THÚ
CÂU CÁ
*
Như người bị căn bệnh dị ứng, tôi chẳng
thể nào quen được với những buồn vui của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, ngoài những buổi phải có mặt ở cơ quan làm việc, tôi
thường tìm về với những thú vui quê mùa, dân dã, khi thì cuốc xới, trồng tỉa
lại mảnh vườn, khi thì làm chút mồi câu ra bờ ao câu cá. Thú câu cá thật tuyệt
vời. Bạn hãy hình dung, khi chiếc lưỡi câu mang mồi thả xuống mặt nước trong
xanh, lập tức nó kéo theo cả đoạn dây câu bằng chất hoá học đồng màu chìm
nghỉm. Chỉ còn lại chiếc phao như con ong đang bị dính xuống nước, lắc lư, lắc
lư, dập dềnh, nhưng chẳng thể nào cất cánh để bay lên được. Thế là tất cả tâm
trí lúc này chỉ còn để vào chiếc phao nhỏ bé, mọi buồn vui giằng co, vay nợ tan
mau. Một bầu trời mở ra dưới nước cũng thăm thẳm không đáy, thỉnh thoảng làn
mây trắng như dải lụa vắt qua… làm ta quên mất trời ở trên đầu! Hàng tre bên bờ ao đang sắp
vào mùa rụng lá, khi làn gió nhẹ thoảng qua, một đôi chiếc lá bị bứt theo bay
là là trên những gợn sóng mãi rồi mới chịu dính xuống mặt nước ở phía bờ bên kia.
Người tìm ra thú câu cá trước cụ Nguyễn
Khuyến là ai? Chắc đã từ những trăm năm nghìn năm trước. Nhưng với tôi lúc này
thì thú câu cá mới chỉ bắt đầu từ khi có bài thơ của cụ Nguyễn. Tất cả trời,
nước, mây, gió thu gọn trong bài thơ tám câu, nó đưa ta vào với một thế giới mơ
màng, không thời gian, không năm tháng, không tuổi tên danh lợi…
Rồi tôi quên cả chiếc phao đang bập
bềnh trên mặt sóng để sống trong những hình ảnh bóng dáng của những câu thơ xưa…
nếu không có chiếc thuyền câu từ phía cầu ao nhà hàng xóm từ từ tiến ra theo
chiếc lưới tơ ướt ròng với những con cá rô bị mắc đang cố quẫy khi được kéo lên
khỏi mặt nước.
Giấc mơ vừa đầy ắp phút bỗng tan đi bởi
chiếc thuyền câu lù lù trước mặt. Tôi trở về với những nuối tiếc khôn cùng.
Sau lần ấy, mỗi khi nhớ tới bài thơ cụ
Nguyễn tôi lại gặp chiếc thuyền nan lồ lộ, nó không “bé tẻo teo” như trong câu thơ! Tôi đem câu chuyện kể với bạn bè khi
ngồi vui trà nước, thì được nhiều người tán thưởng, có lẽ do cái vần “eo” trong câu thơ mở đầu “Ao
thu lạnh lẽo nước trong veo” cụ Nguyễn đã chọn, bị vần luật của thơ “bát
cú”
lúc bấy giờ kéo đi nên câu thứ hai tiếp theo vẫn phải giữ vần “eo” thành “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Chứ ta hình dung sự tương quan phong cảnh chỉ trong một
cái làng, khi người ngồi còn thấy được cả gợn sóng lăn tăn, cái lá vàng bay vèo
qua, thì chiếc thuyền câu hẳn không thể “bé tẻo teo”. Thế mới biết các cụ làm
thơ xưa bị gò bó biết bao. Tài đến như cụ Nguyễn Khuyến cũng bị “bắt
voi bỏ rọ” để bài thơ như viên ngọc sáng còn chịu vết xước bên mình.
Con cháu ngày nay thật sung sướng đã được giải phóng trong thơ tự do, thơ không
vần, vậy mà vì sao viết vẫn không hay. Tôi đem những ý nghĩ này viết bài in
báo. Báo in, lại quên tên tác giả.
Một đêm, tôi mơ thấy cụ Nguyễn Khuyến
khăn áo tề chỉnh, tay cầm chiếc roi mây vút gió tiến lại phía tôi:
- Có phải anh đã đem bài thơ “Thu
điếu” của ta ra làm đề tài
khen chê trên báo?
Tôi giật mình, hệt như ngày xưa cắp
sách tới trường bị thầy quở trách. Tôi vội khoanh tay kính cẩn - Thưa, con đâu
dám thế?
Cụ điềm tĩnh rút từ ống tay áo đưa tờ
báo ra trước mặt tôi:
- Không phải thì ai đây…
anh đem chiếc thuyền câu so sánh tương quan với cái ao và cho là chiếc thuyền
câu không thể nào “bé tẻo teo” được, khi nhìn thấy cả những gợn sóng
và chiếc lá bay… nhưng sao anh không dám để tên mình dưới bài viết?
Không để cho tôi kịp thưa đấy là lỗi
của người chữa mo - rát, nhà in, chứ tôi đâu có ý làm vậy…
- Ta biết cả. Hôm nay ta về đây nói với
anh điều này: “Người cầm bút làm thơ, bàn thơ, phải đẩy ý đến tận cùng cho
rõ đúng sai mọi nhẽ. Anh bảo chiếc thuyền câu không “bé tẻo teo” thì nó phải thế nào mới tương xứng? Không trả lời được sẽ
ăn đòn!”.
Nhìn chiếc roi mây trong tay cụ, tôi
phát hoảng. Không có ai để cầu cứu, theo bản năng, óc tôi vụt hiện lên hình ảnh
chiếc thuyền câu buộc cạnh cầu ao, bóng soi xuống nước lung linh…
Như kẻ đuối vớ được cọc bám. Tôi chắp tay kính cẩn thưa:
- Chiếc thuyền câu có thể “lặng
bóng neo” ạ!
Không biết đúng sai thế nào, chỉ thấy
cụ Nguyễn bỗng mỉm cười nhặt tờ báo lên, quay gót.
Sáng dậy nhớ lại giấc mơ đêm qua, tôi
lẩm nhẩm: Ao thu với mặt nước trong veo, cho chiếc thuyền câu in bóng. Hai câu
thơ gắn liền lại làm nền (tĩnh) để gợn sóng lăn tăn (động) là phù hợp…
Đọc lại “Thu điếu” (trong mơ):
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu lặng bóng neo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Cụm từ “bé tẻo teo” khi được thay bằng “lặng bóng neo” đã bỏ được chữ “teo” cuối câu (2) khỏi trùng lặp với chữ “teo” cuối câu (6) - “Ngõ trúc quanh co khách
vắng teo” (theo luật thơ bát cú phải tránh).
Chiều ấy, tôi lại lững thững dắt cháu
ra bờ ao câu cá. Lạ chưa! Chiếc thuyền câu bên hàng xóm đang neo buộc ở cầu ao,
bóng in xuống nước lung linh, hệt như con thuyền đêm qua về đây neo đậu.
Mời thư giãn với nhạc phẩm KHÁT VỌNG của Thuận Yến
phổ thơ Đoàn Thị Lam Luyến, qua tiếng hát Thanh Lam:
*.
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Điện thoại: 035.881.82.63
Email: haicv08@gmail.com
...................................................................................................................
- Cập
nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 11.03.2020.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét