(Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp) |
KIẾM SẮC
*
“Lời
rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Nguyễn Du
Trong số người gần gũi với Thế tổ Nguyễn Phúc Ánh những năm
mưu phục lại cơ đồ nhà Nguyễn có một hào kiệt mà không sử sách nào nhắc đến.
Người đó là Ðặng Phú Lân.
Lân quê ở Hưng Hóa, cha là Ðặng Phú Bình, trước là thuộc
tướng của Trịnh Bồng. Bình tính ngang tàng, võ công thâm hậu, thấy chúa Trịnh
hèn mà cách xử thế keo kiệt, không xứng đáng với bậc vương giả nên bỏ Trịnh
Bồng vào Ðàng Trong. Khi Tây Sơn nổi lên, Bình theo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Nhạc
không tin Bình, cho Bình là dân Bắc Hà trí xảo, không trung tín. Nhạc chỉ cho
Bình làm một chức quan võ nhỏ ở vùng sơn cước mãi tây Bình Thuận. Bình bất đắc
chí, suốt ngày uống rượu, nhiều khi say quá, cứ trông về phía trời Bắc mà khóc
hu hu. Lân can thế nào cũng không được. Về sau Bình ngã nước, râu tóc rụng hết,
gầy tọp đi, da vàng như nghệ, chỉ nằm chờ chết. Bình có một thanh kiếm gia
truyền, sắc như nước, sống kiếm đổ chì, sức chém khủng khiếp. Trước khi chết,
Bình trao thanh kiếm lại cho Lân, bảo rằng: “Con ơi, nước đang có loạn. Tây Sơn
bây giờ đang lên như thế chẻ tre. Nhưng ta thấy sức chơi của bọn người này bất quá
chỉ như trọc phú nhà giàu, gánh vác giang sơn sao được? Ta đồ rằng mệnh Tây Sơn
có hạn. Hiện Gia Ðịnh có Nguyễn Phúc Ánh là nòi vương giả, con gắng vào đấy tìm
xem”. Lân khóc, mắt chảy có máu. Bình giãy mấy cái, mồ hôi toát đầm đìa, người
cứ lạnh dần rồi chết. Lân lấy kiếm đào huyệt chôn cha; tìm đường vào Gia Ðịnh
theo Nguyễn Phúc Ánh. Lúc bấy giờ Lân mới hai mươi tám tuổi.
Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Ðịnh tìm cách lật đổ Tây Sơn, khi này
thế đã mạnh. Ánh là người đa mưu túc kế, tính kiên trì, không tin ai, dùng
người lấy chữ “hiệp”, chữ “lễ” làm trọng, không coi “nhân”, “nghĩa”, “trí”,
“tín” ra gì. Thỉnh thoảng, Ánh vào trong đất Thuận Quảng, xuất quỷ nhập thần.
Người Ðàng Trong sợ Ánh hơn là thích Ánh. Ánh đi đến đâu nghe nói cũng có mây
đen cuồn cuộn bay đằng trước, dân cư thấy có mưa là biết Ánh vừa đi qua.
Lân gặp Ánh. Ánh thấy Lân khôi ngô, ăn nói khoan hòa mà thủ
đoạn táo bạo thì thích lắm, cho ở luôn bên mình. Một lần thuyền Ánh qua cửa
Tiền Giang, có bốn người đi theo, trong đó có Lân. Bấy giờ có con cá sấu rất to
cứ bơi theo, đuổi thế nào cũng không được. Mọi người lo sợ, thấy phải có người
nhảy xuống làm mồi cho cá sấu thì mới thoát.
Ánh hỏi: “Ai vì nước Việt mà chết?”
Ba người kia tình nguyện chết, chỉ có Lân ngồi im. Ánh trừng
mắt hỏi Lân: “Trượng phu quý mạng sống thế à?”
Lân chắp tay: “Chúa công đừng giận. Nước Việt thì không ai
hại được. Còn thoát hàm cá sấu, cần gì phí một mạng người!”
Nói rồi nhặt hòn đá ở mạn thuyền ném con vịt giời bay qua.
Vịt giời rơi xuống nước, cá sấu thấy vậy vội bỏ thuyền lao đến chỗ vịt giời.
Ánh cười ha hả bảo rằng: “Thế này thì nghiệp ta thế nào Trời cũng cho thành”.
Ánh đi đâu cũng cho Lân đi theo, cũng nhiều khi Ánh xem ý Lân
để liệu xử thế với người, lần nào cũng trúng. Có lần, lúc này thế Ánh như diều
gặp gió, trước Tết Nguyên đán, các tướng lĩnh, các nhà hào phú quanh vùng, cả
dân chúng Gia Ðịnh nữa cũng mang lễ vật đến mừng, Ánh cho Lân ra nhận lễ vật.
Lân ra nhận, cho ráo vào cả một kho. Khách đến chúc mừng Ánh, chỉ đi chân tay
không mà vào. Bọn Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Võ TÁnh thấy lễ vật của mình
cũng bị xếp cùng với lễ vật những người khác thì căm tức. Bọn này phàn nàn với
Ánh, ý trách Ánh để tả hữu coi thường mình. Ánh cười bảo rằng: “Lân là người có
văn, có võ, lại cương trực, trung thành với chủ, cứ để hắn khu xử. Hắn có cách
khu xử của hắn. Những người gần ta không phải kẻ tầm thường đâu”.
Sáng mồng một, lập đàn tế thần, Ánh cho Lân đứng ra chia lộc
thánh. Lân chia phần đều ai cũng như ai, mọi người rất hớn hở. Sau việc này,
Ánh hỏi Lân, Lân đáp: “Nghiệp chúa công chưa thành, thế mà đã có kẻ dâng lễ vật
nhiều, dâng lễ vật ít. Biết lễ vật của từng người, chúa công sau này dùng họ
khó.” Ánh bảo: “Phải!” Lân lại nói: “Việc chia phần đều nhau là để ai cũng thấy
mình phải cố gắng”. Ánh bảo: “Cũng phải”. Ngồi một lúc Ánh nói: “Chỉ e ngươi
căn cơ quá chăng?” Lân đáp: “Ðầy tớ không căn cơ có hại cho chủ”. Ánh bảo: “Ngươi
là dân Bắc Hà; Ngươi không hiểu dân Ðàng Trong như ta được. Ngươi tưởng làm thế
là chu toàn, nhưng bậc vương giả thích sự tiện lợi hơn cả”. Lân bảo: “Chúa công
nói phải, căn cơ chỉ hợp với bần tiện, nhưng đất của Chúa công bây giờ nhiều
hơn đất của Tây Sơn hay của Tây Sơn nhiều hơn?” Ánh cau mày đáp: “Ta chỉ vỏn
vẹn có ba thước đất chôn thây thôi”. Lân bảo: “Không phải thế. Chúa công được
lòng trời đất, chỉ cần Chúa công thành tâm”. Ánh ngồi im, lát sau lại hỏi:
“Nhạc không nói làm gì. Lữ không nói làm gì. Huệ có cách gì mà giỏi giang thế?”
Lân đáp: “Huệ giỏi dùng người tài nhưng không giỏi dùng người thường. Chúa công
khác Huệ”. Ánh ngồi im không nói năng gì.
Khi Nguyễn Huệ chết, con trai là Nguyễn Quang Toản lên ngôi,
Tây Sơn năm bè bảy mối. Ánh mừng lắm sai mở tiệc mừng. Lân đứng ra can: “Chúa
công đừng làm thế, dân chúng nhìn vào không cho ta là người đại lượng”. Ánh
bảo: “Huệ coi ta là quốc thù, hịch truyền khắp nơi, lời lẽ bẩn thỉu lắm. Ta với
Huệ không đội trời chung. Nó chết ta cười cũng không được ư?” Lân đáp: “Huệ
không có tội gì, chỉ là một người tài, bị trời hành, cũng như Chúa công vậy.
Nhưng lực lượng của Huệ không được hưởng phúc lâu dài, thế là Huệ dăm bảy đường
thiệt. Ta lấy lộc của kẻ được hưởng phúc trời mà cư xử, trời thấy ta phải, người
cũng thấy ta phải”. Ánh nghe Lân nhưng nghiến răng nói: “Khi nào ta thành
nghiệp lớn, ta phanh thây nó, ta chôn ba họ nó”. Lân bảo: “Chẳng lâu đâu, Chúa
công cứ nhịn cười, lúc ấy cười một thể”. Quả nhiên sau này khi Ánh chiếm Thăng
Long, thống nhất giang sơn, Ánh trả thù Tây Sơn rất thảm khốc.
Khi Ánh chiếm Phú Xuân, cướp được một ca nữ xinh đẹp lạ lùng,
tên là Ngô Thị Vinh Hoa, vừa tròn mười tám tuổi. Vinh Hoa hát hay, đàn giỏi,
điệu bộ rất duyên dáng. Một đêm, Ánh hứng khởi, sai Lân đưa Vinh Hoa vào bày
tiệc, ngồi nghe hát. Lân bảo: “Hát bài Triều Thiên Tử“. Vinh Hoa ôm đàn
hát:
Kìa xanh xanh
Mấy nụ
non
Mấy lá
non
Nhờ
mưa xuân mang sữa cho
Nhờ
gió xuân mang khí thở cho
Nhờ
đất mang lương thực cho
Chẳng
chịu cho ai hái
Càng
lớn, nhan sắc càng mỹ miều
Càng
lớn, phẩm hạnh càng thanh sạch
Càng
lớn, càng cả thẹn
Thơ
nào tả được vẻ đẹp này
Bút
nào vẽ được ý tứ này
Ai
tương tư mà chau mày
Ngủ
thì thôi, tỉnh lại nhớ
Ấy là
trời cho
Vẻ đẹp
hoàn hảo
Vẻ đẹp
thiên kim.
Ánh vỗ tay reo: “Hát hay quá”. Lân lại bảo:” Hát bài Tình
Sông Núi“. Vinh Hoa ôm đàn hát:
Kìa núi cao cao
Kìa
sông xanh xanh
Núi do
đâu mà ra
Sông
do đâu mà ra
Tráng
sĩ xa nhà
Lặn
lội trên đường
Nơi cố
hương
Mẹ già
bạc đầu
Gái
quý đêm nằm trằn trọc
Lấy gì
trả nghĩa tình
Uống
chén rượu sầu
Mời
núi cao một chén
Lạy
thiên tử ba lạy
Chẳng
quên tình sông núi
Chỉ
thương tình mẹ già với người đẹp phương xa.
Ánh cau mày: “Hát hay nhưng buồn quá”. Vinh Hoa quì xuống
lạy: “Tiện thiếp làm rầu lòng người trời”. Lân đỡ dậy, bảo rằng: “Người chớ lo,
Chúa công lòng rộng, những thứ tình cảm sướt mướt của bọn người thường không
hợp với Chúa công đâu”. Nói xong, Lân sụp xuống lạy Ánh: “Ngày mai Chúa công ra
trận vui thú ít thôi, cần nghỉ ngơi”. Ánh thở dài đứng lên: “Cũng phải ngươi ép
ta, đến nay là chín năm rồi, ta còn nhớ. Từ khi ngươi cắp gươm hầu ta, ăn ngủ
cũng phải tính giờ. Xưa kia ta đâu phải vậy?” Lân đáp: “Chúa công chịu mệnh
trời, gánh nặng hơn người”. Ánh bảo: “Ta chỉ thích như người thường thôi!” Tuy
nói thế nhưng cũng rũ áo vào trướng. Vinh Hoa ôm đàn lui ra. Hôm sau, Ánh bảo
Lân: “Ta đi mà cứ văng vẳng tiếng hát ca nữ bên tai, tiếng gió thổi, tiếng gươm
dao không át được”. Lân bảo: “Chúa công còn nhiều cơ hội nghe hát, nhưng cơ hội
diệt Tây Sơn chỉ có một”.
Ánh họp các tướng, bàn kế hoạch đánh ra Thăng Long. Lê Văn
Duyệt tâu: “Bắc Hà có nhiều danh sĩ tài giỏi. Sao cho cờ của ta đến đâu, bọn
khốn nạn này mà theo thì dân chúng cũng phải theo thôi”. Ánh bảo: “Không được.
Ta ủy mệnh trời, cần gì mua chuộc ai? Ta đến đâu, đào hố đến đấy, chôn chúng nó
xuống, dân chúng không theo không được”. Quan tướng ai cũng thấy phải, ngồi yên
lặng cả.
Ðêm ấy Ánh thao thức không ngủ được, gọi Lân đến bảo múa kiếm
cho xem. Lân cầm thanh kiếm gia truyền, múa loang loáng, nghe như có gió thổi
bốn bề. Ánh nhìn toát cả mồ hôi, đoạn bảo đưa kiếm cho xem. Ánh cầm thanh kiếm
hai tay, phát đứt một cây hoa dại vòng gốc như cột nhà mà chỉ bằng một nhát.
Nhựa cây phun ra như máu trắng. Ánh hỏi: “Kiếm của ngươi sao sắc bén vậy?” Lân
bảo: “Ðây là kiếm thần, không rõ xuất xứ, tổ phụ truyền lại”. Ánh hỏi: “Sao bây
giờ ta mới thấy nó?” Lân bảo: “Trước Chúa công chỉ thấy đầu rơi dưới kiếm, bây
giờ mới nhìn rõ kiếm. Thế là sắp thanh bình thịnh trị rồi đó”. Ánh cầm thanh
kiếm không muốn rời tay.
Ánh hỏi: “Trưa nay khi nói việc ta muốn chôn danh sĩ Bắc Hà,
sao ngươi tái mặt?” Lân tâu: “Lân là người Bắc Hà nên tủi phận mình sợ cho
mình”. Ánh bảo: “Ta chỉ ghét bọn chữ nghĩa thôi, còn ngươi là con nhà võ thì sợ
gì. Chữ nghĩa chúng nó thối lắm, ngụy biện xảo trá tinh vi. Hành tung chúng, ta
chẳng lo. Toàn lũ ốm o, như dòi chồn hèn mọn cả”. Lân bảo: “Ða số như thế, chôn
cũng đáng. Chỉ có đôi người khá, chúa công được họ thì thêm sang cho chúa
công”. Ánh bảo: “Ta không tin bọn nó theo ta. Chúng nó quen tỉ tê với chữ nghĩa
thì sẽ coi ta là vô đạo, không có tâm thế. Rửa đầu óc chúng nó mệt lắm”. Lân
bảo: “Thế là chúa công vẫn quen dùng người thường, ở bậc cao nhân còn gì còn
chuyện vô đạo, hữu đạo? Tâm ở sự thành, đâu phải ở lòng? Chúng không chịu hiểu
là lỗi ở chúng. Ðã ai hiểu việc chúa công dùng Bá Ða Lộc, dùng người ngoại
quốc? Chúa công còn phải mang tiếng ba trăm năm”. Ánh lo sợ nói: “Phải làm
sao?” Lân bảo: “Chẳng làm sao được, nhưng bên cạnh chúa công có vài người như
Ngô Thì Nhậm thì không sao cả”.
Ánh bảo: “Ta muốn cho ngươi đi trước, chiêu mộ đôi ba người,
thế là công to lắm”. Lân sụp lạy: “Ðược thế còn gì bằng, Lân cũng không thẹn
mặt với nơi sinh ra mình”. Ánh bảo: “Ta giữ thanh kiếm này để khi ngươi quay
về, có tin hay, ta có cớ mà khen thêm. Còn không được việc, ta có linh khí mà
trừng phạt”. Lân tái mặt nhưng đành phải chịu.
Ít bữa sau, Lân cải trang, giắt theo ít vàng bạc, tìm đường
ra Bắc Hà. Lúc này Bắc Hà nhốn nháo lắm, triều đình Tây Sơn như trứng để đầu
đẳng. Bọn tướng của Tây Sơn tranh giành nhau, chẳng còn biết giữ gìn tiếng tăm
nữa. Lân thân cô, thế cô, lang thang đây đó, đi khắp nơi tìm người tài giỏi
nhưng không thấy ai ưng ý.
Một hôm, Lân vào nghỉ ở một quán trọ ven đường, thấy có một
người cốt cách hiền lành, dáng điệu bồn chồn đang ngồi uống nước chè suông. Hai
người nói chuyện. Lân ngạc nhiên thấy người này trong trẻo lạ thường, tâm hồn
sạch như nước ở suối ra. Lân cố mời rượu, người này chỉ uống một tí đã đỏ mặt.
