NHÂN QUẢ VÀ NGHIỆP
*
Con người sinh ra đã mang sẵn một cái Nghiệp, tạo nên do những cái Nhân của
mình tạo ra trong Kiếp trước, để rồi trong cuộc đời này, với cái Nghiệp ấy,
mình phải trả Quả.
Thuyết Nhân Quả từ kiếp trước đến kiếp này, đã trùng hợp với thuyết nói
rằng có Số Mạng (như qua số Tử Vi).
Tuy nhiên con người không phải hoàn toàn chịu đựng một Số Mạng không thể xê
dịch, con người cũng có thể, bằng cách gây những Nhân mới, tạo nên một số Mạng
mới, hay là thay đổi Số Mạng sẵn có của mình. Vấn đề nêu lên rất là phức tạp vì
Nhân đời này trồng lên Nhân đời trước.
Bài sau đây của ông Thu Giang Nguyễn Duy Cần phân tích thuyết Nhân Quả,
cũng là một cội gốc để tìm hiểu Số Mạng và sự cải đổi Số Mạng.
Cái thuyết tin nơi Số Mạng của người Á Đông, về số Tử Vi, gồm có nhiều điều
tin được nếu căn cứ vào lý Nhân Quả của tiền kiếp. Ta nên biết rằng Ta ngày nay
là cái Quả một cái Nhân kiếp trước.
Người nào rành lý Nhân Duyên, nghiên cứu về Tử Vi, sẽ rất tinh. Toàn lý
thuyết Nhân Duyên, chi phối lý thuyết của Tử Vi. Cái mà ta gọi là Số Mạng, thực
sự chỉ là cái Nghiệp Báo tự ta gây ra (tự nghiệp) chứ không phải do một quyền
lực nào ngoài mình tạo ra cả. Và như vậy, cái gọi là Số Mạng không phải tuyệt
đối không thay đổi, tự mình tạo ra thì cũng tự mình hủy đi… nếu muốn “Có Trời
mà cũng có Ta”. Chữ “Trời” ở đây là ám chỉ số mạng dường như của Trời kia sắp
đặt. Số Mạng không phải là vấn đề cố định, nhất là về Tâm Pháp, chứ không phải
là Sắc Pháp.
Đọc quyển “Le Livre Tibétain de la Grande Libération”, có ghi: "Về Tâm
Pháp, tức là các pháp mà Nhân thuộc về Tâm Thức tạo ra (người Tây Phương gọi là
destinée intérieure), thì người ta có thể đổi ngay được. Còn những Quả đã chín
mùi thuộc về “Sắc Pháp” có phần khó tránh hơn."
Lấy một thí dụ: người có tánh tham, là vì có nhiều chủng tử “tham” huân tập
nơi “tiềm thức” (a-lại-đa), và khi mình quyết tâm sửa đổi, mình tạo ra những
“thiện nhân bố thí” để mà tiêu trừ cái sức tàn phá của những “ác nhân” trong
túc nghiệp (nghiệp trong quá khứ). Nhất là khi mình từ chối, không tạo ra những
“tiếp thụ nhân” thì các Nhân khác cũng khó lòng mà kết hợp để thành được ác
nghiệp.
Cho nên mới bảo: Con người là đấng Tạo Hóa của chính mình, mà cũng là vật
thụ tạo của chính mình.
Nhân
Duyên quả báo
Bàn đến nguyên do sinh ra Vạn Tướng thì Nhà Phật dùng đến thuyết
Nhân-Duyên-Quả-Báo, thường gọi tắt là Nhân Quả.
Kinh dạy rằng “Nhất thiết pháp nhân duyên sinh”, nghĩa là tất cả các pháp
(vạn sự vạn vật) đều do nhân duyên mà sinh ra, lại cũng nói “Ly nhân duyên biệt
vô ngã”, tức là rời bỏ nhân duyên ra, không có gì gọi là ngã (ta) nữa cả. Nghĩa
là tất cả sự vật: không cái nào có Tự Tánh (Nature propre, bản tánh của riêng
mình), mà chỉ nhờ Nhân Duyên hội lại, mới thấy in tuồng như có.
NHÂN (nguyên nghĩa là Hột Giống) tức là những sự vật có cái năng lực sinh sản
ra Quả (nghĩa đen là Trái).
DUYÊN là những sự vật bổ trợ cho NHÂN, giúp cho NHÂN sinh ra QUẢ, giúp cho
NHÂN sinh ra QUẢ. Tỉ như hột lúa có cái sức phát sinh ra cây lúa, thì hột lúa
là Nhân, cây lúa là Quả, mà tất cả những điều kiện thuận tiện như đất, nước, phân,
v.v… giúp cho hột lúa sinh ra cây lúa đều là Duyên.
Nhân duyên hòa hợp với nhau mới sinh ra vạn pháp. Nếu có Nhân mà không có
Duyên, thì cái Nhân dù có rứa năng sinh làm sao sinh ra Quả được. Nếu chỉ có
Duyên mà chẳng có Nhân thì cũng không thể nào sinh ra Quả được. Tóm lại, có
Nhân mà có Duyên mới có thể sinh ra vạn pháp (vạn vật)
10 Nhân
là gì?
(Đoạn này kể ra cũng để loài người nhận xét mà tìm lành tránh dữ; khi mình
không tạo Nhân xấu thì không chịu Quả xấu)
Nhân và Duyên kể ra thì vô cùng.
Thường thì cái Quả không bao giờ do một Nhân duy nhất mà thành, mà do nhiều
Nhân hợp với nhau mới có được một cái Quả hiện ra. Nhân có nhiều thứ, mà Duyên
cũng có nhiều loại thường lẫn lộn với nhau, cho nên mới nói rằng không vật nào
sinh ra vật nào (vô sinh).
Phật nói về NHÂN, có hai thuyết, thuyết Sáu Nhân và thuyết Mười Nhân.
Thuyết Sáu Nhân thì ở trong Cư Xá Luận, còn thuyết 10 Nhân là ở trong Du già
Luận.
Thuyết 10 Nhân, thực sự là đem phạm vi của Nhân mà mở rộng thêm gồm cả
Duyên, trong đó.
10 Nhân là:
Tuyền thuyết Nhân
Quán đãi Nhân
Khiên Dẫn Nhân
Nhiếp thọ Nhân
Sinh khởi Nhân
Dẫn phát Nhân
Định Dị Nhân
Đồng sự Nhân
Tương vi Nhân
Bất tương vi Nhân.
Sự chia Nhân ra làm 10 loại, kể ra cũng tinh tế thật. Tuy chia ra làm 10,
nhưng kỳ thật, sự vật nào hiện ra đều đã gồm đủ cả 10 Nhân ấy, mặc dù mỗi Nhân
có phận sự riêng khác nhau.
Tùy Thuyết Nhân: Nghĩa là cái Nhân tùy lời nói. Bời có nói ra, có danh từ
để gọi, mới có sự vật ấy. Tỷ như có thiên hạ cùng gọi trái cam, nên mới thành
trái cam. Nếu không ai gọi nó là trái cam, cũng không định tính chất nó là tính
chất trái cam, thì không thể nào biết nó là trái cam. Tùy theo lời nói, cũng có
thể tạo thành các pháp, nên mới gọi là Tùy thuyết Nhân.
Quán Đãi Nhân, là cái Nhân do chỗ trông đợi mà có. Cũng như có xét có được
cái công dụng của trái cam đối với thân thể, sức khỏe của ta, ta mới trồng nó,
và nhân đó mới có nó.
Khiên Dẫn Nhân, là cái Nhân do sự dẫn dắt từ tái này sang cái khác. Như có
hột cam mới có cây cam, và có cây cam mới có trái cam khác. Trái này sinh trái kia,
cho nên gọi là Khiên Dẫn Nhân.
Nhiếp thọ Nhân, là cái Nhân do sự nhận lãnh các món. Như hột cam (là cái
Khiên dẫn Nhân), có nhận lãnh đất, nước, phân thì mới có thể sinh cây cam được…
Có chịu nhận lãnh mới có thể phát sinh.
Sinh khởi Nhân, là cái Nhân do sự bắt đầu sinh ra. Như hột cam có gặp đất,
nước, mới bắt đầu sinh ra Mộng. Sự làm cho bắt dầu sinh ra là sinh khởi nhân.
Dẫn phát Nhân, là cái Nhân dắt dẫn lần lần từ lúc có phát sinh đến lúc có
Quả. Như mộng cây cam lớn thành cây cam, rồi trổ bông, đâm trái, cho đến khi
trái chín.
Định Dị Nhân, là cái Nhân quyết chắc không khác biệt. Như hột cam giống sẽ
phải sinh ra cây cam, chứ không thể sinh ra thứ cây khác. Hễ trồng dưa thì được
dưa, trồng đậu thì được đậu.
Đồng Sự Nhân, là cái Nhân để đồng làm một việc. Các Nhân trước đây cùng
đồng hợp với nhau, cùng làm một việc, nên mới có được kết quả. Chung nhau cùng
tạo thành một việc, nên gọi là Đồng sự Nhân.
Tương vi Nhân, là cái Nhân trái nghịch. Cũng như hột cam giống gặp đất khô,
thiếu phân, thiếu nước…thì kết quả sẽ không được tốt đẹp, hoặc ít trái, hoặc
chua… trái cam không được ngon ngọt, lại đèo đọt. Đó gọi là Tương vi Nhân.
Bất tương vi Nhân, là cái Nhân không trái nghịch. Khi ăn được quả cam ngon
ngọt, là biết vì không có sự gì trở ngại cho sự phát triển tự nhiên của nó. Cái
sự “không có trở ngại” đó, tạo thành các sự vật, nên gọi là bất tương vi nhân.
