Truyện ma - truyện liêu trai: .CĂN NHÀ MA - MA KHÔNG ĐẦU... - Nhiều Tác Giả

Leave a Comment

 

CĂN NHÀ MA - MA KHÔNG ĐẦU

*

CĂN NHÀ MA

(Tác giả: Tam Tang)

 

Khi còn học ở đại học 4 năm, Tuấn sống với bố mẹ tại một thành phố thuộc vùng Đông Bắc Hoa Kỳ ! Sáu tháng trước khi tốt nghiệp cử nhân khoa học về Tin Học (BS in Computer Science,) Tuấn đã gửi đơn xin việc đến một số các hảng về điện tử (hardware) hoặc về phần mềm (Software) để xin việc ! Lúc này đang trong thời kinh tế thịnh vượng nên trong vòng vài tháng Tuấn đã được bốn công ty thâu nhận ! Chàng chọn một công ty làm về phần mềm ở thành phố North Andover thuộc tiểu bang Massachusetts vì việc làm đúng khả năng của Tuấn, và chỉ cách chổ bố mẹ chàng chừng một giờ rưỡi lái xe thôi!

Sống ở vùng Đông Bắc này đã lâu nhưng Tuấn vẫn ngại lái xe trong trời tuyết mùa Đông! Nên khi chấp nhận nhận việc Tuấn phải lo kiếm nhà để thuê cho gần nơi mình làm, hơn nữa không sống chung với bố mẹ bao giờ cũng được tự do và thoải mái hơn! Ngặt một nỗi là nhà cửa ở thành phố này rất đắt và khó kiếm! Đa số là dân trung lưu trở lên và hầu hết dân cư là Mỹ trắng! Đọc báo tìm nhà để thuê cả gần hai tuần mà Tuấn chưa kiếm ra một căn nào vừa ý cả!

Thời gian nhận việc đã gần kề nên Tuấn hơi lo là chắc hàng ngày phải lái xe cả gần 100 miles đi tới sở làm! May mắn cho chàng là chỉ một tuần trước ngày vào làm Tuấn thấy báo đăng có một nhà cho thuê phòng! Mừng quá chàng vội gọi điện thoại xin đến coi phòng ngay!  

Thật ngoài sức tưởng tượng của chàng, bà già chủ nhà cho Tuấn hoàn toàn tự do trên lầu hai của căn nhà! Trên đó có đầy đủ tiện nghi như một căn nhà riêng biệt, gồm hai phòng ngủ, bếp, nhà tắm, và phòng khách! Chỉ một điều bất tiện nhỏ là phải dùng cầu thang để xuống nhà dưới mới ra ngoài được! Đó chỉ là chuyện nhỏ nên Tuấn bằng lòng thuê ngay không cần do dự gì! Căn nhà này chỉ cách chổ làm khoảng 15 phút lái xe thôi! Thật là tuyệt, dù có bão tuyết Tuấn cũng chẳng lo! Tiền thuê cũng quá rẻ nếu so với các nhà khác ở vùng này! Hơn nữa nhà chỉ có một bà lão già gần 80 tuổi ở thôi! Bà chủ nhà ở một mình tầng dưới với một con mèo làm bạn! Người già ít nói và bà này trông có vẻ hiền hậu nên Tuấn không có gì phải lo nghĩ cả!

Căn nhà cổ này chắc cũng phải dựng trên 100 năm rồi! Nhà kiểu Colonial, tường gạch, mái thì lợp lại bằng giấy dầu! Chung quanh nhà là một vườn rộng như một khu rừng với toàn là cây thông và cây maple nên trông có vẻ âm u lắm! Tuấn rất thích cảnh yên tịnh này!

Ở một nơi mà không phải nghe tiếng ồn của xe cộ, tiếng la hét của trẻ con trước nhà thì đâu phải là dễ trên cái đất Mỹ này! Tuấn mượn đỡ tiền bố mẹ mua sắm các thứ cần thiết cho cái "nhà riêng" của mình!

Chàng dọn nhà vào ngày thứ Bảy ngay trước tuần đi làm. Ngày đi làm, chiều về nấu đại món gì để ăn! Làm biếng thì mì gói, còn lười hơn thì trên đường về ghé vào nhà hàng Tàu ăn xong rồi về! Tối đến mở TV xem vài chương trình hài (comedy shows) rồi đi ngủ! Thứ Bảy đi giặt quần áo và đi chợ, còn Chủ Nhật lái xe về thăm bố mẹ, tiện thể đi lễ VN và được ăn hai bữa cơm đàng hoàng với gia đình! Tuấn chưa có người yêu nên chàng chẳng tốn thì giờ cho việc hẹn hò!

Tuấn cũng như các chàng thanh niên khác, làm việc, ăn, ngủ và it' để ý đến gì chung quanh mình! Tối lên giường một chút là ngủ say ngay! Trên này có hai phòng ngủ, Tuấn chọn phòng rộng hơn và cửa mở ngay ra phòng khách để làm nơi ngủ! Tuấn có thói quen đóng cửa phòng khi ngủ nên dù sống một mình trên lầu chàng vẫn đóng cửa khi lên giường! Một sáng thức dậy Tuấn ngạc nhiên khi thấy cửa phòng bị mở toang ra và càng ngạc nhiên hơn nữa là cái "TV's remote control" lại nằm ở cuối giường chàng! Tuấn không bao giờ mang nó vào phòng ngủ cả và chàng nhớ là đã đóng cửa khi bước vào phòng đêm qua rồi! Nhưng phải sửa soạn đi làm nên Tuấn không để ý lâu đến việc này! Nhưng sáng hôm sau chàng lại thấy cái remote control ở cuối giường và cửa phòng cũng lại bị mở ra! Chắc có điều gì lạ đây, Tuấn nghĩ, vì sự việc này xảy ra hai ngày liên tiếp rồi! Tuấn tắm gội, thay quần áo, ăn sơ sài rồi đi làm! Nhưng chàng bắt đầu để ý đến việc lạ này!

Nói là để ý nhưng Tuấn vẫn ngủ say và hôm sau sự việc lại đã xảy ra đúng như hai hôm trước! Cái remote control vẫn nằm ở cuối giường, cửa phòng vẫn bị mở ra! Đêm hôm sau, Tuấn cố thức để rình xem động tỉnh! Đến nửa đên chàng nghe có tiếng bước chân từ nhà dưới lên cầu thang, rồi tiếng lịch kịch trong phòng khách! Tiếng bước chân tới lui trong phòng! Rồi yên lặng một hồi! Tiếng bước chân lại vang lên đi xuống cầu thang! Đợi một lúc không nghe thấy gì nữa, Tuấn ra phòng khách bật đèn rồi nhìn xuống nhà dưới! Bên dưới tối om om chẳng thấy gì ! Chàng tắt đèn và trở về phòng và rơi vào giấc ngủ lúc nào không biết! Lúc thức dậy lại thấy cái remote control đã nằm chình ình ở cuối giường từ bao giờ! Cửa phòng vẫn bị mở ra như các hôm trước! Tuấn nghĩ ngay đến bà già chủ nhà! Tiếng bước chân không có vẻ nặng nề, và từ dưới nhà dưới đi lên rồi lại trở xuống thì còn ai khác vào đây nữa nếu không phải là của bà già chủ nhà này!

Khi đi làm, Tuấn thấy bà già đang ngồi ăn sáng bèn hỏi:

- Đêm qua Bà có lên lầu làm gì không?

- Tôi lên đó làm gì! Trên đó tôi đã dành cho cậu mà! - Bà lão trả lời và Tuấn không hỏi thêm gì nữa!

Cuối tuần đó Tuấn về nhà bố mẹ chơi và thuật lại sự việc đã xảy ra cho mọi người nghe! Anh em trong gia đình nói chắc là ma đó! Bố mẹ chàng gạt phăng cái giả thuyết đó đi và cho rằng bà già chủ nhà vì già nên khó ngủ cho nên đi lại trong đêm cho đỡ buồn thôi! Anh của Tuấn đưa ra giả thuyết nữa: "Có khi bà già bị bệnh mộng du, nên đêm đêm đi lang thang trong nhà đó! Em coi chừng đó nghe! Anh thấy trên TV họ nói là có khi những người mộng du giết người mà chẳng biết gì hết, và họ cũng không bị kết tội gì đâu vì là bệnh mà!" Tuấn nghe cũng hơi ngán! Không chừng bà già mắc bệnh đó cũng nên! Điều làm Tuấn run hơn là bà ta đêm nào cũng vào phòng chàng và để lại cái remote control ở cuối giường! Lỡ hôm nào bà ta mang theo con dao vào thì thật là họa lớn! Tuấn quyết định tìm cho ra lẽ việc này!

Trở về nhà, đêm đó chàng uống mấy ly cafe thật đậm với dụng tâm thức tỉnh để rình! Tuấn khép hờ cửa và nằm giả vờ như đang ngủ.

Đến khoảng 11:30PM chàng nghe tiếng cửa bị đẩy từ từ mở ra! Một làn hơi lạnh chạy rần trên xương sống của Tuấn! Tuy run chàng vẫn hướng mắt về phía cửa! Cánh cửa mở ra chừng 3 tấc rồi ngừng tại vị trí đó! Tuấn cố nhìn nhưng không thấy ai cả! Tuấn vẫn nằm yên hồi hộp chờ đợi coi việc gì sẽ xảy ra! Nhưng trong phòng vẫn yên ắng!

Qúa căng thẳng Tuấn ngồi bật dậy! Tuấn hoảng hốt khi thấy một bóng đen nhỏ phóng vụt ra ngoài qua khe cửa, và có tiếng kêu tiếng kêu "Meo, meo!" vang lên! Thì ra là con mèo mun của bà chủ nhà lẻn vào! Tuấn đã làm nó hoảng hốt cũng như nó làm chàng xanh cả mặt mày! Tuấn định thần và thở phào nhẹ nhỏm, miệng lẩm bẩm một mình: "Con mèo quỷ, làm tao hết hồn!" Tuấn ra đóng cửa lại rồi nằm nghe ngóng tiếp nhưng không thấy gì, và chàng rơi vào giấc ngủ lúc nào chẳng biết!

Sáng dậy, cửa phòng vẫn bị mở toang ra và cái remote control lại đã nằm ở chổ cũ từ bao giờ!

Đúng không sai rồi, bà già và con mèo của bà ta hàng đêm vào phòng Tuấn chứ chẳng còn ai vào đây nữa! Điệu này chắc phải đi tìm nhà khác thuê thôi! Ở đây biết đâu có ngày bà già xách dao lên lụi thì uổng mạng!

Bị ám ảnh với cái tâm trạng đó Tuấn hơi hoang mang trong lòng! Đêm hôm sau lúc đang nằm mơ mơ màng màng, Tuấn nghe thấy tiếng chân bước lên cầu thang, rồi thấy tiếng mở cửa phòng! Chàng nhìn ra thì thấy bà già đang từ từ bước tới giường chàng đang nằm với dáng điệu của kẻ vô hồn! Đến bên giường bà lão giơ cao con dao trong tay lên rồi đâm phập xuống ngực Tuấn!

Tuấn thất thanh la lớn lên và bật ngồi dậy! May thay đó chỉ là một cơn ác mộng! Tuy thế Tuấn cũng toát mồ hôi lạnh khắp người!

Trong khi để ý tìm nhà mới, hàng đêm trước khi đi ngủ Tuấn dùng cái ghế chèm dựa vào tay vặn của ổ khóa để người ngoài không thể mở đẩy cửa vào được! Tuấn vẫn nghe tiếng chân lên xuống cầu thang hàng đêm, và có một một điều lạ là dù cửa phòng không bị mở ra nhưng mà cái remote control vẫn nằm ở nơi cuối giường mỗi sáng.

Bà già dù có bị mộng du đi nữa cũng không có thể nào vào phòng Tuấn rồi trở ra được mà không gây ra tiếng động được! Đàng này cái ghế vẫn ở nguyên vị thế khi Tuấn gài lúc đi ngủ!

Tuấn tìm trong cái tủ (closet) xem có cái cửa bí mật nào thông với phòng khác không! Không có cái nào cả! Bà già không thể nào mò vào phòng bằng cách xuyên qua tường được! Chắc là do ai đó! Mà ai đó có thể xuyên qua cửa đóng để vào thì không thể là người thường được! Tuấn tránh không nói đến từ "MA" để khỏi tự hù chính mình!

Ít ngày sau, trong một đêm mưa gió mịt mùng ngoài trời! Tuấn lên giường trể sau khi xem một trận bóng rổ giữa hai đội LA Lakers và Chicago Bulls!

Đang nằm mơ màng thì linh tính như báo cho chàng biết có ai đang nhìn mình!

Tuấn mở mắt ra và thấy một bóng dáng nhỏ nhắn mờ mờ đứng phía cuối giường! Bóng của một bé gái khoảng 12 hay 13 tuổi, mặc bộ đầm xanh lá cây có in các hoa hồng to, áo kiểu thời thế kỷ 19! Cô bé nhìn Tuấn với đôi mắt buồn buồn, tay cô cầm cái remote control đang định đặt xuống giường!

Tuấn hoảng quá thét to lên! Bóng cô bé từ từ mờ dần rồi biến mất! Cái remote control rơi xuống sàn gây ra một tiếng động khô khan!

Tuấn phóng xuống giường chạy bay ra cửa, kéo ghế mở cửa ra, và nhào xuống tầng dưới đập cửa phòng bà già cầu cứu!

Bà già chủ nhà mở cửa mắt còn chớp chớp cho tỉnh ngủ:

- Cái gì thế?

- Baaà aaà! Cháu... cháu thấy có người trong phòng cháu!

- Tào lao nè! Ai mà vào đây làm gì!! Thôi đi ngủ đi !! Trai tráng gì mà nhát gan quá vậy!?

Tuấn không biết nói gì hơn đành trở lên lầu, bật đèn sáng trưng và coi TV chờ sáng! May cho chàng vì hôm sau là thứ Bẩy không phải đi làm Sáng đến, Tuấn lái xe về và thuật lại chuyện cho mẹ chàng nghe! Mẹ chàng nghiêm giọng nói:

- Đúng là ma rồi không sai vào đâu nữa ! Hãy dọn tạm về đây ở đi, đợi khi kiếm được nhà mới rồi dọn đi nghe con!

- Con cũng tính vậy đó! Con ngán ở lại cái nhà đó quá!

Thế là Tuấn về lấy các thứ cần dùng và báo cho bà chủ là chàng sẽ dọn nhà đi vào cuối tháng này! Đầu tuần sau khi vào sở Tuấn mang chuyện này nói với các bạn đồng nghiệp. Có mấy người lớn tuổi là dân kỳ cựu ở vùng này! Họ hỏi:

- Có phải cái nhà cổ xưa nằm một mình trong khu rừng thông, và chủ nhà là một bà già không ?

- Đúng đó! Tôi thuê ở đó mới được gần một tháng thôi!

- Nhà đó có ma ! Ai ở vùng này đều biết hết ! Vì thế bà ta cho thuê rẻ rề mà cũng chẳng ai giám ở cả ! Công nhận cậu gan thiệt đó nghe chưa ! _ Họ diễu tôi rồi cùng nhau cười.

- Tôi đâu có biết gì đâu! Thấy nhà rẻ mà rộng rãi nên thuê ngay thôi!

- Giỡn chơi với cậu thôi! Nhà đó bị ma ám lâu lắm rồi! Người ta đồn là năm 1886, cô bé gái con của người chủ nhà bị đạn lạc qua cửa sổ chết ở trong một phòng ngủ trên lầu! Từ đó cô ta hay hiện về đi lên đi xuống cầu thang! Cô ấy tuy chẳng nhát chết một ai nhưng mà cứ nghe tiếng chân lên xuống cầu thang trong đêm tối cũng đủ làm người ta kinh hoàng rồi! Hình như cô ấy vẫn lưu luyến căn nhà hay cỏi trần này thì phải! Cả trăm năm rồi mà vẫn cứ ở trong căn nhà đó! Căn nhà đó được truyền cho con cháu trong nhà và không thấy họ than phiền gì cả ?! Có lẽ họ quen rồi và cô bé cũng không chọc phá gì họ chắc!

- Tôi dọn về nhà bố mẹ tôi ở tạm rồi! Đợi thuê được nhà mới sẽ dọn đồ đi !

Cuối tháng đó Tuấn dọn đến căn nhà mới thuê, một cái town house gần phố, tuy phải trả tiền thuê gấp đôi so với căn nhà cũ nhưng nơi này yên ổn chẳng có ma quỷ gì hiện ra hết! Đến bây giờ mỗi khi có dịp lái xe qua căn nhà cổ đó Tuấn vẫn thấy có một hơi lạnh chạy dài theo xương sống của chàng!

 

XÁC AI TRONG QUAN TÀI

 (Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Buổi tối đêm ba mươi, trời tối ngửa bàn tay không nhìn thấy, nên bác Ba chủ nhà gọi con gái:  

- Đốt cho ba cây đèn coi, con út.  

Lát sau cây đèn dầu loại lớn được mang lên đặt giữa bàn. Quanh bàn đã có năm người, nhìn một lượt, bác Ba ngạc nhiên hỏi: 

- Ủa, thằng Sáu Sự đâu không thấy?

Một người lên tiếng:  

- Hồi nãy nó nói mình nhậu nhưng ít mồi quá nên nó xách chĩa ra đồng kiếm vài con ếch về nướng.  

- Có lý à nghen!  

Vừa lúc đó đã có tiếng từ sau vườn vọng tới:  

- Mấy cha ở đó nói dóc hoài, chẳng ai đi kiếm mồi hết!  

- Thằng Sáu Sự về kìa!  

Sự bước vô với xâu ếch khá nặng. Bác Ba khen:  

- Thằng giỏi đa! Tao mà còn con gái lớn cũng dám gả cho thằng này lắm a!  

Sự chỉ vô trong:  

- Còn chớ sao không, bác Ba.  

- Hết rồi mày. Con Tư tao gả gồi năm ngoái, giờ chỉ còn con út, nó mới có 15 tuổi... 

Ai đó nói thêm:  

- Thằng Sự giỏi làm, kiếm chừng vài chục giạ lúa là nuôi con út đủ lớn gồi, lo gì chú Ba!  

Mọi người cười ồ, chợt Út chót bước ra với dĩa khô nướng, miệng chẩu ra:  

- Ai thèm lớn!  

Chú Ba điểm mặt từng người:  

- Đứa nào muốn có mồi nhậu bữa nay thì đừng có lộn xộn với nó!  

Lại một tràng cười nữa vang lên. Sáu Sự xách xâu ếch đi thẳng ra nhà sau định cùng làm với Út chót thì bị phát hiện, nhiều người cùng la lên:  

- Bác Ba làm trọng tài mà thiên vị quá, ai chịu!  

Chú Ba trợn mắt:

- Ai thiên vị ai tụi mày?  

- Thì chú thiên vị thằng Sáu Sự. Nó ỷ kiếm được mồi rồi rút ra sau bếp làm với cô Út, sướng quá vậy!  

Chú Ba cười khì:  

- Nó bắt được ếch đem về thì cùng làm với con Út là hợp lý, chớ còn sao nữa? Hổng lẽ cả bọn bây đều muốn xuống bếp sao, hả?  

Họ đồng thanh:  - Thà cùng xuống, cùng làm, vậy mới công bằng.  

- Thôi đi mấy ông con, cái bếp có chút xíu, cả đống cùng xuống cho nó sập nhà sập cửa người ta!  

- Vậy thì phải xí xùm thôi, ai thắng thì được làm ếch cùng Út, ai thua thì ngồi đây chờ ăn.  

- Ờ, nghe cũng có lý, vậy kêu thằng Sự lên đi!  

Chợt chú Ba lên tiếng:  

- Tao có ý này hay hơn. Thằng Sự mày lên đây tao nói.  

Chờ mọi người đông đủ, chú bảo:  

- Ở trại đóng hòm phía sau nhà tao đang có sáu chiếc quan tài vừa đóng xong, vậy lần lượt sáu thằng bây có dám ra ngoài đó không?  

Họ đều là thợ mộc, chuyên đóng quan tài gia công cho nhà chú Ba, vậy thì việc cỏn con này đâu có gì là ghê gớm...

Sáu Sự cười to:  

- Chú Ba không nhớ là có lần trời lạnh quá con còn chui vô đó nằm rồi ngủ quên hay sao. Nhằm nhò gì chú!  

- Việc ban ngày ban mặt tụi bây là làm ngoài đó thì khác, còn bây giờ là đêm tối. Tao đố sáu thằng bây, mỗi thằng cầm một cây đèn cầy ra đặt vào trong quan tài rồi vô đây, đèn của ai không tắt và đặt đúng tâm điểm nhất thì người đó thắng cuộc, tao sẽ xem xét để mai mốt gả con Út cho đứa đó!  

- Dễ ợt!  

Sự dành đi trước và được mấy người kia đồng tình. Anh cầm theo đèn và tự tin bước ra phía sau. Xưởng mộc cách nhà ở khoảng năm mươi bước chân buổi tối không thắp đèn nên khi ánh nến rọi vào nhìn thấy những chiếc quan tài nằm san sát bên nhau, nếu ai yếu bóng vía ắt phải rùng mình. Nhưng đã quá quen, nên anh đi thẳng tới chiếc quan tài trong cùng, để chứng tỏ mình không sợ, rồi bình tĩnh giở nắp quan tài ra, đặt cây đèn vào giữa tâm điểm và lùi bước. 

Đi qua một, hai, đến cái quan tài thứ ba thì chợt có một bàn tay mềm mại, lạnh như băng từ trong nắp áo quan thò ra và nắm chặt lấy Sự! 

Sáu Sự chưa kịp có phản ứng gì thì đã bị kéo ghị về phía quan tài. Sức kéo của bàn tay nhỏ nhắn kia vậy mà mạnh đến đỗi Sự bổ nhào và rơi tõm vào bên trong chiếc quan tài đã mở nắp sẵn! 

Sự không còn hay biết gì nữa. 

Ở trong nhà mọi người chờ. Năm phút, mười phút rồi gần hai chục phút… 

Sốt ruột quá nên có ai đó nói: 

- Thằng này sợ quá dám trốn về nhà luôn lắm a! 

Chú Ba có vẻ bênh Sự: - Thằng trời đánh bảy búa không chết như nó thì sợ gì. Chắc là… 

Chờ đến nửa giờ vẫn không thấy Sự trở ra, lúc ấy mỗi người một cây đèn, cùng chạy ra xưởng mộc. Họ nhìn thấy cây đèn cầy vẫn còn cháy, nhưng không thấy Sự đâu. Chợt có người kêu lên: 

- Có cái gì ló ra từ quan tài này nè! 

Mọi người nhìn thì thấy chiếc quan tài thứ ba ló ra một vạt áo trắng. Chú Ba có linh tính chẳng lành, chú nhanh tay kéo nắp áo quan ra và mọi người đều kêu lên:  - Thằng Sự! 

Sáu Sự nằm im trong quan tài, trên mình còn phủ một chiếc áo phụ nữ tỏa hương thơm phức! 

Cũng may, sau khi được trở vô bệnh viện, Sự được cứu sống. Tuy nhiên kể từ lúc ấy đầu óc Sự không còn được bình thường như trước. Vừa mở mắt ra, Sự đã hốt hoảng chụp vào khoảng không, kêu gào rất lạ: 

- Nàng đâu rồi, nàng ở đâu? Kìa, hãy lại đây cùng ta… lại đây đi. 

Bà Hai, mẹ của Sự lo sợ gọi con:  

- Má đây con. Má đây.  

Nhưng hầu như Sự không còn nhìn thấy ai, mắt hướng về khoảng không như tìm kiếm ai đó. Và bất ngờ, như vừa nhớ ra, Sự gọi to:  

- Thắm ơi!  

Ai nấy đều ngơ ngác, bởi đâu biết Thắm là người nào? Còn Sự, sau khi kêu, anh nhảy xuống đất và chạy bay ra cửa, rồi cứ thế mà cắm đầu chạy như điên. Những người đuổi theo phía sau chẳng tài nào đuổi kịp.  Sự chạy về hướng Tây, hết xóm nhà đông đúc, cuối cùng rẽ vào một đường vắng rất ít nhà cửa. Tuy nhiên, như có lực vô hình nào đó đưa đường, Sự quẹo vào ngõ một ngôi nhà ngói ba gian nằm lọt giữa những hàng cây um tùm.  

Người trong nhà bước ra hỏi:  

- Anh kiếm ai?  

Sự đáp rất ngang tàng:  

- Thắm đâu?  

Người nhà vừa hỏi là một phụ nữ trung niên, vừa nghe Sự hỏi tên Thắm đã quay vào trong gọi lớn:  

- Chị Tươi ra coi nè!  

Người đàn bà lớn tuổi hơn, chừng như là chủ nhà, từ trong bước ra nhìn Sự từ đầu đến chân, cất tiếng hỏi:  

- Cậu kiếm ai?  

- Thắm đâu? Kêu Thắm ra đây cho tôi, tôi cần gặp Thắm!  

Bà chủ nhà trợn tròn mắt nhìn Sự, trong lúc người phụ nữ còn lại thì bước lui mấy bước, vẻ sợ hãi.

Thấy họ chưa trả lời, Sự lại la lớn:  

- Đưa Thắm ra đây cho tui!  

Và không kiên nhẫn nữa, anh ta đi thẳng vào nhà. Lúc này bà chủ nhà vừa bước lui vừa kêu lên:  

- Ông ơi, ra coi ma quỷ gì đây nè!  

Tuy gọi vậy nhưng bà thừa biết giờ ấy ông chồng đâu có mặt ở nhà. Sự chẳng màng đến sự kêu la hoảng hốt kia, anh bước gần hơn đến chỗ chiếc bàn thờ và nhìn lên đó, một bức ảnh chân dung... hình của Thắm đặt trên đó!  

Trước sự bất ngờ của hai người đàn bà, Sự nhảy tới chụp lấy bức ảnh thờ rồi ôm chặt vào lòng như ôm người thân thương của mình!  

- Thắm ơi, anh tìm được em rồi, hãy về nhà với anh, má đang đợi, mọi người đang chờ để dự lễ cưới của tụi mình!  

Người phụ nữ nhỏ tuổi lùi sâu vào trong, ôm chặt người kia, giọng như lạc thần:  

- Gặp ma quỷ rồi chị Tươi! Lạy đi, nhanh lên!  

Hai người cùng sụp xuống lạy lấy lạy để. Trong lúc đó, thì Sự cứ ôm khư khư tấm ảnh của Thắm và lui bước đi ra ngoài...  

Bà Hai, má của Sự và khoảng gần chục người nữa đi theo gần rụng giò mà vẫn không theo kịp Sự. Anh chàng cứ chút chút lại quay lại nói:  

- Ráng chút nữa đi, sắp tới nhà rồi đó.  

Cuối cùng họ tới trước cổng ngôi nhà ngói ba gian mà hôm qua Sự đã lấy bức ảnh đem đi.

Sự giục:  

- Vô nhà đi, đàng gái đang đợi!  

Trong nhà vừa trông thấy Sự đã hốt hoảng, may là hôm nay có đàn ông ở nhà. Ông chủ nhà Tư Toàn đứng chận ngang cửa hất hàm hỏi:  

- Cái cậu ngang tàng kia, bữa nay tính tới quậy nữa hả?  

Chợt nhìn thấy Chú Ba chủ trại hòm cũng có mặt trong đoàn khách. Tư Toàn reo lên:  

- Ủa, anh Ba đi đâu vậy?  

Nhìn thấy mọi người với mâm, quả trịnh trọng. Tư  Toàn ngơ ngác:  

- Sao có chuyện này?  

Lúc này chú Ba mới lên tiếng:  

- Thằng Sự con chị Hai đây là người làm công cho tui, bữa nay nó một hai nói má nó phải đem lễ vật đến đây hỏi vợ cho nó. Tui đâu ngờ là nhà anh.  

Vợ Tư Toàn chỉ mặt Sự nói:  

- Ngày hôm qua chính thằng này tới đây ăn cắp tấm hình thờ của con gái tui chạy đi, chớ cưới hỏi gì!  

Mẹ của Sự ngơ ngác:  - Chuyện đó là sao?  

Tư Toàn bình tĩnh hơn, mời mọi người vô nhà rồi mới kể:  

- Con gái tui tên Thắm, nó chết hồi năm năm trước lúc vừa tròn mười tám tuổi. Tui chỉ có mình nó, chớ còn đứa nào nữa đâu mà gả với cưới.  

Sự vẫn mang bức ảnh thờ theo, vừa chỉ vào ảnh vừa cười nói:  

- Vợ người ta ở đây mà mọi người lại độc ác nói là chết, chết chỗ nào?  

Chú Ba liền thuật lại chuyện Sự chẳng biết thế nào mà nhảy vô quan tài rồi ngất đi trong đó cho chủ nhà nghe...

Vừa nghe xong Tư Toàn kêu lên:  

- Dám từ chuyện đó lắm!  

- Anh Tư nói vậy... là sao?  

Tư Toàn kể:  

- Cách đây vài tháng, chỗ chôn con Thắm nhà tui bị ngập nước. Mộ bị sạt lở, nên tui cho bốc mộ, đổi sang quan tài khác, đem mai táng ở chỗ gò cao hơn. Nghe nói có mấy người thợ đào mộ đã lấy chiếc quan tài cũ đem bán cho một trại mộc nào đó và do áo quan lúc chôn con gái yêu của tôi, tôi đã đóng bằng ván loại tốt, lại dầy gấp đôi ván thường, nên có thể thợ mộc nào đó đã xẻ mỏng ván ấy ra rồi đóng thành hai cái quan tài đem bán! Tui nghi chắc là như vậy. Bởi tui nghe nói hễ dùng áo quan cũ mà chôn người mới là sẽ có chuyện... 

Trong chuyện này chỉ có chú Ba là rõ. Nghe kể chú muốn lên tiếng xác nhận nhưng ngại nên chỉ im lặng.  Thật ra đúng là mấy tháng trước chú có mua của một người buôn gỗ gần chục miếng gỗ gõ mun cũ nhưng còn rất tốt và đem về xẻ ra để... đóng hai chiếc quan tài mới! Mà một chiếc tối đó Sự đã ngã vào...  

Tư Toàn trầm ngâm một lúc rồi nhìn sang Sáu Sự:  - Chú em này chắc là bị con Thắm nhà tui nhập về hoặc là bị nó ám sao đó…  

Một người trong đoàn đi rước dâu khá rành chuyện này, cũng xác nhận:  

- Nhẹ thì bị hành xác, đau ốm, còn nặng như thằng Sự đây thì bị hồn người chôn trong quan tài trước ám suốt đời cho đến khi nào… chịu làm đám cưới mới thôi.  

Bà mẹ Sự hỏi lại:   - Cưới ai?  

- Thì cưới người chết đó chớ cưới ai nữa. Như thằng Sự đây thì cưới... con nhà này!  

Chuyện nghe cực kỳ vô lý, nhưng cuối cùng cả hai bên đều đồng ý cho tiến hành hôn lễ!  

Tất nhiên chỉ là hình thức. Nhưng cũng có đủ lễ lạy bàn thờ tổ tiên, lạy người sống và trao quà cưới, lễ rước dâu. Tất cả đều chỉ một mình chú rể Sáu Sự đóng vai. Trong lễ rước dâu, lần đầu tiên người ta thấy cô dâu đi bên cạnh chú rể chỉ là... bức ảnh chân dung!  

Lạ một điều là kể từ sau “lễ cưới” đó, Sự lại tỉnh táo như trước. Mọi người ai cũng mừng. Chỉ có cô Út con chú Ba là hơi buồn. Hiểu ra mới biết, dù âm thầm nhưng Út đã có cảm tình với anh chàng Sáu Sự thật thà như đếm kia. Phải chi không có chuyện oái oăm đêm đó thì…  

Cô Út ngồi khóc một mình...

 

MA KHÔNG ĐẦU

(Tác giả: TCHYA)

 

Tôi dụi mắt ngắm kỹ một lần chót nữa. Quả nhiên, cũng như cảnh tượng vừa hiện ra lúc tôi mới đến, tất cả sự vật chung quanh mình tôi cứ tựa hồ như chứa đầy một vẻ bí mật thiêng liêng rùng rợn, một vẻ bí mật mà hình như rõ rệt tôi đợc mục kích càng làm cho dữ dội nặng nề.

Hiện trạng đương phô bày trên mái đồi kia, trớc mắt tôi không xa mấy, dưới ánh nắng vàng đỏ của buổi chiều tà, hiện trạng đó có quả thực là một hiện trạng hay không, hay chỉ là một hình ảnh mơ hồ mà đôi mắt quáng của tôi lầm tưởng là một bức tranh kỳ quặc tôi phân vân không biết tự đáp thế nào. Ngắm đi ngắm lại, rồi lại dụi mắt, dụi mắt xong lại nhìn, tôi hết sức nghiền ngẫm cho chắc chắn, cho kỳ mối ngờ vực của tôi thành hẳn ra ngờ vực, hoặc biến thành một tín ngưỡng sâu xa. Nhưng... có lẽ nó hóa ra tín ngưỡng mất.

Vì, chỉ cách tôi bảy tám cột đèn, nghĩa là non hai trăm thước, giữa ban ngày, sự lạ lùng hiện ra cho tôi trông thấy vẫn không hề biến đi, mà cũng không thay đổi. Sự ấy thực là một kỳ quan độc nhất vô nhị, một sự tối vô lý mà mình phải tin là thật, nhưng cũng có khi ngờ là giả dối, mơ hồ. Cứ lấy con mắt hết sức chú ý nhìn, thì sự đó vẫn không trốn tránh tính tò mò hiếu sự của ta; song, hễ khi nào ta dùng đến một vật gì để đi gần lại trường hoạt động của nó, thì nó biến vụt ngay nh làn khói bị gió lùa. Hoặc ta tìm cách đi lại gần chân đồi, còn độ hai ba cột đèn sẽ tới nơi, trông lên không thấy gì nữa cả; hoặc ta đem lên mắt một cặp ống nhòm để phóng đại trưởng quan sát, phong cảnh càng to ra bao nhiêu thì hình như ta muốn thấy mờ đi bấy nhiêu, có khi hóa thành trong vắt như kính, nghĩa là không có hình sắc nữa.

Bằng cứ chịu khó đứng xa mà ngắm nhìn thì dẫu ngắm chán mắt, sự kỳ quặc kia cũng vẫn hiện ra cho mình trông thấy, hiện ra một cách nửa rõ rệt, nửa mơ hồ lạ lùng khó tả quá! Nhưng không phải ngày nào, giờ nào, bất cứ lúc nào, ta cũng có hạnh phúc được nhìn nó. Nó chỉ thoát khỏi cõi âm trở về cõi dương một năm có vài kỳ, mỗi lần sự biến thiên của khí hậu gợi cho nó nỗi nhớ tiếc một thời oanh liệt thủa xưa.

Sự biến thiên đó họa hoằn mới xảy ra; ấy là một điều tối không may cho những khách tò mò hiếu sự. Như tôi chả hạn. tôi đã phải dằn lòng gắng sức đợi đến ngót tháng trời mới đợc trông thấy hình bóng tôi muốn thấy; nào phải đâu là sự dễ dàng.

Cảnh tượng dị kỳ tôi đã được mục kích, nó là hai con ma, hai cái oan hồn uất ức của hai kẻ chịu tử hình, lâu ngày không tiêu đi được tụ lại thành bóng, hấp thụ mãi khí thiêng liêng của trời đất, nên mỗi khi bị hoàn cảnh xúc động đến là hiện được lên ngay, hiện lên để diễn lại một tấn trò mà xưa kia, hai oan hồn đó thường diễn những giờ cao hứng.

Phàm giả người ta, trong buổi sinh thời, có một thú gì mình yêu nhất, mê nhất, một thú gì làm then chốt cho tất cả bao nhiêu tính hình dục vọng của mình, một thú gì mình đã biết hưởng và đã đặt trên tất cả những khoái lạc của cuộc đời , thì nhiều lúc, sau khi đã lìa bỏ cõi tục rồi, vẫn còn nhớ tiếc đến thú ấy luôn luôn chỉ ngong ngóng chờ có dịp hưởng lại là chộp lấy ngay, không bỏ sót.

Cũng bởi cớ đó nên một khi thi nhân đã chết, hồn thi nhân còn muốn ngâm thơ, một khi nhạc công đã chết, hồn nhạc công còn muốn gảy đàn. Câu thơ của Đường Vương Bột văng vẳng trên dòng sông Lạc, liệu đàn cua Sư Quyên véo von trên mặt sông Bộc chẳng phải là những chứng cớ rõ ràng cho thuyết ấy hay sao?

Mà nhất là khi kẻ bị thác lại là người mệnh bạc, vì nghiệp chướng mà chết oan, chết yểu, bất đắc kỳ tử hay bị nhục hình, thì một điểm linh hồn bay phiêu diêu trong gầm non nước không tài nào siêu linh tịnh độ được, cứ mập mò khi tan khi tụ, bơ vơ trôi dạt, không đâu là bến là bờ. Điểm linh hồn đó vẫn còn nhớ rõ rệt cuộc sinh hoạt mình vừa trải, vẫn còn đầy dục vọng và tình cảm, nhưng chỉ vì không có xác vật chất nên khó lòng diễn được dục vọng và tình cảm đó mà thôi. Nhiều linh hồn còn muốn sống thêm nữa trên cõi thế, bởi chưa dứt hẳn trần duyên, còn muốn vẫy vùng nữa, ganh đua nữa cùng người đời cùng tranh đấu cho tới cùng. Có linh hồn thì một khi thác đã tỉnh ngộ ra, bay lên một gầm thiêng liêng cao sạch để ngao du, tịnh dưỡng. Những linh hồn đó không mấy khi trở lại nữa, một đi, đi chẳng trở về. Còn như các linh hồn bi nghiệt duyên dục vọng buộc chặt với cuộc sinh hoạt của loài người. thì chúng thường thường bay vẩn vơ quanh quẩn bên mình ta, trông ta một cách ham muốn thèm thuồng, chỉ đợi có dịp tốt là trở về sống chung lại với ta, dẫu rằng trong một phút.

Mỗi khi có đàn tràng cúng tế, là chúng lần mò cùng đến, để rồi chóp lộc cúng cơm, mỗi khi có kẻ ngồi đồng, hay có kẻ thần hồn bị suy nhược là chúng ám vào người để được cử động quay cuồng cho đắc ý. Lại những lúc có cuộc thi hội, thi hương, thì chúng tụ họp cả ở cửa trường, để đợi gọi đến thì ùa vào mà báo ân báo oán.

Nói ra không hết được; ta chỉ biết bởi cớ có nhiều âm hồn còn muốn sống nữa, nên có khi xảy ra những chuyện kỳ dị mà, nếu mắt ta không đợc quan sát thì ta vội cho là hoang đường. Song le , nêu ta chịu khó bỏ hết cả các thành kiến, nếu ta chịu lưu tâm suy xét đôi chút đến nhẽ huyền vi của máy âm dương, ta sẽ nhận thấy rõ là không có sự gì hoang đường cả. Trên đời chỉ hoàn toàn có sự thực mà thôi, cái gì có thể xảy ra được đều là thực cả.

Chỉ có một điều, là không phải ma nào, oan hồn nào cũng hiện lên được cả. Ma muốn hiện hình tất phi đủ tư cách, phải ở trong những trường hợp không bị ngăn trở mới biến hóa được. Tỷ như vàng muốn biến hóa ra nước tất phi nấu lên ngoài ngàn độ, sự biến từ thể nọ sang thể kia có phải bất cứ trường hợp nào cũng xảy ra đâu?

Cho nên, ma có thể hiện hình được, trước hết cốt phi thiêng, mà muốn thiêng, thì theo như sự chúng ta cùng biết, phải có một vài điều kiện. Một là chết đúng giờ. Hai là chết trẻ, mà chết một cách thê tham dữ dội. Ba là chết oan. Bốn là được chôn ở chỗ đất có mạch. Năm là phải hấp thu được khí thiêng của trời đất.

Phi mấy điều kiện ấy, thì chỉ là một mảnh hồn yếu ớt, phất phưởng, khi tán khi tụ, bay là là vô định trong gầm vô định mà thôi. Mà có được cả mấy điều kiện vừa kể, cũng phải tùy từng buổi, từng chỗ, từng thời, mới hiện lên được. Ngày xưa, lúc văn minh Âu Mỹ chưa tràn sang bên cõi Á Đông, lúc máy móc chưa rầm rộ chạy dưới gầm trời Trung Hoa và Nam Việt, thì các chốn thị thành không đông đúc lắm, các đường sá không mở mang nhiều, những chốn hoang vu lạnh lẽo nhiều hơn những chốn phồn thịnh, mà sự tối tăm cũng lâu hơn sự sáng sủa vì đêm không có đèn điện rọi đường; bới thế nên trong một hoàn cảnh lặng lẽ đìu hiu khí âm tràn ngập cả non sông mà phủ trên cuộc sinh hoạt của loài ngời, khiến dương khí không có thể hưng thịnh lên được.

Nhưng, sau một cuộc suy vong, khí dương lại dần dần hăng hái, nó từ cõi Âu Tây tràn sang Đông Á, khiến cho các sự vật thay đổi cả. Máy móc ngày nào cũng rầm rộ, xe pháo ngày nào cũng xôn xao, đêm thì đèn sáng như ban ngày, ngày thì ầm ầm như chợ, lúc nào cũng có kèn có trống, có âm nhạc hùng hồn; mà người thì, bị hoàn cảnh run rủi, cũng ưa múa may quay cuồng hoạt động cạnh tranh, hơn là nhàn cư mà tĩnh dưỡng.

Cuộc sống ồn ào đã đánh tan âm khí, ma thiêng phi bạt đi xa. Những linh hồn, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng khó lòng hiện lên được vì khí dương mạnh quá. Có lẽ các ma thiêng đều chạy cả về những chốn đồng rừng xa vắng, ở lẩn lút trên đồi, trên ải, không còn hy vọng gì phảng phất ở những đô thành.

Chả bù với thời thái bình êm ái thủa xưa: đâu đâu âm khí cũng đều vượng cả, muốn rong chơi chỗ nào cũng được, không bị một mãnh lực gì ngăn cản, đánh tan đi. Thủa đó, người âm phủ với người dương gian nào có xa nhau mấy: ông Bồ đã vì sự người với ma hay chung chạ mà viết nên pho truyện Liêu Trai. Đến thời này, Liêu Trai đã hóa ra một cuốn truyện hoang đường vô lý! Cho hay ma cũng có thời!

Tôi có lẽ còn được nhiều hạnh phúc hơn Bồ tiên sinh là tôi đã được thấy ma hiện hình giữa ban ngày, trong thời đại bây giờ, lại ở một nơi không cách xa đô thành phồn nhiệt mấy. Đó thực là một sự lạ; và, cũng vì sự lạ đó, tôi mới chép nên câu chuyện này, khiến các bạn cùng được như tôi, thưởng thức một chuyện thần linh, gọi là những lúc thanh nhàn, quên được cuộc vật lộn quay cuồng mà ngày ngày ta phải dấn thân vào để kiếm cách mưu y mưu thực.

Thì đây, câu chuyện thần linh.

Hôm đó, cách đây chừng khoảng hai năm, tôi về vùng Nam Định xuống ga Gôi, vào thăm một ngời bạn cũ. Lâu ngày mới gặp được nhau, bạn tôi mừng lắm, vội vàng sai vợ con đi giết gà mổ vịt, lại cho người vợ ra chợ đón mua những món quà ngon. tôi được thấy bạn cũng mừng, hai anh em ngồi uống trà đàm đạo mãi cho tói chiều, không biết mệt.

Lúc ấy, vào khoảng bốn giờ. Trời tháng qui hạ, nồng nực lắm, tuy sắp sang thu mà cũng vẫn còn oi. Tôi đến lúc một giờ chiều, ngồi hàn huyên với bạn đã ba giờ có lẻ. Lúc tôi đến, trời nắng chang chang như lửa đốt, nhưng khi vào nhà bạn được hơn một tiếng đồng hồ thì trời bỗng đâu sa sầm mặt lại; mây đen bốn bề rầm rộ kéo đến, rồi sấm chớp nối tiếp nhau xé toạc quãng không gian bằng những tiếng nổ ầm ầm và những luồng quang tuyến sáng xanh chói lọi. Sau cuộc thị uy thị hùng ấy, mưa ở lưng chừng tới xuống trần ai như thác chảy, nhưng chỉ trong quãng nửa giờ lại tạnh ráo ngay. Mây đen, tụ lại ít lâu, cũng theo chiều gió tan đi hết cả. Trời lúc nãy bi vẩn ám , bây giờ quang đãng như không; vài tiếng sấm cuối mùa thỉnh thoảng nổi dậy, nhưng chậm rãi uể oi, không có vẻ hùng tráng như khi mưa chưa rỏ giọt.

Mặt trời , khỏi bị che kín sau bức màn mây tối, lai vui vẻ tia ra những luồng ánh sánh đỏ rực và gay gắt; hình như sau mỗi trận mưa rào, thì ánh nắng càng nồng càng đượm; để cỏ cây mau chóng được khô ráo nhẹ nhàng. Mưa xuống nắng lên là một sự rất thường trong thời tiết. nhưng sự đó không xảy ra trong các mùa êm dịu như xuân thu, và trong vụ mấy tháng mùa đông rét mướt. Nó chỉ thường xảy ra giữa mùa hạ, là một mùa hay có giông tố thất thường.

Mỗi một lần mưa xuống nắng lên, thì khí đất lại ngùn ngụt bốc cao khỏi đầu ngọn cỏ, hơi thở của Tạo vật lại nặng nề bực bội, mà khí hậu thì lại hóa ra độc địa vô cùng.

Những buổi trái trời trái đất ấy, ngoài sự làm cho khí hậu hóa nên ám chướng, có lẽ còn có một mãnh lực gì u ẩn, huyền bí, xúc động cả các âm hồn. Người ta phòng nghiệm ra rằng, sau một cơn bão, khí trời ở chỗ thôn quê có mùi khen khét, khiến nhiều kẻ tưởng lầm là sét đốt cháy một vùng nào. Sự thật chỉ là, dưới sức mạnh âm ỉ của các luồng điện nhấp nhoáng trong không gian, dưỡng khí tụ đặc lại mà gây nên mùi khét. Sự tụ đặc ấy vô hình, ta chỉ nhận thấy như hưởng của nó mà thôi ; nếu không có nhà bác học thí nghiệm xét ra, có lẽ ta cũng cho là hoang đường.

Hoang đường là tất cả mọi sự mà loài người chưa tìm ra cội rễ căn nguyên vậy.

Sự tôi sắp nói ra đây, vì chưa dò xét được nguyên cớ, nên cũng phải tạm liệt vào loại hoang đường. Ấy là sự thay đổi trong cõi huyền bí do sức của luồng điện trong không khí tạo nên. Âm hồn làm bằng chất gì, ta không được rõ; ta chỉ biết nó vô hình ảnh, nó nhẹ nhàng phảng phất, đằm như hơi sương, thoảng như làn gió, nó tan đi hay tụ lại theo những luật riêng óc mình không xét đoán được Nó cũng ví như những khói, những luồng điện trong vũ trụ vậy

Những nhà phù thủy cao tay, những kẻ thôi miên thiện nghệ phần nhiều đều luyện được một thứ mãnh lực tiềm tàng có thể sai khiến âm hồn tan tụ, tỷ nhà nhà kỹ sư biết cách phát điện đi hay gom điện lại. Nếu ta cho âm khí là một thứ điện, thì ta sẽ nhận rằng mỗi khi mưa dầm gió bấc, mỗi khi trời đất nặng nề, mỗi khi có mưa xuống nắng lên, thứ điện đó thường hay tụ lại thành khối. Nó tựa như chịu ảnh hưởng mật thiết của các luồng điện trong không khí, mỗi khi có sấm sét thì bị rung chuyển, xúc động; rồi, khi sấm sét đã nguôi nó cũng đông lại, cũng đặc lại như dưỡng khí, để hiện ra thành bóng.

Vì tình cờ run rủi, tôi đã được mục kích sự âm hồn hiển hiện, sau một trận mưa sau một ngày gay gắt nắng. Hôm đó, ngồi đàm luận cùng bạn, tôi đương vui vẻ, kể lể mọi nỗi hàn huyên tâm sự, thì bỗng thấy bạn tôi như chợt nghĩ đến sự gì, vùng đứng dậy, vừa kéo tay tôi, vừa nói:

- Bác hây theo tôi, sẽ cho bác xem một sự lạ lắm!

Tôi ngạc nhiên, hỏi bạn:

- Trời đang mưa xuống nắng lên thế này, khí đất bốc lên ngùn ngụt như thế kia, bác muốn chúng ta đi đâu?

- Bác cứ theo tôi, rồi tự khắc rõ! Bác sẽ không phải hối hận xông pha mưa nắng đâu. Mau lên, kẻo bỏ mất dịp này thì uổng quá!

Nói đoạn, bạn kéo tay tôi rõ mạnh. tôi không cưỡng cũng không dùng dằng, vội đứng dậy cùng đì. Hai chúng tôi ra khỏi nhà, lần theo bờ ruộng đi một quãng khá xa, gần tới một cái đồi. Đến một nơi cổ am, có bóng cây cao rườm rà phủ kín một vùng đất rộng, bạn tôi ra hiệu bảo tôi ngừng bước. Tôi theo đúng lời bạn, đứng tựa lưng vào gốc cây, nhưng chưa hiểu bạn tôi định tâm cho xem một cảnh vật thế nào.

Anh ta đứng trước mặt tôi độ vài bước, ngoảnh đầu nhìn bốn phía, rồi ngước mắt trông ra phía chân đồi như tìm kiếm sự gì. Một chốc, hình như anh ta đã thấy sự muốn cho tôi được mục kích, anh lùi lại, bá vai tôi, một tay trỏ ra phía sườn đồi xanh biếc:

- Này, anh cứ thẳng tầm mắt trông theo ngón tay tôi chỉ, có phải ở ven đồi , chỗ có nương khoai mà ta nhìn xa chỉ thấy màu đất vàng đỏ hiện rõ giữa một màu xanh thẫm, chính chỗ ấy, có hai người đang diễu võ dương oai, vật nhau chán thì cùng múa một bài quyền...

Trong lúc bạn nói, tôi chăm chú thu hết nhỡn lực cố phóng luồng nhỡn tuyến ra mé đồi để ghi lấy cảnh vật mà anh đương tả một cách hùng dũng. Nhưng khốn nạn cho tôi? Hai mắt đã hết sức nhận xét cho rõ rệt, mà vẫn chưa thấy tí gi! Ngàn trùng mây lam lợt lợt, ruộng lúa xanh rờn, đồi cây thẫm biếc; chả có một dấu hiệu gì tỏ cho tôi là có người đương nhảy múa cả. Bạn tôi thì cứ níu chặt lấy vai tôi, bắt đầu tôi phải gần sát đầu anh, hình như muốn truyền sang cho tôi nhỡn lực của anh vậy.

- Chết nỗi? Anh chưa thấy gì ư? Kia kìa, anh cứ chú ý nhìn vào nương khoai đo đỏ kia, chúng nó đương vờn nhau hay lắm. Anh đã thấy chưa?

Bấy giờ hình như mắt tôi mới đỡ quáng đỡ mờ, tôi thình lình thấy một vệt trắng xám, hung hung ở sườn đồi, mé dới nghiêng về bên tả. Liền lúc ấy, tôi cũng hình như trông thấy hai cái bóng sẫm, tựa hồ hình dáng người nhưng rất lạ. Buột mồm, tôi kêu lên rông:

- Quái! Làm sao nó không đầu!

Tôi vừa dứt tiếng, một đống cát bụi, ở đâu cạnh chỗ chúng tôi đứng, bỗng vụt bốc lên. Tôi nhắm mắt lại. Bụi cát và lá khô phả vào mặt tôi rõ mạnh, tôi cảm thấy một luồng gió dữ dội đương quấn lấy thân tôi, hút tôi, làm cho tôi nghẹn ngào khó thở. Mũ tôi tự nhiên bi cuốn lôi lên. tôi níu chặt lấy bạn.

