai và cũng không dám hỏi cậu tôi. Số là trước cổng trường có một trại lính gồm toàn lính gốc Phi với những khuôn mặt đen nhẻm và mấy vết rạch hằn trên mặt mà người ta quen gọi là Tây ba vạch khiến người yếu bóng vía nhìn thấy đều khiếp đảm. Tôi và nhiều bạn học cũng rất sợ phải nhìn thấy những khuôn mặt đó. Nhưng càng sợ lại càng hay tò mò. Giờ ra chơi nào chúng tôi cũng rủ nhau lấp ló bên cổng trường nhòm về bên trại lính. Điều thường thấy là mấy anh lính gác hay đổi phiên nhau liên tục. Mỗi khi anh này thay anh kia thường giơ ngón tay trỏ ra và nói hầu như một câu giống nhau:  “keng mi nuýt!.  Anh được đổi cũng tươi cười nhắc lại cũng ngân ấy tiếng “keng mi nuýt” rồi háo hức biến vào cuối cái ngõ nhỏ tồi tàn ngay cạnh trại lính.
Mãi đến năm 1952, khi đã được học Pháp Văn và đọc hàng loạt báo chí và tác phẩm văn học từ Tự Lực Văn đoàn đến Tiểu thuyết Thứ bẩy và các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, tôi mới vỡ lễ ra là, bọn lính da đen gác thay nhau để vào chơi gái nhà thổ ở trong ngõ. Chắc chúng toàn đi tàu nhanh rẻ tiền nên nhắc nhở nhau chỉ “keng mi nuýt”!” (quinze minutes) tức là 15 phút thôi nhé là phải về ngay đấy! 
Trường Tiểu học Đỗ Hữu Vị, cái tên không phải là một địa danh hay một danh nhân, một anh hùng trong lịch sử mà chỉ là tên một viên đại úy không quân cả dòng họ làm tay sai cho thực dân Pháp, ở gần ngay một trại lính da đen, sao mà hợp nhẽ thế! 
Hai tháng học lớp Ba trường Đỗ Hữu Vị, tháng đầu tôi gần đội sổ: xếp thứ 46 trên 52 học sinh. Thầy giáo phê vào Thông tín bạ: Học kém. Phải cố gắng nhiều mới mong khá được. Về nhà tôi cũng bị cậu tôi mắng và nhắc: Không siêng năng học thì sẽ bị đúp lại lớp, uổng công thi nhảy cóc đấy. Tôi lo sợ thật sự nên tự bắt mình phải đánh vật với bài vở. Tháng sau, tôi vươn lên được 20 bậc, xếp thứ 26. Thầy giáo phê: Đã có tiến bộ chút ít. Cậu tôi không còn mắng nữa nhưng nói, mới được mức trung bình thôi, phải siêng học hơn nữa. Sau đó, cậu tôi xin cho tôi chuyển về trường Tiểu học Quang Trung trên đường Quang Trung, gần hồ Ha Le. 
Đường từ nhà đến trường Quang Trung của tôi bây giờ rất ngắn, từ chợ Hôm ra phố Huế ngược lên một quãng rẽ trái vào phố Trần Quốc Toản, hết phố thì tới trường ở ngay góc ngã tư Trần Quốc Toản và Quang Trung. Trường này có tiếng ở Hà Nội, nhiều phòng học khang trang, sân chơi rộng rãi, xanh um toàn tán lá những cây bàng gìa. Nhưng tôi chỉ được học có hơn hết năm lớp Nhì nên ấn tượng về trường Quang Trung trong tôi không nhiều về hình ảnh ngôi trường hay thầy giáo và các bạn học mà chỉ có mỗi hình ảnh thầy Thành hiệu trưởng đọng lại về sau. Tôi chưa một lần đến gần thầy hiệu trưởng hay được thầy bảo ban điều gì nhưng hình ảnh thầy với trang phục khăn xếp, áo the đen, quần dài trắng, hai gấu ống quần luôn có hai cái cặp để khỏi quệt vào xích cái xe đạp nam với đôi phanh đũa kềnh càng, nước sơn đen bóng lúc nào cũng được lau chùi cẩn thận luôn luôn sống động trong lòng tôi cung với hình ảnh thầy Thành mỗi lần dắt xe ra vào cổng trường đều làm cho hàng trăm cặp mắt học trò đổ nhìn theo. 
Năm sau, nhờ viện trợ Mỹ có thêm trường tiểu học Vân Hồ. Trường Quang Trung đông học sinh nên cắt một số lớp Nhất đưa về trường Vân Hồ. Tôi phải chuyển về đó học. Đường đến trường bây giờ là từ chợ Hôm đi thẳng sang Trần Nhân Tông, Nguyễn Đình Chiểu tới gần Đại Cồ Việt, xa hơn trường Quang Trung. Các lớp học trong trường đều tường xây gạch mộc, mái lợp tôn kẽm trông còn rất tuềnh toàng.  Khu sân chơi rộng rãi trống không toàn đất cát vì cây bóng mát mới đang được ươm trồng.Thầy giáo dạy tôi năm đó là thầy Nguyễn Văn Tôn, người gầy mỏng và hiền khô không để lại nhiều ấn tượng trong học sinh ngoài một bộ com lê màu nâu đã cũ sờn nên tôi cũng không có nhiều ghi nhớ về thầy. 
Hết năm lớp Nhất trường Vân Hồ, tôi phải lên thi tốt nghiệp bậc Tiểu học tại trường Lý Thường Kiệt ở phố Nguyễn Khuyến phía sau phố Nguyên Thái Học. Kỷ niệm còn ghi đậm nhất kỳ thi này là buổi thi đọc thuộc lòng. Học sinh vào phòng thi, ngồi chờ gọi theo số báo danh. Ban giám khảo ba người gồm hai thầy ngồi hai ghế bên và một cô giáo ngồi ghế giữa trước một cái bàn, cả ba đều còn rất trẻ. Khi cô giáo gọi đến tên ai, người đó lên, khoanh tay cúi người lễ phép chào ban giám khảo rồi tự mình đưa tay nhặt một thăm giấy trong đó ghi tên bài sẽ phải đọc trình lên bàn cho ban giám khảo xem. Đến tên tôi, rút thăm được bà Nhớ rừng của Thế Lữ. Tôi sướng quá vì tôi vốn rất thích thơ Thế Lữ và bài Nhớ rừng này thì tôi đã thuộc nằm lòng. Thế là tôi đọc liền một mạch đầy tự tin và trôi chảy.
Sau này trong tờ giấy chứng nhận Tốt nghiệp Tiểu học của tôi ghi loại Bình. Ngày đó học sinh được xếp học lực theo các hạng từ cao xuống thấp là Ưu, Bình, Bình thứ và Thứ.

2. 
Cuối hè năm đó, tôi phải thi vào trường Trung học Nguyễn Trãi, là trường Trung học Cơ sở Trưng Vương Hà Nội ngày nay, nằm trên một nền đất vuông vức ngay ngã tư phố Hàng Bài và phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội (thời Pháp là đại lộ Đồng Khánh và đại lộ Carreau). Đây là một ngôi trường nổi tiếng đào tạo nữ sinh Việt Nam và là một trong số ít những ngôi trường vẫn còn giữ được nét cổ kính và duyên dáng theo lối kiến trúc Pháp ở giữa lòng thủ đô. Tuy nhiên ít ai biết được ngôi trường này trước kia có tên gọi là Trường trung học Paul Bert – tên chính danh của trường. Còn các tên gọi khác theo hệ đào tạo là Trường Cao đẳng tiểu học Nam sinh (Trường Con Trai – École des Garçons), Cơ sở giáo dục Nữ sinh người Việt (Institution de Jeunes filles annamites), Trường Sư phạm nữ sinh người Việt (École Normale des Institutrices annamites), Trường Trung học nữ sinh người Việt (Collège de Jeunes filles annamites), hay trường được gọi theo tên phố là Trường Nữ sinh Đồng Khánh (École de Jeunes filles de Đồng Khánh), vì mặt chính nhìn ra đại lộ Đồng Khánh và nhiều nét riêng biệt khác nữa. Năm 1948 đánh dấu một lần đổi tên mới là Trường Nữ Trung học Trưng Vương.. Nhưng người dân Hà Nội vẫn gọi rất đơn giản là Trường Hàng Bài.
Ngày nay, không mấy ai tin khi nói trường Hàng Bài đã một thời là trường trung học Nguyễn Trãi. Khoảng thập kỷ 90, tôi cùng đoàn giáo viên quận Hồng Bàng Hải Phòng về thăm trường Trung học Cơ sở Trưng Vương hiện nay, tôi nói tôi đã học ở đây hồi trường mang tên Nguyễn Trãi thì ai cũng ngạc nhiên và ngờ vực. Có người còn hỏi nhạo tôi: “Hay anh thấy trường người ta nổi danh đẹp và sang quá nên bắt quàng làm trường cũ của mình?”. Tôi giận đắng lòng nhưng cũng đành nhịn thinh vì không biết lấy gì minh chứng. Vì chính trong phòng truyền thống của trường, người ta xem bảng viết về lịch sử trường cũng chỉ thấy  viết:
(Trường Đồng Khánh - Trưng Vương mang tên Nguyễn Trãi từ 1950-1956 ; Ảnh: tác giả cung cấp)
Trường Trưng Vương được thành lập năm 1917, lúc đầu ở phố Hàng Cót (trường Thanh Quan ngày nay), sau đó chuyển về Lò Đúc (trường Lê Ngọc Hân ngày nay), năm 1921 chuyển về 26 Hàng Bài, mở hệ phổ thông, dành riêng cho học sinh nữ nên có tên gọi là “Trường nữ trung học An Nam” hoặc “Trường Đồng Khánh”.
Năm 1943, Mỹ ném bom Hà Nội, trường sơ tán về Hưng Yên, đến năm 1945 vẫn chưa trở lại. Sau Cách mạng tháng Tám, khu trường rộng rãi này được chọn làm trụ sở Bộ Quốc phòng nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cho đến ngày toàn quốc kháng chiến. Sau năm 1945, trường đổi tên là “Trường nữ học Trưng Vương”.
Không một dòng một chữ nào nói đến cái tên Nguyễn Trãi ở đây.
Thậm chí ngay bây giờ, có internet nhưng tìm xem lịch sử trường Nguyễn Trãi Hà Nội trên Bách khoa toàn thư mở cũng chỉ thấy nói trường PTTH Nguyễn Trãi ở quận Ba Đình Hà Nôi, tịnh không thấy nói có giai đoạn trường Nguyễn Trãi ở phố Hàng Bài.
Nhưng hỏi thật kỹ bác Google thì cũng ra được một tài liệu hiếm hoi do tác giả: Nguyễn Văn Trường ghi chép hiện lưu trữ tại  Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO) Hà Nội. Trích mấy đoạn như sau:
“Cả khu Trường Hàng Bài, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 được chọn làm trụ sở Tổng trấn Bắc kỳ của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa.  
Ngày 14 tháng 2 năm 1946, theo nghị định của Bộ Trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe ra Nghị định, số 85 Trường Nữ Trung học Đồng Khánh Hà Nội được đổi tên là Trường Trung học Hai Bà Trưng. Nhưng Trường Trung học Hai Bà Trưng khóa 1946-1947 vẫn chưa được chuyển về Hàng Bài mà học ở Phố Lò Đúc, tức Trường Lê Ngọc Hân bây giờ. 
Đầu năm 1948, Trường Hàng Bài vẫn chưa được dùng lại làm trường học, Trường Nữ Trung học phải học nhờ trường tiểu học phố Hàng Than, Hà Nội (nay là Trường Nguyễn Công Trứ) Đến cuối năm học, đánh dấu một lần đổi tên mới là Trường Nữ Trung học Trưng Vương. Ngôi trường mang tên hai vị nữ anh hùng dân tộc Hai Bà Trưng được chuyển về đúng phố Hai Bà Trưng. 
Cho đến năm học 1950-1951, ngôi trường Hàng Bài bắt đầu được dùng trở lại làm trường học, nhưng đó là Trường Trung học Nguyễn Trãi. Trường Trưng Vương vẫn tiếp tục hoạt động ở số 9, phố Hai Bà Trưng đến năm 1956 mới chính thức trở lại ngôi trường Hàng Bài cho đến ngày nay”.
Tôi đỗ vào trường Trung học Nguyễn Trãi và được xếp vào lớp Đệ thất B2 năm học 1952- 1953. Năm ấy thầy Đào Văn Trinh làm hiệu trưởng. Khỏi nói tôi đã sung sướng ra sao khi được vào học ở một ngôi trường quốc lập bề thế giữa lòng Hà Nội. Thời kỳ này Hà Nội, ngoài trương trung học Nguyễn Trãi, chỉ có mấy trường Trung học nữa như Albert Sarraut, Trường dòng Puginie, Chu Văn An, Trưng Vương và mấy trường tư thục như Văn Lang, Thăng Long và Dũng Lạc (Do các cha bên Thiên Chúa thành lập). Sang đến năm 1953 mới có thêm trường tư thục Minh Tân dành cho nam sinh và trường tư thục Tây Sơn dành cho nữ sinh.
Trường Trung học Nguyễn Trãi hồi ấy có từ lớp Đệ Thất đến lớp Đệ Nhất, tức đủ hai ban: Ban Thành chung (từ Đệ Thất đến hết Đệ Tứ) và ban Tú tài (từ Đệ Tam đến hết Đệ Nhất). Trường có phòng riêng cho các giờ học nhạc, học vẽ và có cả Hội trường cho học sinh tập văn nghệ, chơi bóng bàn. Giờ học thể dục thường xếp vào các buổi riêng, thầy giáo và học sinh lên thẳng bãi sân Septo, nguyên có tên là Hội thể dục Bắc Kỳ (Socíeté d'éducation physique du Tonkin - SEPTO) để tập. Từ sau 1957, bãi Septo gọi là sân Hàng Đẫy.
Đặc biệt trường có phòng Hội đồng giáo sư, một căn phòng lớn vừa làm phòng chờ lên lớp cho các giáo sư vừa làm nơi họp hội đồng theo lịch. Phòng lớn, bàn ghế kê ngăn nắp, tường treo nhiều tranh mỹ thuật có giá trị trong đó nổi bật bức bức chân dung Nguyễn Trãi cổ vẽ trên lụa thể hiện nét mặt hiền hậu, đôi mắt sáng tinh anh, ngồi trên ngai, đội mũ cánh chuồn màu đen, mặc áo màu xanh có trang trí hai rồng chầu mặt trời, mây, tứ linh; cổ, ngực và vạt tay áo màu cánh sen. Ngai màu nâu trang trí hoa bốn cánh, tay ngai thể hiện cách điệu hình rồng quay ra ngoài, chân quỳ. Bức tranh này chỉ là bản sao bức tranh chính nhưng cũng được sao vẽ bằng màu nước trên lụa tơ tằm mịn và được đóng khung gỗ, mặt kính rất trang trọng. Dước bức chân dung Nguyễn Trãi là một tấm lụa bồi màu vàng thư viết lại bài Bình ngô đại cáo, áng thiên cổ hùng văn do người anh hùng dân tộc thảo, bên trái là nguyên tác chữ Hán, bên phải là bản dịch của cụ Lệ Thần Trần Trọng Kim. Mỗi lần đi qua phòng Hội đồng giáo sư mà cửa không đóng, bao giờ tôi cũng dừng lại ít phút nhìn vào bức chân dung Nguyễn Trãi và bức lụa viết bình Ngô đại cáo ấy.
Trong hai năm học Đệ Thất, Đệ Lục, từ 1952 đến 1954, trước khi Hà Nội được chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tiếp quản, tôi có hai anh bạn thân. 
Người thứ nhất là anh Nguyễn Hưng Nhân ở số nhà  23 phố Mai Hắc Đế. Anh Nhân mồ côi bố, có hai cô em gái, bà mẹ bán vải ở chợ Bắc Qua cũng khá giả nhưng sau 1954, việc buôn bán bị coi rẻ nên gia cảnh nhà anh bắt đầu sa sút. Anh Nhân học giỏi các môn Toán Lý Hoá, thành thạo về thực hành điện và ăn nói cũng khá hùng biện, chăm đọc sách khoa học và các truyện trinh thám, đặc biệt là các truyện trinh thám của Phạm Cao Củng. 
Người thứ hai là anh Nguyễn Văn May, quê gốc ở Quỳnh Côi Thái Bình cũng mồ côi bố. Bố anh lấy bà vợ đầu không có con, lấy bà sau là mẹ anh sinh được anh và một cậu em kém anh đến 5 tuổi. Thái  Bình  là vùng đất được coi là vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ, nhưng Thái Bình đã bị nạn đói năm 1945 cướp đi trên 28 vạn người. Nhiều địa phương, nhiều gia đình, cả dòng họ chết không còn một ai. Nhà anh May đã phải ăn lá sung, củ chuối cầm hơi, và may mắn qua được nạn đói ấy. Năm 1947, hai bà mẹ của anh bàn nhau chia con để sống. Bà mẹ đẻ ra anh mà anh gọi là bu do người gầy yếu và mắt kém nhận ở lại quê làm ruộng, trông nom nhà cửa và nuôi đứa con nhỏ. Còn anh Mây theo bà cả mà anh gọi là mẹ không sinh ra anh nhưng nhận nuôi anh và đem anh đi khỏi Thái Bình lang thang với nghề cất vó te kiếm ăn lần hồi từ vùng đầm rạch này sang vùng đầm rạch khác rồi lên đến Hà Nội và dựng một túp lều định cư ở  vùng hồ Bẩy Mẫu cạnh đường Trần Nhân Tông bây giờ. Nhờ đó anh được học tiểu học ở trường Vân Hồ rồi sau thi vào Trung học Nguyễn Trãi như tôi. Hàng ngày mẹ anh dạy từ sớm tinh mơ, mang theo độ 2 chục chiếc vó con làm bằng vải xô cho dễ dóc nước, khổ vuông chừng  40 phân có 2 thanh tre uốn cong làm gọng vó, khâu vào 4 góc vải xô.  Ngoài ra, đồ nghề của bà còn thêm một chiếc rá to, mấy túm lá tre, lá nhãn, hay tấm lá sen, để khi đổ tép vừa cất được thì che đậy trên mặt rá khiến tép không nhảy ra được; một bát thính đã rang thơm phức để nhử tôm tép; một cây gậy có mấu, dài chừng 3 m để cất vó; một chiếc giỏ tre to như quả bầu nậm để buông những con tôm sống. Bà tìm đến các cánh đồng, các vùng nước cũng cạn, chỉ còn xấp xảnh chân ruộng, nơi tôm tép đồng cũng đã lớn, chúng lang thang đi kiếm ăn dưới gốc các khóm lúa, bụi cỏ, mảng rong rêu đặt vó. Quá trưa thì ba ngừng công việc, tìm đến chợ gần nhất bán tôm tép, chỉ dành lại một ít đủ các thứ linh tinh cả tôm tép lẫn cá nhỏ, cua con đem về làm thức ăn cho hai mẹ con.
Anh May ở nhà, sáng dậy ăn cơm mẹ nấu từ sáng sớm đã ăn để đi cất vó, ủ phần cho anh trong nồi, trưa đi học về ăn nốt chỗ cơm sáng còn lại, làm bài học bài và trông nhà. Nói là nhà nhưng thực ra đó chỉ là một túp lều tường đất mái lá gồi thấp lè tè, cửa ra vào được che bằng một tấm liếp. Trong nhà ngoài một chiếc chõng tre cho bà mẹ ngả lưng và một tấm phản ghép bằng gỗ của các thùng đựng sữa cho anh May nằm ngủ.  Còn có một cái bàn học nữa cũng là một cái thùng gỗ đựng sữa dựng dọc lên cho cao vừa tầm ngồi. Phía cuối nhà là góc bếp treo vài chiếc rổ rá và mấy cái nồi niêu không phải bằng đồng hôm mà là bằng đất. Không biết thời đó do ít trộm cắp hay do thấy nhà chẳng có tài sản gì đáng kể nên đi đâu, mẹ con anh May chỉ khép tấm liếp lại và buộc dây thừng thay khoá. Nghèo như vậy nhưng anh May rất chăm chỉ và học khá giỏi, đặc biệt là môn tiếng Anh.
Rất thân với Nguyễn Hưng Nhân và Nguyễn Văn May nhưng suốt 4 năm cùng nhau học trong một lớp dưới mái trường Nguyễn Trãi, chúng tôi không bao giờ được xếp ngồi cùng bàn với nhau. Mà tôi, oái ăm lại bị hai năm liền ngồi gần anh Dương Văn Luận điển trai con nhà giàu. Bố Luận là luật sư Dương Văn Đàm đi theo kháng chiến, anh ở lại Hà Nội với bà mẹ xinh đẹp con nhà tư sản giàu có nên trong túi anh lúc nào cũng rủng rỉnh tiền tiêu. Còn ít tuổi nhưng Luận đã nghiện thuốc lá nặng, thứ thuốc anh chuyên dùng là Cotab, ngồi bên anh tôi luôn luôn bị ám bởi mùi thuốc lá trộn lẫn với mùi quần áo và thân thể anh làm cho rất khó chịu và mệt mỏi. Nhiều lúc thèm hút thuốc, Luận xin phép thầy giáo đi vệ sinh rồi ngồi trong nhà xí mà hít liên tiếp cho hết điếu thuốc để về lại lớp. Lúc ấy mới thật là khốn nạn cho tôi và mấy người ngồi bên và đằng trước phía sau anh Luận vì ở người anh bốc lên một cái mùi vừa hôi khét vừa thôi thối muốn n buồn nôn và khó thở. Vào những ngày mưa phùn ẩm ướt cái mùi ấy lại càng thêm tệ hại. Sau Sự kiện Tiếp quản Thủ đô Hà Nội mà người ta gọi là ngày Giải phóng Thủ đô 10-10-1954, ông Dương Văn Đàm, bố Dương Văn Luận trở về Hà Nội. Nhưng Luận tỏ ra không yêu kính ông bố ấy. Anh bảo tôi, bố tao theo Việt Minh giờ về có một vị trí cao trong ủy ban liên lạc những người công giáo yêu hòa bình, yêu tổ quốc , giữ chân canh gác tờ báo Chính Nghĩa, ăn lương của Mặt trận Tổ quốc nên bị những người công giáo coi là một con chiên ghẻ khiến mẹ tao là một giáo dân ngoan đạo rất khổ tâm.
Một người nữa là anh Trương Văn Liêm, khuôn mặt thô ráp với bộ răng hô trông dáng anh thợ cày trên tranh minh hoạ sách báo, thường bị xếp ngồi cuối lớp, tôi không thân nhưng anh rất thích nói chuyện với tôi ở ngoài hè đường trước giờ trống trường báo vào học. Nhà anh  Liêm có cửa hàng gạo nên anh cũng luôn được bố mẹ cho tiền. Sáng nào anh cũng đón tôi ở cổng trường, rủ tôi ăn khi bánh mì xúc xích khi ăn kem bát...Tôi từ chối nhiều lần nhưng anh làm bộ mặt trách giận nên nhiều khi tôi đành phải nghe theo. Về sau tôi tránh anh bằng cách đi sớm vào ngay sân trường hoặc thấy anh đứng đợi gần cổng trường, tôi ẩn bên một gốc cây chờ trống mới rạo cẳng vào sau anh. 

3.
Trường Trung học Nguyễn Trãi những năm tôi học, từ thầy hiệu trưởng đến các giáo sư toàn là nam giới, không có một cô giáo nào, thậm chí lao công quét dọn nhà vệ sinh cũng là đàn ông. Trong 4 năm học, có tới hơn bốn chục thầy đã dạy tôi nhưng tôi nhớ nhất có mấy thầy sau:
Trước tiên là thầy Trọng, Tổng giám thị nhà trường. Thầy Trọng to cao vạm vỡ trông như một võ tướng. Mùa hè luôn mặc áo sơ mi trắng ngắn tay bỏ trong quần sooc trắng. Mùa đông là bộ đồng phục màu đen, cả cà vạt cũng đen nốt. Giờ ra chơi nào, thày cũng đi khắp sân trường với nét mặt lúc nào cũng làm nghiêm, trông thấy học sinh nào vi phạm nội quy liền khoát tay vẫy gọi lại để cảnh cáo. Hoặc nhận giấy vào ngày cuối tuần như làu chùi lớp, dọn thùng rác, quét nhà vệ sinh, cạo các vết bẩn trên hành lang sàn, … hay phạt ở lại trường sau giờ học ngay ngày hôm đó để chép phạt vài trăm lần một câu thầy nhắc nhở. Một lần ra chơi vào mùa đông, trời rất rét nên tôi đút hai tay vào túi quần cho ấm, đang lững thững đi trong sân thì thầy Trọng trông thấy khoát tay lệnh cho tôi tới bên thầy. Khi tôi chào thầy xong, đứng nghiêm người lại thì thầy quắc mắt hỏi:
- Mày có biết mày vừa phạm tội gì không?
Tim tôi rung bần bật trong lồng ngực vì sợ hãi nhưng không biết mình phạm tội gì nên mặt nghệt ra. Thầy Trọng bảo:
- Mày đút hai tay vào túi quần đi trong sân đông người. Nhỡ có ai chạy đâm vào mày thì mày lấy cái gì chống đỡ. Lần sau đi trong sân trường cấm đút tay vào túi quần, nghe chưa?
- Dạ, thưa thầy con rõ rồi ạ!- Tôi lí nhí lễ phép đáp lại và được thầy ra hiệu cho đi.
Từ đấy mỗi lần trông thấy thầy Trọng từ xa, tôi vội tìm cách tránh xa thêm thầy.
Sau hè 1954, thầy Trọng di cư vào Nam.
Hai thầy dạy tiếng Anh Nguyễn Xuân và Nguyễn Đình Sửu đều để lại ấn tượng mạnh không chỉ riêng tôi mà là tất cả học sinh đã học các thầy. Thầy Nguyễn Đình Sửu dạy Đệ Thất và Đệ Lục, Thầy Nguyễn Xuân dậy lớp Đệ Ngũ. Thày Sửu năm đó đã 36 tuổi nhưng chưa lập gia đình, dáng cao và khoẻ mạnh, lúc nào cũng đeo đôi kính râm gọng đồi mồi sang trọng, đến trường lúc nào cũng trong bộ com lê tuỳ mùa mà thay vải và màu sắc. Đặc biệt, mỗi ngày thầy thắt một cà vạt khác nhau, toàn hàng đẹp và sang trọng. Vì thầy sống một mình lại vui tính nên bọn học trò chúng tôi hay rủ nhau đến nhà thầy chơi. Có lần thầy cho chúng tôi xem phòng treo cà vạt của thầy, một cái phòng rộng chừng mười mấy mét vuông, kê hàng chục giá treo ca vạt đủ các màu sắc xanh đỏ, vàng đen, vàng nâu, tím bạc. Thầy chỉ vào từng cái giới thiệu lai lịch của nó: cái này là lụa vàng  nâu mua ở Hàng Đào, cái này là len xanh đặt mua từ bên Pháp, cái này là coton đỏ bà chị gái tặng...Thời bấy giờ sách học tiếng Anh là quyển L’Anglais Vivant  Bleu do một giáo sư người Pháp soạn cho học sinh Pháp, nhà La Hachette xuất bản và học sinh Việt ta vì chưa có sách nên đành học ké. Thầy Sửu đến lớp không bao giờ mang theo cặp hay sách dạy. Vào lớp, sau khi cho học sinh mở sách để trên bàn, thầy rút từ trong túi quần ra mấy tờ sách xé ra từ cuốn sách L’Anglais Vivant  Bleu để đọc và giảng cho học sinh. Sang lớp khác ở những tiết sau cũng thế, cho hết buổi học thầy mới vứt mấy trang sách đó vào sọt giấy.
Thầy Sửu rất mê cô bán sách ngoại văn ở phố Tràng Tiền. Hết giờ dậy thầy ra ngay hiệu sách, loanh quanh tìm hết cuốn này đến quyển khác rồi ra quầy tìm cách hỏi chuyện cô nàng. Nhưng hai năm học trôi qua vẫn không thấy thầy nói đến chuyện cưới vợ.
Sau năm 1954, tiếng Anh bị vứt bỏ để học tiếng Trung về sau là Tiếng Nga, thầy Sửu mất nghiệp. Người ta cho thầy trông coi học sinh trong các buổi lao động dọn dẹp nhà trường một thời gian dài rồi cho chuyển sang dạy môn Địa lý lớp 5 phổ thông cấp Hai. Nghe nói đến khi nghỉ hưu thầy cũng chưa lấy vợ.
Thầy Nguyễn Xuân thì khác. Du học ở bên Anh rồi học thêm nghề may rồi về  nước vừa làm giáo sư Anh ngữ vừa làm Xuan tailor ở nhà riêng, rất đông khách vì may đẹp và kiểu cách Tây hiện đại. Giọng đọc tiếng Anh của thầy Xuân ấm và hay hơn giọng thầy Nguyễn Đình Sửu. Do có nghề may nên khi mất chức giáo sư trung học, thầy Xuân xin thôi việc, yên lòng về làm tailor.
Thầy Chung Quân (tên thật là Nguyễn Đức Tiến) dạy nhạc cũng rất ấn tượng. Thầy Tiến đẹp trai, dáng dong dỏng cao, hay đeo kính mát gọng vàng, và ăn mặc rất sang trọng.  Năm đó thầy còn rất trẻ, chỉ hơn bọn mới vào trường chúng tôi  một, hai tuổi và có khi còn kém tuổi nhiều anh học chuyên ban Tú tài. Nghe nói  khi mới 16 tuổi, bản Làng tôi của thầy đã đã đánh bại các bậc đàn anh giành được giải của Công ty điện ảnh, tuồng cải lương Kim Chung ở Hà Nội và được lấy làm bản nhạc nền cho phim Kiếp hoa, một trong số ít những phim Việt Nam thực hiện trong thời kỳ này. Vì là phim có tiếng nói đầu tiên kể từ năm 1937 khi ngành phim ảnh Việt Nam được khai sinh, Kiếp Hoa nổi tiếng khiến bản nhạc Làng Tôi và tác giả của nó cũng nổi tiếng theo, cả nước đều biết. 
Do danh tiếng của mình từ khi đoạt giải lại thêm đang học sư phạm chuyên ngành về Nhạc, nên còn rất trẻ tuổi, thầy Chung Quân được trường mời về dạy nhạc cho các lớp từ đệ Thất đến đệ Tứ.  
Trẻ tuổi nhưng thầy Chung Quân rất lạnh lùng với học sinh. Trên lớp thầy nói nhỏ nhẹ, giảng bài hay gọi học sinh đứng lên xướng âm cũng nhỏ nhẹ, chúng tôi bảo thầy giữ giọng đấy. Mà đúng thế thật, khi thầy xướng âm hay hát mẫu, giọng của thầy mới to hẳn lên và bao giờ trước khi hát thầy cũng trịnh trọng gõ thanh nĩa chuẩn âm (gọi là ‘âm thoa’) bằng kim loại trắng. Không biết có phải nhạc chỉ là môn học phụ, có hệ số điểm thấp nhất là 1, mỗi tuần chỉ học có một giờ (giống như Vẽ, Thể dục) mà  thầy không biết tên chúng tôi. Tôi chưa bao giờ thấy thầy có nhớ, và gọi tên bất cứ một học sinh nào - trừ khi có sổ điểm trước mặt!
Bản nhạc Làng tôi của thầy hay và nổi tiếng nên các lớp học thầy đều được thầy dạy hát thuộc lòng và nhà trường giao cho thầy thành lập một dàn đồng ca dạy hát và lĩnh xướng bài đó để mỗi khi  nhà trường đón khách hay tổ chức liên hoan văn nghệ ở hội trường thì biểu diễn.
Năm 1954, thầy Chung Quân cùng gia đình di cư vào miền Nam Việt Nam, Sau khi nước nhà thống nhất, vào Sài Gòn, tôi có hỏi mấy chú em con cậu tôi thì được biết, thầy Chung Quân tiếp tục dạy môn nhạc tại hai trường trung học Chu Văn An, và Nguyễn Trãi. Thầy Chung Quân còn là thầy dạy nhạc của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng sau này như Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Đức Huy, Nam Lộc... Cũng khoảng thời gian 1955 - 1956, ông có soạn bản hợp xướng Sông Bến Hải đó là một trường ca có giá trị nghệ thuật, viết về cuộc di cư năm 1954, nhưng về sau không thấy phổ biến rộng rãi. Ông không di tản mà vẫn ở lại Việt Nam.
(Trường Nguyễn Trãi một thuở)
Hai năm đầu học trường Nguyễn Trãi, tôi có 2 kỷ niệm đáng gi nhớ.
Một là, năm lớp Đệ thất tôi được cấp học bổng do là con nhà nông dân nghèo không còn bố, mẹ nuôi 3 con không có ruộng. Tôi không nhớ số tiền là bao nhiêu nhưng khi đem về đưa cậu tôi thì cậu tôi đã mua cho tôi một chiếc đồng hồ đeo tay Nikles, một chiếc cặp làm bằng da bò đã được thuộc tại nhà máy thuộc da Thụy Khuê và một bộ quần áo đồng phục mùa hè vải mềm màu cứt ngựa nhạt. Bây giờ đi học, tôi mặc bộ quần áo đồng phục mới, tay xách cặp chứ không cầm túi vải nữa và cổ tay đeo đồng hồ nom oách hẳn lên khiến mấy anh trong lớp hay nói trêu ghẹo tôi: Đồng hồ Nikes vừa nghe vừa lắc, cho xem tí nào?
Anh Nguyễn Văn May cũng được học bổng như tôi, anh cũng đưa cho mẹ anh hết nhưng bà chỉ sắm cho anh bộ quần áo đồng phục và bảo để gửi vè quê cho em anh có tiền mua sách vở.
Kỷ niệm thứ hai là, cuối năm lớp Đệ lục tôi được lên Nhà hát lớn Thành phố nhận thưởng về môn Quốc Văn. Hồi ấy nhà trường không chia năm học thành 2 học kỳ như bây giờ mà  chia thành hai kỳ "lục cá nguyệt". Cuối mỗi kỳ lục cá nguyệt đều có bài thi cho từng môn rồi căn cứ vào điểm số bài thi mà xếp hạng học sinh về môn đó. Cả hai kỳ lục cá nguyệt, tôi đều được xếp hạng nhất về môn Quốc Văn nên cuối năm được phần thưởng về môn đó. Mà phần thưởng cũng không nhỏ: 10 cuốn vở 100 trang,  hai cuốn Cổ học tinh hoa do hai nhà nho là cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Tử An Trần Lê Nhân biên soạn, 1 cuốn Tâm hồn cao thượng do nhà giáo Hà Mai anh dịch từ từ bản Pháp ngữ “Les Grand Coeurs” của nhà văn Ý Edmond de Amicis và 1 cuốn Tự Điển Bách Khoa Larousse. 
(Cha Phê rô Nguyễn Huy Mai)
Các kỳ nghỉ hè hai năm 1953, 1954, cậu tôi gửi tôi lên học thêm ở trường Dũng Lạc, mang tên linh mục Andre Trần Dũng Lạc bị xử trảm ngày 21/12/1839 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng. Trường ở ngay bên hông Nhà thờ Lớn, do cha Nguyễn Huy Mai Chánh xứ nhà thờ chính tòa sáng lập và làm hiệu trưởng. Trường Dũng Lạc mời được nhiều giáo sư danh tiếng về dạy nên rất đông học sinh như tôi được học thêm  môn Quốc Văn do thầy Bùi Xuân Uyên, chủ nhiệm kiêm chủ bút Tuần báo Thế kỷ dạy. Cha mai rất hiền hậu. Giờ ra chơi nào cha cũng ra ngoài cửa văn phòng, trong bộ áo chùng thâm, đôi kính trắng đứng nhìn các trò chơi đùa trong sân trường. Sau hiệp định Genève ra đời, cha Nguyễn Huy Mai cùng một số lớn linh mục Hà Nội cũng đi vào Nam. Cha Nguyễn Huy Mai gia nhập giáo phận Kontum, dưới quyền Giám mục đương nhiệm Paul Seitz.Từ năm 1964, linh mục giữ chức Thư ký thường trực Hội đồng Giám mục miền Nam.
Đường đi học trường Dũng Lạc của tôi xa hơn trường Nguyễn Trãi. Nhà tôi ở phố Phùng Khắc Khoan, phía sau chợ Hôm. Trường Dũng Lạc nằm bên hông nhà thờ Lớn Hà Nội. Từ nhà, tôi theo phố Huế, đụng Hồ Hoàn Kiếm, rẽ trái trên phố Tràng Tiền, rẽ phải theo ven Hồ Hoàn Kiếm, thêm một cái rẽ trái nữa là đã thấy Nhà Thờ Lớn. Chặng dài nhất là phố Huế, khi tôi đi bộ, khi tôi đi xe điện. Nhưng tôi thích đi bộ, một phần không có tiền mua vé xe điện, một phần vừa đi vừa đọc truyện kiếm hiệp, Thể loại này từng làm mưa làm gió trên mặt báo suốt một thời gian dài những Long hình quái khách, Giang hồ kỳ hiệp, Hỏa thiêu Hồng Liên tự…Lại thêm cái thú nữa là hôm nào rùa Hồ Gươm nổi lên thì đứng lại xem cùng với mọi người. 

4.
Sau tiếp quản thủ đô Hà Nội tháng 10-1954, cậu tôi vẫn ở lại Hà Nội rồi đi làm công chúc lưu dung một thời gian, sau đó nhận thấy khó ổn ới chính quyền mới, tháng Giêng năm 1955, cậu tôi đem vợ con tìm cách xuống Hải Phòng rồi di cư vào Nam. Tôi không thể đi theo cậu được nhưng vẫn ở lại căn nhà của cậu mợ để lại nay do dì tôi cũng là chị gái cậu đứng tên trông nom. Dì tôi góa chồng lúc mới ngoài ba mươi tuổi, một nách nuôi 4 con, một trai ba gái. Trong những năm đầu cuộc kháng chiến 9 năm, dì buôn tiền chuyển đổi giữa hai vùng kháng chiến và vùng tạm chiếm, rất phát đạt, có nhà cửa ở bên Gia Lâm. Nhưng năm 1952, sau mấy lần bị bắt, dì khánh kiệt, phải bán hết nhà cửa và chỉ còn hai bàn tay trắng rồi phải cầu cứu ông em là cậu tôi cho về ở căn nhà 25 Phùng Khắc Khoan để cho các con có chỗ ăn học. Cậu tôi cưu mang cả năm mẹ con dì, cấp cho bà chị một ít vốn để có một chỗ ngồi ở chợ Bắc Qua bán khăn mặt và quần áo trẻ con. Công việc buôn bán của dì đang có cơ khấm khá thì tiếp quản Thủ đô làm cho nó tê liệt luôn. Vì vậy, bữa cơm ở nhà dì mỗi ngày mỗi thêm tằn tiện, thức ăn chủ yếu là rau muống luộc chấm tương hoặc rau muống luộc cũng nấu với tương có đập thêm mấy miếng gừng cho thơm mùi để dễ ăn với cà muối, năm thì mười hoa mới có được đĩa đậu phụ rán non hay đĩa trứng tráng mỏng. Tuy thế, tôi và 4 đứa em con dì đang tuổi ăn tuổi lớn chỉ cần no bụng là được. Mấy năm đầu tiếp quản, mùa đông rất lạnh như năm 1955, có những ngày lạnh xuống 5 độ. Người ta truyền nhau kinh nghiệm chống rét bằng cách lót giấy báo cũ vào bụng và ngực rồi mặcc áo rét phủ ngoài cho khỏi bị ho bị cảm lạnh. Buổi tối, mấy anh em ngồi học mới thật là cảnh ngộ, đứa nào đầu cổ cũng quấn chặt chiếc khăn phu la dạ đã sờn rách, chân đi tất, toàn là tất vải cổ không chun nên phải lấy dây nịt cột cho khỏi tụt. Tôi và chú em con trai cả của dì tên là Đào Quốc Giám, lớn hơn tôi một tuổi, ngủ chung giường, đắp chung một chiếc chăn chiên Nam Định màu hồng xỉn, bao giờ lúc vào giường cũng co kéo nhau một lúc để không đứa nào bị hở đầu hở chân rồi mới đi vào cơn ngủ.
Việc học của tôi cũng rất nhiều thay đổi.
Năm đầu 1954-1955, lớp tôi học vẫn mang tên hệ Trung học cũ: Đệ Ngũ. Nhưng nội dung các môn học thì thay đổi rất nhiều, đặc biệt môn Quốc Văn gần như mới hẳn, rất nhiều tiết học về thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu, về các tác phẩm văn học kháng chiến chống Pháp…Các thầy giáo cũng xáo trộn nhiều. Một số giáo sư trung học cũ dạy các môn Toán, Lý, Hoá, sinh vẫn được tiếp tục giảng dạy. Các giáo sư dạy Anh Pháp thì mất nghiệp, một số xin thôi việc, một số được chuyển sang làm các việc khác như thày Nguyễn Đình Sửu đã nói bên trên. Bây giờ số đông là các giáo viên từ kháng chiến trở về hoặc từ miền Trung miền Nam tập kết ra. 
Sang năm học 1955-1956, đáng lẽ lên lớp đệ Tứ thì lớp bị chuyển đổi sang gọi là lớp 7 theo hướng sát nhập dần  hai hệ thống 12 năm trong vùng Pháp thuộc và 9 năm ngoài vùng kháng chiến. Vậy là sau 8 năm học tập, mất công thầy Đính cho bỏ lớp Năm lên lớp Tư, mất công cậu tôi cho thi nhảy cóc bỏ lớp Ba lên lớp Nhì, bù cho cái tuổi đã lớn mới được cắp sách đến trường, nay sau 6 năm học, tôi được xếp vào lớp 7. Đúng là mèo lại hoàn mèo!
Lớp tôi là lớp 7A do thầy Phạm Hữu Bình người Quảng Nam làm chủ nhiệm. Thầy Bình cùng quê và là bạn nhà văn Nguyễn Văn Bổng. Chính vì thế, khi trích học tiểu thuyết Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, thầy Bình cho lớp tổ chức một buổi hội thảo về cuốn tiểu thuyết mà thầy nói đã làm nên văn hiệu nhà văn Nguyễn Văn Bổng. Thầy giao cho tôi viết bài thuyết trình để cả lớp thảo luận và học tập.
Thực lòng tôi thấy tác phẩm Con trâu  của Nguyễn Văn Bổng là một thứ xa lạ, xa lạ cả về nội dung và cả về văn vẻ với đầy các tiếng xứ Quảng rất khó đọc. Trước đây, tôi đã đọc và thích Con trâu, tiểu thuyết của nhà văn Trần Tiêu trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Tác phẩm này khai thác những nét bình dị, chân thật của nông thôn, không thi vị hóa, cũng không nặng về trần tục. Con trâu là đầu cơ nghiệp. Xoay quanh chuyện con trâu thực chất là chuyện con người, những người nông dân như bác Chính quanh năm đầu tắt mặt tối gần như suốt đời không có phút thảnh thơi. Con Trâu của Trần Tiêu còn là một tác phẩm độc đáo vì Trần Tiêu là người duy nhất của Tự lực văn đoàn gồm những trí thức văn nghệ sĩ Tây học và trung lưu thành thị lại sống gắn bó với nhà quê và tự đảm nhận việc miêu tả trực tiếp và tỉ mỉ đời sống ở nông thôn.
Nhưng thầy Bình giao việc, tôi không thể không phải đọc cho hết cuốn Con trâu của Nguyễn Văn Bổng và phải viết theo đúng hướng dẫn của thầy là làm nổi bật lên một tầm vóc lớn lao của Con trâu  trên mặt trận chiến đấu đầy cam go, quyết liệt. Ấy là, giặc giết, bắt hàng trăm con trâu  hòng tiêu diệt mặt sản xuất của ta. Mà như thế, cũng có nghĩa là tiêu diệt trực tiếp lực lượng chiến đấu – dân quân, du kích, và cả bộ đội chủ lực, trước hết là bộ đội địa phương. Vì họ sống nhờ sự nuôi dưỡng trực tiếp của nhân dân ở nông thôn. Bộ đội có ăn no mới đánh thắng, thóc gạo nuôi quân có đảm bảo thì kháng chiến mới có cơ hội thành công. Con trâu – nhân vật tượng trưng, như một hình tượng từ cuộc sống vào nghệ thuật. Đánh giặc, giữ làng, bảo vệ sản xuất chính là một hình thái của chiến tranh nhân dân.
Tôi phải mất cả một tuần, đọc, trích và ghi chép rồi viết gần chục trang giấy. Xong buổi hội thảo, thầy Bình rất vui, tuyên dương tôi trong giờ sinh hoạt cuối tuần rằng tôi có khả năng học văn và tích cực trong công việc được giao. 

5.
Sang năm học1956-1957, cuộc cải cách giáo dục lần thứ 2 (1956) đã diễn ra nhằm thống nhất hai hệ thống giáo dục 9 năm và 12 năm của vùng tự do và vùng mới giải phóng thành Hệ thống giáo dục: 10 năm gồm 3 cấp nên năm học 1956-1957, tôi được lên lớp 8 trường Phổ thông cấp 3.  
Năm học này, như đã nói trường trung học Nguyễn Trãi trả lại cơ sở cho trường trung học Trưng Vương rồi chuyển lên phố Cửa Bắc. Do vậy, tôi được chuyển sang trường Phổ thông cấp 3 Việt Đức (thường gọi là phổ thông cấp 3A), cơ sở trường nguyên là trường Dòng mang tên Giám mục Puginier được xây cất xong năm 1897. Các thầy giáo, cô giáo hầu hết là những thầy, cô trẻ được đào tạo từ khu học xá Nam Ninh - Trung Quốc. Học sinh thì lẫn lộn con em những gia đình kháng chiến trở về với học sinh trong Hà Nội tạm chiếm như bọn tôi nên mặc dầu đã sau 2 năm tiếp quản nhưng vẫn còn nhiều cách biệt. Họ thì phấn khởi được về Thủ đô, bố mẹ đều có công việc trong các cơ quan nhà nước; bọn tôi thi thấy thua thiệt đủ mọi thứ trong đó cái thua nhất là không được học tiếng Anh tiếng Pháp mà bắt đầu từ năm lớp 8 này phải học tiếng Trung Quốc, mở đầu là những tiếng Lảo sư hảo, chào thầy giáo, ủa che, tên tôi là...Do vậy trong lòng hầu hết học sinh trong lòng Hà Nội cũ chúng tôi đều mang một nỗi chán nản và có phần bất mãn.
Đang sắp sửa khai giảng năm học, tháng 9-1956, nghe thiên hạ háo hức đồn đại và đón chờ sắp có một tờ báo mới tên là Nhân Văn, một tạp chí văn học định kỳ, ra mỗi nửa tháng một số mà chủ nhiệm báo là cụ Phan Khôi, một học giả tên tuổi, một nhà thơ, nhà văn, cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu.
(Cụ Phan Khôi)
Tôi đã biết danh cụ Phan Khôi khi đọc Nhà Văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan và đọc trực tiếp một số bài viết của cụ trên Nam phong tạp chí trong tủ sách của cậu tôi, nay nghe tin ấy tôi cũng háo hức chờ đợi. Vừa hay, anh Lê Văn Mãn, người bạn mới quen khi cùng nhận lớp 8H trường mới đến chơi. Anh Mãn quê ở Hưng Yên, đi tắt qua vùng bãi bồi hai bên sông Hồng thì làng anh chỉ cách Hà Nội chưa đầy hai chục cây số. Gia đình cho anh lên Hà nội trọ học ở nhà một người quen ở phố Bà Triệu. Anh vừa đi học vừa đi bán kem để đỡ đần bố mẹ. Anh bảo tôi, nhiều người mong ngóng đọc tờ Nhân Văn lắm, theo tôi anh nên nhận một số báo đi bán kiếm thêm ít tiền sách vở. Tôi không bận bán kem tôi cũng sẽ làm việc này. 
Từ lâu tôi cũng đã có ý định tìm việc gì đó để làm kiếm thêm chút tiền, nay nghe anh Mãn gợi ý tôi thấy rất hay. Tôi lên phố Tràng Tiền tìm vào nhà Thông tin Tràng Tiền rộng mênh mông, có đến vài trăm mét vuông, là nơi chỉ để mọi người ghé vào đọc báo công cộng, xem thông báo về tình hình Thủ đô và cả để tranh thủ trú mưa, tránh nắng nữa. Căn nhà tiêu biểu của kiến trúc Pháp tại Đông Dương này hồi chưa tiếp quản là phòng thông tin của người Pháp ở Hà Nội , bởi thế hầu như chiều thứ năm hàng tuần nào lũ học sinh trung học chúng tôi cũng rủ nhau đến chờ phát vé vào xem xi nê không mất tiền ở phòng Studio trên gác hai. Toà soạn và trị sự báo Nhân Văn chiếm một góc nhỏ bên phải tầng một. Tôi được hướng dẫn ngày giờ lấy báo, giá bán và được động viên hãy hết lòng tích cực  phát hành báo nhiều và rộng khắp.
Ngày 15 tháng Chín, 1956, số Nhân Văn đầu tiên ra mắt. Học xong buổi sáng, buổi trưa tôi lên lấy thử 50 tờ, đi bộ từ Tràng Tiền lên Hàng Đào, Hàng Ngang rồi vừa rẽ sang Hàng Bạc thì dã bán hết veo số báo. Tôi thật vui sướng thấy lần đầu trong đời mình đi bán báo mà tờ báo mình bán được hoan nghênh và bán chạy như thế. Có khi đang giao báo cho người nhà này thì người nhà bên biết, người ta chen ra cổng mua, có một vài người đưa tiền cho tôi mà không lấy tiền trả lại. Thế là, tôi đi như chạy về tòa soạn lấy thêm hơn trăm tờ báo nữa rồi vòng xuống phố Huế, phố Bà Triệu, phố Quang Trung, nhà nào cũng gõ cửa vào giới thiệu và mời chào cho đến tối thì bán hết. Hai ngày sau đi các phố nhỏ nhưng cũng bán được mỗi ngày 200 số rồi sang ngày thứ ba thì  toà soạn đã không còn báo để phát hành. Giờ tôi cũng không nhớ mỗi hôm đi bán báo đã kiếm được bao nhiêu tiền mà chỉ nhớ ngày nào bán hết báo xong, tôi đã tự thưởng cho mình một bát phở bò tái ở hàng phở Hói phố Trần Nhân Tông với cái giá 2 hào rưỡi.
Báo Nhân Văn ra tiếp số 2 vào ngày 30- 9- 1956 thì ngày 20- 10 báo Trăm Hoa bộ mới do nhà thơ Nguyễn Bính làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút ra số 1. Tôi vốn rất thích thơ Nguyễn Bính, thuộc lòng cả bài thơ dài Lỡ bước sang ngang của ông. Nhiều lần về quê đã đọc thuộc bài Lỡ bước sang ngang cho u tôi nghe đến nỗi u tôi cũng nhẩm thuộc nhiều câu. Nay thấy báo của ông phát hành, tòa soạn lại ở phố Hàng Chuối gần nhà tôi ở nên tôi cũng đến nhận báo Trăm Hoa đi bán và bán cũng rất chạy. 
(Ảnh: nhà văn Nguyễn Bàng cung cấp)
Trong thời gian bán báo, tôi đã có một gặp gỡ bất ngờ mà tôi coi là rất vinh hạnh. Ấy là lần đến lấy báo Nhân Văn số 3 đi bán, khi tôi đang đém và xếp báo thì thấy một người đàn ông đi từ ngoài cửa phòng thông tin vào. Đó là một người đàn ông người thấp, hơi thô, hai cánh tay chắc nịch với  đôi mắt xếch và cặp mày rậm làm cho khuôn mặt trông hơi vẻ dữ dằn đặc biệt là ông ta còn có một vết sẹo to ở cổ khiến tôi ngờ ngợ tự hỏi: Trần Dần? Bởi tôi đã nghe đồn Tạp chí Giai phẩm mùa Xuân vừa in xong là bị tịch thu ngay, Trần Dần, với bài thơ Nhất định thắng bị đấu tố tơi bời, quy tội phản động, mang ra đấu tố công khai trước hội nghị và đã bị giam 3 tháng tại nhà tù Hoả Lò, Hà Nội. Trần Dần uất ức dùng lưỡi dao cạo cứa cổ tự sát nhưng không chết. Sau này còn vết sẹo to ở cổ. Nghĩ thế, tôi bỗng thấy mình như nhỏ lại khi người đàn ông ấy tiến lại gần rồi đứng sát bên tôi cạnh cái bàn của ban trị sự tòa báo. Thấy tôi dừng tay đếm báo nhìn, người đàn ông ấy há rộng miệng ra cười ròn rã hỏi:
- Học sinh hả? 
