HỌ THÁI VÀ
THƠ NHỚ QUÊ HƯƠNG
CỦA THÁI
QUỐC MƯU
*
(Tác giả Châu Thạch) |
Có một “nhà thơ” cũng có chút “danh” trên thi văn
đàn. Khi tranh cải chữ nghĩa với nhà thơ Thái Quốc Mưu đã mở đề bài
viết của mình như sau:
“Trước
hết tôi có vài lời này với các bạn:
Nhà biên khảo
bạn tôi ABC - xin tạm ẩn tên - đã nói với
tôi:
- Nguyên Lạc tranh
cãi làm gì với ông Tàu Thái Quốc Mưu. Với ông này luôn luôn phải hiểu Việt ngữ
từ chữ Tàu, hay cách hiểu của người Tàu; nội việc chê Nguyên Lac, khi Nguyên
Lạc nói "tôi là thầy giáo", là nói bậy. Rõ ràng người Tàu ở nước Việt
làm sao hiểu khẩu ngữ và ngữ cảnh khi hai từ "thầy giáo" xuất hiện.
Nếu tôi là Nguyên Lạc, tôi không bao giờ đối thoại với anh Tàu này - ABC
Tôi trả lời anh
ABC: - Ông Thái Quốc Mưu có thể giỏi tiếng Tàu, nhưng không rành tiếng
Việt lắm, tiếng tình tự của dân tộc Việt Nam. Đã không rành, vậy mà
đem cái "sở đoản" của mình ra giảng dạy cho người Việt mới
khổ chớ, không sợ bị người cười.”
Theo tôi đây là một cách bôi bẩn dòng họ Việt Nam
một cách vô ý thức. Họ ác ý chụp mũ vào cái họ “Thái” của ông Mưu để kết tội
anh ấy là người Tàu, và họ bôi bẩn ông Mưu là người Tàu nên không rành tiếng Việt.
Trên đất nước Việt Nam hiện nay có tất cả 170 dòng họ, trong đó chỉ
có 14 họ phổ biến người Việt, còn lại trên 150 họ mang tên
trùng với họ của các nước trong vùng. Vậy những người
mang họ đó không phải là người Việt ư? Không nói rành tiếng Việt ư?
Việc chụp mũ cho ai mang họ Thái là người Tàu là
một sự ác ý, vô lý, vô đạo đức và làm chạm danh dư hàng chục triệu người Việt
Nam khác có họ của mình trùng tên với họ của người Tàu. Như họ
Trương của tôi vậy, tổ tiên của tôi ở ngoài Bắc chắc cũng đủ ngàn năm, đã vào
Nam lập nghiệp trên 400 năm. Không ai trong chúng tôi nghĩ mình là người Tàu cả
và có nhiều người đã làm quan đầu triều thời vua nhà Nguyễn và nhiều nhân tài
của Việt Nam thời nay. Họ Thái của anh Mưu cũng không khác gì họ Trương chúng
tôi cả. Em ruột của anh Thái Quốc Mưu, một người là soạn giả, một người là nhà
thơ đươc ái mộ nhất hiện nay. Quý vị bôi bẩn họ Thái mà không nghĩ đến Thái
Quốc Tế là em ruột anh Thái Quốc Mưu, bút danh Kha Tiệm Ly là một nhà thơ có
những bài văn phú chống Tàu như gươm bén, như thần công, nổi danh trong ngoài
nước hiện nay. Quý vị có họ không phải Tàu, vậy tiếng Việt các vị có hơn được
Kha là họ Thái không vậy? Và nếu quý vị còn ở trong nước, quý vị có dám mở
miệng chống Tàu như Kha không vậy? Hay quý vị sợ mà ngậm miệng hến của mình?
Qúy vị tranh luận chữ nghĩa mà vu khống người ta như thế thì còn đâu chữ nghĩa?
Chữ nghĩa bị bẩn hết rồi! Ông Thái Quốc Mưu là người Việt từ đời tổ tông đến
nay, mà quý vị trùm mền rồi vu cho là thằng người Tàu để đánh hội đồng. Thế có
phải quý vị là nhà văn, nhà thơ hay là bọn du thủ du thực vậy? Bình luận chữ
nghĩa mà quý vị mở miệng ra đã thấy ác ý thô bạo rồi thì còn chi để thấy lẽ
phải nữa.
Bây giờ tôi xin chứng mình với quý vị Thái Quốc
Mưu có phải là người Tàu và có rành tiếng việt không nhé, để quý vị tự nhìn lại
mình có gì hơn cái người Tàu mà quý vị chụp mũ không?
NỖI NHỚ QUÊ HƯƠNG TRONG
THƠ THÁI QUỐC MƯU
Hiếm có ai xa quê hương mà không nhớ đến quê
hương. “Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ
không lớn nổi thành người” thơ của Đỗ Trung Quân hầu như đã trở thành câu
thành ngữ ăn sâu vào lòng người dân Việt. Tuy thế, nỗi nhớ quê hương đó không
phải ai cũng giống ai. Bởi mỗi người có sự gắn bó với quê hương khác nhau, có
hoàn cảnh xa quê hương khác nhau và sự rung động của tâm hồn cũng khác nhau
nữa, nên nỗi niềm thương nhớ quê hương cũng có sự khác biệt trong nội tâm mỗi
người. Thơ diễn tả nỗi nhớ quê hương cũng thế, có bài da diết, có bài dằn vặt,
có bài êm đềm sâu lắng, nhưng chung quy tác giả nào thật sự yêu quê hương thì
tiếng lòng của họ làm cho ngôn ngữ của họ hồn nhiên đi vào tâm tư người đọc, mặc
dầu thơ họ có thể tự nhiên như là lời nói mà thôi. Ba nhà thơ mà tôi có cơ hội
biết đến bút pháp của họ như có hồn quê hương núp ở trong thơ, đó là Nguyệt
Lãng, Trần Ngọc Hưởng và Thái Quốc Mưu, trong đó nhà thơ Thái Quốc Mưu là người
thật sự xa quê hương biền biệt vì ông định cư ở xứ người bên kia bờ biển Thái
Bình Dương.
Cũng như bao người ly hương khác, mỗi độ xuân về
thì nhà thơ Thái Quốc Mưu lại nhớ đến quê hương, nhất là khi mùa xuân đến ở xứ
ta thì nơi xứ người vẫn còn tiết đông, khiến cho cõi lòng như cũng thành băng
tuyết với không gian. Nỗi buồn của Thái Quốc Mưu không giống với cái buồn của
nhưng người hoà nhập với vùng đất mới định cư, mà nỗi buồn của ông trĩu nặng
bởi mặc cảm tấm thân mình bèo dạt mây trôi:
Xuân đến xứ người
đang tiết đông
Hỏi, đời ly xứ có
buồn không?
Mả mồ tiên tổ nhờ
chăm sóc
Đền miếu ông bà cậy
ngó trông
Tất bật xứ người
quên tết đến
Mệt lừ thân xác hết
Xuân mong
Tấm thân lạc xứ con
bèo dạt
Mỗi độ xuân sang
tím ngắt lòng.
(Chạnh Lòng)
Đáng khen là niềm băn khoăn đầu tiên trong lòng
tác giả khi nhớ đên quê hương là “Mả mồ
tiên tổ”, “Đền miếu ông bà”. Điều
đó thể hiện bản chất hiếu kính luôn có trong con người Việt Nam chân chính cũng
có trong lòng tác giả bài thơ.
Nhà thơ Thái Quốc Mưu không nhớ quê hương một
cách bất chợt trong giây phút nào đó như những người xa quê hương bận bịu với
công việc
hay lao vào thú vui trong đời sống mới của đất
nước thiên đàng hạ giới. Thái Quốc Mưu thương nhớ quê hương một cách triền miên
theo bước đi của thời gian mà nhà thơ diễn tả là bước đi của “mùa” bằng chữ “dấu” hay chính ra là xao động của thời gian trong vạn vật:
Đêm nằm nghe dấu
xuân gần đến
Chạnh nhớ quê hương
ướt sượt lòng
(Than Thân)
“Dấu xuân” mà
tác giả nghe trong đêm là gì?
Như tác giả đã viết “Xuân đến xứ người đang tiết đông”, cho nên dấu xuân đó không thể là
tiếng tuyết rơi, tiếng gió lạnh của xứ người. Vậy chỉ có thể tiếng “dấu xuân” ở ngay trong lòng tác giả suy
nghĩ về xuân đang đến trên quê hương xa xôi của mình. Dấu xuân ở đây là hình
ảnh nhớ lại những kỷ niệm của mùa xuân quê hương khi tác giả đang trằn trọc
trong đêm ở xứ người, nơi xa ngàn vạn dặm với quê hương yêu dấu của ông.
“Dấu xuân
gần đến” là chỉ gần đến trên quê hương của tác giả nhưng còn rất xa với nơi
chốn ông ở, với căn phòng lạnh lẽo ông đang nằm thao thức đêm đêm. Đọc hai câu
thơ trên ta hình dung được Thái Quốc Mưu đang lọt thỏm vào khung trời cô liêu
rộng lớn của chốn không gian ông đang ở và của chính tâm hồn ông đang cảm nhận.
Thái Quốc Mưu thương nhớ quê hương biết bao
nhiêu, và tất nhiên như bao nhiêu người khác ông thương nhớ non sông đất nước,
thương nhớ phong cảnh nên thơ và hữu tình, thương nhớ những kỷ niệm ngọt ngào
của thời còn trai trẻ, nhưng cái làm cho da diết lòng mình vẫn là những cái đại
diện cho “chùm khế ngọt” của quê
hương, mảnh vườn thân yếu thủơ ấy:
Nhớ thuở ra vườn để
ngoạn du
Cây cao vọng xuống
tiếng cu gù
Sáo diều réo rắc
cho mây đọng
Đàn dế êm đềm cất
tiếng ru
(Nhớ Quê)
Nhà thơ nhớ nhiều đến quê hương một phần cũng vì
mùa xuân trên xứ người chỉ là sự chua xót làm cho nhà thơ cảm thấy cuộc đời
mình trở nên vô cùng vô vị:
Xuân đến nghe lòng
chua xót thay
Làm thân lưu lạc có
gì hay?
(Nghiền ngẫm)
Chua xót bởi vì:
Quê người nhân
nghĩa mờ sương khói
Đất mẹ nhân tình
hoá bể dâu
(Thán)
Nhà thơ Thái Quốc Mưu thuộc hạng người cố cựu,
ông thương nhớ cái nghèo trong khi đang sống trên đất người giàu sang và tiện
nghi đầy đủ:
Làm thân lạc xứ
chao ôi nhớ!
Dưới cuộn khói lam
bếp lửa hồng
(Nỗi Niềm)
“Cuộn khói
lam”, “bếp lửa hồng” tuy là cảnh
đầm ấm nhưng rất nghèo đối với nếp sống ngày nay của tác giả. Cảnh nghèo đó của
một thời xa xưa đối với nhà thơ thân thương, thú vị biết bao, canh cánh bên
lòng không bao giờ phai mờ trong tâm trí và cảnh đó người đi muốn giữ lại muôn
đời nên đã đem lòng lo xa cho thế hệ mai sau:
Muôn vạn chông gai
khắp nẻo đường
Bụi đời pha mái tóc
thêm sương
Tô son để tỏ tình
non nước
Gát bút ngồi mơ
chuyện cố hương
Nhớ mẩu cau trầu
trong truyện cổ
Thương màu cam bưởi
tỏa sau vườn
Mai đây, mốt nọ...
rồi con cháu
Quên cả núi sông,
cả cội nguồn/
(Nỗi buồn xa xứ)
Quê hương đau đáu trong lòng, niềm nhớ triền miên
trong tâm trí đến nỗi nhà thơ đem vào trong giấc mơ quá khứ và hiện tại trộn
lẫn vào nhau:
Quay về nghe ngọn
gió lao xao
Khơi dậy trong ta
nhớ thuở nào
Vác cuốc đào bờ moi
chú dế
Tranh phần há miệng
chưởi mầy tao
Ở nơi chôn rún bên
đồng ruộng
Mang giỏ ra đìa
dưới bóng cau
Con cá bạc đầu ngoi
mặt nước
Giật mình thấy tóc
trắng bờ ao.
(Về chốn xưa)
“Giật mình
thấy tóc trắng bờ ao” chẳng khác chi một giấc Nam Kha khi “Bừng con mắt dậy
thấy mình tay không”. Đọc bài thơ ta thấy tâm trạng hụt hẫng vô cùng của tác
giả khi giật mình tỉnh ra thấy đời đã qua, tóc mình đã bạc.
Lời thơ của Đỗ Trung Quân “Quê hương mỗi người chỉ một / Như là chỉ một mà thôi” rất
đúng! Cho nên nhà thơ Thái Quốc Mưu dầu nằm trên chăn ấm nệm êm vẫn nhớ
đến nơi mà mình “vác cuốc đào bờ”, “mang giỏ ra đìa” thời gian khổ nhọc năm
xưa. Nhà thơ thì biến nỗi nhớ thành thơ là sự thường tình, nhưng lời thơ đơn
sơ, ý thơ mộc mạc mà tình thơ thấm thía là điều rất khó khăn thay! Đất mẹ linh
thiêng, cho nên ai yêu quê hương thì nỗi linh thiêng có ở trong lòng, lời nói
ra hay thơ sáng tác ra đều có tiếng quê hương ẩn chứa trong đó khiến cho âm
vọng làm rung động con tim biết bao người ./.
Mời thư giãn với nhạc phẩm ĐẤT NƯỚC
của Phạm Minh Tuấn, qua tiếng hát Tùng Dương:
*.
CHÂU THẠCH (Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 02.01.2020.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét