HAI PHIÊN TÒA ĐẶC BIỆT
TRONG... TRUYỆN KIỀU
*
I
(Tác giả Vũ Hữu Sự) |
Gọi là
đặc biệt, vì cách xử án của hai vị quan tòa rất...đặc biệt. Vụ án dẫn đến phiên
tòa thứ nhất như sau: Nghe tiếng đồn, Thúc Sinh, chàng công tử con nhà “đại gia”
đã tìm đến kỹ viện của Tú Bà, gặp cô “ca ve” Vương Thúy Kiều để chơi bời. Nhưng
gặp rồi thì “càng quen thuộc nết, càng
dan díu tình”, nhất là sau khi được chiêm ngưỡng tấm thân “trong ngọc trắng ngà” của nàng với cái “tòa thiên nhiên” tuyệt mỹ lúc nàng “tẩm
hoa (tắm)” thì chàng càng mê đắm, càng muốn sở hữu riêng nàng, tức là muốn lấy
nàng làm vợ, dù lúc đó chàng đã có vợ chính thức là con gái vị đầu triều (thiên
quan trủng tể). Nhưng muốn lấy được nàng Kiều đâu có dễ , vì lúc đó nàng đang
là “cây tiền” của mụ Tú, đời nào mụ chịu nhả ra. Biết thế, chàng Thúc bèn tiến
hành một kế hoạch rất khôn ngoan: Trước hết chàng hãy dấu nàng một nơi, rồi bắn
tin cho mụ rằng chàng đã “chiến, hòa sắp
sẵn hai bài”. Chiến, tức là nếu mụ đến chỗ chàng gây sự, đòi người, thì
chàng sẽ tố cáo mụ cái tội ép con gái nhà lành làm đĩ, mà nhân chứng chính là
nàng Kiều. Còn hòa? tức là nếu mụ im đi, chấp nhận, thì chàng sẽ hoàn lại cho
mụ cái số “vàng ngoài bốn trăm” mà mụ
đã bỏ ra để mua nàng, muốn cách nào chàng sẽ “chiều” cách ấy. Tất nhiên là mụ
Tú đành chọn cách thứ hai, dẫu rằng tiếc đứt từng khúc ruột. Vì người đã trốn
rồi. Nếu gây sự, thì với cái tính “trăm
ngàn đổ một trận cười như không”, chẳng khó khăn gì mà chàng Thúc không đưa
được mụ đến cửa quan. Và tội ép con gái nhà lành làm đĩ là một tội rất nặng
dưới thời phong kiến. Người phạm tội có thể bị tử hình. Chiến thắng mụ trùm lầu
xanh, có được người đẹp trong tay, nhưng chưa kịp hưởng hạnh phúc thì sóng gió
đã nổi lên. Biết chuyện, cha chàng đã “nổi giận bời bời”, chửi chàng một trận lút mặt. Còn với nàng, thì
nhà tỷ phú lập tức “dạy cho má phấn lại
về lầu xanh”. Thấy con trai lăn lộn kêu khóc, van xin và dọa sẽ... tự tử (bạc đen thôi có tiếc mình làm chi), thì cơn giận
của cụ càng như đống lửa được đổ thêm dầu, cụ lập tức đến cửa quan tố cáo nàng
(sốt gan, ông mới cáo quỳ cửa công).
Cứ như
ngày nay, thì nàng Kiều đã vi phạm điều 182 Bộ Luật Hình Sự năm 2015, có khung
hình phạt cao nhất lên đến 3 năm tù vì đã sống chung với chàng Thúc như vợ
chồng, dù biết chàng đã có vợ. Thời phong kiến, cả ở Tàu lẫn ở ta, xã hội đều
cho phép đàn ông có nhiều vợ, cho phép đàn ông “đi sớm về khuya” chơi bời gái gú. Nhưng chế độ đó lại có một điều
luật hết sức quái đản: đã làm đĩ thì phải chung thân làm đĩ, không được hoàn
lương, không được lấy con nhà tử tế. Thúc ông tố cáo nàng chính là tố cáo cái
tội đã làm gái lầu xanh mà vẫn đi quyến rũ con cụ, lấy con cụ làm chồng, dù sự
thực thì ngược lại.
