GIAI THOẠI
VỀ LÊ QUÝ ĐÔN
*
Vừa rồi có người Thầy giáo cũ vốn là Thầy dạy
học của anh ruột tui thời trung học, tui cũng gọi là Thầy, có hỏi tui về mấy
câu đối nổi tiếng lâu nay. Trong quá trình tìm tư liệu để trả lời Thầy cho đầy
đủ, tui tìm được mấy giai thoại về câu đối của Lê Quý Đôn. Xin chép ra đây mọi
người cùng đọc
Lê Quý Đôn thuở nhỏ tên là Lê Danh Phương, quê ở
làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ (nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập,
huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Một lần, Lê Danh Phương cùng các bạn thiếu niên
thường ra cái ao rộng trước cổng làng để tắm. Bỗng có một vị quan lớn đi qua;
có ý hỏi đường đến thăm nhà quan Thượng Thư Lê Phú Thứ. Cậu bé Lê Danh Phương
thản nhiên đứng dạng hai chân, dang hai tay ra để cản đường. Rồi cậu nói: “Đố
ông biết chữ gì đây? Nếu biết, cháu sẽ đưa ông về nhà, còn nếu không thì đợi
đấy!” Vị quan lớn rất khó chịu và không muốn trả lời… Lê Danh Phương liền
giải thích: “Chữ Thái (太), thế mà cũng không biết!”… Cuối cùng, vị quan
lớn cũng tìm đến được nhà bạn. Ông rất ngạc nhiên khi thấy cậu bé trần truồng
hồi nãy, bây giờ lại đang ngồi im trên cái ghế đẩu ở trong vườn nhà quan
Thượng. Khi nghe vị quan bạn thuật lại chuyện với một thái độ bực dọc, quan
Thượng thư Lê Phú Thứ cảm thấy rất ngượng ngùng, xấu hổ với bạn; lập tức gọi Lê
Danh Phương vào nhà để mắng, rồi ra điều kiện: cậu phải làm ngay một bài thơ
với đầu đề "Rắn đầu biếng học" để xin lỗi cha và bác; nếu
không làm được thì sẽ bị đánh đòn. Chỉ một lát sau, Lê Danh Phương đã viết xong
bài thơ và thoát được đòn roi của cha.
Nội dung bài thơ như sau:
Chẳng phải Liu Điu vẫn giống nhà,
Rắn đầu biếng học lẽ không tha,
Thẹn đèn Hổ Lửa đau lòng mẹ,
Nay thét Mai Gầm rát cổ cha,
Ráo mép chỉ quen lời lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vết roi da,
Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học,
Kẻo Hổ Mang danh tiếng thế gia
(Để thể hiện lời tự thú, tự trách, tự hứa của
bản thân trước người cha và người bạn của cha mình, ngoài việc sử dụng thể thơ
thất ngôn bát cú Đường luật nghiêm trang, ngắn gọn, chặt chẽ; ngoài việc sử
dụng những yếu tố ngôn từ trong một số câu tục ngữ và đơn vị thành ngữ tiếng
Việt rất tế nhị; ngoài việc sử dụng kết hợp từ thuần Nôm với một vài từ Hán -
Việt và điển cố văn học khá hợp lý, Lê Danh Phương còn chú ý sử dụng nhiều danh
từ tiếng Việt chỉ một số loài bò sát, nhất là một số loài rắn độc. Từ rắn là
một danh từ chỉ động vật thuộc loài bò sát, thân dài có vảy, không chân, di
chuyển bằng cách uốn thân. Trong bài thơ Rắn đầu biếng học của Lê Danh Phương,
từ rắn đầu là danh từ đã được chuyển hóa thành tính từ để chỉ từ rắn trong rắn
mặt - một khẩu ngữ; nói về hạng trẻ con không chịu nghe theo những lời dạy dỗ
của cha mẹ, bất chấp cả sự răn đe của người trên và trở nên rất bướng bỉnh, khó
bảo. Tương tự, từ liu điu là một danh từ chỉ loài rắn nhỏ, có nọc độc ở hàm
trên, đẻ con, sống ở ao hồ, ăn ếch nhái đã được tác giả sử dụng trong câu phá
đề theo biện pháp tu từ ẩn dụ để chỉ hạng người không được học hành, bình
thường. Từ hổ lửa là một danh từ chỉ loài rắn độc có khoang, màu đỏ như màu lửa
được tác giả dùng trong câu thực thứ nhất theo phép chuyển nghĩa thành tính từ
thể hiện một phản ứng tâm lý hổ thẹn của con người; ở đây là người mẹ. Từ mai
gầm là danh từ chỉ chung loài rắn độc còn có tên là cạp nong, cạp nia. Rắn cạp
nong thân có nhiều khoang đen - vàng xen kẽ. Rắn cạp nia thân có nhiều khoang đen
- trắng xen kẽ, cỡ nhỏ hơn cạp nong. Từ mai gầm là danh từ được tác giả sử dụng
trong câu thực thứ hai theo phép chuyển nghĩa thành động từ thể hiện thái độ
giận dữ, bực tức của con người; ở đây là người cha. Từ ráo trong rắn ráo là
danh từ chỉ loài rắn lành, cỡ trung bình, lưng màu nâu, bụng màu vàng, ăn ếch
nhái được tác giả sử dụng trong câu luận thứ nhất theo phép chuyển nghĩa thành
động từ ráo mép chỉ thói quen nói dối rất xấu của người con trước cha mẹ. Từ
lằn trong thằn lằn là danh từ chỉ loài động vật thuộc nhóm bò sát, thân và đuôi
dài phủ vảy, bốn chi khỏe, sống ở bờ bụi, ăn sâu bọ được tác giả dùng trong câu
luận thứ hai theo phép chuyển nghĩa thành tính từ để chỉ hậu quả ở việc xử phạt
của người cha đối với con mình về chuyện biếng học. Từ trâu là danh từ chỉ rắn
hổ trâu - một loài rắn hổ mang rất lớn, rất khoẻ, rất độc, da màu đen được tác
giả dùng trong câu kết thứ nhất theo phép chuyển nghĩa thành địa danh chỉ ấp
Trâu; quê hương Mạnh Tử (Trung Quốc). Tương tự, từ lỗ là danh từ liên quan đến
nơi ở của rắn, được tác giả dùng trong câu kết thứ nhất cũng theo phép chuyển
nghĩa thành địa danh chỉ nước Lỗ; quê hương Khổng Tử (Trung Quốc). Từ hổ mang
là danh từ chỉ loài rắn độc có tập tính ngẩng đầu, bạnh mang để đe dọa kẻ địch
được tác giả dùng trong câu kết thứ hai theo phép chuyển nghĩa thành tính từ
chỉ một trạng thái tâm lý của con người (xấu hổ mang danh). Bên cạnh việc dùng
hai từ địa danh (Trâu, Lỗ) chỉ quê hương của Mạnh Tử, Khổng Tử; tượng trưng cho
Nho học, khi viết bài thơ Rắn đầu biếng học, Lê Danh Phương còn lựa chọn những
từ trong một số câu tục ngữ Việt và trong một số đơn vị thành ngữ tiếng Việt để
đặt vào những vị trí cần thiết ở đầu đề và cả trong tám câu thơ của bài thơ: từ
Rắn đầu trong đầu đề và trong câu thừa đề có trong thành ngữ "Rắn đầu
rắn mặt"; từ liu điu trong câu phá đề có ở tục ngữ: "Trứng
rồng lại nở ra rồng, liu điu lại nở ra dòng liu điu"; từ giống trong
câu phá đề có trong thành ngữ "Giống nào ra giống ấy"; từ đau
lòng trong câu thực thứ nhất có trong thành ngữ "Đau lòng xót ruột";
cụm từ nay thét mai gầm trong câu thực thứ hai xuất phát từ thành ngữ "Nay
thét mai gào"; từ ráo mép trong câu luận thứ nhất có trong thành ngữ
"Ráo mồm ráo mép"; cụm từ năm ba trong câu luận thứ hai bắt
nguồn từ câu tục ngữ "Năm bà ba chuyện"; cụm từ siêng học
trong câu kết thứ nhất bắt nguồn từ câu tục ngữ "Siêng làm thì có,
siêng học thì hay"; cụm từ hổ mang danh trong câu kết thứ hai có trong
thành ngữ "Xấu hổ mang danh"; và từ thế gia trong câu kết thứ
hai có trong thành ngữ "Thế gia vọng tộc". Nhờ phối hợp sử
dụng ngôn từ và thể loại hết sức nhuần nhuyễn, tinh tế,
Lê Danh Phương qua bài thơ Rắn đầu biếng học đã
nói lên đầy đủ những khía cạnh trong nội dung lời tự thú, tự trách, tự hứa của
mình: tuy bản thân vốn sinh ra từ một gia đình có học, nhưng cậu lại ương
bướng, ngang ngạnh, khó dạy bảo, không chăm lo học hành; và tự nhận thấy với
những lỗi ấy chắc chắn cậu sẽ bị cha xử phạt nặng. Những lỗi của cậu đã làm cho
mẹ rất đau lòng, xót ruột mỗi khi thắp đèn cho cậu học, mỗi lần nhóm lửa nấu
cơm cho cậu ăn. Những lỗi của cậu không chỉ gợi niềm đau xót, hổ thẹn âm thầm,
thường xuyên ở mẹ, mà còn dẫn đến thái độ bực tức, lo lắng, giận dữ ở cha. Dù
mẹ có buồn, dù cha có giận và thậm chí nhiều lần đã bị cha xử phạt nghiêm khắc,
nhưng cậu vẫn “lếu láo”; nghĩa là vẫn học bài một cách qua loa, đại khái, cốt
cho có, cho xong. Mãi đến lúc này, trước một lỗi rất nặng (vừa biếng học, vừa
vô lễ), cậu mới thực sự biết nhận lỗi và biết hứa từ nay chăm chỉ học hành để
xứng đáng con nhà quyền thế, để xứng danh với truyền thống học phong của gia
đình. Cả quan Thượng và vị khách chẳng những hết giận, mà còn tỏ ra rất thán phục
về tài làm thơ của cậu bé)
vế đối:
Những muốn Tự Do cho mới nhà,
Thơ câu dại ý cóc mò tha,
Sách lề Đường Luật còng lưng mẹ,
Thầy thưởng Trường Ca mát bụng cha,
Song Thất sao quên câu tuấn kiệt,
Tứ Ngôn chăng nhớ bậc tài ba,
Vững lòng Lục Bát mà vui đạo,
Kim Cổ Phong lưu thi Việt gia
(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
(Tự Do, Đường Luật, Trường Ca, Song Thất, Tứ
Ngôn, Lục Bát, Cổ Phong là các thể loại thơ. Trong bài thơ này,Cóc dùng với
nghĩa là con cóc, ý nói thơ dở, thơ con cóc; Song Thất cũng có thể hiểu là cửa
sổ (song) trong nhà (thất); Tứ Ngôn có thể hiểu là ý tứ (tứ) cao lớn (ngôn, vì
theo từ điển Hán Việt Đào Duy Anh, "ngôn" còn có nghĩa là cao lớn);
Lục Bát cũng có thể hiểu là sông Lục, núi Bát thuộc tỉnh Bắc Ninh (bao gồm Bắc
Ninh và Bắc Giang ngày nay) quê hương những làn Quan họ, một cái nôi của thơ ca
Việt Nam. Ngoài ra, Lục Bát cũng có nghĩa là "lục tìm chén bát"
để ăn cơm, "có thực mới vực được đạo")
Một hôm, một vị quan bên Liêu Xá đến thăm ông Lê
Trọng Thứ. Vị quan có nghe tiếng cậu bé con quan Thượng Lê rất hay chữ, muốn
trực tiếp thử tài. Nể tình, ông Lê Trọng Thứ cho gọi Lê Quý Đôn tới.
Ông khách nói: "Ta nghe cháu còn bé mà
đã hay chữ, nhà cháu gần ngã ba sông, vậy ta ra vế đối là: Tam xuyên
(三川)!"
Vế đối giản dị mà hóc búa, chữ tam (三) có ba nét
sổ ngang nhưng dựng lên, thành ba nét sổ đứng và là chữ xuyên(川). "Tam
xuyên" (三川) lại có nghĩa "ba con sông". Lê Quý Đôn
chưa đáp ngay mà cứ trân trân nhìn ông khách có mang cặp kính. Ông khách rất
vui vì tìm được vế đối rất hiểm, liền hỏi: "Sao, có đối được không,
cháu bé?"
Lê Quý Đôn lễ phép thưa: "Dạ, cháu xin
đối là: Tứ mục (四目)!".
"Tứ mục" (四目) có nghĩa "bốn con mắt". Chữ đối
lại thật chuẩn, chữ "tứ" (四) viết quay dọc lại, cũng là chữ
"mục" (目).
Sinh thời Lê Quý Đôn nổi tiếng là người thông
thái, đọc và hiểu không biết bao nhiêu sách vở thời bấy giờ. Ông thi đỗ Khôi
nguyên. Lẽ thường, tuổi trẻ thông minh đĩnh ngộ, đỗ đạt sớm thường hay mắc tính
kiêu ngạo. Thời trẻ, Lê Quý Đôn cũng không tránh khỏi điều ấy.
Chuyện kể, sau khi thi đỗ, ông liền cho treo
ngay trước ngõ tấm biển với hàng chữ: "Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn"
(Nghĩa là: Ai không hiểu chữ gì thì hãy đến mà hỏi). Lần thân phụ ông qua đời,
người đến viếng rất đông. Trong số đó có một cụ già mà Lê Quý Đôn không quen.
Cụ tự giới thiệu lai lịch: Cháu còn nhỏ, chứ lão là bạn thân với cha cháu từ
xưa. Nhưng vì nhà nghèo, đường xa, lại tuổi già sức yếu nên ít đi lại thăm hỏi
nhau. Nay nghe tin cha cháu mất, lão đến để có câu đối viếng. Lão run tay, cháu
hãy lấy giấy bút, lão đọc, nhờ cháu viết hộ. Lê Quý Đôn lấy giấy bút. Cụ bèn
đọc: "chi". Ông Đôn không biết nên viết chữ "chi"
nào bởi trong tiếng Hán có nhiều chữ "chi" viết khác nhau. Ông
đành cầm bút chờ cụ già đọc tiếp xem sao, cụ lại đọc "chi". Lê
Quý Đôn thấy lạ, liền hỏi: "Bẩm, "chi" nào ạ?" Cụ
thở than rằng: "Đến chữ "chi" cũng không biết viết, thế mà
treo bảng ngoài ngõ để cho người đến hỏi, thì sao trả lời được kia chứ?"
Lê Quý Đôn ngượng chín cả người. Bây giờ cụ già
mới đọc luôn hai vế đối:
Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kiên thượng tại (Cách hơn ba chục
năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó)
Tại tại số thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chỉ (Xa ngoài mấy
ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâu)
Thấy câu đối hay và lạ, Lê Quý Đôn và cả các nho
sĩ đến viếng đều kinh ngạc. Còn ông già thì phủ phục trước linh cữu mà khóc
rằng: "Ới anh ơi, anh bỏ đi đâu để con anh đỗ đến Bảng Nhãn mà chưa
biết chữ "chi" anh ơi". Lạy xong, cụ già chống gậy ra về. Lê
Quý Đôn mời mãi nhưng cụ không chịu nán lại, bởi thế nên sau này không ai biết
ông cụ hay chữ đó tên là gì. Có thuyết khác nói giai thoại này là do cụ già
viết cho Cao Bá Quát.
Tuy bị cụ già làm cho bẽ mặt nhưng Lê Quý Đôn
vẫn chưa bỏ được tính kiêu ngạo, sau đó ông đến cầu siêu cho cha ở ngôi chùa
làng.
Nhà sư trụ trì thấy ông thì mừng rỡ mà rằng:
"Quan Bảng vừa tới, may mắn sao. Bần tăng có điều muốn nhờ quan chỉ
giáo, chả là đứa tiểu đồng của bần tăng nghe người nào đó đó, về hỏi, nhưng bần
tăng nghĩ không ra, nên đành theo lời quan bảng dạy "Nghi nhất tự lai
vấn". Câu đối thế này, xin quan chỉ cho:
Hạ bất khả hạ, thượng bất khả thượng (dưới không thể
dưới, trên không thể trên)
Chỉ nghi tại hạ, bất khả tại thượng (đúng nên ở dưới,
không thể ở trên)
Lê Quý Đôn nghĩ mãi không ra, đúng lúc ấy chú
tiểu chạy từ ngoài vào thưa với sư phụ là cậu đã giải được. Lê Quý Đôn giục chú
tiểu nói thử xem, thì mới hay đó là chữ "nhất" (một). Đúng là
trong chữ "hạ" (dưới), thì chữ "nhất" ở trên
chứ không thể viết dưới. Trong chữ "thượng" thì chữ "nhất"
nằm dưới và chữ "bất", chữ "khả" thì chữ
"nhất" lại ngồi trên. Lê Quý Đôn biết nhà sư đã lấy ngay chữ
"Nhất tự lai vấn" ông treo trước ngõ để nhạo.
Qua hai lần gặp cao nhân, Lê Quý Đôn đã bớt kiêu
ngạo hơn nhưng cái tính tự mãn chưa thể sửa ngay được trong một sớm một chiều,
ông hạ chữ "nghi nhất tự lai vấn" xuống nhưng lại viết mấy
chữ: “Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn” vào cái bảng, hễ đi đâu thì cho
thằng đầy tớ đi trước cầm. Một hôm qua đò, ông lái đò nhìn thấy dòng chữ trên
rất khó chịu liền nói: "Tôi ra câu đối ông đối được thì để bảng này cầm
đi, nếu không đối được thì đập cái bảng đi!"
Lê Quý Đôn đồng ý, thời gian đối là thời gian đò
qua sông. Lê Quý Đôn bảo: "Ông xuất đối đi". Ông lái đò nhìn vào
khoang thuyền, trên bếp đang nấu thịt con hôn trong nồi ba ông đọc luôn:
Con Ba Ba nấu nồi ba, tam tam chi cửu thật là chín chưng
Lê Quý Đôn nghĩ nát óc cho đến khi đò sang sông
mà vẫn không đối được, ông lái đò đập cái bảng ấy đi, từ đó cái tật coi thường
người khác của ông mất hẳn vì ông hiểu rằng "mình hay nhưng có người
hay nữa".
Câu một có lẽ chúng ta đã rõ ông lái đò chơi chữ
“Ba ba” với hai nghĩa (số 3 và con Ba Ba) Câu hai chia thành hai phần: “Tam
tam chi cửu (chơi tiếng Hán hoàn toàn có nghĩa là: ba lần ba là chín, và
cửu vừa là số 9 vừa là tính từ “chín”); “thật là chín chưng” nghĩa tiếng
Việt hoàn toàn như “chín ngấu, chín mùi, chín rục...
*
TÁC GIẢ (đang cập nhật)
Địa chỉ: (đang cập nhật)
Email: (đang cập nhật)
Điện thoại: (đang cập nhật)
.
-
ĐẶNG XUÂN XUYẾN giới thiệu -
(Bài viết không thể hiện quan điểm của trang
Đặng Xuân Xuyến)
.
0 comments:
Đăng nhận xét