Con gái chủ quán rất xinh đứng ra hầu rượu. Người trẻ tuổi bảo: “Khách ở nơi xa
đến, mệt mỏi vì công danh không đâu, chưa biết thế nào là đường đi lối lại, cô
Cầm hát một bài cho nghe đi”. Lân thoáng ngạc nhiên, rồi bình tâm lại, vật nài
mãi, cô con gái chủ quán bèn ôm đàn ra đưa cho người trẻ tuổi. Người trẻ tuổi
gảy đàn, cốt cách rất ư thanh lịch. Cô con gái chủ quán hát:
Kìa trăm năm
Tài
mệnh là gì
Chỉ
thấy đớn đau
Nhờ
mưa mang sữa cho
Nhờ
đất mang lương thực cho
Chẳng
chịu cho ai hái
Ai hái
cũng phí
Nhan
sắc mỹ miều cũng qua thôi
Phẩm
hạnh thanh sạch cũng nhạt thôi
Càng
lớn càng cả thẹn
Cố tả
được vẻ đẹp này
Gắng
vẽ được ý tứ này
Ai
tương tư cho rầu lòng
Ngủ
thì thôi, tỉnh lại nhớ
Ấy là
trời buộc
Cô
quạnh vì nàng
Ta đi
săn, đi câu
Vẻ đẹp
hoàn hảo
Vẻ đẹp
thiên kim
Bao
giờ bốc mộ
Nhỏ
cho một giọt nước mắt
Kìa
trăm năm
Tài
mệnh là gì
Chỉ
thấy đớn đau
Lân nghe xong, thở dài trào máu ra từ ngũ khiếu. Lân kêu to:
“Trời hỡi trời, sao giống bài Triều Thiên Tử vậy?” Cô con gái chủ quán cười
cười chỉ tay vào người trẻ tuổi: “Bài này không có tên, do người này làm ra,
chỉ để riêng cho Cầm hát”. Lân thở dài nói: “Bài hát hay quá, thật Lân này chưa
biết thế nào là đường đi lối lại”. Nói rồi Lân cáo từ vào trong nằm nghỉ. Hôm
sau Lân dậy sớm, bỏ đi không chào chủ quán, cũng không hỏi người khách trẻ tuổi
với cô Cầm, con gái chủ quán.
Khi Lân đến được Thăng Long thì Nguyễn Ánh đã vào thành rồi.
Quân Ánh đi như nước lụt, Lân như cánh bèo bị sóng cuốn trôi. Thâm tâm Lân cũng
chẳng biết nên vui hay buồn, chỉ thấy trong lòng cảm động.
Lân gặp Ánh xin chịu tội vì không làm được việc. Ánh ngồi
trên ngai vàng, tả hữu gươm giáo sáng quắc hai bên. Lân tự trói mình, quì xuống
sân rồng. Ánh bảo: “Ngươi theo hầu ta thế là chín năm một trăm ngày. Chín năm
không làm hỏng việc gì, còn một trăm ngày thì hỏng việc, vô tích sự. Thế là
trèo lên cây mà không hái được quả, đáng tội chết”. Lân không nói năng gì, vươn
cổ ra chịu chém. Nghe nói Nguyễn Ánh đã sai đao phủ dùng thanh kiếm gia truyền
của Lân để chém đầu Lân. Khi chém đầu, máu phun ra không đỏ mà trắng như nhựa
cây, một lúc sau thì bết lại.
Ðoạn kết
Tôi, người viết truyện này, gần đây lên Ðà Bắc, đến Tu Lý ở
trong nhà một người Mường. Chủ nhà tên là Quách Ngọc Minh có cho xem bài vị thờ
tổ tiên. Tôi hết sức ngạc nhiên khi ông Quách Ngọc Minh cho biết tổ tiên ông là
người Kinh. Ông Quách Ngọc Minh có nói tổ phụ ông tên là Ðặng Phú Lân, có vợ
tên là Ngô Thị Vinh Hoa vốn là một ca nữ. Lân và Hoa trốn vua lên Ðà Bắc, giả
làm người Mường, về sau lập trại, sinh con đẻ cái ở đây. Ông Quách Ngọc Minh có
nói tổ phụ ông sinh thời từng gặp Nguyễn Du, tác giả cuốn Ðoạn Trường Tân Thanh nổi
tiếng. Tôi còn được con gái ông Quách Ngọc Minh tên là Quách Thị Trinh hát cho
nghe một bài hát xưa, lời lẽ rất thanh tao về những chồi cây xanh.
Viết truyện ngắn này, tôi muốn để tặng gia đình ông Quách
Ngọc Minh để cám ơn thịnh tình của gia đình ông đối với riêng tôi. Tôi cũng xin
cảm ơn một số nhà nghiên cứu lịch sử và bạn bè quen biết đã giúp tôi sưu tầm
chỉnh lý những tư liệu cần thiết cho công việc viết văn, vốn rất nhọc nhằn,
phức tạp, lại buồn tẻ nữa – của tôi…
*
NGUYỄN
HUY THIỆP
Địa chỉ: 71 ngõ 77, phố Bùi Xương Trạch,
quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
-
ĐẶNG XUÂN XUYẾN giới thiệu -
(Bài viết không thể hiện quan điểm của trang
Đặng Xuân Xuyến)
.
0 comments:
Đăng nhận xét