Do có
đơn tố cáo của Thúc ông, nàng Kiều bị đóng gông giải đến công đường. Ta hãy xem
diễn biến phiên tòa:
Với cái
“mặt sắt đen sì (Bao công mặt cũng
đen)”, viên quan xử án gợi cho ta cái cảm giác đó là một người rất vô tư, khách
quan, chỉ biết có pháp luật. Vừa trông thấy bị cáo, y đã nổi giận (lập nghiêm
trước hãy ra uy nặng lời). Y chửi chàng Thúc là kẻ lêu lổng chơi bời, mất nết
hư thân, phá gia chi tử. Tiếp theo, y chửi nàng Kiều đã làm đĩ mà không trót
đời, còn đi quyến rũ con nhà tử tế. Dứt tràng chửi bới, y tuyên án ngay, một
bản án hết sức lạ lùng: “Một là cứ phép
gia hình/ Một là lại cứ lầu xanh phó về”. Và khi thấy nàng thà chịu chết
chứ nhất định không chấp nhận kiếp “người ngựa”, thì y lập tức ra lệnh chập 3
cây roi lại, đánh nàng đến chết (ba cây chập lại một cành mẫu đơn)
Trước
cảnh nàng phải chịu thảm hình, chàng Thúc chỉ biết giở nghón võ... khóc, bất chấp đó là nơi công đường uy nghiêm (khóc rằng oan khuất vì ta/ Có nghe lời trước
chẳng đà lụy sau). Nhưng thật không ngờ, lời kêu khóc của chàng lại làm cho
phiên tòa chuyển sang một hướng khác. Nghe lời kêu khóc thảm thiết của chàng,
viên quan có vẻ cảm động, liền gọi lại hỏi han. Thế là chàng được dịp dãi bày.
Rằng trước khi nhận lời về sống cùng tôi, nàng đã đắn đo, căn vặn đủ điều, rằng
vợ tôi, cha tôi có bao dung được nàng không ? Tôi có che chở được cho nàng
không ? Nếu không có sự bao dung, che chở đó, thì việc nàng bị chết trước cửa
công là điều chắc chắn. Lúc đó, vì quá yêu nàng, tôi đã nói phét rằng “đường xa chớ ngại Ngô Lào/ Trăm điều hãy cứ
trôngvào một ta”. Nhưng nàng vẫn chưa tin, vì đã biết tôi là thằng vô dụng.
Biết, nhưng nàng vẫn quyết dấn thân, thà bị vợ tôi, cha tôi dầy vò, thà chết
trước công đường còn hơn là sống kiếp lầu xanh. Nào ngờ lời tiên đoán của nàng
bây giờ đã trở thành sự thật...
Nên nhớ
ngày xưa không có trường dạy chuyên về pháp luật. Quan chức các ngành đều xuất
thân từ những kỳ thi thơ phú, văn chương. Viên quan xử án này cũng không ngoại
lệ. Và chắc chắn y là người rất giỏi thơ phú. Vì thế khi nghe chàng Thúc kể
rằng nàng tuy thân phận thấp hèn, nhưng cũng là người có học (Thưa rằng chút phận bọt bèo/ Theo đòi, vả
cũng ít nhiều bút nghiên) thì y lập tức nổi máu văn chương. Gương “mặt sắt đen sỳ” của y lập tức dịu lại
bởi một nụ cười khoái trá, y biến ngay công đường thành thi đàn, biến phiên tòa
thành cuộc thử tài văn chương, y ra đề cho nàng làm thơ (cười rằng, đã thế thì nên/ mộc gia hãy thử một phen trình nghề).
Hai câu trong ngoặc đơn ấy nghĩa là : nhà ngươi nói con điếm này là người có
học à? Thế thì bảo nó hãy làm bài thơ “mộc già” cho ta xem. Mộc già, tức là cái
gông bằng gỗ. Là tội nhân, trên cổ đang mang gông, vừa bị roi vọt tơi bời, thế
mà lại phải làm thơ về cái gông? Cái đề bài mà viên quan ra để bắt nàng “trình
nghề” mới tinh nghịch, mới tai ác làm sao. Chẳng cần nói, ta cũng hiểu tâm
trạng của nàng lúc đó là thế nào rồi. Thi hào Nguyễn Du không ghi lại bài thơ
“vịnh mộc già” để ngày nay chúng ta được thưởng thức tài thơ của nàng. Cụ chỉ
cho biết nàng đã vung bút rất nhanh,và khi bài thơ vừa được trình lên, thì viên
quan xử án lập tức xuýt xoa, nức nở (khen
rằng, giá đáng Thịnh Đường/ tài này, sắc ấy nghìn vàng chưa cân). Thơ Đường
là đỉnh cao nhất cuả nghệ thuật thi ca TrungQuốc. Thơ Đường thời nhà Đường đang
thịnh lại là đỉnh cao của đỉnh cao. Thành ngữ có câu “văn mình, vợ người”, giới
văn chương dễ gì ai đã chịu ai. Phải phục tài nhau lắm, phải trọng nhau lắm thì
người ta mới chịu khen thơ của nhau là sánh ngang với thơ Đường thời đang
thịnh. Ngoài nàng Kiều ra, tôi chỉ biết có hai người nữa đượcvua Tự Đức khen
như thế. Đó là Tùng thiện vương Miên Thẩm và Tuy lý vương Miên Trinh, đều là
hàng chú của vua (thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường: Thơ như Tùng Thiện vương,
Tuy lý vương thì thời thịnh đường cũng chỉ đến thế là cùng. Lời khen ấy đã làm
vinh dự cho hai người). Từ chỗ
khen thơ, viên quan xử án chuyển sang khen người, y khen nàng là giai nhân
(người đẹp), khen chàng Thúc là tài tử (chứ không phải là thằng lêu lổng chơi
bời, hư thân mất nết, phá gia chi tử như lúc đầu y chửi chàng nữa), y khen hai
người thật đẹp đôi (Châu Trần còn có Châu
Trần nào hơn). Bài thơ về cái gông gỗ đã làm phiên tòa xoay ngược 180 độ.
Viên quan đã quẳng ráo từ pháp luật cho đến công đường, chức vụ vào một xó để
đứng hẳn về phía nàng, bảo vệ nàng. Nhưng muốn bảo vệ được nàng thì
phải làm thế nào cho Thúc ông rút đơn. Thế là y quay sang dỗ dành nhà tỷ phú:
Cô gái này thật tuyệt vời, đẹp người, đẹp nết, lại có tài năng xuất chúng. Nó
đã ăn ở với con ông như vợ chồng, thì tức là con dâu ông rồi đấy. Thôi, ông hãy
nguôi giận mà nhận cô ta làm con dâu đi, và lấy tình bố chồng mà cư xử với nó (dâu con trong đạo gia đình/ thôi thì dẹp nỗi
bất bình...là xong). Tất nhiên là Thúc ông nghe. Không những vậy, viên quan
xử án còn làm một việc “vô tiền khoáng hậu”, một việc làm mà nếu nhà vua biết
được, thì y chắc chắn mất đầu: y xuất của công sắm lễ cưới, tự mình đứng làm
chủ hôn cho nàng Kiều lấy chàng Thúc, khiến cho hàng phố được một phen lác mắt
trước cảnh “kiệu hoa cất gió, đuốc hồng
điểm sao”.
II
Nếu như
ở phiên tòa trên, nàng Kiều phải “tham gia tố tụng” với tư cách bị cáo, thì ở
phiên tòa thứ hai này, nàng lại trở thành chánh án kiêm bị hại. Sau khi được Từ Hải cứu ra khỏi lầu xanh của họ Bạc, và sau khi đã “huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam”, Từ
trở thành một vị đại vương với “mười vạn
tinh bình” uy nghiêng trời đất, thì nàng trở thành một vị phu nhân nắm
trong tay quyền sinh quyền sát. Căm hận những kẻ trước đây đã hành hạ, chà đạp
vợ mình, Từ phái quân “đạo ra Vô Tích,
đạo vào Lâm Truy” bắt hết chúng, từ Bạc Hạnh, Bạc Bà, Tú Bà, Sở Khanh, Mã
giám sinh cho đến Hoạn Thư... về
giao cho vợ toàn quyền xét xử . Đây là một tòa án binh, án được thi hành ngay
sau khi tuyên, phạm nhân không có quyền chống án. Phiên tòa được mở giữa quân
doanh với sự uy nghiêm khủng khiếp, với khí thế ngút trời (bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân) mà cô tiểu thư nhà “họ Hoạn danh gia” được xác định là “chính danh thủ phạm”. Chẳng cần nhắc
lại, chắc bạn đọc cũng nhớ, chính con người này, vì lòng ghen tuông (máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen) , đã tổ
chức bắt cóc nàng về rồi đày đọa, tra tấn nàng bằng những thủ đoạn tàn ác, thâm
độc, tinh vi như thế nào, khiến nàng căm hận tận xương tủy. Thế nên trước khi mụ
được dẫn vào, nàng đã hạ lệnh cho quân lính rút sẵn gươm ra khỏi vỏ (dưới cờ, gươm tuốt nắp ra) để chỉ chờ
một lời tuyên án là lập tức băm vằm mụ ra thành muôn mảnh. Tuy nhiên, nàng Kiều
lúc đó không còn là nàng Kiều ngây thơ, trong trắng như trước khi “bán mình
chuộc cha” nữa. Cuộc chìm nổi “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” đã biến
nàng thành một người đàn bà bản lĩnh, dầy dạn, như chính nàng đã nói với chàng
Thúc trước đó, rằng “phen này kẻ cắp bà
già gặp nhau”. Trước lúc ra uy, trước lúc giáng sấm sét xuống đầu kẻ tử
thù, nàng đủ bình tĩnh để “vờn” mụ như mèo vờn chuột (thoạt trông, nàng đã chào thưa/ tiểu thư cũng có bây giờ đến đây).
Lời “chào thưa” ngọt ngào trên một rừng gươm sáng quắc khiến cho mụ Hoạn “hồn
lạc phách xiêu”. Nhưng chính vào lúc này, ta lại thấy Hoạn Thư không chỉ là người đàn bà có máu ghen và hành động
ghen tuông đến múc trở thành... kinh
điển, mà còn là một người đàn bà đầy bản lĩnh. Mụ trấn tĩnh rất nhanh, và “khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca”.
Chỉ “khấu đầu” thôi chứ không quỳ lạy như nghi lễ hồi ấy bắt buộc. Chỉ riêng
điều này thôi, cũng đủ thấy bản lĩnh của mụ Hoạn rồi. Xin bạn đọc chớ ngại dài
dòng, cho tôi được dẫn hết lời “kêu ca”của mụ. “rằng tôi chút phận đàn bà/ ghen tuông, thì cũng người ta thường tình/
nghĩ khi cho các viết kinh/với khi khỏi cửa, dứt tình chẳng theo/ lòng riêng,
riêng những kính yêu/ chồng chung, đã dễ ai chiều cho ai...”.
Lời kêu
ca, cũng chính là lời “gỡ tội” trước tòa của mụ Hoạn, có thể nói là tuyệt hảo.
Các luật sư giỏi nhất của ta ngày nay chắc cũng chỉ đạt đến trình độ đó là
cùng. Những chuyện độc ác của mình ngày nào bị mụ lấp liếm đi, hạ thấp xuống
thành chuyện ”thường tình”
của “đàn bà” (đã là đàn bà, thì còn
ai chấp nhặt nữa?). Nhưng những lời kể ơn thì lại được nhấn mạnh: Tôi hành hạ bà
thật đấy,nhưng khi bà “rắp đem mệnh bạc
xin nhờ cửa không “, tức bà muốn đi tu, thì tôi không ngần ngại cho bà ra
gác Quan Âm nhà tôi “có cây trăm thước,
có hoa bốn mùa/ có cổ thụ, có sơn hồ” để bà tu hành. Tu mà không trót, bà
đã lấy trộm đồ vàng bạc trong gác Quan Âm nhà tôi rồi trốn đi. Biết vậy, nhưng
tôi vẫn không theo đuổi, dù với thế lực của tôi lúc đó,việc truy bắt bà nào có
khó gì. Luật pháp phong kiến quy định , nếu nô tài trốn đi mà chủ bắt được, thì
chủ toàn quyền xử lý. Bắt được bà, tôi có thể dùng “gia pháp” để trị bà thật
thảm khốc rồi đưa bà lên quan, dùng “quốc pháp” để trị bà về tội trộm cắp. Nếu
tôi làm thế, liệu bà có được như ngày nay không ? Tôi hành hạ bà, nhưng tôi vẫn
rất biết tài bà (hãy nhớ lại, Hoạn Thư đã từng ca ngợi nàng Kiều với chồng mình
là Thúc Sinh rằng “ví chăng có số giầu
sang/ giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên/ bể trần chìm nổi thuyền quyên/ hữu
tài, thương nỗi vô duyên, lạ đời”. Đó có thể nói là những lời đầy thiện
chí). Tôi hiểu bà, trọng tài bà là một chuyện, nhưng bà chia xẻ chồng cuả tôi
(chồng chung) lại là chuyện khác. Chuyện đó, tôi đâu có thể nhường bà. Tôi phải
phản ứng để bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Bản “gỡ
tội” của mụ Hoạn đã đẩy chánh án Vương Thúy Kiều vào thế vô cùng lúng túng. Vì
thế, dù căm hận mụ đầy lòng, nhưng nàng vẫn buộc phải cất tiếng khen là “khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”.
Bởi thứ nhất, những điều mụ nói đều là sự thật. Sự thật là điều mà bất cứ phiên
tòa nào, dù ở chế độ nào, cũng phải hướng đến, cũng phải chứng minh để làm sáng
tỏ. Thứ hai, mụ đã nói đến chuyện “thường tình” rồi, thì ở vị thế một phu nhân,
lẽ nào nàng còn chấp nhặt ? Nếu lúc đó nàng vẫn quyết ra tay, sẽ chẳng ai dám
nói gì. Nhưng cái tiếng “nhỏ nhen” chắc sẽ bám theo nàng mãi mãi (làm ra, mang tiếng con người nhỏ nhen).
Không còn cách nào khác, nàng đành phải “truyền
quân, lệnh xuống trướng tiền, tha ngay”.
Ở phiên
tòa thứ nhất, nàng Kiều đã thắng vì tình. Nhưng trong phiên tòa thứ hai này, nàng lại thua về lý./.
0 comments:
Đăng nhận xét