Căn
nguyên của thuyết Luân Hồi
Ta thấy rằng trên đây, tuy gọi là Nhân, nhưng thực sự cũng là Duyên. Là vì
không có một cái Nhân nào là cái Nhân đầu tiên cả, mà trước cái Nhân, còn biết
bao Nhân khác mà mình chưa truy tầm ra, cũng như không có một cái Quả nào là
cái Quả sau cùng. Cũng như Cha ta, là cái Nhân sinh ra ta, nhưng lại là Con
(Quả) của ông nội ta (Nhân). Nhân và Quả, vì vậy mới gọi là vô cùng vô tận. Nhà
Phật sở dĩ thuyết phục đạo luân hồi, lý của nó căn cứ vào chỗ này; dù ta không
đủ khiếu thần thông để nhận chứng, nhưng xét theo lý Nhân Duyên cũng có thể cho
rằng thuyết này đáng tin cậy được.
Phụ ghi
– Vài suy ngẫm của Trần Việt Sơn.
Bằng vài nét đơn giản, ông Thu Giang nêu lên thuyết Nhân Quả (bài này chưa
hết, còn một kỳ về Duyên và những quan niệm về Nghiệp (Tự nghiệp và Cộng
nghiệp)).
Tây Phương cũng có thuyết Nhân Quả (Loi de cause à effet) cho nên ta không
cần chứng minh rằng có Nhân thì có Quả. Cái hay của quan niệm Phật giáo Đông
Phương là đã nghiên cứu thật sâu rộng thuyết Nhân Quả. Nhận xét về hột cam và
trái cam, hoặc nhận xét theo khoa học Tây Phương, là nhận xét sơ đẳng để giải
thích cho dễ hiều. Thuyết Nhân Quả không phải chỉ giản dị có như vậy. Thuyết
Nhân Quả còn đem áp dụng cho việc làm của con người. Chúng ta đã thấy ở quanh
ta, biết bao con người làm việc hay rồi được giúp lại, biết bao con người ác
độc rồi bị cảnh không hay xẩy đến cho họ. Làm phúc được phúc, làm ác gặp ác, lẽ
đó rất thông thường. Thuyết Nhân Quả của Phật giáo, còn đi xa hơn thế, là vì
những Nhân tạo nên, có thể chưa đưa đến những Quả báo vào kiếp này, mà sẽ đưa
quả báo vào kiếp sau.
Có Quả báo nhãn tiền, tức là tạo Nhân rồi được Quả báo ngay (Quả báo ngay
trước mắt). Cũng có Quả báo không nhãn tiền, tức là Quả báo chờ lâu ngày mới
có, có khi phải chời qua đời sau mới có.
Hai thứ Quả báo đó chập vào nhau, nghiên cứu cho rõ rằng, khúc triết, thật
là một sự khó khăn. Nhưng lý thuyết Nhân quả của Phật giáo đã phân tích ra Nhân
và Duyên, lại xét đầy đủ 10 Nhân (sẽ nói đến 4 Duyên), kể như đã tìm tòi được
đầy đủ.
Cũng vì Nhân đời này tạo thành Quả đời sau, cho nên mới có Số Mạng và mới
có sự chứng minh về thuyết Luân Hồi, là những điều mà người Đông Phương tin
tưởng. Nếu không có Nhân, Quả thì không thể giải thích tại sao một con người
sanh ra lại mang sẵn những nét tướng ở mặt, những chỉ ở tay, và một lá số Tử Vi
của mình. Không phải là mình phải chịu đựng một số mạng một cách phi lý mà
chính là số mạng đó là Quả của những hành động của mình ở kiếp trước, tức là
Quả của những Nhân mà mình đã tạo ra. Cũng bởi thuyết Nhân quả như vậy, mà sự
tập trung của những người con tốt, hiếu hạnh, có vận mạng, vào những gia đình
phúc đức không có nghĩa là “các bậc cha mẹ phúc đức để lại đức cho con cháu và
làm cho con cháu tốt lành” mà có nghĩa là “những người con mang sẵn nghiệp quả
tốt, nhờ những Nhân của mình tạo ra trong đời trước, được chọn những gia đình
phúc đức để sanh ra”.
Dĩ nhiên cũng phải từ chỗ nhận hiểu về thuyết Nhân quả mà con người hiểu
rằng mình có thể cải đổi được số mạng.
Mời thư giãn với nhạc
phẩm GỬI NẮNG CHO EM
của Phạm Tuyên, qua tiếng hát Ngọc Tân:
*
TRẦN VIỆT SƠN
Địa chỉ: (đang cập nhật)
Email: (đang cập nhật)
Điện thoại: (đang cập nhật)
-
ĐẶNG XUÂN XUYẾN giới thiệu -
(Bài viết không thể hiện quan điểm của trang
Đặng Xuân Xuyến)
.
0 comments:
Đăng nhận xét