LUẬN
BÀN VỀ SAO
THÁI
DƯƠNG
*
Thái Dương ý
tượng là Mặt Trời. Cổ ca trong Tử Vi Đẩu
số Toàn Thư viết: “Từ ái lượng khoan đại. Phúc thọ hưởng hà linh” (Lòng từ
thiện, quảng đại, tuổi thọ lâu dài). Thái Dương ví như
Mặt Trời chiếu sáng cho vạn vật. Cây
cỏ đất đai người vật thiếu ánh nắng không thể sống. Nhưng vạn vật lại không bao
giờ phải đền đáp cái ân đó, Thái Dương chỉ cho đi thôi mà không nhận lại.
Thái Dương mặt hóp thân gầy/ Thông
minh tươm tất thảo ngay hiền hoà Câu phú nôm trên, dĩ nhiên, không thể nào nói
hết được tấm lòng bao dung của Thái Dương.
Hiểu rõ bản chất của Thái Dương ta
đem so sánh với Thái Âm thì thấy rằng “Thái Dương thường hành động là để phục
vụ, để trợ giúp, trong khi Thái Âm thì lại thường hành động vì tư lợi bản
thân”. Vì vậy cố nhân mới bảo Thái Dương “Quý nhi bất Phú” còn Thái Âm là tài
tinh, cái tâm Thái Âm ưa hưởng thụ, vơ vét.
Thái Dương thủ Mệnh vào hành chính,
y khoa hoặc công tác xã hội thì hợp và có thể đạt địa vị cao. Nhưng buôn bán
kinh doanh hoặc làm những việc gì cần mưu lợi, thủ đoạn lại thường rất dở.
Trong khi Thái Âm dễ vào kinh doanh, không phải vì Thái Âm giảo quyệt nhưng
Thái Âm tham hơn.
Thái Dương chủ Qúy cho nên khi
đoán Thái Dương
thủ Mệnh phải căn cứ trên chức vị, danh vọng. Không phải bất
phú là nghèo. Có địa vị, tất nhiên địa vị càng cao tiền càng nhiều.
Bất phú nghĩa là không tự mình làm
nên giàu có thế thôi. Ở trường hợp Thái Dương đóng Tài Bạch cung đắc địa lại
khác.
Thái Dương cần nhất đắc địa thì ánh
sáng mới quang minh. Thái Dương đóng Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ là Mặt Trời rực rỡ
buổi sáng buổi trưa. Thái Dương đóng Dậu, Tuất Hợi ví như Mặt Trời buổi đêm đã
mất quang huy.
Ngoài đứng đúng chỗ, Thái Dương còn
đòi hỏi người mang số Thái Dương phải sinh ban ngày mới là hợp cách, sinh ban
đêm giảm đi. Sinh ban ngày dù Thái Dương hãm cũng nửa hung nửa cát, sinh ban
đêm Thái Dương hãm tuyệt đối hung.
Thái Dương được cổ nhân gọi bằng
“trung thiên chi chủ” (chủ tinh giữa trời), giống sao Tử Vi cần bách quan tề
tựu. Tất nhiên không bao giờ có Thiên Phủ, Thiên Tướng triều củng.
Cách đẹp là Thái Dương đóng ở Thìn
hội chiếu Thái Âm đóng ở Tuất, gọi là Nhật Nguyệt song huy hay Nhật Nguyệt tịnh
minh. Thái Dương thuộc Hoả, quang minh chính đại, thông minh sái lệ, tài hoa.
Trong Ngũ hành trí tuệ Thuỷ có sự
khác biệt nhau. Trong hàng ngũ các sao, sự đa tài của Thái Dương cũng vậy, khác
với sự đa tài của Thiên Cơ.
Trí tuệ của Âm Mộc thâm trầm. Trí
tuệ của Dương Hoả quang minh lộ liễu
Thái Dương đa tài về mặt biểu hiện
làm chính trị, ra đám đông hoặc vào nghệ thuật biểu diễn như nhạc họa, kịch
nghệ là hợp cách. Thiên Cơ đa tài với kế hoạch trong bóng tối, làm chính trị ở
địa vị nghiên cứu, phân tích tình báo hoặc vào Thuật Số Âm Dương viết văn là
hợp cách.
Thái Dương thuộc Bính – Hoả mãnh
liệt, hoá khí là “Qúy” chứa chất phản kháng tính. Phá Quân cũng phản kháng nhưng
thường có khuynh hướng phản nghịch. Khác nhau thế nào? Vì Thái Dương bản chất
quang minh, thấy điều trái thì chống, nhưng chống đối với nguyên tắc không đi
quá đà đến mức phản nghịch. Trong khi Phá Quân cương mãnh làm theo ý mình muốn,
dễ quá khích đi đến phản nghịch.
Thái Dương đóng cung Quan lộc đắc
địa ý niệm khai sáng mở lối cao và vững. Một ngành nào đang trên đà xuống dốc
vào tay người Thái Dương Quan Lộc khả dĩ sẽ hưng thịnh trở lại. Thái Dương ở
Tài Bạch dễ có tiền, ưa phô trương tiền bạc qua ăn chơi, chưng diện…
Mệnh Thái Dương có một cách đặc
biệt, ấy là Thái Dương thủ Mệnh tại Hợi. Tại Hợi cung Thái Dương là phản bối.
Thái Dương mất đi vẻ huy hoàng – tương ý là Mặt Trời đêm. Thái Dương tại Hợi đi
vào một trong hai tình trạng cực đoan: hay cũng vô cùng mà dở cũng vô cùng; rất
thuận lợi hoặc rất khốn khó.
Thái Dương đóng Hợi nếu có trợ giúp
của Xương Khúc, Tả Hữu, Khôi Việt thì tuy thất huy nhưng vẫn được cải thiện
nhiều, có một đời sống dễ dãi được. Thái Dương cư Hợi lại hay vô cùng nếu như
nó gặp Thiên Mã, Hóa Lộc, Lộc Tồn tức cách Lộc Mã giao trì. Cách này bỏ xứ bỏ
quê mà đi rồi phấn đấu thành công phú quí.
Thái Dương tại Hợi gọi bằng Nhật
trầm thủy để (Mặt Trời chìm sâu đáy nước) có Lộc Mã giao trì lại thêm cả Binh
Hình Tướng Ấn thì ăn to vào thời loạn. Chư tinh vấn đáp viết: “Thái Dương được
các cát tinh khác thủ hay chiếu, rồi lại có Thái Âm đồng chiếu giàu sang đủ
cả…Nếu Thân cung Thái Dương đắc địa mà gặp nhiều cát tinh khả dĩ làm môn hạ
khách chốn công hầu, hoặc làm dân chạy cờ cho bậc công khanh”.
Thái Dương vào Mệnh với vào Thân
cung rõ ràng tạo ảnh hưởng khác biệt hẳn. Một đằng tự mình gầy dựng phú quí,
một đằng chỉ làm môn hạ khách ở nơi cửa quyền. Trừ trường hợp Mệnh cung tự nó
có cách tốt riêng. Trường hợp Thân cư Phối thì số gái lấy chồng sang, số trai
được vợ giàu sang hoặc gia đình vợ thế lực nâng đỡ, nhờ vả nhà vợ mà lên to.
Thái Dương ưa Xương Khúc và sợ Hóa
Kỵ. Có lý luận cho rằng nếu Thái Dương đắc địa gặp Hóa Kỵ càng tốt. Hóa Kỵ như
đám mây ngũ sắc khiến Thái Dương thêm rực rỡ. Không phải vậy, Thái Âm gặp Hóa
Kỵ đắc địa, Hóa Kỵ khả dĩ biến thành đám mây ngũ sắc, còn với Thái Dương thì
không.
Hóa Kỵ là đám mây đen, là ám tinh
trong khi tính chất căn bản của Thái Dương là quang minh, quang với ám chẳng
thể hợp cùng. Nhất là Mệnh nữ Thái Dương mà có Hóa Kỵ tất nhiên hôn nhân gẫy
vỡ, lúc nhỏ mồ côi cha hoặc xa cách, hoặc thiếu vì Thái Dương Hóa Kỵ như thế
bất lợi hoàn toàn với những người thân thuộc nam tính. Ngoài ra còn có thể bị
xảy thai, trụy thai.
Thái Dương hãm hội Riêu Kỵ, Thiên
Hình hoặc Kình Đà khó tránh khỏi bệnh tật ở đôi mắt.
Kình Đà Riêu Kỵ phá xung
Lại là đôi mắt chẳng mong được cùng
Kình Đà Riêu Kỵ khá kinh
Ắt rằng mắt chịu tật hình không ngoa
Gặp Riêu Kỵ rồi Kình Đà hay Hỏa Linh
thì cũng thế.
Cách cục Nhật chiếu lôi môn (Nhật xuất phù tang) trong Tử Vi
Thái Dương thủ Mệnh còn cách cục
trọng yếu khác: Nhật chiếu lôi môn, tức Thái Dương đóng tại Mão. Mão thuộc cung
Chấn, Chấn vi lôi (sấm sét). Khi đóng Mão đương nhiên
Thái Dương đứng cùng Thiên Lương.
Cách Nhật chiếu lôi môn tuyệt đối tốt nếu hội cùng Thái Âm Hợi với Hóa Lộc,
thêm Văn Xương, Văn Khúc càng đẹp, nhất là đối với chuyện thi cử khoa bảng. Như
phú viết: “Dương Lương Xương Lộc, lô truyền đệ nhất danh” (Dương Lương Xương
Lộc loa gọi người đỗ đầu).
Hiện đại cách Dương – Lương – Xương
– Lộc có thể là nhà phát minh, người làm những cuộc nghiên cứu nổi danh, một
tay thể thao tăm tiếng…Cách Dương – Lương
– Xương – Lộc phải là Thái Âm đi với Hóa Lộc chiếu qua mới hợp
cách.
Nếu Hóa Lộc đứng ngay bên cạnh Thiên
Lương thì lại kém hẳn. Tại sao? Vì quan hệ Thiên Lương với Hóa Lộc không ổn
thỏa (sẽ bàn khi luận về Thiên Lương).
Cách cục Thái Dương – Cự Môn (Cự – Nhật) trong Tử Vi
Về cách Thái Dương cặp với Cự Môn
tức “Cự Nhật đồng lâm”, hãy xếp qua phía Cự Môn. Ngoài ra còn những cách: Nhật
Nguyệt đồng cung Sửu /Mùi, Nhật Nguyệt chiếu bích, Nhật Nguyệt tịnh minh.
Cách cục Thái Dương – Thái Âm (Nhật – Nguyệt) trong Tử Vi
Nhật Nguyệt tịnh minh gồm có Dương
tại Thìn, Âm tại Tuất hoặc Dương tại Tỵ, Âm tại Dậu. Cách Nhật Nguyệt tịnh minh
cũng như các cách khác cần Tả Hữu, Xương Khúc, Khoa Quyền Lộc, học đỗ cao, địa
vị xã hội vững, kém hơn nếu bớt đi những phụ tinh, tuy nhiên không kể làm cách
đặc biệt.
Nhật Nguyệt đồng cung Sửu Mùi, nếu
Mệnh VCD Nhật Nguyệt Mùi hoặc Sửu thì chiếu đẹp hơn là thủ Mệnh. Căn cứ vào câu
phú: “Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu”
Phú đưa ra những câu:
Nhật Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an Sửu
hầu bá chi tài
Nhật Nguyệt Mệnh Thân cư Sửu Mùi, tam
phương vô cát phản vi hung
Cách trên là cách Nhật Nguyệt chiếu,
cách dưới là cách Nhật Nguyệt đồng thủ Mệnh.
Mấy người bất hiển công danh/ Bởi
chưng Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi “Nhật Mão, Nguyệt Hợi Mệnh Mùi cung,
đa triết quế” nghĩa là Mệnh lập tại Mùi không chính tinh, Hợi Nguyệt chiếu lên,
Nhật Mão chiếu qua học hành đỗ đạt cao, lấy vợ giàu sang.
Thái Dương đắc địa gặp Hóa Kỵ
Thí dụ Thái Dương tại Tỵ thì Cự Môn
đương nhiên tại Hợi, nếu có Hóa Kỵ hợp với Cự Môn hẳn nhiên xấu, tranh đấu cho
sự thành đạt khó khăn vất vả hơn gấp bội. Thái Dương đắc địa bị Hóa Kỵ dễ chiêu
oán, nếu đi vào ngành thầy kiện, thầy cò, cảnh sát làm chức nghiệp sinh sống
hợp hơn ngành khác.
Một số câu phú về sao Thái Dương trong Tử Vi
Nhật Nguyệt Dương Đà khắc thân
(Nhật Nguyệt gặp Dương Đà phần lớn khắc người thân).
Nhật Nguyệt Tật Ách, Mệnh cung
Không, yêu đà mục cổ
(Nghĩa là Mệnh Nhật Nguyệt gặp Tuần Triệt Không Vong hoặc ở cung Tật Ách có
Nhật Nguyệt gặp Tuần Triệt thường có tật ở mắt hoặc ở sống lưng).
Cổ ca còn ghi câu: “Thái Dương đắc
địa được sao Thiên Hình cũng đắc địa dễ phát võ nghiệp”.
Nhật Nguyệt phản bối hà vọng thanh
quang, tối hỉ ngoại triều Khôi Việt
(Thái Dương Thái Âm hãm tất tối ám, nhưng nếu được Khôi Việt hội tụ vào
Mệnh lại là người có khả năng thông tuệ đặc sắc).
Nhật, Nguyệt lạc Mùi cung, vi nhân
tiền cần hậu lãn
(Thái Dương hoặc Thái Âm đóng tại Mùi, làm việc lúc đầu chăm chỉ lúc sau vì
lười mà bỏ dở).
Dương Âm Thìn Tuất, Nhật Nguyệt bích
cung.
Nhược vô minh không diệu tu cần.
Song đắc giao huy nhi phùng
Xương Tuế Lộc Quyền Thai Cáo Tả Hữu
nhất cử thành danh chúng nhân tôn phục.
(Thái Dương ở Thìn, Thái Âm ở Tuất là cách Nhật Nguyệt đắc địa ở bích cung,
bích là bức vách chỉ ý chí, Thìn Tuất là Thổ, ngược lại nếu Thái Dương tại
Tuất, Thái Âm tại Thìn thì cần gặp Tuần Triệt, Thiên Không Địa Không để đảo lộn
thế hãm. Đã song huy rồi mà gặp cả Xương Tuế Lộc Quyền Tả Hữu Thai Cáo thì danh
phận phấn phát sớm chiều).
Nhật Nguyệt Sửu Mùi ái ngộ Tuần
Không,
Quí Ân, Xương Khúc ngoại triều tất
đường quán xuất chính
(Nhật Nguyệt đóng Sửu hay Mùi mà có Tuần Không, lại được Ấn Quang, Thiên
Qúy lại được Văn Xương, Văn Khúc có thể xuất chính làm quan về ngành văn)
Nhật Nguyệt Sửu Mùi,
Âm dương hỗn hợp,
Tự giảm quang huy,
Kỵ phùng Kiếp Triệt
(Nhật Nguyệt đóng Sửu hay Mùi nơi Mệnh cung, cả hai đều giảm đi vẻ rực rỡ
và rất sợ gặp Địa Kiếp và Triệt không).
Nhật Nguyệt Khoa Lộc Sửu cung,
Định thị phương bá công
(Nhật Nguyệt đồng cung tại Sửu cùng đóng với Khoa Lộc thì có thể sẽ được
vinh hiển).
Nhật Nguyệt Mệnh Thân cư Sửu Mùi,
Tam phương vô cát phản vi hung
(Mệnh Thân Sửu Mùi có Nhật Nguyệt đồng cung toạ thủ mà các cung tam hợp
chiếu không gặp sao nào tốt là hung mệnh – cả đời sẽ chẳng nên cơm cháo gì).
Nhật Nguyệt chiếu hư không
Học nhất tri thập
(Mệnh Vô Chính Diệu được Nhật Nguyệt miếu vượng hợp chiếu thì học một biết
mười)
Giáp Nhật giáp Nguyệt cận đắc quý
nhân
(Mệnh giáp Nhật Nguyệt đắc địa thường được gần cận bậc quý nhân)
Nhật lạc nhàn cung, sắc thiểu xuân
dung
(Mệnh có Thái Dương hãm thì vẻ mặt thường buồn bã, nhăn nhĩ).
Nhật tại Tỵ cung,
Quang mỹ huy thiên,
Kiêm lai Lộc Mã Tràng Tồn Phụ Bật,
Thế sự thanh bình vi phú cách,
Nhược kiêm Tướng Ấn Binh Hình vô lại
Tuần Triệt loạn thế công thành
(Thái Dương thủ Mệnh ở Tỵ, ánh sáng rực rỡ, đứng cùng Lộc Mã Tràng Sinh
hoặc Lộc Tồn, Tả Hữu thì thời bình giàu có; nếu đi cùng Tướng Quân, Quốc Ấn mà
không gặp Tuần Triệt thì thời loạn thành công)
Nhật cư Hợi địa,
Nhật trầm ải nội,
Ngoại củng tam kỳ,
Tả Hữu Hồng Khôi kỳ công quốc loạn
dị viên thành, h
Oan ngộ Long Phượng Hổ Cái bất kiến
sát tinh thế thịnh phát danh tài
(Thái Dương thủ Mệnh ở Hợi, ví như Mặt Trời lặn xuống biển, nếu được Khoa
Quyền Lộc và Tả Hữu, Hồng Loan, Thiên Khôi ở đời loạn hay lập công lạ. Nếu được
bộ Tứ Linh Long Phượng Hổ Cái mà không gặp sát tinh thì vào thời binh đao ắt
nổi danh là người tài cao).
Thái Dương tại Thuỷ,
Nhật trầm thuỷ để loạn thế phùng
quân,
Mạc ngộ sát tinh tu phòng đao nghiệp
(Thái Dương đóng Hợi thủ Mệnh tức là cách Nhật trầm thuỷ để, thời loạn thì
giúp quân vương lập chiến công, nhưng nếu bị sát tinh thì khó tránh khỏi hoạ
binh đao).
Nhật lệ trung thiên,
Ái ngộ Hình Tang Hổ Khốc vận lâm
(Thái Dương đóng Ngọ thủ Mệnh, cần gặp vận Thiên Hình, Tang Môn, Bạch Hổ,
Thiên Khốc công thành danh toại nguyện).
Nhật Nguyệt vô minh thi phùng Riêu
Kỵ Kiếp Kình ư
Mệnh giải, tật nguyền lưỡng mục
(Nhật Nguyệt hãm địa mà gặp Thiên Riêu, Hóa Kỵ, Kình Dương, Địa Kiếp ở Mệnh
hay Tật Ách có ngày hư mắt)
Nhật Nguyệt nhi phùng Hình Hoả,
Thân thiểu hạc hình
(Mệnh có Nhật Nguyệt mà gặp Thiên Hình, Hỏa Tinh thì dáng gày gò, mình hạc
xương mai).
Xét xem đến chốn thuỷ cung
Kỵ tinh yểm Nhật uý đồng Kình Dương
(Thái Dương hãm ở Hợi Tí mà lại gặp Kình Dương là rất xấu)
Nhật Nguyệt gặp Đà Linh chốn hãm
Hố Kỵ gia mục ám thong manh
(Nhật Nguyệt hãm ở Hợi Tí mà gặp Đà La, Linh Tinh lại thêm Hố Kỵ thì mắt
hỏng, mắt thong manh).
Thiên Tài gặp Nhật bất minh
Tính ưa lếu láo những khinh Phật
Trời
(Thái Dương hãm thủ Mệnh mà lại gặp sao Thiên Tài thì tính tình lếu láo, ưa
nhạo báng).
Mấy người phú quý nan tồn
Bởi vầng ô thỏ đóng miền sát tinh.
(Giàu sang phú quý không bền bởi tại Nhật Nguyệt đi cùng với hung sát
tinh).
Con em xa khứ xa hoàn
Bởi vì Nhật Nguyệt chiều miền Nô
cung
--------------
Mời nhấp chuột đọc thêm:
https://dangxuanxuyen.blogspot.com/2016/05/14-chinh-tinh-trong-la-so-nhung-ieu-bi.html
http://dangxuanxuyen.blogspot.com/2015/08/vi-tri-nhat-nguyet-tren-la-so-phan-1.html
https://dangxuanxuyen.blogspot.com/2016/11/kien-thuc-ve-tu-vi-sao-thai-duong-tac.html
*
ĐÀO ANH DŨNG
Địa chỉ: Thị tứ Phùng Hưng, xã Phùng Hưng,
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Email: anhdungdao131@yahoo.com.vn
...............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi qua email ngày
17.07.2019
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại..
.
0 comments:
Đăng nhận xét