(Nhà thơ Nguyễn Khôi) |
TÁC GIẢ NGUYỄN KHÔI
VỚI ‘BÀNG GIA VỌNG TỘC’
*
(Tác giả Phạm Cao Phong) |
Người Việt vốn kiệm
lời khen. Bây giờ còn tệ hơn, “khen
cho mày chết”, khen dìm hàng. Nhà văn lại càng kẹo, viết cho ai
một dòng đã khó, viết một quyển sách về ai thì đếm trên đầu ngón
tay. Đời vốn có câu: “Văn mình, vợ
người”. Vì vậy, khi cầm tập ba “Bàng gia vọng tộc” trong chùm
sách bốn tập gồm đến hơn 900 trang “Cổ Pháp cố sự” của nhà văn Nguyễn
Khôi tôi thấy bất ngờ.
Hơn nữa “Bàng
gia vọng tộc” lại dài hơi nhất, mất công cầy cuốc nhất, dẻo
chân điền giã nhất để nhà văn cho ra mắt cuốn sách dầy hơn 360 trang
in. Đây là tập ba của bộ sách mà ông tập trung viết những nhân vật,
sự kiện liên quan đến vùng đất Bắc Ninh, cội rễ của ông.
Đối thoại với nhà
văn, tôi nhìn vào mắt ông, trong lòng tự hỏi: điều gì đã hối thúc
một ông quan trước kia của chế độ, chuyên tháp tùng các quan chức
Quốc hội, Chính phủ, thậm chí cho cả phó thủ tướng, gà chữ, viết
hộ diễn văn cho các cụ lớn, bây giờ về già lại tuột mất “lập
trường chính trị”, bỏ được giọng văn “lưỡi gỗ” của các bài lên lớp,
chưa nói đã hiểu, mà nói gì cũng không ai hiểu. Quá quắt hơn, lại đi
viết về một văn sĩ như Bàng Bá Lân, Phó Chủ tịch Hội Văn bút Việt
Nam Cộng Hòa.
Ngày trước vẫn bị
gọi là “Ngụy”, mà là “Ngụy gộc”.
Điều gì đã xảy ra
vậy?
Ở miền Bắc thời
trước - quen miệng gọi là Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa dù chẳng biết
hình thù cái Xã Hội Chủ Nghĩa ấy tròn hay méo - vẫn tồn tại cho
đến bây giờ những cấm kỵ, những giáo điều mà ai cũng biết, đó là
tài năng, văn thơ của nhà văn, nhà thơ không đo bằng tác phẩm của họ
được đón nhận ra sao trong công chúng. Một xã hội ngự trị lối tư duy
sơ sài, duy lý, chỉ có “ta” và “địch”, anh không đồng ý với tôi nghĩa
là anh chống tôi.
Cuộc kháng chiến
chống Pháp khởi đầu bằng những ngày Hà Nội khói lửa chặn giặc của
Trung Đoàn Thủ Đô:
Hà Nội cháy, khói lửa
ngập trời.
Hà Nội hồng ầm ầm rung,
Hà Nội vùng đứng lên! Hà
Nội vùng đứng lên!
Sông Hồng reo Hà Nội
vùng đứng lên!
Hà Nội đẹp sao! Ôi nước
Hồ Gươm xanh thắm lòng.
Bóng Tháp Rùa thân mật
êm ấm lòng.
Hồng Hà tràn đầy, Hồng
Hà cuốn ngàn nguồn sống tràn đầy dâng.
Hà Nội đẹp sao. Những
cửa đầu ô.
Tíu tít gánh gồng đây Ô
Chợ Dừa, kia Ô Cầu Dền
làn áo xanh nâu Hà Nội tươi thắm.
Sống vui phố hè. Bồi hồi
chàng trai, những đôi mắt nào.
Quanh co chen quanh rộn
ràng Đồng Xuân,
xanh tươi bát ngát Tây
Hồ.
Hàng Đào ríu rít Hàng
Đường, Hàng Bạc, Hàng Gai.
Ôi tha thiết lòng ta
biết bao nhiêu!
Mỗi tấc đất Hà Nội đượm
thắm máu hồng tươi.
Một ngày thu non sông
chiến khu về,
đường vang tiếng hát cuốn lòng
người…
(“Người Hà Nội”, Nguyễn
Đình Thi)
Một nỗi nhớ Hà Nội
của Quang Dũng mang theo cuộc trường chinh mà lời thơ đẹp, hùng tráng
như cuộc chiến của cả dân tộc đồng lòng:
Tây Tiến đoàn binh không
mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai
hù
Mắt trừng gửi mộng qua
biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều
thơm
Rải rác biên cương mồ
viễn xứ
Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh
về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc
hành.
Tây Tiến người đi không
hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một
chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân
ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về
xuôi.
(“Tây Tiến”)
Sau này, càng ngày
càng thưa vắng và gần như biến mất khỏi văn đàn những điều tuyệt
vời ấy. Phải chăng những cố vấn Trung Quốc, những chỉnh huấn, chỉnh
quân, cải cách ruộng đất đã làm những văn sĩ, nhà thơ ngỡ ngàng,
thất vọng, vỡ mộng?
Rất nhiều trong số
họ đã từ bỏ cuộc kháng chiến, trở về thành và sau đó vào Nam sau
Hiệp định Geneve. Thi sĩ đồng quê Bàng Bá Lân là một người trong đó.
Nhận định về nhà thơ, nhà văn Hồ Nam đã viết: “Muốn đi tìm những âm hưởng của đồng quê Việt Nam thì không gì hơn là đọc thơ Bàng Bá Lân, thi ca của lũy tre xanh, của đồng lúa vàng, của xã hội làng xóm, của thành trì dân tộc.
Nhận định về nhà thơ, nhà văn Hồ Nam đã viết: “Muốn đi tìm những âm hưởng của đồng quê Việt Nam thì không gì hơn là đọc thơ Bàng Bá Lân, thi ca của lũy tre xanh, của đồng lúa vàng, của xã hội làng xóm, của thành trì dân tộc.
Thơ Bàng Bá Lân nhiều
khi có những vần hiu hắt buồn mà đẹp đến độ toàn bích…
Chỉ vài nét nhỏ,
chỉ thế thôi, Bàng Bá Lân đã nói lên tất cả sự hoạt động của buổi
sáng mùa gặt ở đồng quê, bằng những vần thơ đáng yêu lạ lùng, đáng
yêu một cách không làm sao phân tích nổi”.
Nhận định của Hồ Nam
những dòng tiếp theo càng làm chúng ta suy nghĩ hơn nữa: “Trong cuộc chiến đấu cho tình người,
trong cuộc đấu tranh nối tiếp truyền thống của dân tộc, Bàng Bá Lân
đã cất tiếng ngâm những vần thơ đượm tình đất nước, thắm ý quê hương
và rạo rực nhân tính”.
Một thi nhân viết
những dòng này có thể là một tên ác ôn?
Lửa hè đốt bụi tre vàng,
Trưa hè ru ngủ xóm làng
say sưa.
Khóm chuối lá bơ phờ
nghĩ ngợi
Rặng cau gầy nghển với
trời cao
Trong nhà, ngoài ngõ
quạnh hiu,
Đầu thềm con Vện thiu
thiu giấc nằm.
Trong nhà lá tối tăm
lặng lẽ,
Tiếng ngáy đều nhè nhẹ
bay ra
Võng dây chậm chạp khẽ
đưa
Ru hai bà cháu say sưa
mộng dài...
Cháu bỗng cựa, rẫy hoài
khóc đói,
Tỉnh giấc mơ, bà vội hát
lên:
“Ạ ơi...” mấy tiếng. Rồi
im.
Nhện tường ôm trứng nằm
yên mơ màng.
Ruồi bay thong thả nhẹ
nhàng
Muỗi vo ve khóc bên màn
thiết tha
Hơi thở nóng luồn qua
khe liếp
Làm rùng mình mấy chiếc
diềm sô.
Bụi nằm lâu chán xà nhà
Nhẹ nhàng rơi phủ bàn
thờ buồn thiu...
(“Tịch mịch”)
Tôi không tin, hồn thơ
của ông tinh tế và chân tình quá, thơ của người không làm ác được.
Theo các nguồn tư liệu,
trước Cách mạng tháng Tám, Bàng Bá Lân đã có những tác phẩm: “Tiếng
thông reo” (1934), “Xưa” (hợp tác với nữ sĩ Anh Thơ,
1941), “Tiếng sáo diều” (1939 - 1945).
Vào Sài Gòn, ông dạy học
và cộng tác với nhiều nhật báo, tuần san, bán nguyệt san và xuất bản thêm: “Để
hiểu thơ” (1956, “Thơ Bàng Bá Lân” (1957), “Tiếng
võng đưa” (1957).
Năm 1969, Bàng Bá Lân
xuất bản các tập truyện: “Người vợ câm”, “Vực xoáy”, “Gàn
bát sách” (phiếm luận) và tập thơ “Vào thu”. Ông cũng cho in hai quyển
sách “Kỷ niệm văn, thi sĩ hiện đại” cùng một số sách Giáo khoa Việt văn cho
nhiều cấp lớp. Ông còn đứng làm chủ bút tập san “Bông Lúa” vào thập niên 1950 ở
Sài Gòn.
Từ 1977 đến 1984, Bàng
Bá Lân viết thêm “Kỷ niệm văn, thi sĩ hiện đại” quyển 3, hồi ký “Trọn
đời cho thơ” (bản thảo đã thất lạc). Ngoài ra, ông còn viết truyện ký
danh nhân “Anh em Lumière, ông tổ nhiếp ảnh”, viết sách bình khảo, dịch
truyện, dịch thơ, v.v…
Chúng ta cảm động về
một tình yêu nhẹ nhẹ, bồi hồi:
Buổi một nàng qua dưới
mái hiên
Đường mưa in một gót
chân tiên
Ta nhìn theo bước đi ren
rén
Bỗng cả lòng yêu náo nức
liền...
Từ ấy trên đường loang
loáng mưa
Tìm hoài đâu thấy gót
chân xưa!
Đường mưa bao gót chân
mưa bước,
Gợi mãi tình yêu buổi
dại khờ!
(“Tình trong mưa”)
Những bài thơ ấy của
Bàng Bá Lân đã không được nhắc tới ở miền Bắc. Những ca sĩ dám hát
những bài của Đoàn Chuẩn, Phạm Duy, Trúc Phương, Trần Thiện Thanh… có
thể bị tù đầy.
Tư duy “địch”, “ta”
vẫn tồn tại và ngự trị ngay đến bây giờ.
Ở đây, tôi chỉ muốn
lướt qua một thí dụ nhỏ, chỉ để làm nền. Một mớ hỗn độn, nhưng đủ
vô lại và chẳng chút nào quyến rũ. Đó là cuốn “Biên bản chiến tranh 1, 2, 3,
4.75” của Trần Mai Hạnh.
Có nên chăng, những
dòng này phải viết ra như vậy. Tư liệu từ đâu, ai kể, ai biết?
Hãy nghe Trần Mai
Hạnh viết những dòng về cuộc họp Hội đồng An ninh Quốc gia phía Việt Nam
Cộng Hòa, thời điểm sau khi vừa mất Quân khu 1, Quân khu 2, mô tả Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu và các tướng lĩnh được lồng cho cảnh, tướng này ngủ gật, kẻ
say rượu, người thả hồn vãng lai giữa cảnh nước mất, nhà tan.
“Thiệu gằn giọng, đấm tay xuống bàn làm Nguyễn Văn Toàn choàng
dậy. Cặp mắt nung núc thịt trên khuôn mặt giống lính Đại Hàn của
Toàn đỏ ngầu. Toàn là tên tướng bẩn và đểu giả nhất quân đội Sài
Gòn. Toàn không cầm gậy chỉ huy của tướng, mà cầm ba toong, những
lúc nổi điên, y quật cả lính và sĩ quan cấp tá dưới quyền. Toàn
nổi tiếng là kẻ háo sắc. Vợ sĩ quan thuộc cấp và vợ lính trông
ngon mắt là Toàn tìm cách xài bằng được...
Thiệu dứ dứ chiếc
tẩu về phía Toàn:
- Với lực lượng hiện
có trong tay, anh giữ được những đâu? (cho Tổng thống Thiệu
nói giọng Bắc, chắc tác giả quên?).
Toàn vớ chiếc mũ
nồi đen - mũ của lính xe tăng mà lúc ngủ gật đã để rơi xuống bàn,
chụp lên đầu…”.
Tả Đặng Văn Quang: “Dưới ánh điện, tấm thân phì nộn của
Quang trông kịch cỡm, tức cười. Cả Sài Gòn biết Quang, Thiệu là kẻ
đồng lõa tội ác: cả hai cùng đi lính khố đỏ, cùng được quan tây cho
đi học lớp võ bị ở Huế…
Quang thường ngậm xì
gà Côrônat, ba hoa với tay chân “các tướng Lắm, Thi, Đính, Du bắt đi
học Pholovân uôt, chớ tao đây, tao cóc cần đi học, cứ giết nhiều cộng
sản là tao được thăng tướng. Bọn cộng sản khố rách áo ôm, một đồng
đô la không dính túi, sức mấy mà chống lại thế giới tự do, chống
lại Hoa Kỳ, Nhật Bản. Hố! Hố! Hố”. (Tôi giữ nguyên
phiên âm Trần Mai Hạnh viết).
Trần Mai Hạnh về
già, được ngồi “luyện chưởng” 2 năm sau song sắt, với cái án 9 năm tù
do đưa cả chân lẫn đầu vào vụ Năm Cam, bị cách tuột chức vụ Ủy viên
Trung ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Đại biểu Quốc
hội, âu cũng có thời để ngẫm. Song không phải càng già càng khôn.
Vào chốn lao lý, chắc thấm cái máu anh chị làng đao búa mà luyện ra
giọng văn? Hay dối trá mãi thành quen, tự chui vào mó bòng bong của
chính mình, rồi không chui ra nổi?
Song điều đáng nói,
quyển sách lại được Giải thưởng Văn học về văn xuôi, tiểu thuyết năm 2014. Sự
vô lại, trâng tráo ấy chường ra, như nói hộ thay các nhà văn Việt Nam?
Lẽ ra không cần dông
dài, nhưng vẽ vẻ đẹp của một bông sen, đôi khi phải nói chấm phá một
chút về không gian sinh tồn, chốn bùn lầy, nước đọng.
Một thoáng so sánh
chợt đến trong đầu tôi về những cây bút thiếu chữ nhân, què quặt
trong tâm hồn, khá đúng với những dòng này của Tô Thùy Yên: “Tôi rời ghế, bước vòng ra phía sau chiếc xe
G.M.C dùng làm hậu trường. Bài hát chấm dứt. “Ðể đáp lại tấm thịnh tình của quý
vị...”. Một bài hát nữa trổi lên. “Let’s twist again”. Tôi nhìn trong
khung trống cánh gà thấy nàng hò hét, nhún nhẩy quay cuồng, hạ thổ, vặn vẹo cần
máy vi âm. Thiệt là thảm thương. Càng thảm thương hơn là nàng lại biểu diễn hết
sức hăng say, quá mức lương tâm nghề nghiệp. Tôi không thể không nhớ tới một
đứa bé gái chừng chín mười tuổi, con của một người mù đánh đàn ăn xin. Ðứa bé
gái đó ốm yếu, dơ dáy, quần áo rách rưới, bôi hai cục son đỏ lòm nơi má như
trái cà chua, người cha hom hem với mái tóc khô cháy, để dài tận ót, đánh đàn -
một cây tây ban cầm sai tiếng và tróc lở - đứa bé gái tuýt lăn ra trên vỉa hè
thành phố, nó cũng ưỡn ngực, ngoáy mông, làm đủ mọi thứ. Không hiểu ai dạy nó
như vậy. Cha nó mù làm gì biết mà dạy nó”. (“Nơi chốn đi qua”).
“Bàng gia vọng tộc”
bắt đầu bằng cảm hứng từ những vần thơ, về văn tài của một thi sĩ
lẽ ra phải được biết đến trên văn đàn, gợi lại ký ức nắng buồn hơn
mưa.
Con người có những
câu thơ, chỉ một câu thế thôi là đủ hơn nghìn trang sách, lại bị lãng
quên cố ý, để câu thơ có tên có tuổi bị gán cho bước từ ca dao tục
ngữ?
Hỡi cô tát nước bên
đàng
Sao cô lại múc trăng
vàng đổ đi?
Thơ Bàng Bá Lân đẹp,
trầm buồn, tinh tế.
Thời gian dừng bước
trên đồng vắng
Lá ngập ngừng sa nhẹ
lướt ao.
(“Trưa hè”)
(Nhà thơ Bàng Bá Lân (1912 - 1988)) |
Không lạ khi biết
Bàng Bá Lân là một nhiếp ảnh gia có hạng. Những người say mê nhiếp
ảnh thường có sự nhạy cảm, trực giác phong phú và khả năng đọc
hình ảnh rồi lấy ánh sáng vẽ lại cảm xúc của mình. Thời nhiếp
ảnh còn manh nha ở Việt Nam, thậm chí ở cả Châu Âu, ông đã giải nhì
cuộc thi của Phủ Thống xứ Bắc Kỳ với bức “Phó cả thợ mộc”,
giải 7 với bức “Bát cơm” năm 1938. Năm 1939, ông lại làm thủ đô Pháp ngỡ
ngàng với huy chương của Tạp chí “Revue Francaise de Photographie et de
Cinématographie”.
Thơ của ông kết từ
mầu sắc thu về từ ống kính máy ảnh:
Núi thẳm mầu lơ, mây
trắng phau
Mây trùm đỉnh núi,
nước sông sâu
Nước trong xanh nhạt
in đôi bóng
Một cặp thuyền nan
lặng thả câu.
(“Chiều thu”)
Trời cao, mây bạc,
trăng tròn
Đê than hiu quạnh, tre
buồn nỉ non
Diều ai gọi gió véo
von
Cành xoan đùa ánh
trăng xuông dịu dàng..
Hỡi cô tát nước bên
đàng
Sao cô múc ánh trăng
vàng đổ đi?
(“Trăng quê”)
Cảnh đã xưa rồi, tình
chửa xưa,
Nâng niu chuốt lại chút
danh thừa.
Bao giờ đến hội tao
phùng nhỉ?
Xem nước hồ soi bóng
liễu mơ.
Liễu có gầy chăng? Tóc
có thưa?
Chao ôi! Lòng nặng mãi
thương hờ!
Kiểu nhà xưa đã thay
hình mới,
Hay vẫn còn nguyên dáng
cũ xưa?
Nghiên đá đền Sơn có sẫm
rêu?
Kình thiên bút nọ đã lên
meo?
Muốn về nâng bút dầm
nghiên đá
Pha nước hồ Gươm viết
thật nhiều.
Giấy lụa: Trời xanh trải
phẳng ra,
Bao nhiêu tứ đẹp đợi chờ
ta.
Phen này thơ múa trên Hà
Nội.
Vang rộn kinh kỳ khúc
lạc ca.
(“Mơ về Hà Nội”)
Tôi đã dừng lại
những vần thơ của ông, tư lự nghĩ rằng không biết thơ Nguyễn Bính và
thơ Bàng Bá Lân, thơ ai cảm động hơn:
Đường đi ra tỉnh xa
xôi
Ai ra mà gửi mấy lời
thơ quê
Chuồng sau xao xác gà
về
Mưa còn sùi sụt bên
hè chưa thôi
Ai lau ráo lệ cho
trời
Ai lau ráo lệ cho
người… tương tư!
Bài thơ này sẽ quá
tiếc nếu mất đi trong văn học:
Mặt trời đỏ thẫm sau
tre,
Tiếng trâu nghé ọ trên
đê gọi đàn.
Buồn thiu trong mảnh ao
làng,
Bè rau rút ngủ lá vàng
héo hon.
Ngừng viết, nhìn lên:
Mắt rạng ngời
Lắng nghe nhè nhẹ bước
chân ai.
Đôi tà áo lụa bay trong
nắng
Tha thướt mình tơ lướt
cửa ngoài.
Em đẹp làm sao! Vóc dáng
thon,
Đôi vai thuôn mịn, cánh
tay tròn.
Lưng mềm não nuột đường
tơ óng,
Uyển chuyển ngồi, đi,
dáng trẻ son.
Ai dệt nên tơ lụa nõn
nà,
Nhẹ nhàng, êm dịu, mát
như da.
Ai khâu chiếc áo vừa
xinh quá
Phô hết đường cong vóc
ngọc ngà.
Ta nhớ chiều kia dưới
nắng trăng
Cúi dâng tà áo nhẹ tay
cầm
Mơ màng ngỡ nắm tơ trăng
biếc,
Áo lụa ngời trăng đẹp mỹ
nhân.
Áo lụa còn đây, người ở
đâu?
Buồn thương vuốt lại nếp
tơ nhầu.
Chút thừa hương phấn còn
lưu luyến,
Gợi mãi tình xưa để nhớ
nhau!
Tìm mãi trong tơ vóc
dáng thon
Đôi tay thuôn mịn, cánh
tay tròn
Lưng mềm não nuột đường
tơ óng...
Ngắn ngủi duyên hờ...
vạt áo con!
(“Áo lụa”)
(Thủ bút của nhà thơ Bàng Bá Lân) |
Cuốn sách của Nguyễn
Khôi làm đầy đủ như một công trình khảo cứu. Ông tìm những nhận định
của các nhà phê bình, các bạn thơ, những trang báo cũ viết về nhà
thơ tập hợp lại để nếu cần một chân dung văn học đa chiều về một con
người Bàng Bá Lân, thì là đây.
Hơn nữa ông làm công
việc như một người cùng dòng máu với nhà thơ. Ông dành những trang sau
viết về Bàng Sĩ Nguyên, Bàng Ái Thơ.
Nhà văn Nguyễn Khôi
dũng cảm nhận xét: “Thơ Bàng Sĩ
Nguyên còn ở tầm thấp, thua xa Quang Dũng, Trần Mai Ninh. Chưa có bài
thơ kháng chiến nào đạt tầm cỡ để nhớ. Phải đến “Vợ chồng đi Xuân”
- Việt Bắc, 1956. Đó là lối đi của Tô Hoài (văn), Cẩm Giang (thơ). Tuy
không đặc sắc, vượt trội. Nhưng phải nói là hay và đẹp vào thời
điểm lúc ấy”.
Tôi sẽ không đi sâu
vào thơ ông mà muốn đến gần, chạm vào thơ của Bàng Ái Thơ. Chị là
thi nhân đích thực và là họa sĩ.
Thơ của Bàng Ái Thơ
có chiều sâu tinh tế và đau thắt, khó nhà thơ nào có rung động triết
học, giầu hình ảnh và rỉ máu, đẹp mà quặn lòng như thế:
Anh nói bằng ngôn ngữ
nào?
Chuyện là như thế?
Một phần anh cất giữ
Một phần dành để cho
em
Em không muốn chơi vơi
Một mình em
Với con thuyền độc
mộc
Ngôn ngữ nào của anh
Để thuyền em vào bến
Anh xuống thuyền
Hay em bước lên
Anh nói bằng ngôn ngữ
nào?
Em lặng lẽ chia tay
Với phần nửa tình
anh để lại
Chia tay - không có
nghĩa là mãi mãi
Ngôn ngữ nào để níu
lại tình em
Một nửa ngôn ngữ
Một nửa anh về
Tình em buồn hoang
dại
Em khóc phần không
thuộc về em.
(“Ngôn ngữ chia đôi”)
Người con gái khóc “phần không thuộc về em” mà lại
chính là khóc cho cơ thể, hồn xác chính mình. Phần hồn và xác ấy
đã chót nhập vào người tình, một nửa không tách rời, song đau đớn
vì có một hội nhập hoàn hảo, không tồn tại cuộc hóa thân trọn vẹn,
vẫn có vết hằn, gợn, đau.
Người bạn tình có
trao gửi phần đời đã dứt áo ra đi, như dấu hiệu cảnh báo ngay ngày
đầu tiên đã có không lành, chàng trai đắn đo xuống thuyền đón người
tình hay đợi cô bước lên.
Khác nào:
Người đi, một nửa hồn
tôi mất,
Một nửa hồn kia bỗng
dại khờ.
(“Những giọt lệ”, Hàn
Mặc Tử)
mà câu chữ còn tài
hoa hơn, lung linh hơn.
Chị có những câu thơ:
Những chiếc lá vàng
thoi thóp
Góc tường ứa đầy
bóng đêm
… Nghe con chim góa
bụa
Về đậu trên cành mồ
côi.
Hay:
Mưa gió mòn tường
phơi gạch đỏ
Đường mòn bước lệch
chân thấp cao.
Nữ thi sĩ đã tạo
được hồn phách riêng mà nỗi đau cuộc đời qua văn tài của chị được vẽ
bằng những vết quét xước rất mạnh, rất sâu, đơn giản như ký họa
nhưng đủ gợi cả ba chiều thoi thóp, chân thấp chân cao, góa bụa của
một xã hội mất hướng.
“Bàng gia vọng tộc” đi
tìm nguồn gốc của họ Bàng và những xuất xứ chìm nổi từ đời Lý
dẫn đến việc thay họ đổi tên.
Những chính biến
lịch sử, những cuộc tàn sát đã làm cái nôi Kinh Bắc của nhà văn tan
hoang. Song những con người dù tha hương, tản mát khắp bốn bể, chân
trời không còn được mang dòng họ Lý vẫn giữ được cốt cách, tài hoa
qua thiên kỷ.
Bạn đọc chắc sẽ tìm
thấy những thú vị về những hình ảnh, những câu chuyện lịch sử trong
cuốn sách. Ở đây, tôi chỉ lướt qua ba cá nhân nổi trội nhất trong
làng thơ Việt trong gia đình thi sĩ Bàng Bá Lân.
Cuốn sách là niềm an
ủi, động viên trong một xã hội ngày càng thiếu vắng tình người.
Mời thư giãn với nhạc phẩm QUÊ NHÀ
của Trần Tiến, qua tiếng hát Tùng Dương:
*.
PHẠM CAO
PHONG
Địa chỉ: Nhà báo tự do tại thành phố Paris, Pháp.
Email: caophongphotoreporter@gmail.com
.
............................................................................................................
- Cập nhật từ Messenger Nguyễn Khôi ngày 17.12.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm
của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét