NGÔN NGỮ THƠ
TRONG TRUYỆN KIỀU
(Tác giả Lê Thanh Long) |
Trước
tiên chúng ta tự hào mà khẳng định rằng Truyện Kiều là một tác phẩm
thơ vĩ đại, nó đã sống với thời gian trên hai trăm năm và còn sống mãi với nhân
dân Việt Nam. Sức sống trường tồn của tác phẩm là thước đo sự vĩ đại của tác
phẩm.
I.
ĐIỀU GÌ LÀM NÊN TÁC PHẨM TRUYỆN KIỀU BẤT HỦ
Nguyễn
Du là một thiên tài thơ, ngôn ngữ thơ của ông kỳ lạ, huyền hoặc không ai có thể
sánh được. Và đặc biệt Nguyễn Du có một ước ao, khát vọng cháy bỏng muốn sáng
tạo ra một tác phẩm để đời. Nguyễn Du có một tấm lòng nhân nghĩa, thông cảm, dễ
rung động, trước nỗi đau, nỗi thống khổ của con người. Một điều quan trọng nữa,
ông là một con người chân thực, viết ra những vần thơ chân thực tự đáy lòng
mình.
Kim
Vân Kiều truyện đã được thay đổi, sáng tạo, hư cấu, nhuận sắc lại qua nhiều
đời tác giả, nên cốt truyện khá hoàn chỉnh, hấp dẫn, các chi tiết phong phú,
phản ảnh được hiện thực xã hội. Có lẽ đây là lý do khiến Nguyễn Du chọn Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân làm cái nền để thêm hoa, thêm gấm, rót vào
đó những suy ngẫm, trăn trở, khát khao, để xây nên một tòa lâu đài lấp lánh ánh
vàng, đó là một thiên truyện thơ làm mê hoặc lòng người.
Truyện
Kiều hay xét cho cùng là do chất thơ lục bát, ngôn ngữ thơ tinh diệu mang lại,
nó phải được xếp hàng đầu trong bảng đánh giá Truyện Kiều.
Nếu
tất cả các mặt trong việc xây dựng nên câu chuyện đều đạt được như Thanh Tâm
Tài Nhân mà tài thơ, ngôn ngữ thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều không đạt tới
đỉnh cao “tót vời”, thì liệu Truyện Kiều có nổi tiếng như hiện nay không?
Nói
như vậy để khẳng định lại một lần nữa ngôn ngữ thơ là cái tinh túy hạng nhất,
là tinh hoa của Truyện Kiều.
Dù
ở trình độ nào đi nữa, là người Việt Nam đều có thể cảm nhận được cái hay của
Truyện Kiều. Đó chính là thành công mà Nguyễn Du mong đợi.
II.
NGUYỄN DU CÓ PHẠM LUẬT LỤC BÁT KHÔNG?
Thể
thơ lục bát sớm nhất cũng chỉ xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ
15. Lúc đầu vần điệu của thơ lục bát không như bây giờ, mà là chữ thứ 6 của câu
lục vần với chữ thư 4 của câu bát, người ta gọi là lục bát cổ. Đến thế kỷ thứ
17, luật lục bát đã hoàn thành sứ mệnh của mình, khi chữ thứ 6 của câu lục
chuyển sang vần với chữ thứ 6 của câu bát. Lúc này nếu làm thơ lục bát mà chữ
thứ 6 của câu lục vần với chữ thứ tư của câu bát là đã phạm luật lục bát.
Thơ
lục bát gồm từng cặp 6 và 8 lặp đi lặp lại không thay đổi về số chữ, trong đó
câu lục chỉ có một vần ở chữ thứ 6, còn câu bát có hai vần, một vần ở chữ thứ 6
hiệp với chữ thứ 6 của câu lục trên và một vần ở chữ thứ 8, hiệp vần với chữ
thứ 6 của câu lục dưới. Tất cả các vần đều là vần bằng (không có vần trắc). Câu
bát có hai vần khác nhau; hai vần này không thể là phù bình hay trầm bình, tức
là chữ thứ 6 nếu không có dấu thì chữ thứ 8 phải có dấu huyền và ngược lại. Hai
chữ này không được dùng một thanh điệu (cùng dấu không hay cùng dấu huyền).
Những điều này là bắt buộc, không có ngoại lệ:
139.
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,
Cỏ
pha màu áo nhuộm non da trời
Thơ
Lục bát phải tuân theo luật bằng trắc sau đây:
BB
TT BB 1, 3, 5 bất luận
BB
TT BB TB 2, 4, 6 phân minh
Ở
các chữ 2, 4, 6 bắt buộc phải tuân theo luật bằng trắc, còn các chữ 1, 3, 5, 7
không bắt buộc phải tuân theo luật bằng trắc. Các chữ có dấu sắc, hỏi, ngã,
nặng là vần trắc.
Hai
chữ trắc thứ tư bắt buộc ở câu lục và câu bát làm thành một cái trục, xung quanh
đó thơ lục bát xoay chuyển.
Thơ
Lục bát là thể thơ có tính chất dân gian (ca dao). Nhịp điệu cơ bản của thơ lục
bát là nhịp đôi, thể hiện thành quan hệ 2/2/2 trong câu lục và quan hệ 2/2/2/2
trong câu bát.
Nhịp
điệu trong thơ lục bát đều đều khá tẻ nhạt.
Vì
vậy Nguyễn Du đã chú ý, chủ động phá vỡ cái khuôn hình của luật lục bát. Nguyễn
Du đã áp dụng cách đối vào thơ lục bát trong cả hai câu lục và câu bát và sáng
tạo ra hai cách đối; đối chuẩn (đối chọi) và đối cân. Cách đối của Nguyễn Du là
đối trong cùng một câu lục hoặc câu bát.
Đối
chuẩn (đối chọi) là đối đúng theo quy tắc trường ốc, đối từng âm tiết, bằng
trắc:
Mai
cốt cách, tuyết tinh thần
Nền
phú hậu, bậc tài danh
Người
yểu điệu, kẻ văn chương
Đối
cân là câu thơ cân đối chia làm hai vế, nhưng không chọi nhau, tức là không cần
đối nhau từng từ, không cần đối nhau về bằng trắc:
Có
cổ thụ, có sen hồ
Khi
gió gác, khi trăng sân
Xét
trên phương diện luật lục bát là Nguyễn Du đã phạm luật lục bát, vì chữ thứ 2
đáng lẽ là vần bằng thì Nguyễn Du lại đổi ra vần trắc, Chữ “khi” (chữ thứ 4)
đáng lẽ phải là vần trắc thì Nguyễn Du lại đổi ra vần bằng. Tất nhiên Nguyễn Du
biết điều đó.
Câu bát khi có đối cân hay không có đối Nguyễn Du vẫn tuân thủ đúng luật lục
bát:
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm
Việc
phá vỡ luật lục bát trong phạm vi câu lục, tạo ra một vế đối chuẩn hoặc một vế
đối cân, nhằm đa dạng nhịp điệu câu thơ, tránh cái nhịp điệu đều đều của thơ
lục bát.
Nếu
tỉ lệ âm tiết vần trắc quá thấp, câu thơ sẽ êm ái, dịu dàng, nhưng mất sức
mạnh, mất tính đa dạng. Trong câu lục âm tiết vần trắc bắt buộc chỉ là 1, vần
bằng là 2, còn số lượng âm trắc cao nhất là 4. Cho nên muốn tăng âm trắc làm
cho câu thơ mạnh mẽ hơn, bắt buộc phải phá vỡ luật bằng trắc:
Có
cổ thụ, có sơn hồ - (4 trắc)
Nước
vỏ lựu, máu mào gà - (4 trắc)
Hết
nạn nọ, đến nạn kia - (5 trắc)
Nói
một cách công bằng thì Nguyễn Du đã phạm luật lục bát, nhưng là sự phạm luật
cần thiết, đáng yêu, để sáng tạo ra một “luật lục bát mới”. Ngày nay làm thơ
theo kiểu Nguyễn Du như trên người ta không cho là phạm luật lục bát. Nói cách
khác, dân thơ ca, các nhà nghiên cứu, bình luận Việt Nam đã chấp nhận và công
nhận “luật lục bát mới” của Nguyễn Du.
III.
THƠ LỤC BÁT NGUYỄN DU THUỘC LOẠI HÌNH NÀO?
Thơ
lục bát Nguyễn Du thuộc loại thơ tả thực, tả tình, tượng trưng, ước lệ, ẩn dụ
tu từ. Khi miêu tả nội tâm, tâm lý nhân vật, Nguyễn Du dùng phương pháp thơ
tượng trưng, ước lệ, ẩn dụ tu từ, còn khi tả cảnh ông dùng lối thơ tả thực, ẩn
dụ, khi miêu tả nhân vật ông kết hợp thơ tả thực, tượng trưng và ẩn dụ. Những
câu thơ loại này có ở khắp nơi trong Truyện Kiều, chúng tôi xin trich dẫn một
số câu:
283.
Song hồ nửa khép cánh mây
Tường
đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.
Tấc
gang động khóa nguồn phong,
Tuyệt
mù nào thấy bóng hồng vào ra.
“Song
hồ nửa khép cánh mây” là của sổ có chấn song, có dán giấy khép kín hai “cánh
mây”
Tuy
gần trong gang tấc, nhưng động bị khóa, các nguồn tin bị phong tỏa, nên tuyệt
nhiên mù mịt chẳng thấy “bóng hồng” Thúy Kiều “vào ra”.
361.
Vội vàng lá rụng hoa rơi,
Chàng
về thư viện nàng dời lầu trang.
“Vội
vàng lá rụng hoa rơi” là cách nói tương trưng ẩn dụ, chỉ hai người Kim Trọng và
Thúy Kiều rời nhau ra nhanh chóng, chàng thì về “thư viện”, còn nàng thì dời về
“lầu trang”, vì “Mé sau dường có xôn xao tiếng người”.
389.
Lần theo núi giả đi vòng,
Cuối
tường dường có nẻo thông mới rào.
Sẵn
tay mở khóa động đào,
Rẽ
mây trông tỏ lối vào Thiên Thai.
“Sẵn
tay mở khóa động đào/ Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai” là câu thơ lấy tích
cổ, “mở khóa động đào” mở khóa Đào Nguyên (mở cái lối rào sang với nhau). “Rẽ
mây trông tỏ lối vào Thiên Thai”, bây giờ chỉ cần nhẹ nhàng “rẽ mây” là đã “trông
rõ lối vào Thiên Thai”, nghĩa là khi cả hai đã yêu nhau thì việc đến với nhau
là quá dễ dàng để vào cái động Thiên Thai mơ ước bấy lâu.
845.
Tiếc thay một đóa trà mi,
Con
ong đã mở đường đi lối về!
Là
cách nói tượng trưng, ước lệ, ẩn dụ tu từ, một cách lịch sự tế nhị, chỉ hành
động “bẻ hoa” của Mã giám sinh với một chữ “mở” hoặc chữ “tỏ” kỳ diệu.
IV.
THƠ LỤC BÁT TRONG TRUYỆN KIỀU
Thơ
lục bát là hồn cốt dân tộc Việt Nam. Nó đã chạm đến tầng sâu ngôn ngữ và tâm
hồn người Việt. Nó nhập vào, ăn sâu vào tâm tư, tình cảm người Việt, âm điệu
của thơ lục bát khi vang lên là làm cho người Việt Nam như say hương rượu,
hương đồng nội, hương tình… một thứ hương vô hình mà đầy quyến rũ. Lục bát là
món ăn tinh thần kỳ diệu của người Việt Nam. Riêng Truyện Kiều là món ăn tinh
thần đặc biệt, kỳ thú ai cũng muốn thưởng thức.
Thơ
Nguyễn Du kết hợp được cả thơ bình dân và bác học, nên Truyện Kiều lôi cuốn,
hấp dẫn cả người thường và người có học thức cao.
Thơ
lục bát của Nguyễn Du ở đẳng cấp thượng thừa, từng câu, từng chữ không thừa
không thiếu. Đọc Truyện Kiều người đọc có cảm tưởng Nguyễn Du làm thơ mà câu
chữ trong đầu cứ tuôn chảy như suối nguồn không dứt. Đối với ông, sáng tác thơ
lục bát giống như dạo chơi trên cánh đồng ngôn ngữ, mà trước mắt là “Cỏ non
xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
Thơ
lục bát trong Truyện Kiều có gì đặc biệt.
1.
Tỉ lệ vần bằng và vần trắc trong thơ Kiều
Để
làm việc này với cả 3254 câu thơ cũng không khó, nhưng không cần thiết, nên
chúng tôi chỉ thống kê 100 câu thơ từ 1 - 100 (tức là 700 chữ) trong Truyện
Kiều xem tỉ lệ giữa vần bằng và vần trắc trong thơ Kiều là như thế nào?
Tỉ
lệ vần bằng và vần trắc trong thơ Kiều thống kê được là 60/40. Tức là trong 10
câu thơ lục bát (70 chữ) thì có 42 vần bằng và 28 vần trắc. Thơ Lục bát có tỉ
lệ vần bằng nhiều hơn vần trắc, nên khi đọc lên nghe du dương, êm ái, nhưng
nhịp điệu 2/2/2 của thơ lục bát cứ lặp đi lặp lại nghe lâu dễ nhàm chán. Vì vậy
câu thơ lục bát muốn cho mạnh và muốn thể hiện cái trúc trắc, khó khăn, nguy
hiểm phải tăng tỉ lệ vần trắc lên.
Theo luật lục bát, trong câu bát chữ thứ hai phải là vần bằng, chữ thứ 6 vần
với chữ thứ 6 của câu lục trên, nên cũng có vần bằng, chữ thứ 8 phải vần với
chữ thứ 6 của câu lục dưới, nên cũng có vần bằng. Như vậy trong câu bát vần
bằng tối thiểu là ba, vần trắc tối đa là 5.
2.
Những câu bát có tỉ lệ vần trắc tối đa và vần bằng tối thiểu:
2.
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (5 trắc, 3 bằng)
870.
Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh
(5
trắc, 3 bằng)
34.
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân (5 trắc, 3 bằng)
44.
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh - (5 trắc, 3 bằng)
Mé
ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe - (5 trắc, 3 bằng)
86.
Sụp ngồi bạ cỏ trước mồ bước ra - (5 trắc, 3 bằng)
Trong
một câu lục, chữ thứ 2 và thứ 6 phải là vần bằng, chữ thứ 4 phải là vần trắc.
Như vậy trong một câu lục vần trắc tối đa là 4 và vần bằng tối thiểu là 2.
3.Những
câu lục và câu bát có tỉ lệ vần trắc tối đa và vần bằng tối thiểu:
3.1.
Tỉ lệ vần trắc tối đa trong câu lục và trong câu bát
Chúng
tôi thống kê xem trong 200 câu thơ đầu tiên (từ 1 -200) trong Truyện Kiều có
bao nhiêu câu lục có vần trắc tối đa và bao nhiêu câu bát có vần trắc tối đa.
3.2.
Các câu lục có vần trắc tối đa (4 vần trắc):
3.
Trải qua một cuộc bể dâu
67.
Có người khách ở viễn phương
79.
Trải bao thỏ lặn ác tà
93.
Gọi là gặp gỡ giữa đường
99.
Rút trâm sẵn giắt mái đầu
103.
Lại càng ủ dột nét hoa
119.
Một lời nói chửa kịp thưa
141.
Nẻo xa mới tỏ mặt người
177.
Một mình lặng ngắm bóng nga
197.
Mấy lòng hạ cố đến nhau
Có
10 câu lục, có vần trắc tối đa là 4, trong tổng số 100 câu lục, chiếm 10%. Như
vậy tỉ lệ câu lục có vần trắc tối đa (4 vần trắc) là 10%.
3.3.
Các câu bát có vần trắc tối đa (5 vần trắc):
2.
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
34.
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
44.
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
96.
Sụp ngồi bạ cỏ trước mồ bước ra
120.
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay
132.
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi
142.
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình
166.
Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉ khôn
Có
8 câu bát, có vần trắc tối đa là 5, trong tổng số 100 câu bát, chiếm 8%. Như
vậy tỉ lệ câu bát có vần trắc tối đa (5 vần trắc) là 8%.
3.4.
Tỉ lệ vần trắc tối thiểu trong câu lục và câu bát
3.4.1.
Các câu lục có vần trắc tối thiểu (1 vần trắc)
1.
Trăm năm trong cõi người ta
39.
Ngày xuân con én đưa thoi
131.
Lòng thơ lai láng bồi hồi
145.
Chàng Vương quen mặt ra chào
147.
Nguyên người quanh quất đâu xa
173.
Gương nga vành vạnh đầy song
193.
Thưa rằng: Thanh khí xưa nay
Có
7 câu lục, có vần trắc tối thiểu là 1, trong tổng số 100 câu lục, chiếm 7%. Như
vậy tỉ lệ câu lục có vần trắc tối thiểu (1 vần trắc) là 7%.
3.4.2.
Các câu bát có vần trắc tối thiểu (1 vần trắc)
Các
câu bát có vần trắc tối thiểu (1 vần trắc):
70.
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ
138.
Sau chân theo một vài thằng con con
152.
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa
Có
3 câu bát, có vần trắc tối thiểu là 1, trong tổng số 100 câu bát, chiếm 3%. Như
vậy tỉ lệ câu bát có vần trắc tối thiểu (1 vần trắc) là 3%.
Trên
đây thống kê các câu thơ có vần trắc tối đa và vần trắc tối thiểu, số còn lại
là các câu lục có vần trắc từ 2 - 3, chiếm 82% [100 - (10 + 8)] và các câu bát
có vần trắc từ 2- 4 chiếm 90% [100 - (7 + 3)].
Như
vậy theo thống kê sơ bộ, các câu lục và các câu bát có vần trắc tối đa chiếm
18% (10% + 8%), còn các câu lục và các câu bát có vần trắc tối thiểu chiếm 10%
(7% + 3%).
Thơ
Nguyễn Du tinh diệu, mênh mông, huyền ảo và quyến rũ, câu chữ như thần. Thơ
Kiều lúc tả cảnh, lúc tự sự, lúc triết lý… nó vừa như thực vừa như hư, chữ nào
cũng đẹp, câu nào cũng hay, càng đọc càng thấy hay, càng nghĩ càng thấy thấm
thía, càng thấy sâu sắc, càng thấy mê hoặc… lôi cuốn và làm mê đắm lòng người.
*.
LÊ THANH LONG
Địa chỉ: Phòng 1132, nhà
HH03C, Khu đô thị Thanh Hà,
xã
Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
Email: lethanhlong321@gmail.com
Điện thoại: 0822.098.772
...........................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày
10.09.2020
- Ảnh dùng
minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét