THỜI ÁO LÍNH
-
MỘT HỒI KÝ
TRUNG THỰC
*
(Tác giả Tống Thị Hạnh) |
Tôi được
biết về cuốn “Thời áo lính” của bác Trần Mỹ Giống khi còn là những trang bản
thảo với gần 40 nghìn con chữ. Người tiền bối đáng kính của chúng tôi, ở tuổi
70, vẫn cặm cụi bên chiếc máy tính cũ kỹ. Miệt mài và nhẫn nại. Dốc tâm, dồn
lực. Viết để nhìn lại, để kết nối, xâu chuỗi những sự kiện đời mình. Để giãi
bày. Để yêu thương hơn những buồn - vui, sướng - khổ. Và cũng để nguôi ngoai
những nhớ thương bạn bè, đồng đội của một thời xưa cũ.
Sách
được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân biên tập gọn ghẽ trong 190 trang in, khổ
14,5 x 20,5 cm, ấn hành năm 2018, đúng vào dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội
nhân dân Việt Nam (22/12), phát hành cho các thư viện trong hệ thống thư viện
quân đội. Năm 2019, cuốn Thời áo lính của bác lại được nhà xuất bản Quân đội
nhân dân xuất bản lần hai số lượng ngàn cuốn theo đơn đặt hàng của nhà nước
phát hành trong các thư viện thuộc hệ thống thư viện công cộng nhà nước. Với
bác - một người cựu chiến binh, đó là mốc dấu thực sự ý nghĩa.
Tôi đã
đọc “Thời
áo lính” trong một đêm. Bằng tâm thế của một độc giả. Vẫn vẹn nguyên
nỗi xúc động khi chứng kiến thăng - trầm trong cuộc đời người lính. Vẫn bị cuốn
hút bởi những câu chuyện ngỡ đã thân quen. Những câu chuyện ấy, phần nhiều tôi
đã được nghe, hoặc được chứng kiến. Vì với gia đình tôi, bác vốn là người gần
gũi, gắn bó. Còn với tôi, bác là bậc tiền bối đáng kính, đã dìu dắt tôi từ
những ngày chập chững vào nghề.
Cuốn
sách chia hai phần: Phần một tái hiện cuộc sống gian khổ ác liệt đầy biến cố
của tác giả và đồng đội những năm tháng chiến đấu ở Quảng Trị và Lạng Sơn từ
1971 đến 1980. Phần hai viết về cuộc sống đời thường vượt lên khó khăn giữ vững
phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ… Xoay quanh đó, là chuyện quê hương, gia đình, bè
bạn, chuyện học hành, chuyện công việc, với muôn mặt đời thường, với ngổn ngang
nhân tình thế thái.
Tháng 9
năm 1971, khi đang là sinh viên năm thứ 4 Đại học Thư viện, bác nhập ngũ biên
chế tại đại đội 10 Tiểu đoàn 19 Trung đoàn 101 Sư đoàn 325. Với bác “Đi bộ đội như một việc tất nhiên phải thế”
dù biết rõ “những năm 1970 - 1972, đi bộ
đội vào Nam chiến đấu rất ít hy vọng có ngày trở về”.
Qua thời
gian huấn luyện về chiến thuật, chiến lược, kỹ thuật sử dụng vũ khí và tác
chiến, Trung đoàn được lệnh đi Nam .
Hai tháng hành quân từ núi Côn Sơn (Chí Linh - Hải Dương) tới Quảng Trị đã thực
sự gian khổ. “Sự gian khổ nhiều khi đến
cơ cực với người gầy yếu “gió thổi bay” như bác. Nhưng con đường trước mắt còn
ác liệt bội phần. “Đó là chiến trường thực thụ, là lò lửa khủng khiếp của bom
đạn, đó là sự hy sinh, mất mát để giành lấy độc lập, tự do và cuộc sống hòa
bình của dân tộc” (Tr. 63)…
Lật giở
từng trang sách, trước mắt tôi hiển hiện hình ảnh những người lính áo quần bám
đầy bụi đất khói súng, răng trắng ởn, mắt lấp lóe ánh đèn dù, tóc bết vào thái
dương, mồ hôi chảy giọt trên khuôn mặt xạm đen khói súng, mấy giọt rớt trúng
nòng súng sủi lên rồi biến mất… Chỉ mấy dòng mô tả như thế đã làm người đọc cảm
nhận được cuộc chiến đấu ở Quảng Trị năm 1972 của những người lính ác liệt biết
chừng nào.
Khi viết
hồi ký, bác chỉ mong giãi bày những gì hiện hữu trong đời mình, không tham vọng đại diện cho “người của một thời”, nhưng sự khốc liệt
của chiến tranh vẫn hiện lên rõ nét qua những cảm xúc riêng tư của người lính
chiến: những khắc khoải cách xa, những lo âu trĩu nặng, có tinh thần phơi phới,
có cả nỗi buồn và nỗi hoang mang. Người đọc thấy thấm thía nỗi buồn chiến tranh
không chỉ qua những trận đánh, những đạn bom, chết chóc, hy sinh mà qua cả sự
gấp gáp, vội vàng của “đám cưới thời chiến” trước khi người lính đi B; qua câu
chuyện người mẹ dáng “gầy quắt queo, bước liêu xiêu” vẫn đủ sức đi bộ hàng trăm
cây số lên nơi con đóng quân. Người mẹ ấy, suốt quãng thời gian con chiến đấu ở
Quảng Trị, “đã đi kêu cầu, cúng bái ở
nhiều chùa, đốt cơ man là lính giấy để “bảo vệ” thằng con cả của bà”.
Rời cuộc
chiến, với những vinh quang và cả thất vọng, mất mát… người lính ấy lại cặm cụi
học hành, lại nhiệt tâm tận hiến trong công việc, lại bươn chải mưu sinh. Có
niềm vui. Có những ẩn ức, chất chứa. Nhưng điều dễ nhận thấy từ những trải
nghiệm thấm thía, những suy tư sâu lắng của bác là bản lĩnh và tâm thế của một
người lính vẫn sáng lên trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Cuốn hồi
ký được viết theo mạch chảy thời gian, xen kẽ những đoạn hồi ức trong hồi ức,
với lối trần thuật giản dị, thành thực. Bác cứ nhẩn nha kể hết chuyện này đến
chuyện khác. Và những cảnh đời, những biến cố, những cảm xúc cứ thế đi ra từ
cõi nhớ, vẹn nguyên, không chút màu mè tô vẽ, yêu - ghét thế nào bộc lộ cả ra.
Cách kể thật thà, không né tránh, giấu giếm của bác có thể làm phật lòng vài
người, cũng có thể làm chạnh lòng nhiều người vì chạm tới những điều rất đỗi
riêng tư…
Tôi thực
sự khâm phục “sức” viết và “sức” nhớ của
bác. Bác viết nhanh, gần như không phải đắn đo, chỉnh trang câu chữ. Ở tuổi gần
70, tự nhận “trí não già nua”, lại
thêm những di chứng của “nhiều lần sức ép
bom B52” làm bác “suy nhược thần kinh
kéo dài nhiều năm sau” bác vẫn nhớ rành rẽ từng biến cố, từng mốc dấu thời
gian, từng tên người… tỉ mỉ đến chi tiết. Người ta có thể dễ dàng nhận ra những
dấu ấn nghề - nghiệp in đậm trong từng trang hồi ký: nét tư duy hệ thống, mạch
lạc ở người làm công tác thư viện, và cả sự cẩn trọng, cặn kẽ, chu toàn của một
người làm nghiên cứu.
Điều
đọng lại trong tôi, khi đọc cuốn hồi ký là tình cảm gia đình ấm áp. Từ những
chuyện mang màu sắc tâm linh về người “mẹ già” đã mất; đến chuyện về “người u”
bằng thứ tình yêu vĩ đại mình mà trở thành lá chắn cho con vượt qua mưa bom bão
đạn. Bởi “Những năm ấy đi chiến đấu là
vào giai đoạn khốc liệt. Nói dại, nếu tôi chết, hẳn bà khó sống được. Tôi tự
nhủ: Phải sống, phải hy vọng, dù có mong manh”… Rồi tình yêu bền bỉ theo
thời gian của bác và người vợ hiền - vốn là đồng môn, đồng nghiệp; những sẻ
chia, đùm bọc của anh chị em trong nhà; niềm tự hào khó giấu khi bác nhắc đến
con, đến cháu… Cái mạch nguồn trong trẻo ấy, lặng lẽ hiện hữu giữa mảng sáng -
tối đan xen, nhân lên niềm vui, và xoa dịu những muộn phiền. Suy cho cùng, cuộc
sống có thế nào, với người lính, được
sống, được trở về với gia đình… vốn dĩ đã là niềm hạnh phúc!
Thời áo lính, một cuốn hồi ký trung thực, sự kiện và suy tư như thế
nào viết đúng như thế. Có lẽ đây là điều được người đọc trân trọng nhất đối với
cuốn sách và tác giả.
Mời thư giãn với nhạc phẩm HÁT MÃI KHÚC QUÂN HÀNH
của Diệp Minh Tuyến, do Tốp ca Đài Tiếng Nói Việt Nam thể hiện:
*.
TỐNG THỊ HẠNH
Địa chỉ: Thư viện tỉnh
Nam Định, số 100 Lê Hồng Phong
Phường Phan Đình Phùng, thành phố Nam Định
Điện thoại: 0975.199.195
.
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email: tranmygiong@gmail.com,vn,
ngày 10.09.2020.
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét