CHUYỆN LÝ TƯ - NGƯỜI BÊN XỨ TÀU - Tác giả: Đoàn Mạnh Thế (Hà Nội)

Leave a Comment

 

CHUYỆN LÝ TƯ

- NGƯỜI BÊN XỨ TÀU

*

(Tác giả Đoàn Mạnh Thế)

I. CON CHUỘT VÀ CÂY ROI TRÊN XÀ NHÀ

Lý Tư là người đất Thượng Sái thuộc nước Sở. Ông sinh ra vào thời Chiến quốc. Thời trẻ, Tư làm viên lại nhỏ ở quận, là viên tiểu lại lo việc văn thư của xã. Người ta kể lại rằng, ở nơi làm việc, một ngày nọ Lý Tư gặp trong nhà xí có con chuột toàn ăn đồ ăn bẩn và cứt đái, rất sợ gặp người và chó mèo; rồi một hôm khác, Lý Tư vào kho thóc cũng thấy một con chuột khác đang ăn thóc, con chuột ở nhà kho thì cóc sợ gì cả … Lý Tư bèn than: "Người ta hiền tài hay kém cỏi chẳng qua cũng như con chuột kia, đều là nhờ ở hoàn cảnh đấy thôi". Câu này nghe qua thì đơn giản nhưng kỳ thật đấy là một phạm trù triết học cực kỳ phức tạp: Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội, nói cách khác, anh trở thành người như thế nào thì là do hoàn cảnh xung quanh tác động (ít nhất là Lý Tư nghĩ thế, đương nhiên bên cạnh hoàn cảnh xã hội thì 1 phần nữa cũng là ở ý thức con người). Thế là từ đó Lý Tư thay đổi, tìm mọi cách để tiến thân, mẹ Lý Tư thấy con trai thay đổi, sợ hắn đi vào con đường tà đạo bèn dạy dỗ rất nghiêm khắc, trên xà nhà luôn dắt sẵn roi mây để trừng trị ông nhõi, Lý Tư từ đấy mới tem tém lại…

Sau đó, Lý Tư đến Tam Lăng (ngày nay là thị trấn Tam Lăng, huyện Thương Sơn, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) theo học Tuân Tử. Tuân Tử là một thầy giáo Nho học, trong sử sách còn gọi ông là Tuân Khanh, hoặc Tôn Khanh, Tuân Huống. Trái với Mạnh Tử quan niệm rằng “Nhân chi sơ tính bổn thiện” thì Tuân Tử lại quan niệm rằng “Nhân chi sơ tính bản ác” và chủ trương dùng Lễ để sửa chúng sinh, ủng hộ sử dụng giáo huấn, hình phạt. Cùng học với Lý Tư còn có một người nữa mà sau này cũng sẽ trở thành một nhà tư tưởng lỗi lạc là Hàn Phi Tử, sau này hai người bạn sẽ còn tương ngộ nhưng đó là chuyện về sau. Đến khi thành tài, Tư nhận thấy mình có theo vua Sở cũng không làm nên sự nghiệp gì, mà sáu nước đều yếu không có nước nào có thể giúp để lập công danh, chỉ có Tần cường thịnh nhất, nên Tư sang Tần. Năm 247 TCN, khi đến nước Tần, gặp lúc Tần Trang Tương vương chết, Lý Tư bèn xin vào làm môn hạ của Văn Tín Hầu Lã Bất Vi, khi đó đang làm thừa tướng nước Tần. Bất Vi cho Tư là người hiền tài bèn dùng làm quan "Lang". Lý Tư nhờ vậy có cơ hội thể hiện tài năng, Tần vương Chính cho Tư làm trưởng sử, rồi khách khanh. Trong số 3000 người "khách" của Lã Bất Vi, Lý Tư nhanh chóng trở thành người nổi trội nhất.

 

II. GIÁN TRỤC KHÁCH THƯ - BỨC HẠI HÀN PHI TỬ

Nhưng lúc Lý Tư đang thuận buồm xuôi gió trên con đường làm quan thì nước Tần có biến: Chính là sự kiện "trục khách" nổi tiếng. Ai cũng biết, thời Chiến Quốc nước Hàn là yếu nhất, Hàn bị tần o ép nhiều lần, bèn chơi đòn độc: Năm 246 TCN, nước Hàn cử một kỹ sư thủy lợi tên là Trịnh Quốc, mượn tiếng đến Tần để tu sửa kênh mương, kì thực là mượn cớ để làm tiêu hao tài lực, vật lực của nước Tần, từ đó đạt được mục đích là làm cho nước Tần suy yếu. Sự kiện đó rất nhanh chóng bị người Tần phát giác. Thế là quý tộc, đại thần của nước Tần tấp nập can gián Tần Vương, nói rằng:

- Những người đến từ nước khác đều không có ý tốt với nước Tần, đại vương tuyệt đối không nên tin vào những lời của họ, càng không thể trọng dụng họ, chi bằng đuổi toàn bộ, nếu không hậu hoạn vô cùng.

Tần Vương Doanh Chính cũng cảm thấy có lí, liền tiếp nhận kiến nghị của các thành viên quý tộc và đại thần, lập tức ra một đạo lệnh đuổi khách. Bất luận quan viên lớn nhỏ, phàm không phải là người Tần đều buộc phải rời khỏi nước Tần. Lý Tư khi đó mới đến Tần, còn ở dưới trướng lã Bất Vi, nhưng ngay đến họ Lã lúc đó cũng đang điêu đứng vì lão là người nước Vệ. Lý Tư bèn vì mình, vì chủ, viết một bản trần tình gửi cho Lã Bất Vi mang vào triều, Tần Vương Doanh Chính đọc xong, ngộ ra rằng khách cũng có khách this khách that, chủ yếu là cái lòng của chủ đối đãi thế nào bèn hạ lệnh thu hồi chiếu Trục Khách.

Mười năm sau, nước Tần lại trải qua một cơn biến động khác: Thái hậu tư thông với hoạn quan Lao Ái mưu đồ soán vị. Dù âm mưu này đã bị phát giác và bè lũ Lao Ái đã bị trừng trị. Nhưng trong số những kẻ dự mưu với Lao Ái, có nhiều kẻ là khách của Lã Bất Vi, cũng có kẻ do Lã Bất Vi đề bạt mà thành danh nay lại quay qua làm phản. Trong cơn hoang mang cực độ, Tần Vương Chính lại một lần nữa hạ chiếu Trục Khách. Lần này tác động của chiếu Trục Khách quy mô và nguy ngập hơn năm xưa rất nhiều, chính Lý Tư cũng bị quân lính xông vào nhà, bắt thu dọn hành lý rời khỏi nước Tần vào sáng hôm sau. Lý Tư dùng hết sở học bình sinh, viết một quyển trúc, đề tựa bên ngoài là Gián Trục Khách Thư rồi nhờ người quen biết khẩn cấp mang cho Tần Vương đọc. Sáng hôm sau, Doanh Chính mở quyển ra đọc rằng:

“Trước đây, Tần Mục Công dùng Bách Lí Hề, Kiển Thúc mà làm nên bá chủ; Tần Hiếu Công trọng dụng Thương Ưởng, thực hành biến pháp mà nước Tần mạnh lên; Huệ Văn Vương nhậm dụng Trương Nghi mà bẻ gãy liên minh 6 nước. Chiêu Tương Vương có Phạm Thư mà uy vọng của triều đình được nâng cao. Bốn vị quân vương đó đều dựa vào công nghiệp của khách khanh kiến lập. Hiện đại vương chấp chính, lại gạt bỏ nhân nhân chí sĩ ngoại lai, điều đó không tốt cho sự khẳng định giang sơn của triều Tần. Hơn nữa, nếu bảo vật cùng mỹ nhân Đại vương đều không phân biệt xuất thân mà thu vào nội cung, vì sao chỉ riêng đối với nhân tài lại nói đến phân chia trong ngoài? Nhận vật sáu nước, lại trục tài sáu nước, như thế há chẳng phải là trọng vật khinh người sao? Đại vương trục khách thực tế là đã giúp cho sáu nước, lệnh trục khách làm cho nhân tài kiệt xuất sáu nước tuyệt không dám lại đến Tần quốc dốc sức, ‘nội tự hư nhi ngoại thụ oán vu chư hầu’ (trong nước tự suy vong mà ngoài lại gây oán ở các nước chư hầu), làm cho Tần quốc dần dần suy yếu, lại giúp cho đối thủ cường đại lên. Không phải người Tần quốc thì không dùng, đây không phải là con đường đúng đắn để thống nhất thiên hạ. Mặc dù không phải người Tần, nhưng những người nguyện trung thành tận lực với Tần quốc thì vô cùng đông đảo, mong đại vương thu hồi mệnh lệnh đã ban ra”.

Tần Vương Doanh Chính lập tức hiểu ra vấn đề, hạ lệnh cho người đuổi theo, giữ Lý Tư lại, sau đó lệnh Trục Khách được thu hồi, từ đó về sau hơn 20 năm, Lý Tư trở thành nhân vật chính trọng yếu trên vũ đài chính trị nước Tần. Về nghệ thuật mà nói, bài văn này có thể đại diện cho các tác phẩm ưu tú của văn chương đời Tần, cũng là một mốc son đổi đời của Lý Tư vậy.

Thời gian biến đổi, khi Lý Tư nắm dược quyền thế trong tay, lại có thay đổi về nhân cách, luôn chạy theo tư lợi. Nói cách khác là khi đã có quyền thế trong tay, cái mặt xấu xa của Lý Tư bắt đầu hiện ra. Câu chuyện giữa Lý Tư và người bạn học cũ Hàn Phi là một ví dụ. Hàn Phi vốn xuất thân trong gia đình hoàng tộc nước Hàn, là bạn học chung thầy Tuân Tử với Lý Tư. Hàn Phi có tật nói ngọng nên đối đáp không trôi chảy, bù lại, Hàn Phi viết lách cực giỏi. Ngay Lý Tư vốn tự phụ vẫn phải thừa nhận Hàn Phi trên mình một bậc về văn tài. Hàn Phi cũng như Lý Tư, chịu ảnh hưởng của thầy Tuân Tử nên đi theo thuyết Pháp gia, chủ trương dùng hình pháp để cai trị xã hội. Khâc một cái là Hàn Phi đã đi đến tận cùng, đã thấu hiểu triệt để Pháp gia và phát triển nó thành một hệ tư tưởng của riêng ông. Nếu ví Lý Tư như một chính trị gia thì Hàn Phi khi đó đã đạt đến tầm một nhà tư tưởng. Hàn Phi đã xây dựng một mô hình nhà nước phong kiến lấy pháp luật làm chủ đạo và dùng hệ thống pháp luật đó để củng cố nhà nước phong kiến chuyên chế. Các anh chị cần biết rằng, phải tới tận thế kỷ 15 thì Nicolo Machiavelli mới cho ra đời tác phẩm Il Principe - Quân Vương để bàn về đạo trị quốc và xây dựng các nhà nước phong kiến chuyên chế. Cuốn Quân Vương được các nhà tư tưởng phương tây đánh giá rất cao, dù nó mang đầy tính thực dụng và ... tàn nhẫn theo một nghĩa nào đó. Nhưng khi các nhà tư tưởng phương đông đọc Quân Vương thì họ chỉ cần đọc 1/3 thôi, vì trước đó 1700 năm, Hàn Phi tử đã viết ra rồi và còn viết hay, viết hấp dẫn hơn Machiavelli nhiều ...

Đại loại là Hàn Phi giỏi và nổi tiếng như thế đấy. Rồi có người mang sách của Hàn Phi đến cho Tần Doanh Chính xem. Xem xong, Doanh Chính lập tức cho người sang nước Hàn mời Hàn Phi đến tiếp kiến. Vua nước Hàn tuy tiểu nhược, ko đủ sức tổ chức đất nước theo mô hình của Hàn Phi nhưng cũng sợ nước Tần được Hàn Phi thì như hổ thêm cánh, không cho Phi đi. Nước Tần mang quân đến hỏi tội, Hàn Vương sợ vội cho Hàn Phi làm sứ giả sang Tần cầu hòa. Hàn Phi đi sứ qua Tần với mục đích cứu Hàn. Ông viết bài Tồn Hàn cho vua Tần, cố hết sức thuyết phục vua Tần về tầm quan trọng của nước Hàn đối với Tần, mong Tần đừng đánh Hàn. Lý Tư và Diêu Giả ganh ghét Hàn Phi, gièm Hàn Phi, nói với Tần vương Chính:

- Hàn Phi là công tử nước Hàn. Nay nhà vua muốn thôn tính tất cả nước chư hầu, nhưng Phi thì rốt cuộc chỉ lo cho Hàn chứ không lo cho Tần, thường tình con người ta vẫn thế. Nay nhà vua không dùng, giữ lại đây lâu rồi cho về, thế là gây cho mình một mối lo. Không bằng lấy cớ làm trái pháp luật mà giết đi.

Vua Tần cho là phải, giao cho quan lại trị tội Hàn Phi. Lý Tư sai người đưa thuốc độc để cho Hàn Phi tự sát. Hàn Phi muốn bày tỏ trước mặt nhà vua, nhưng không được nhà vua tiếp. Sau đó nhà vua đọc lại bài văn của Hàn Phi thì có ý hối tiếc, mới sai người đến ngục thả ra thì Hàn Phi đã chết rồi. Cũng có thuyết cho là trong lúc bị giam, Hàn Phi bèn viết bài Sơ kiến Tần dâng vua, mong dùng cái tài văn chương để thoát khỏi cửa tử. Tần vương Chính đọc xong thấy rất khâm phục, liền ra lệnh thả Hàn Phi. Nhưng quá muộn, Phi đã bị Lý Tư ép uống thuốc độc chết mất rồi. Qua chuyện này có thể thấy phần nào dã tâm Lý Tư: Tuy là bạn học cũ nhưng thấy rằng Hàn Phi có nguy cơ trở thành đối thủ cạnh tranh trên quan trường sau này với mình, Lý Tư không ngần ngại ra tay hãm hại. Người ta nói rằng, khi nghe tin Hàn Phi chết về tay Lý Tư, mẹ Tư ở quê nhà vội thu dọn đồ đạc, nổi lửa đốt nhà rồi dắt con cháu còn lại lên núi ẩn cư. Ý rằng biết chắc sau này thế nào Tư cũng gây họa nên cắt đứt quan hệ để không vạ lây đến người nhà.

 

III. THỪA TƯỚNG NƯỚC TẦN - ĐỐT SÁCH CHÔN NHO VÀ SOÁN NGÔI ĐOẠT VỊ

Sau khi nhà Tần thống nhất thiên hạ, Lý Tư trước tiên nhậm chức Đình uý, sau lên đến chức Thừa tướng. Lý Tư tích cực giúp Tần Thuỷ Hoàng trị vì đế quốc phong kiến thống nhất đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Ông đề xuất không ít kiến nghị, đều được Tần Thuỷ Hoàng tiếp nhận. Lý Tư chủ trương phế bỏ chế độ phân phong, đem thiên hạ chia thành 36 quận để tăng cường trung ương tập quyền, ngoài ra còn hạ lệnh thu tập binh khí trong thiên hạ, đưa về Hàm Dương đúc thành 12 tượng kim nhân, còn thống nhất hóa tệ, phép đo lường; thống nhất văn tự và quy cách xe cộ lớn nhỏ trong cả nước v.v... Để kiến lập và củng cố vương triều thống nhất, Lý Tư đã có những cống hiến không thể phủ nhận.

Tương truyền rằng sau khi thống nhất lục quốc, Tần Vương Doanh Chính thấy mình còn vĩ đại hơn các vị vua cũ của nhà Chu nên không bằng lòng với tước Vương nữa. Ông giao cho quần thần nghĩ ra một danh hiệu mới cho phù hợp với sự nghiệp hiển hách mà ông vừa hoàn thành. Sau mấy hôm, đại diện cho các đại thần, Lý Tư tấu lên rằng:

- Thời thượng cổ, các vua có danh hiệu Hoàng hoặc Đế (Tam Hoàng Ngũ Đế). Đến nhà Hạ và đầu nhà Thương, vua khi còn sống thì gọi là Hậu, sau khi mất thì gọi là Đế. Đến cuối đời nhà Thương và từ đời nhà Chu, tước vị để chỉ vua là Vương, kể cả khi còn sống và khi đã qua đời. Nay, để phân rõ tôn ti trên dưới với các vua cai trị các tiểu quốc cũ đã bị tiêu diệt, và tỏ rõ bá quyền chính danh với dân các nước đã bị tiêu diệt, xin ghép chữ Hoàng là danh xưng của 3 vị vua thời Tam Hoàng và chữ Đế là danh xưng của 5 vị vua thời Ngũ Đế thành tước vị Hoàng đế. Bệ hạ là vị vua đầu tiên, nên sẽ xưng là Thủy Hoàng Đế (tức hoàng đế đầu tiên), các đời sau sẽ xưng là Nhị Thế, Tam Thế ... lưu truyền đến mãi muôn đời.

Từ đó các vị vua phong kiến ở Trung Quốc đều dùng danh vị này, và tước Vương trở thành bậc thứ hai. Và điều này kéo dài suốt 2300 năm, đến tận năm 1911 mới chấm dứt.

Năm 213 TCN, Lý Tư kiến nghị rằng sở dĩ thiên hạ đại loạn, lòng người ly tán là do các nước thời Chiến Quốc mỗi phé một nơi, mạnh nước nào nước ấy phát triển hệ thống văn hóa, tư tưởng, học thuật riêng của mình. Nay thiên hạ đã gom về một mối, Lý Tư kiến nghị Tần Thủy Hoàng nên thống nhất lại tư tưởng, văn hóa trong nước. Ngoại trừ bảo lưu các sách y dược, bốc phệ (bói toán), trồng trọt cùng sách lịch sử, pháp luật nước Tần, các sách của 6 nước còn lại đều bị mang ra đốt sạch. Người ta cho rằng các bộ sách quí của Nho Giáo như Thi kinh, Thượng thư đều bị đốt trong giai đoạn này. Đồng thời nhà Tần nghiêm cấm mở trường tư, nếu người có nhu cầu học tập chỉ được học pháp luật và phải nhờ quan lại dạy cho. Ai vi phạm sẽ bị khắc chữ lên mặt, hoặc bị tù, hoặc bị giết tịch thu gia sản. Đó là vụ “phần thư” hay còn gọi là tích Đốt sách chôn nho nổi tiếng trong lịch sử. Tuy nhiên, ngày nay nhiều nhà sử gia cho rằng đây là chi tiết do Tư Mã Thiên dìm hàng nhà Tần, rất nhiều sách cổ như Trúc Thư kỷ niên nước Ngụy hay kinh Xuân Thu của Khổng Tử vẫn còn đến ngày nay, nếu thật sự nhà Tần muốn gom đốt thì ko thể còn đầy đủ như vậy, đốt sách là có nhưng có lẽ chỉ là những sách tư tưởng, thường thức không phù hợp với đường lối của nhà Tần mà thôi.

Lý Tư quyền uy đã lên tới tột đỉnh, có thể nói là dưới một người mà trên muôn người. Năm đó, Lý Tư tổ chức tiệc mừng thọ ở phủ đệ. Khắp thành Hàm Dương, văn võ bá quan, quý tộc đều đến dự mừng. Lý Tư cùng con trai đi chào quan khách cả buổi sáng chưa hết, lúc đứng trên lầu cao nhìn xuống quan khách đông đảo, Tư buột miệng nói:

- Phàm mọi sự trên đời đều có lên có xuống, ta vốn chỉ là kẻ áo vải đầu đen ở nước Sở. Đến được nước Tần như cá gặp nước như rồng gặp mây, hơn ba chục năm trời thỏa chí tung hoành. Ngày nay nhà ta phú quý tột độ thế này sợ rằng đã đến lúc tận. Vật cực tất phản, đó là cái đạo trời xưa nay, chẳng biết có vận vào ta không?

Đồn như lời, tháng 7 năm 210 TCN, Tần Thuỷ Hoàng bệnh và mất trên đường đi tuần phương nam. Trước đó, thái tử - con trưởng của Tần Thủy Hoàng là Công tử Phù Tô vì lên án các chính sách hà khắc của cha nên bị Tần Thủy Hoàng biếm ra phía bắc, cùng với Mông Điềm trông coi việc xây dựng Vạn Lý Trường Thành. Khi Tần Thủy Hoàng biết không qua khỏi, bèn viết di thư, cộp dấu vào, nội dung là: "Con về Hàm Dương với đám tang, và chôn ta ở đấy". Ý tứ là xóa tội và để công tử Phù Tô lên nối ngôi.

Nhưng thư chưa kịp gởi đi thì Thủy Hoàng đã mất, cả di thư, ấn tín đều ở chỗ Tổng quản Thái Giám đầu tiên trong lịch sử: Triệu Cao. Triệu Cao năm xưa vốn gây tội, bị Mông Điềm tra ra, xử tội chết nhưng Tần Thủy Hoàng niệm tình Cao từ nhỏ đi theo hầu hạ mình nên chỉ bỏ ngục ít lâu rồi tha bổng cho phục lại chức cũ. Bấy giờ Cao sợ rằng Phù Tô lên ngôi thì sẽ trọng dụng Mông Điềm, mình sẽ khốn đốn. Bèn nói riêng với con thứ của Thủy Hoàng là Hồ Hợi rằng: Hoàng đế mất, chỉ gọi Phù Tô về Hàm Dương rồi lập tức lập làm tân hoàng đế, ông bấy giờ không có một tấc đất thì nói xem nen thế nào? - rồi Triệu Cao bàn với Hồ Hợi việc sửa di chiếu. Hợi lúc đầu sợ không dám làm nhưng Triệu Cao hứa sẽ thuyết phục Lý Tư nên Hợi đồng ý. Triệu Cao lại bàn với Lý Tư, Lý Tư cũng sợ Phù Tô sẽ dùng Mông Điềm mà bỏ mình bèn đồng ý chuyện sửa di chiếu. Chiếu giả ban ra, buộc Phù Tô tự sát, đưa thiếu tử Hồ Hợi lên kế vị, tức Tần Nhị Thế. Sau khi Tần Nhị Thế chấp chính, lại nghe lời Triệu Cao hơn là Lý Tư, sai đem 12 vương tử của Tần Thủy Hoàng ra chém giữa chợ Hàm Dương, xé xác 10 công chúa ở cửa Đỗ Huyền, làm nhiều điều bạo ngược ... Nhị Thế nghe theo lời Cao, không ngồi ở triều đình tiếp kiến đại thần mà ở trong cung cấm. Triệu Cao chầu chực cạnh Nhị Thế, nhân đó chiếm được hết quyền hành trong triều.

Lý Tư thấy vậy, muốn can ngăn, Triệu Cao bèn bảo Lý Tư hãy đợi lúc vua rảnh hãy tâu. Đến một hôm thấy Nhị Thế đang vui chơi với con gái, Cao bèn khuyên Tư tâu. Tư vào xin yết kiến ba lần làm Nhị Thế nổi giận. Nhân đó Triệu Cao gièm pha Lý Tư muốn tự lập làm vương, con ông ta là Thái thú Tam Xuyên Lý Do có tư thông với tướng khởi nghĩa Trần Thắng. Nhị Thế sợ, từ đó không cho Lý Tư vào yết kiến nữa, Lý Tư bèn dâng thư hạch tội Triệu Cao với Nhị Thế. Nhị Thế vốn tin Triệu Cao, đem việc này nói lại với ông. Triệu Cao bảo:

-Thừa tướng chỉ lo ngại một mình Cao mà thôi. Sau khi Cao đã chết, thừa tướng sẽ làm ngay việc Điền Hằng (soán ngôi nước Tề) đã làm đấy.

Nhị Thế bèn giao Lý Tư cho Triệu Cao xét xử. Triệu Cao cho đánh Lý Tư hơn 100 trượng để dằn mặt. Nhưng có lẽ lúc này Lý Tư đã bị lợi danh che mờ lý trí, bao nhiêu chữ nghĩa ngày xưa chạy đi đâu mất hết. Lý Tư uất ức, lại dùng bổn cũ soạn lại, dâng thư bày tỏ với Nhị Thế. Nhưng thời thế nay đã khác xưa, Hồ Hợi không phải là Doanh Chính, thư của Lý Tư trước khi đến Nhị Thế phải qua Triệu Cao và Triệu Cao lập tức vứt đi, sau đó bức ép Lý Tư nhận tội làm phản, rồi lấy cớ đó giết chết ông ta vào tháng 7 năm 209 TCN. Lý Tư bị chém ngang lưng tại kinh đô Hàm Dương nước Tần, đồng thời bị tri di cửu tộc.

Tài năng của Lý Tư có nhiều mặt, không những về chính trị mà về văn học nghệ thuật ông cũng có tài hoa nhất định. Lỗ Tấn đã từng khen rằng "Văn chương đời Tần chỉ có mỗi mình Lý Tư". Về tính cách, Lý Tư có một chút tự phụ, đó là do người ta dựa vào "Tấm đá khắc chữ trên đài lang Nha" đời Tần có nét bút viết của ông: Sau khi ta chết khoảng 530 năm có người nào thay được ta. Quả đúng là kết hợp giữa văn tài và trị tài, khó có người sau này vượt qua Lý Tư, nhưng Lý Tư thiếu một thứ mà kẻ sĩ phải có, đó là tiết hạnh. Lý Tư một đời kinh bang tế thế, học thức trùm trời nhưng cuối đời lại chết về tay Triệu Cao thất học ấy là vì ông đã tự trượt dài, tự đánh mất mình. Lựa chọn theo Triệu Cao tức là Lý Tư đã từ bỏ con đường quang minh chính đại đi vào con đường minh tranh ám đấu, rất tiếc trong con đường đó thì những kẻ như Triệu Cao lại là bậc thầy.

 

Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn:

CHUYỆN CỦA GÃ KHỜcủa Đặng Xuân Xuyến:

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Các bài viết về khoa Tử Vi0

- Các bài viết về khoa Phong Thủy0

- Các bài viết về khoa Tướng thuật0

- Các bài viết về Tín ngưỡng0

*.

ĐOÀN MẠNH THẾ (sưu tầm và giới thiệu)

Địa chỉ: Số nhà 12 Ngách 32 Ngõ 133 phố Hồng Mai

quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.        

Điện thoại: 039.627.97.29

 

 

 

 

..............................................................................................................

- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 11.09.2019.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.

- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại. 

0 comments:

Đăng nhận xét