Nghe tiếng cười ròn rã đó, tôi không còn thấy sợ nữa và lễ phép trả lời:
- Vâng. 
Ông ta vỗ vai tôi bảo:
- Tốt lắm
Rồi hỏi:
- Chú em có thích viết văn không?
Tôi đáp:
- Dạ rất thích nhưng em chưa bao giờ viết văn cả.
- Không sao, hãy học và tiếp tục bán báo lấy thêm tiền ăn học đã. Khi nào có điều kiện đến chơi nhà anh ở phố Sinh Từ, anh sẽ dạy chú. Anh là Trần Dần, nhớ nhé!
Vậy đúng là Trần Dần, tác giả cuốn tiểu thuyết Người người lớp mà tôi đã đọc ở Thư viện thành phố, giờ lại là tác giả bài thơ Nhất định thắng vẫn đang ồn ào dậy sóng ngoài xã hội. Bài thơ tuy bị cấm nhưng đã được rất nhiều người thuộc nhớ và truyền tai nhau, chép lại của nhau. Bản thân tôi cũng thuộc  những câu thơ như:
Em biết đâu
Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?
Khổ thân em mưa nắng đi về
lủi thủi...
Hay:
Tôi bước đi
Không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ. 
Tôi rất sung sướng vì đã được nói chuyện với Trần Dần  đôi ba câu ấy, trong bụng thầm nghĩ, khi nào báo Nhân Văn được 10 số sẽ tìm tới phố Sinh Từ để gặp ông và xin ông nói về chuyện viết văn. Nhưng sau khi Nhân Văn  ra số 5 vào ngày 20 tháng 11 năm 1956 thì bị buộc đình bản. Rồi ngày 15/12, ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Số 6 (số cuối cùng) của Nhân Văn không được in. Báo Trăm hoa của Nguyễn Bính phát hành được 11 số, đến tháng 1- 1957 thì cũng đình bản nốt. Tôi mất đi một việc làm vừa đầy hứng thú vừa có được chút tiền và mất đi một cơ hội gặp một nhà văn nhà thơ lớn bởi không còn dám nghĩ sẽ tìm tới phố Sinh Từ để được gặp ông Trần Dần nữa. Tuy vậy, tôi cũng có một niềm vui là đã giữ lại cho mình 5 số báo Nhân Văn, coi như là những ấn phẩm quý để cho các bè bạn thân cùng đọc. 
Nhưng cũng chẳng được bao lâu, người ta kêu gọi ai có báo Nhân Văn phải đem nộp cho công an khu phố, tôi sợ nên ai đã mượn cũng không lấy lại và vì thế mà về sau thất tán hết. 

6.
Vào lớp 8H trường Phổ thông cấp 3, tôi chỉ còn anh Nguyễn Văn May thân thiết đã 4 năm ở Trung học Nguyễn Trãi. Anh Nguyễn Hưng Nhân đã thôi học phổ thông, thi vào trường trung cấp kỹ thuật 1 Hà Nội. Tuy thế, chỉ sau ít ngày tôi đã có thêm những người bạn mới
Trước hết là anh Lê Văn Mãn, người đã gợi ý cho tôi việc đi bán báo Nhân Văn. Anh Mẫn vẫn tiếp tục đi bán kem, thấy tôi mất việc, anh bảo tôi nếu muốn đi bán kem như anh, anh sẽ giới thiệu với bà chủ hiệu kem nhưng tôi chưa có gan đeo cái thùng kem đi rong phố phường như anh.
Hai anh em anh Lê Đình Nghĩa và Lê Đình Phúc, nhà ở ngay bên cạnh phố nhà tôi ở, rất tiện cho chúng tôi hẹn hò nhau cùng đi học. Bố của hai anh  là ông Lê Đình Xá, một nhân viên kế toán kép rất giỏi việc làm cho cty than Hồng Gai của Pháp nay được lưu dung. Ngôi nhà của ông Hiền là một ngôi nhà 2 tầng kiểu Tây rất đẹp. Bà vợ đầu của ông tức mẹ đẻ của hai anh Nghĩa và Phúc đã mất để lại 5 người con: anh con cả bị câm bẩm sinh, hai anh Nghĩa và Phúc, tiếp theo là một cô em gái và cậu em út. Ông Xá lấy bà vợ kế có thêm hai con trai nhỏ một 8 tuổi, một 10 tuổi, giao cho bà này trông nom nhà cửa và cả đàn con để tiện việc ra làm tận ngoài Hồng Gai. Thời Pháp chủ mỏ có xe đưa đón nên chiều thứ Bẩy nào ông Xá cũng về nhà đến sáng thứ Hai đi sớm ra ngoài mỏ. Nay xe cộ khó khăn, mỗi tháng ông mới bắt xe khách về một lần lại thêm bà mẹ kế rất lành nên hai anh em Nghĩa Phúc rất thoải mái, nhà đẹp lại rộng tha hồ mời các bạn đến chơi và học. Anh Nghĩa chỉ thích học mỗi môn tiếng Anh, nay tiếng Anh bị bỏ anh vẫn kiếm sách cũ tự học. Anh luôn dắt trong túi áo một mẩu bút chì gọt nhọn đầu để đọc sách tiếng Anh, đến từ nào chưa biết thì gạch chân nó rồi tra từ điển ghi nghĩa của nó ở bên lề trang. Nhiều buổi tối, anh Hậu rủ chúng tôi ra vườn hoa Pásteur nằm ở giữa 4 tuyến phố Tăng Bạt Hổ, Trần Nhân Tông, Yecxanh, Nguyễn Công Trứ rất gần nhà chúng tôi gặp những người lính Ấn Độ trong Ủy ban quốc tế giám sát và kiểm soát đình chiến ở Việt Nam để trò chuyện với họ bằng tiếng Anh, coi như một cách tập luyện nói cho tốt. Những người lính Ấn Độ cũng rất hiếu khách, lần nào họ cũng cho chúng tôi mỗi người một gói hạt hướng dương đã rang chín để cùng nhau vừa cắn cho thơm miệng vừa nói chuyện vui vẻ với nhau.
(Cổng trường cấp 3A nguyên là trường dòng École Puginie)
Anh Phúc không ham học tiếng Anh như anh Nghĩa nhưng có năng khiếu về hội họa và rất thích nghe nhạc. Nhà anh có cái radio Philips Hà Lan lại có cái máy quay đĩa hiện đại, một lúc kẹp 10 đĩa, chơi hết đĩa này đĩa sau tự động rơi xuống nối tiếp luôn. Vì vậy những tối mưa phùn ẩm ướt, mấy chúng tôi đến nhà anh làm bài xong thì nghe đĩa đến khuya mới về.
Anh Nguyễn Trọng Cường, người Lạng Sơn xuống Hà nội trọ học, ở nhà anh Nguyễn Thanh Lợi ngoài phó Huế cũng gần nhà tôi và nhà hai anh em Nghĩa Phúc nên cũng chóng thân nhau. Anh Cường thích thơ văn, hay làm thơ và cũng thích nghe nhạc. Còn anh Lợi thì củ mỉ cù mì, nhà  mở hiệu cát tóc do anh là thợ chính nên không mấy khi đến nhà ai chơi. Bạn bè ai tóc dài đều đến anh cắt cho không lấy tiền. Thời ấy để tóc dài cớm gáy đến trường là bị nhắc nhở phê bình ngay và bị gọi là Tarzan, một nhân vật hư cấu, một đứa trẻ hoang dã lớn lên trong rừng rậm châu Phi với các loài khỉ lớn 
Anh Lê Xuân Doanh nhà ở phố Hai Bà Trưng xa phố nhà chúng tôi nên không mấy khi anh đến nhưng rất hào phóng luôn mời anh em đến nhà mình đãi ăn xôi hay uống cà phê. Bố anh mất sớm, bà mẹ ở vậy nuôi con khi mới 3 tuổi, nhà mặt đường nên mở hàng bán điểm tâm xôi sáng và cà phê giải khát cả ngày. Xôi bà nấu rất ngon, xôi trắng ăn với ruốc hoặc thịt nhừ. Cà phê bà pha cũng rất khéo nên hàng rất đông khách. Chúng tôi thường đến chơi với anh Doanh vào gần trưa ngày Chủ nhật để khỏi ảnh hưởng đến việc bán hàng của mẹ anh. Mặc dầu vậy, lần nào hẹn đến anh cũng đem xôi ra cho chúng tôi ăn, anh bảo tớ đã xin mẹ từ sáng rồi và mẹ tớ cũng rất vui vẻ, cứ ăn tự nhiên nhé.
Anh Trần Mai Chí con ông Trần Mai Căn, chủ một cửa hiệu áo mưa nylon nổi danh Hà Nội ở trên phố Hàng Đào. Ông Trần Mai Căn du học Pháp, có bằng cử nhân, về nước không ra làm quan huyện mà chọn con đường thương mại nhằm góp phần canh tân đất nước. Nhà ông là ngôi biệt thự 2 mặt phố ở góc Hàng Bài và Lý Thường Kiệt, nhìn sang mé phải trường trung học Nguyễn Trãi cũ. Nhà có 1 tầng hầm bên dươi để chống ẩm và 2 tầng để ở bên trên tầng hầm. Gọi là tầng hầm chống ẩm nhưng người có thể đi lại bên trong dễ dàng. Anh Trần Mai Chí là con trai thứ ba trong nhà sau người chị cả và người anh thứ hai là Trần Mai Côn. Hai anh em Chí Côn cùng học ngang nhau nhưng mỗi người một lớp và Chí học giỏi hơn, có nhiều bạn bè hơn. Ông Căn thuê gia sư kèm dạy các con ngoại ngữ từ nhỏ nên Trần Mai Chí đọc và nói tiếng Pháp, tiếng Anh khá thành thạo từ khi còn học tiểu học. Trần Mai Chí da trắng hồng, môi lúc nào cũng phơn phớt đỏ như môi con gái, tính hay bẽn lẽn nhưng lại rất say mê Toán học.  Anh đã tự mình tìm lại cho ra con số pi 3,14…(thường người ta  gọi là, c, hay p) và say mê giải các bài toán khó. Đến chơi nhà anh, bao giờ cũng được bà u già giúp việc mời nước rất chu đáo, mùa hè nước lọc có đá lạnh, mùa đông là nước trà thơm và nóng.
Ngoài ra tôi còn một số bạn khác, không thân nhưng rất quý mến nhau như anh Đặng Vũ Lạc, nhà ở phố Khâm Thiên,  anh Trần Xuân Hoan nhà ở phố chợ Mơ…
Không hiểu sao, từ năm 1956 trong học sinh bỗng sôi nổi phong trào làm báo tường còn gọi là bích báo. Từ thầy hiệu trưởng, các thầy cô giáo chủ nhiệm, Bí thư đoàn trường và bí thư đoàn lớp đến toàn thể học sinh đều tham gia viết báo. Trong phòng Hội đồng giáo viên có báo của các thầy cô, trên tường lớp nào có báo của lớp đó.
Các thầy cô chủ nhiệm lớp thống nhất bảo nhau quy định bắt học sinh phải 100% tham gia viết báo tường, ai không có bài sẽ trừ điểm thi đua vào hạnh kiểm.Thời ấy, hạnh kiểm của học sinh quan trọng ngang ngửa thậm chí là hơn cả thành tích học tập. Khi cả lớp đều hạnh kiểm tốt và khá, ai đó bị hạnh kiểm trung bình sẽ là “con quái vật” trong mắt bạn bè, gia đình và nhà trường. Hạnh kiểm mà trung bình thì coi như có án bị kỷ luật. Vì vậy, mỗi dịp phát động viết báo tường, nhiều người hăng hái viết đến 2, 3 bài liền nhưng cũng nhiều người lo sốt vó vì thực sự không biết viết gì để nộp dù tình cảm với bạn bè, trường lớp, thầy cô luôn dạt dào trong lòng.  
Những người hăng hái viết thì nghĩ ngợi làm thơ rồi hì hụi chép lại và trình bày hoa lá cho đẹp, những người không biết viết báo thì mò mẫm tìm sách báo chép lại bài trong đó, sửa chữa tí chút rồi cũng trình bày hoa lá cho xong để nộp bài cho lớp…Tôi nói trình bày hoa lá với đúng nghĩa của hai chữ hoa lá vì hầu hết không mấy ai biết vẽ cảnh vẽ người mà chỉ vẽ hoa lá hoặc in lại hoạ tiết hoa lá bằng giấy than rồi tô màu lên.
Tường để dán báo lên là một tờ giấy vẽ lớn, trên đầu rộng chừng 2, 3 chục cm kẻ tên báo. Nếu lớp có bạn biết kẻ chữ đẹp thì giao bạn đó làm tên báo một lần dùng cả năm học. Nếu lớp không ai làm được thì lớp phó phụ trách văn nghệ bích báo đi nhờ có khi trả tiền thuê một họa sĩ vườn nào đó làm. Tên báo thường chọn những từ có tính cách hô hào như Tiến Lên, Quyết Tâm, Quyết thắng, Phấn Đấu, Cờ Đỏ...Vì vậy có thể thấy trong một khối lớp có nhiều tên báo trùng nhau như Tiến Lên của lớp 8A, Tiến Lên của lớp 8D, Tiến Lên của lớp 8G…Nhưng tờ nào tờ ấy cũng rất tự hào ghi thêm dòng chữ :Tiếng nói lớp X”. Lớp phó chỉ còn việc dán các bài nhận được bên dưới tên tờ báo. Vì tờ giấy vẽ thường chỉ có kích thước 80x100 (cm) mà lớp có tới 5 chục học sinh nên bài nọ phải dán mớm chồng lên bài kia, bài nào nộp trước thì nằm dưới, bài nào nộp sau thì nằm trên, muốn đọc bài dưới phải lật bài trên lên thì mới xem được. Sang số tiếp, chỉ việc nhẹ tay bóc bỏ các bài cũ đi dán bài mới vào, cứ thế cho hết năm học thì cũng hết một năm báo tường.
Tôi được các bạn bầu phụ trách báo tường của lớp. Nhận thấy cách làm báo cổ truyền như trên không mấy hấp dẫn, tôi hẹn gặp các bạn bè thân quen tại nhà anh Lê Xuân Doanh có mời anh Nguyễn Hưng Nhân bên trường Kỹ thuật trung câp dự vì anh Nhân nổi tiếng có nhiều bài báo tường rất hay hồi học lớp 7A Nguyễn Trãi.
Vào cuộc họp, tôi nêu lên những hạn chế và sự bất tiện của tờ bích báo lớp và nói rõ ý định làm một tờ bích báo cho ra bích báo, không chỉ để riêng trong lớp đọc với nhau mà sẽ ra mắt trong toàn trường. Tôi nói, sẽ thuê đóng một cái liếp to có thể chứa được 3, 4 tờ giấy vẽ. Các bài báo nhận về sẽ được biên tập, bài nào hay thì mới đăng bài nào không hay thì không đăng nhưng có hộp thư trao đổi với người viết động viên họ viết tốt hơn. Như vậy, mỗi số ra báo chỉ cần trên dưới 30 bài là đủ. Bài biên tập rồi sẽ được những người trong ban trình bầy chia nhau viết lại trực tiếp trên tờ giấy vẽ, mỗi bài chiếm một vài cột nhất định sau đó đưa họa sĩ minh họa, xong thì đem đến trường căng lên liếp và treo dưới bóng mát của một cây xà cừ để mọi người xem.
Ý kiến dó được các bạn hào hứng tiếp nhận, bàn bạc thêm rồi phân công cụ thể: Tôi sẽ là trưởng ban biên tập, biết kẽ chữ to nên sẽ trình bày tên tờ báo cho thật nổi. Hai người gọi là ấn loát cho oai sẽ nhận bài và chép lại bằng bút sắt mực tàu những nét chữ đậm và đẹp là tôi và anh Nguyễn Văn May. Khi viết lại bài thì để trống sao cho tốt nhất cho người viết tên bài và người minh họa. Người trình bày tên tất cả các bài cũng là tôi và người vẽ minh họa là anh Lê Đình Phúc.
Giờ bàn đến tên tờ báo, vẫn là tôi có ý kiến trước sẽ đặt tên cho tờ báo là Ngôi Sao. Tôi nói, ngôi sao là một thiên thể nhìn thấy như những điểm sáng lấp lánh trên bầu trời ban đêm. Hầu hết những vì sao đẹp đều mang đến điềm lành cho con người khiến chúng ta cảm thấy yên bình và tràn đầy hy vọng khi nhìn thấy hay nghĩ về những ngôi sao đó. Năm 1494, vua Lê Thánh Tông lập ra Tao đàn, tập hợp 28 vị tiến sĩ được coi như 28 vì sao sáng trên bầu trời thơ văn Đại Việt lúc đó, vì vạy hậu thế gọi hội xướng họa thi ca mà Lê Thánh Tông đã sáng lập là Tao Đàn nhị thập bát tú.
Mọi người nhất trí tán thành ngay rồi chuyển sang bàn nhau về tài chính cho tờ báo tức là tiền mua giấy vẽ, mực tàu, bút săt, bút lông và hộp màu vẽ. Tôi bảo sẽ kêu gọi lớp đóng góp nhưng anh Lê Xuân Doanh nhanh nhảu gạt đi và nói:
- Tôi không viết được chữ đẹp cũng không biết vẽ nên tôi xin nhận tất cả mọi chi phí cho tờ báo, hết giấy, hết mực thì các anh trong ban biên tập cứ bảo, tôi sẽ đưa tiền mua ngay.
Hôm sinh hoạt lớp tiết cuối ngày thứ 7 tôi trình bày ý định dó với thầy Hoàng An chủ nhiệm lớp và các bạn. Tất cả đều đồng ý. Thầy Hoàng An bảo:
- Một ý định hay và sáng tạo, thầy ủng hộ và mong các em làm cho tốt.
Thầy Hoàng An đã học ở khu học xá Nam Ninh, dạy môn Văn, người nhỏ  nhăn, nói năng rất nhẹ nhàng, giảng Văn không hay lắm nhưng có chiều sâu nên được học sinh rất quý mến.

7.
Ngay đầu tuần sau chúng tôi đã nhận được bài viết của cả lớp. Tôi nhờ anh Nguyễn Hưng Nhân viết hộ tôi bài Mấy dòng ra mắt của Ngôi Sao cho tờ báo coi như một bài xã luận và nhờ anh Trần Mai Chí dịch cho một truyện ngắn của Pháp. Cả hai anh đều vui vẻ nhận lời. Không đầy một ngày, anh Chí đưa cho tôi bản dịch  “Người phu chột” của Voltaire - Ai đã đọc tác phẩm này thì sẽ nhớ mãi cách kể chuyện ngắn gọn mà sâu sắc của Voltaire về người phu chột mắt. Con người này chưa bao giờ lấy làm buồn vì khiếm khuyết đôi mắt của mình, ngược lại ông ta còn rất hạnh phúc bởi con mắt mà ông ta có là con mắt giúp ông chỉ nhìn thấy điều tốt đẹp, ông không có con mắt để nhìn thấy những điều xấu xa, bi quan như những người bình thường có hai con mắt khác. Tôi xem bản dịch rồi xin phép bạn cho chỉnh trang lại một số từ ngữ cho văn chương hơn và được bạn vui vẻ bằng lòng. 
Ngôi Sao só 1 ra mắt bạn đọc vào cuối tháng 10 năm 1956 gây xôn xao khắp trường. Một tờ bích báo khổ dài 2,4m rộng 1m (3 tờ giấy vẽ) công phu rực rỡ dưới bóng mát cây sà cừ to lớn nhất ở giữa sân trường gồm khoảng trên 40 bài viết đủ các thể loại truyện ngắn, thơ ca, nhạc, tranh truyện...Học sinh các lớp chen nhau để đọc khiến tôi và các anh trong ban biên tập đứng cách xa nhìn vào mà nở từng khúc ruột. Đến giờ Văn, thầy Hoàng An vào lớp mở đầu bằng một lời khen:
- Tờ báo của lớp ta đúng là một ngôi sao sáng. Các em hãy viết nhiều bài hay hơn nữa và ban biên tập cũng sẽ trình bầy cho Ngôi Sao ngày càng đẹp hơn nữa.
Được lời khen ngợi và động viên của thầy chủ nhiệm, chúng tôi rất phấn khởi. Ngôi Sao cũng  bắt đầu nhận được bài của một số bạn các lớp khác gửi đến. Về thơ đã thấy xuất hiện mấy bài thơ tinh yêu học trò, về văn có thêm truyện dịch từ văn học Trung Quóc. Tất cả đều được biên tập và đăng nên số 2 phải mở rộng thêm 1 tờ giấy vẽ nữa thành khổ 3,2 x 1m.
Anh Lê Xuân Doanh bảo:
- Tôi muốn các anh chọn lọc các bài hay nhất trong 3 số báo in roneo thành một tập có bìa hẳn hoi coi như một tạp chí định kỳ ba tháng một lần gọi là Tạp chí Ngôi Sao tam cá nguyệt
Tôi bảo:
- Một ý kiến tuyệt vời nhưng máy in ở đâu?
Anh Doanh nói:
- Tôi sẽ cung câp. Chả là tôi có một ông chú họ làm nghề in roneo đã hơn 30 năm, tay nghề cao lắm, nay nhà nước cấm in ấn tư nhân nên ông ấy không hành nghề nữa và cũng không chịu vào hợp tác xã mà mở quán trà. Tôi sẽ biếu ông chú ít tiền và xin ông cái máy in roneo ấy rồi nhờ ông ấy chỉ bảo và ta in tạp chí của ta
Thế là lại thêm công việc mới. Lại căm cụi chọn bài, chia nhau ra làm mẫu giấy sáp, đánh máy cữ, dàn trang, vẽ hình minh hoạ…Nhưng rồi Tạp chí Ngôi Sao số 1 cũng đã nhanh chóng ra đời với bề dày 120 trang và tổng phát hành là 60 số. Gọi là phát hành cho oai chứ thực ra là phát không cho các bạn trong lớp trong đó có những người làm báo chúng tôi, tổng cộng đã mất 48 số, còn lại 12 số kính biếu thầy chủ nhiệm và một vài thầy cô khác là vừa hết. Chúng tôi bảo nhau, tuy chỉ có 60 số nhưng lượng người đọc chắc sẽ gấp nhiều lần vì mỗi người có trong tay tờ báo sẽ đưa cho gia đình xem và bè bạn.  
Sang đầu học kỳ 2, khi Ngôi Sao số 4 vừa ra mắt ở sân trường thì chừng 10 phút sau một tờ bích báo khác cũng được làm theo kiểu Ngôi Sao trình diện dưới bóng cây phượng vĩ ngay bên cạnh với cái tên là Sức Trẻ ghi rõ là Tiếng nói của Đoàn thanh niên lao động trường. Vậy là tờ báo này do anh Nguyễn Đắc Sinh, bí thư Đoàn trường chủ trương. Anh Sinh học lớp 9, người Huế tập kết lấy bút danh là Bình Vọng với nghĩa là vọng nhớ về núi Ngự Bình ở Huế quê anh. Đã mấy lần, anh Sinh gặp tôi và bảo tôi làm đơn xin sinh hoạt lớp cảm tình Đoàn nhưng tôi từ chối nên anh tỏ ra khó chịu với tôi ra mặt. 
Sức Trẻ làm theo kiểu Ngôi Sao nhưng chữ viết bài và cách trình bày thua kém Ngôi Sao lại mới ra số 1 nên chưa nhiều bài, chỉ vừa đủ 2 tờ giấy vẽ. Vì vậy lúc mới trương ra, nhiều người đang đọc Ngôi Sao, do hiếu kỳ bỏ sang xem Sức Trẻ nhưng chỉ một lúc sau họ quay ngay về đọc Ngôi Sao và ngày hôm sau thì Sức Trẻ không còn đông bạn đọc như Ngôi Sao. Người ta bảo nhau xem Sức Trẻ chủ yếu là để đọc bài ”Phê phán mấy bài thơ tình trên tờ Ngôi Sao” do tác giả Bình Vọng viết. Chuyện không có gì to tát, chỉ là mấy bài thơ diễn tả tâm trạng tình yêu tuổi học trò như bài thơ “Nhà nàng ở phố Hàm Long/ Nhà tôi ở giữa phố Trần Nhân Tông…”, đại để là phố trên phố dưới cùng đường đi đến trường nên tôi chỉ mong sao ngày nào đi học hay tan học cũng được thấy nàng cùng đi phía trước và muốn con đường cứ dài mãi ra để được lẽo đẽo theo chân cô bạn cùng trường xinh đẹp nhưng đến tên nàng là gì tôi cũng chưa được biết, cái kểu “yêu không dám nói muôn vàn cũng không...”  hay bài thơ tả chiếc áo hoa xanh của cô bạn học trò: “Chiếc áo hoa xanh mà em mặc/ Làm chín hồn anh vạn giấc mơ”… vậy mà anh Bình Vọng quy kết là thơ ủy mị sướt mướt, rây rớt thơ lãng mạn suy đồi thời Tự Lực Văn đoàn nhằm ru ngủ sức trẻ trong học sinh nhà trường.
Ngay lập tức, trong Ngôi sao số 5 tôi có bài đáp trả: “Vài lời với anh Bình Vọng”, trong đó tôi đặt câu hỏi thế nào là ủy mị sướt mướt, thế nào là lãng mạn suy đồi...Cuối bài tôi khẳng định, tình yêu đẹp nhất trong đời là tình yêu tuổi học trò. Đó là thứ tình yêu ngây thơ, khờ dại nhưng lại luôn rất trong trẻo thuần khiết, tươi mới và chẳng hề biết toan tính thiệt hơn. Vả lại học sinh cấp 3 hiện giờ cũng đều đang tuổi mười tám, đôi mươi, trái tim nếu đã biết yêu thì cũng là lẽ thường tình. Xin đừng dùng bàn tay  thô bạo bóp nghẹt nó như bóp chết một con chim mới biết hót. Cũng trong số 5, anh Nguyễn Hưng Nhân gửi tới bài chính luận “Sao lại bỏ môn Tiếng Anh để bắt học tiếng Hoa trong nhà trường?” Phân tích có tình có lý tiếng Anh là thứ tiếng dễ học, đang trở nên phổ biến toàn thế giới, những nước đông dân nhất như Ấn Độ dùng tiếng Anh hay Canada vốn dùng tiếng Pháp là thứ tiếng được gần 10.000 người định cư Tân Pháp quốc mang sang đây vào thế kỷ 17 nhưng nay tiếng Anh và tiếng Pháp được Hiến pháp công nhận là ngôn ngữ chính thức của Canada có nghĩa tất cả các điều luật, văn bản thông báo, tất cả các dịch vụ… của chính phủ liên bang đều phải được ban hành và thể hiện bằng cả hai ngôn ngữ này. Bài viết cũng đặt câu hỏi, thử xem trong hội nghị Giơ ne vơ, trưởng phái đoàn Việt Nam không phải là bác Phạm Văn Đồng mà là một lãnh đạo xuất thân từ nông dân đọc chưa thông viết chưa thạo, một nửa chữ Anh Pháp không biết sẽ ra sao? Còn về Tiếng Trung, bài viết cũng chỉ rõ ở ta, Hán học đã chấm dứt từ đầu thế kỷ rồi.
Sức Trẻ số 2 có luôn bài “Thích tiếng nói của đế quốc sài lang”, ký tên một bí thư chi đoàn lớp 10. Bài báo chỉ trích Nguyễn Hưng Nhân và những người cùng ý kiến với anh là tâm lý nô lệ chỉ thích tiếng nói của các nước đế quốc trong khi thế giới mới đang là thời đại gió Đông thổi bạt gió Tây mà tiếng Hoa là tiếng nói của một người anh Trung Quốc vĩ đại núi liền núi sông liền sông với người em là dân tộc Việt Nam ta, Trung Quốc vừa là là nguời đồng chí vừa là người anh vĩ đại của đã giúp dân ta trong kháng chiến chống Pháp và trong xây dựng hòa bình ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước hôm nay. Cho học sinh học tiếng Hoa trong nhà trường phổ thông  là một nội dung sáng suốt  và đúng đắn của Bộ Giáo dục. 
Cứ thế liên tiếp các số sau của Ngôi Sao và sức Trẻ đều có những bài bút chiến về văn thơ, về nội dung học tập về tình yêu tuổi học trò, về lý tưởng thanh niên...như thế. Nhưng xem chừng dư luận học sinh trong trường nghiêng về phía ủng hộ Ngôi Sao bằng chứng là trước giờ vào học tiết 1 và giờ ra chơi giữa buổi, họ xúm đông xúm đỏ bên tờ Ngôi Sao còn bên tờ Sức Trẻ chỉ có chừng hơn chục người đọc.
Thầy Hoàng An gặp tôi và bảo: 
- Đừng để Ngôi Sao thành một nơi ngôn luận đối đầu với Đoàn trường vì Đoàn trường là cánh tay của Chi bộ Đảng nhà trường. 
Tôi trao đổi ý đó với các anh nòng cốt của Ngôi Sao nhưng khí thế đang hăng, không ai lưu tâm đến lời cảnh báo của thầy chủ nhiệm lớp mà gặp bài nào Sức Trẻ phê phán Ngôi Sao là có ngay bài đáp trả liền
Tính đến hết năm học 1956-1957, Ngôi Sao ra được 7 số và 2 tạp chí in roneo.

8.
Năm sau, ngay ngày khai giảng năm học 1957 -1958, Ngôi Sao ra số 8 chào mừng ngày tựu trường được đông đảo bạn đọc xúm vào đọc trước giờ khai trường và cả khi tan học vẫn còn nhiều bạn nán lại xem. Sức Trẻ cũng ra cùng ngày, trình bày có nhiều công phu hơn năm trước nên cũng rất đông bạn đọc.
Nhưng chỉ hai tuần sau, tôi được gọi lên phòng ban giám hiệu gặp thầy hiệu phó bí thư chi bộ và được thầy chỉ thị:  
- Nhà trường đã thống nhất không cho tờ báo Ngôi Sao tiếp tục lưu hành nữa. Em và các bạn làm báo Ngôi Sao phải chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị này, trước mắt là gỡ tờ báo đang trương trong sân trường ra đem nộp về phòng Hội đồng giáo viên và không được tiếp tục ra thêm một số nào nữa.
Tôi và mấy anh tìm thầy Hoàng An hỏi han cho ra nhẽ. Thầy bảo:
- Chi bộ mới họp đầu năm ngày hôm qua ra quyết định như vậy, thầy chưa kịp nói cho các em biết thì thầy hiệu phó bí thư đã nói.Theo chi bộ nhận xét thì tờ Ngôi Sao của các em có khuynh hướng học đòi Nhân Văn Giai phẩm đã bị đóng cửa, đòi tự do sáng tác trong nhà trường nhằm chống lại sự lãnh đạo của Đảng Đoàn trong nhà trường, cổ vũ những bài viết thiếu lành mạnh trong tuổi học trò, thầy cũng bị chi bộ phê bình hữu khuynh dung túng cho các em làm báo mà không uốn nắn các em. Thôi, thầy nghĩ các em nghỉ làm báo và tập trung học tập cho tốt cũng là cái hay, năm nay là năm bản lề để năm sau thi tốt nghiệp cấp 3 rồi.
Chúng tôi tháo gỡ số báo đầu năm học cuộn lại rồi tôi đem nộp cho thầy hiệu phó bí thư. Sau đó, mấy ngày liền cả bọn không đứa nào để tâm vào việc học, có vài anh đã bị điểm 2 khi thầy cô kiểm tra bài cũ. Buồn quá, tối tối mấy anh em rủ nhau đến nhà anh Phúc nghe nhạc, toàn những đĩa của ban hợp ca Thăng Long với những nhạc phẩm bất hủ của các nhạc sĩ đã nổi danh từ thời tiền chiến, nổi bật là nhạc sĩ Phạm Duy, tưởng cho vơi sầu nhưng lại thấy buồn hơn. Nhiều tối mưa cuối tháng chín nhỏ hạt, ngồi một mình tôi như đã nghe thấy tiếng buồn nhỏ từng giọt trong mưa, tôi qua nhà anh Nguyễn Hưng Nhân rồi đến nhà anh Nguyễn Văn May cùng nhau dạo bộ quanh hồ Thiền Quang, chỉ cùng nhau lầm lụi đi trong mưa nhỏ mà chẳng biết nói với nhau chuyện gì. Anh Lê Xuân Doanh bảo, mẹ tôi cũng buồn khi biết tin tờ báo của chúng ta bị đóng cửa. Bà không biết gì về văn thơ và chẳng quan tâm gì đến báo chí mà chỉ thương bọn trẻ trong đó có tôi là con bà không có mỗi một nguồn vui sáng tạo thì nay bị dập tắt. 
Nhưng nỗi buồn nào cũng sẽ vơi khi còn phải sống và phải học. Chúng tôi bảo nhau hãy quẳng nỗi buồn đi và học tập tốt trở lại với hy vọng, năm sau hết lớp 10 sẽ được tuyển vào một trường đại học đúng theo nguyện vọng.
Nhưng sự ở đời đời đâu có con đường nào mà bao giờ cũng dẫn ta tới một nơi nào đó như ta mong muốn mà đường đời muôn nẻo, mình hướng tới nẻo này thì lại bị dẫn đến nẻo kia. 
Gần đến kỳ nghỉ hè năm 1958, nhà trường có lệnh lần lượt từng khối 8,9, 10 theo sắp xếp lên hội trường trường Chu Văn An trên Hồ Tây để nghe nhà văn Nguyễn Khải nói chuyện. Nguyễn Khải là một nhà văn quân đội trẻ bắt đầu viết văn từ những năm 1950, đang khá nổi tiếng với tiểu thuyết Xung đột  mà tác giả gọi là ghi chép, phần I đã đăng nhiều kỳ trên tạp chí Văn nghệ Quân đội mà tôi đã đọc từng kỳ một. Tác phẩm viết về những người theo đạo Thiên Chúa. Ấy là cái làng Hỗ công giáo toàn tòng với rất nhiều kẻ ác đã lung lạc nhiều người lương thiện, hiền hậu, chăm làm, giàu lòng nhân ái, giàu đức tin trong đó có không ít cán bộ như chị Nhàn, phó Chủ tịch xã cũng có lúc bị mê hoặc, nghe theo. Tôi rất phục cách ghi chép sắc xảo của Nguyễn Khải và văn tài của ông nhưng tôi không mấy tin bên công giáo lại lắm người ác và xấu xa như thế vì tôi đã sống cùng nhà với rất nhiều người công giáo như mợ tôi và gia đình ông cậu ruột của bà. Họ đều là những người hiền hậu và tốt bụng.Tôi cũng đã học thêm hai mùa hè tại trường Dũng Lạc do cha Nguyễn Huy Mai làm hiệu trưởng mà tôi thấy cha rất hiền từ và hết lòng chăm sóc yêu thương học sinh.
Hôm ấy, Nguyễn Khải mặc quần áo bộ đội, đầu đội mũ cối Tàu có lưới phủ ngoài, chân dận giày vải quân sự lên bục hội trường trường nói chuyện về: Quét sạch nọc độc Nhân văn giai phẩm ra khỏi nhà trường. Ông nói rất hùng hồn, kể chi tiết những  tội bọn Nhân Văn giai phẩm phản động và phân tích các biểu hiện nọc độc của Nhân Văn trong nhà trường rồi hô hào phải kiên quyết mạnh tay quét sạch những nọc độc đó ra khỏi nhà trường ngay.
Sau bài nói chuyện đó, hàng loạt học sinh ở các trường trung học bị kiểm điểm và kỷ luật. Những người  lãnh đạo trong các buổi kiểm điểm đó là bộ tứ nhà trường gồm đại diện chi bộ, ban giám hiệu, công đoàn và đoàn trường. 
Nhóm Ngôi sao có 3 người bị gọi lên là tôi, anh Nguyễn Văn May và anh Lê Đình Phúc, những người làm nên tờ báo. Thầy hiệu phó bí thư chi bộ vừa đại diện cho Chi bộ đảng vừa đại diện cho ban giám hiệu chủ trì cùng với cô giáo thư ký công đoàn và bí thư chi đoàn trường là anh Nguyễn Đăc Sinh tức Bình Vọng. Họ hỏi chúng tôi vì sao ra báo Ngôi sao, vì sao viết và đăng những bài thơ tình yêu học trò, dịch các tác phẩm phương Tây, viết các bài chống đối đường lối giáo dục trong nhà trường như đòi được học tiếng Anh, đả phá học tiếng Trung. Đã vậy còn ra tập san in lại các bài chính của báo Ngôi Sao để chuyển tải rộng rãi cho nhiều người đọc nhằm tới cả những người ngoài xã hội...Họ còn hỏi, nòng cốt Ngôi Sao là những ai và có ai đứng sau lưng xui giục không?…Chúng tôi lần lượt đứng lên khi bị gọi tên và trả lời các câu hỏi của ban kiểm điểm nhưng tất cả những câu trả lời của chúng tôi đều bị kết tội quanh co chưa thành thật. Sau đó ban xét duyệt kỷ luật cho chúng tôi về tự viết kiểm thảo nộp cho họ sau 3 ngày.
Qua những lời đưa ra để buộc tội chúng tôi trong cuộc kiểm điểm, tôi thật không hiểu vì sao họ biết rất chi tiết việc tôi đi bán báo Nhân Văn rồi truyền cho bạn bè đọc những số báo Nhân Văn đã bị cấm mà tôi không chịu đem nộp cho công an khu phố hay cho nhà trường. Họ cũng biết anh Nguyễn Văn May thích thơ lãng mạn suy đồi thời Tự lực văn đoàn đã nhờ các bạn đọc nhớ các bài họ đã thuộc rồi chép thành một tập ra sao, tập ấy đã đưa những ai đọc và chép lại. Còn anh Lê Đình Phúc không viết bài chỉ vẽ minh hoạ cho báo nhưng khi nói chuyện với bè bạn hay nhắc lại những câu thơ văn của Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Phùng Cung trong các bài viết của họ như Nhất định thắng, Ông Bình Vôi, Lời mẹ dặn, Con ngựa già của chúa Trịnh. 
Tội danh chính của ba chúng tôi đã được nêu rõ như thế. Riêng tôi còn thêm tội là kẻ cầm đầu nhóm Ngôi Sao, tự tung tự tác cho đăng nhiều bài không đúng với nội quy nhà trường nhằm chống lại đường lối giáo dục của đảng đoàn trong nhà trường rồi chủ trương dịch một số tác phẩm Tây Âu để lôi kéo lớp trẻ trong nhà trường xa dời văn học dân tộc, xa dời văn học xã hội chủ nghĩa của các nước anh em Liên Xô, Trung Quốc.
Sau khi nộp kiểm thảo, chủ yếu vẫn là những lời đã báo cáo hôm làm việc với ban xét duyệt kỷ luật, chúng tôi phải đợi hai tuần sau mới được gọi lại. Lần này có thêm thầy hiệu trưởng và thầy Hoàng An chủ nhiệm lớp. 
Anh Bình Vọng thay mặt ban xét duyệt kỷ luật đọc đánh giá kết luận về những sai phạm của chúng tôi rồi thầy hiệu phó bí thư chi bộ đọc quyết định kỷ luât: Hai anh Nguyễn Văn May và Lê Đình Phúc sẽ phải đọc kiểm thảo trước cả lớp vào buổi sinh hoạt cuối tuần này còn tôi thì phải đọc kiểm thảo dưới cờ trước toàn trường vào buổi chào cờ sáng ngày thứ hai tuần sau. 
Hôm ấy là ngày thứ tư, tức còn 2 ngày nữa thì đến ngày thứ 7 có tiết sinh hoạt lớp và 4 ngày nữa thì sang thứ hai tuần sau có buổi chào cờ đầu tuần của toàn trường.
Tiết sinh hoạt lớp cuối tuần đó do thầy Hoàng An chủ trì có anh Bình Vọng, bí thư đoàn, đại diện bộ tứ nhà trường tới dự. Sau khi nghe hai anh Nguyễn Văn May và Lê Đình Phúc đọc kiểm điểm, mấy bạn được thầy Hoàng An chỉ định trước giơ tay xin phát biểu. Sau vài lời phân tích những thiếu sót của từng bạn, họ đều nói hai anh May và Phúc đều là học sinh khá, đoàn kết chan hoà với các bạn, những sai sót của hai anh chỉ có tính nhất thời mong thầy chủ nhiệm và nhà trường xem xét, góp ý để sửa chữa. Sau đó thầy Hoàng An phát biểu tổng kết buổi sinh hoạt lớp. Thầy nhắc lại lời Bác Hồ “Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm”; “có hoạt động thì khó mà hoàn toàn tránh khỏi sai lầm. Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa”. Từ đó thầy động viên anh May và anh Phúc cùng cả lớp hãy thành thật đối mặt với những khiếm khuyết của bản thân, biết sử dụng khuyết điểm của mình  làm bàn đạp cho những việc làm tốt hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.
Cuối cùng anh Bình Vọng được thầy chủ nhiệm lớp mời phát biểu. Anh tỏ ra rất khôn ngoan, chỉ nói ngắn gọn rằng đã ghi nhận cuộc sinh hoạt lớp và sẽ báo cáo với ban xét duyệt kỷ luật của nhà trường. 

9.
Tối hôm ấy, anh May, anh Phúc và tôi cùng nhau dạo quanh hồ Gươm, trao đổi với nhau về mức kỷ luật mà hai anh May và Phúc sẽ phải nhận sẽ như thế nào? Chúng tôi đều đã biết những người trong nhóm Nhân Văn giai phẩm hầu hết đã bị đưa đi lao động cải tạo, gọi là để xâm nhập thực tế, rồi cho sống lay lất, và cũng bị gạt ra khỏi sinh họat văn học nghệ thuật. Một số người nghe nói còn phải chịu tù giam nhiều năm. Ngôi Sao chẳng là cái muỗi gì so với Nhân Văn Giai phẩm nhưng rõ ràng nói như Nguyễn Khải là nọc độc của Nhân văn giai phẩm và nói như ban xét duyệt kỷ luật của trường là có khuynh hướng học đòi Nhân Văn Giai phẩm đã bị đóng cửa, thì lý lịch học sinh cũng bị coi như là có tì vết và ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập. 
Tôi nói với hai anh:
- Nhưng tôi tin rằng hai anh sẽ chỉ bị hạ điểm hạnh kiếm xuống loại “khá” thế thôi còn tôi thì án không nhẹ như thế đâu. 
Anh May gật đầu tán thành. Còn anh Phúc thì hỏi:
- Vậy thì mức án cho anh sẽ là thế nào?
Tôi nói:
- Hẳn các anh không quên nọc độc mạnh nhất của Nhân Văn Giai phẩm trong học sinh sinh viên Hà Nội có từ năm 1956. Đó là tờ Đất Mới do anh Bùi quang Đoài trường Đại học Văn khoa làm chủ bút. Tờ Đất Mới chỉ ra được một số thì bị bóp chết ngay vì tội “xuyên tạc sự thật vu khống và đả kích tổ chức và lãnh đạo trường Đại học, nói xấu tập thể nhà trường…”.  Sau vụ đó Bùi Quang Đoài bị đuổi ra khỏi trường. Tôi không bao giờ dám so mình với học vấn và tài năng của anh Bùi Quang Đoài. Tờ Ngôi Sao của chúng ta cũng không đủ tài trí để “xuyên tạc sự thật vu khống và đả kích tổ chức và lãnh đạo, nói xấu tập thể nhà trường”. Nhưng tội của tôi trong nhà trường phổ thông là không nhỏ. Ngoài tội đã đi bán báo Nhân Văn và cất dấu các số báo Nhân văn để lưu truyền trong bè bạn còn thêm nhiều tội như ban xét duyệt kỷ luật đã nói trắng ra hôm họp kiểm điểm chúng ta: Cầm đầu nhóm Ngôi Sao, tự tung tự tác cho đăng nhiều bài không đúng với nội quy nhà trường nhằm chống lại đường lối giáo dục của đảng đoàn trong nhà trường rồi chủ trương dịch một số tác phẩm Tây Âu để lôi kéo lớp trẻ trong nhà trường xa dời văn học dân tộc, xa dời văn học xã hội chủ nghĩa của các nước anh em Liên Xô, Trung Quốc. Thêm nữa còn chủ trương in roneo Tập san để truyền bá rộng ra ngoài phạm vi nhà trường. Đánh rắn phải đánh rập đầu. Vì thế, tôi sẽ phải kiểm thảo dưới cờ trước toàn trường và sau đó người của đảng đoàn, đại diện một số lớp lên phân tích những tội trạng của tôi chẳng khác gì một cuộc đấu tố địa chủ. Tội của tôi không thể chỉ bị hạ điểm hạnh kiểm mà sẽ ghi vào học bạ và chắc suất sẽ bị đuổi học như anh Bùi Quang Đoài, một Bùi Quang Đoài dưới trường phổ thông cấp 3!
Anh May bảo:
- Tôi cũng nghĩ sẽ như thế!
Anh Phúc lại hỏi:
- Thế anh có dự tính sẽ làm gì trong buổi đấu tố ấy?
Tôi đã nghĩ kỹ trong đầu nên trả lời ngay:
- Tôi sẽ không để có cuộc đấu tố ấy.
- Nghĩa là sao? - Anh Phúc hỏi.
- Nghĩa là tôi sẽ tự thôi học ngay từ hôm nay - Tôi đáp.
- Thôi học?
Cả hai anh bạn tôi đều cùng lúc ngạc nhiên thốt lên.Tôi chậm rãi nói:
- Đúng thế! Giả như tôi không bị đuổi mà vẫn được tiếp tục học thì con đường vào Đại học của tôi cũng đã bị bịt lối rồi. Không ai tuyển một học sinh phổ thông có học bạ xấu như tôi mà nếu có tuyển thì cũng chỉ vào được mấy cái trường hạng bét như Địa chất mỏ hay Nông lâm mà thôi.
Cả ba cùng im lặng. Để phá tan sự im lặng đó, tôi rủ hai bạn vào một quán vỉa hè, gọi ba cốc bột đậu xanh ăn cho ấm bụng rồi lặng lẽ bắt tay nhau ai về nhà nấy.
Hôm sau, Chủ nhật tôi trốn các bạn bằng cách tìm một chỗ trong Thư viện Quôc gia (Hồi ấy học sinh cấp 3 được cấp thẻ đọc tại Thư viện quốc gia) mượn cuốn Những người khốn khổ đọc lại đoạn Fantine  đang hấp hối sau khi bị đuổi việc khỏi công xưởng và buộc phải làm nghề mại dâm để có tiền nuôi con gái Cosette đang phải sống với gia đình nhà Thénardier độc ác. Nhưng đầu óc tôi rối bời bởi nhiều ý nghĩ nên khi đứng lên ra về, tôi chẳng nhớ mình đã đọc chương nào.
(Trái sang phải: Nguyễn Văn May, Nguyễn Bàng, Lê Đình Phúc)
Trưa hôm sau, tôi chờ trước cửa túp lều nhà anh May, đợi anh đi học về để hỏi tình hình buổi chào cờ sáng nay. Anh May kéo tôi vào nhà rồi nói:
- Đúng như anh dự tính, chẳng có việc gì xảy ra cả. Chỉ có việc, thầy Hoàng An đến sớm hơn mọi ngày, chờ ngoài cửa lớp, khi thấy tôi và mấy người cất sách vở vào ngăn bàn, thầy hỏi anh đã đến trường chưa, có ai biết anh đang ở đâu không? Chúng tôi đều trả lời bọn em chưa thấy anh ấy đâu cả. Gần giờ trống điểm, thầy đi vội lên văn phòng ban giám hiệu, chắc báo cáo việc anh nghỉ học hôm nay cho họ biết. Vì vậy buổi chào cờ đã diễn ra bình thường như mọi khi: học sinh xếp hàng theo khối lớp dưới cờ, trực ban thi đua lên sơ kết ưu khuyết điểm của trường trong tuần qua, biểu dương các tập thể và cá nhân tốt, phê bình các tập thể và cá nhân còn “tồn tại”, thế thôi.
Ba ngày sau, anh May bảo với tôi:
- Thầy chủ nhiệm hỏi sao anh nghỉ mà không có giấy phép. Biết thầy là người không ghét bỏ những người làm báo Ngôi Sao, tôi mạnh dạn nói cho thầy biết sự thật là anh không nghỉ học mà là bỏ học. Thầy tỏ vẻ buồn lắc đầu nói, sao nó lại nghĩ quẫn đến thế được!
Thế là tôi chấm dứt việc học của mình, chấm dứt 9 năm đèn sách.
Do hoàn cảnh, 12 tuổi tôi mới được học lớp Năm. Nếu bình thường thì sau 12 năm tôi mới học xong Trung học, lúc ấy tôi đã 24 tuổi. May nhờ thầy giáo Đính cho bỏ nhanh lớp Năm lên lớp Tư rồi nhờ cậu tôi chọn trường cho thi nhẩy cóc từ lớp Tư lên lớp Nhì, tôi bớt đi dược 2 năm học. Và nếu không có ngày tiếp quản Thủ đô năm 1954 thì năm học 1958-1959, tôi sẽ học Đệ Nhất chuyên khoa để rồi cuối năm sẽ thi Tú tài toàn phần, năm ấy tôi 22 tuổi. Nhưng thời thế thay đổi, năm học 57-58 này, tôi mới học lớp 9 bằng một học sinh ngoài kháng chiến học xong từ 1 đến lớp 9 trong 9 năm. Nhưng sự thực tôi đâu đã học xong lớp 9 vì còn gần một tháng nữa mới nghỉ hè cơ mà.
Không biết có phải vì an ủi tôi mà sang đầu tuần sau, anh Nguyễn Hưng Nhân tìm tôi ở thư viện và nói anh cũng đã tự bỏ học trường kỹ thuật trung cấp. Anh bảo tôi:
- Bên trường cấp 3 của anh họ tư giấy sang trường tôi báo cáo tôi có tham gia viết bài cho tờ Ngôi Sao đã bị cấm, toàn những bài có tính cách chính luận đả phá đường lối giáo dục mới. Vì thế tôi cũng bị gọi lên ban giám hiệu kiểm điểm đi kiểm điếm lại khiến tôi thấy mệt mỏi và chán nản nên cũng tự bỏ như anh.
Tôi bắt tay anh Nhân, hỏi:
- Anh không vì thấy tôi đơn độc mà bỏ học giữa chừng chứ?
Anh Nhân bảo:
- Không! Mà vì tôi thấy chán nản và bế tắc quá. Ông Mác ông ấy nói: “Báo chí nói chung là sự thực hiện tự do của con người”. Nhưng ở ta hiện nay báo chí không có cái tự do ấy, kể cả những báo tường báo liếp cỏn con như của chúng ta.
Đến hết năm học thì anh May cũng gặp tôi và nói:
- Sang năm tôi cũng thôi học phổ thông, ở nhà tự học tiếng Nga chờ đến hè sẽ thi vào trung cấp ngoại ngữ. Tôi thích ngoại ngữ. Giờ chưa có Đại học ngoại ngữ thì học trung cấp cũng được.
Tôi hỏi:
- Tự học tiếng Nga bằng cách nào?
Anh đáp:
- Bằng sách dạy tiếng Nga qua tiếng Việt và tiếng Anh. Hiệu sách ngoại văn bán nhiều loại sách này lắm mà mình đã có chút vốn tiếng Anh rồi nên cũng dễ học được.
Tôi  hỏi đùa anh May:
- Anh định bỏ học phổ thông để tôi có bạn cho đỡ buồn à? 
Anh May khẽ cười trả lời:
- Đúng, một phần vì tôi cũng muốn chia bùi sẻ ngọt với anh, một phần vì tôi cũng chán học phổ thông và muốn chuyển sang học ngoại ngữ rồi đi làm. Hay sang năm anh cũng thi vào trung cấp ngoại ngữ cùng tôi?
Tôi lắc đầu:
- Tôi không có khiếu học ngoại ngữ mà cái tiếng Nga ấy, chắc tôi không bao giờ học nổi.
Rồi tôi bắt tay anh và nói:
- Tôi cũng chưa biết cái sang năm mà anh vừa nói sẽ ra sao nhưng trước mắt tạm lấy nơi Thư viên Quốc gia này làm trường học trong những ngày sắp đến. Có việc gì, anh tìm tôi ở đây nhé!

Mời thư giãn với nhạc phẩm KHÚC HÁT SÔNG QUÊ
của Nguyễn Trọng Tạo, thơ Lê Huy Mậu, qua tiếng hát Anh Thơ:
            
*
NGUYỄN BÀNG                                                
Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn
Email: bnguyen37@gmail.com
.





.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 10.10.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại. 

0 comments:

Đăng nhận xét