Một khắc như thế, không thấy bụi phả vào mặt nữa, tôi mở mắt ra, thì bị một cảnh tượng làm cho giật mình kinh sợ. Một luồng gió lốc, nhanh như chớp, cuốn chiếc mũ trắng của tôi lôi đi rõ xa, ở lưng chừng trời. Cơn gió lốc ấy như tiến lại mé chân đồi vùn vụt Khi đến chỗ nương khoai, chiếc mũ tôi - lúc đó trông chỉ là một điểm trắng cỏn con, bỗng rơi xuống đất tỏ rằng cn gió đã tan rồi.

Cố nhìn, thì chẳng thấy bóng dáng của hai anh chàng múa võ nữa. tôi lấy làm lạ, chưa kịp hỏi bạn, anh đã cười bảo tôi:

-Thực là anh làm uổng mất một tấn tuồng đặc biệt! Vì anh mà cuộc phô diễn này bị bỏ dở; nếu không ta đã được một phen khoái trá vô cùng!

- Cớ sao anh lại bảo vì tôi...

- Anh mới đến nên không biết. Sự mà tôi muốn anh được mục kích là một sự lạ lắm: ma diễn võ giữa ban ngày. Ở chân đồi kia, có hai oan hồn của hai nhà thiện xạ, vì phạm phép nước nên bị chém đầu. Hễ cứ có mưa xuống nắng lên, thì hai oan hồn đó lại hiện về, cùng nhau thí võ. Muốn xem họ nhảy múa, phải đứng rõ xa mới thấy, lại gần quan sát thì biến mất. Mà lại phải kiêng, không nên nói đến sự mất đầu. Nếu lở mồm, ắt xảy ra cái cảnh tượng như hai anh em mình vừa thấy đó. Thôi, bây giờ ta hãy đi lại nương khoai nhặt lấy mũ về, rồi đợi đến dịp khác sẽ thưởng ngoạn cuộc múa võ kia, tưởng không lấy gì làm muộn...

Bạn tôi dìu tôi cùng đi lại mé chân đồi. Nhưng can đảm của tôi ít ỏi quá, tôi đành mất mũ, không dám đi xa nữa chỉ cầu xin bạn dẫn về nhà mà thôi. Bạn cười tôi là hèn nhát, song cũng chiều lòng; anh đem tôi về nhà và sai một tên gia đinh ra chân đồi lượm mũ về cho tôi.

Tôi ở nhà bạn non bể, ba tuần nóng ruột muốn thỏa chí tò mò hiếu sự của mình ngay, nưhng ngặt nỗi không gặp ngày nào có mưa xuống nắng lên cả. Tôi đã xếp sẵn những khí cụ để sự quan sát được dễ dàng; lại luôn luôn mình tự dặn mình đừng bao giờ nói đến hai tiếng "không đầu" khiến cho hỏng việc một lần nữa.

Thấm thoát vài hôm sau, tính đốt tay thì ra tôi quấy quả bạn tôi đã trọn hai mươi hai ngày. Hôm đó, may quá, vào khoảng chín mười giờ sáng trời đương nắng chang chang bỗng có cơn mưa. Tôi mừng quá. Mưa vừa ngớt hột, tôi thủ ngay cái máy ảnh và ống dòm, rủ bạn đi lại chỗ có cái miễu thần và cây cổ thụ mà chúng tôi đã đến một lần hôm trước.

Tới nơi không cần bạn phải chỉ bảo, tôi tự đứng lên mé trên nhìn phương hướng, rồi quay trông đầu về vệt hung đỏ ở sườn đồi. Quả nhiên bạn tôi nói có ngoa đâu, Tôi nhận thấy hai cái bóng đương vờn nhau nhảy nhót.

Mới đầu tiên, trông không được rõ lắm; nhưng dần dần mắt tôi trông càng quen càng sáng suốt ra. Cảnh vật tôi được mục kích thật là kỳ dị , từ bé đến giờ tôi mới thấy một sự thú vị như thế này.

Đó chỉ là hai cái bóng, nhưng quái dị làm sao! Hai cái bóng giống hệt như hai người, có tay chân, biết cử động, song chỉ không có đầu! Hai cái bóng ma cụt trốc! Đứng mé xa trông lại, tuy hình ảnh mình được thấy không lấy gì làm đích xác nhưng cũng rõ rệt vô cùng. Mới trông thì chỉ thấy lờ mờ hai vệt xám, hiện rõ trên màu hung đỏ của nương khoai; để ý nhìn lâu tý nữa, thì rỏ ràng là hai thân thể đàn ông, đương đấm đá nhau hùng dũng lắm.

Hai cái bóng ấy màu xám thẫm, xanh biếc, như màu khói đặc tụ lại. Không thấy rõ quần áo mặc ra làm sao, chỉ hình như cùng mặc áo chẽn mà quần thì xắn đến tận đùi. Đó là một thứ y phục tôi tưởng tượng ra, vì tôi trông na ná như thế: sự thực thì chỉ có hai cái bóng chập chờn như hai hình ảnh nhấp nháy trên màn chớp bóng. Ngắm kỹ quái trạng hiện ra đó, ta có thể vừa trông vừa đoán, nhận ra rằng hai bóng ma kia là hai thân thể vạm vỡ cờng tráng mà cũng lanh lẹn phi thường. Chúng nó tuy không đầu, song đánh nhau chả kém gì người có mắt, lại có phần giỏi giang, sắc sảo hơn những người có mắt nhiều.

Chúng diễn những đường võ cực kỳ bí hiểm, trông ngoạn mục và lý thú vô cùng. Cũng đấm, cũng đá, cũng né, cũng xông, cũng quay đi lộn lại, cũng cúi xuống ngửng lên, thực chẳng khác gì hai võ sĩ còn sống cùng nhau thi quyền trong một kỳ đả lôi đài hay cử võ vậy. Võ vẽ đôi ba miếng côn quyền học lỏm, tôi nhận rằng bản lĩnh của hai oan hồn kia siêu quần, xuất chúng, ít người thời này sánh kíp. Có lẽ hai con ma đó thuộc về thế hệ trước, một thế hệ còn trọng những môn đao kiếm, một thế hệ chỉ suy tài nghệ trong các đường quyền hiểm hóc, chớ không ỷ vào súng đạn để thủ thân. Thế hệ ấy ngày nay đã mất, đã biến trong cuộc di vãng xa lắc xa lơ; vết tích của nó, có chăng còn là hai bóng ma này, lạc loài vào một thời đại mới, mà vẫn còn mê muội trong cái chí hướng ngang tàng của thủa bình sinh?

Hai bóng ma kia cứ rạp rờn quay lợn mãi. Chúng nó xử nhau những miếng võ tuyệt kỹ th các miếng Song long quá hải, Mãnh hổ tầm sào, Thái Sơn áp đính, Hạng Võ phi truy v.v... nhưng tựa hồ chúng không có ý làm hại nhau, chỉ thi nhau trổ hết tài nghệ cho thỏa thích, cho bõ nhớ nhung cái thời oanh liệt chúng đã từng sống, mà không được sống tới cùng.

Đứng ngắm nhìn sự phô diễn tự nhiên kia, cũng thực là một khoái lạc ý vi. Trong buổi văn minh ngày nay, dễ đâu đã có dịp xem hai ngời sử võ?

Giả dĩ có xem xiếc hay xem tuồng Tàu, thì chi toàn một màu là múa may cho qua loa câu chuyện, mấy khi đã gặp hai tay thiện nghệ hết sức trổ tài quyền cước cho mà coi? Bời thế khi gặp trường hợp mà tình cờ tôi được trải qua, tôi ngắm nhìn mãi không hề mỏi mắt.

Ngắm chán. tôi lại giơ ống dòm lên quan sát cho rõ rệt: nhưng, thực là kỳ quặc mỗi khi tôi để mắt vào ống nhòm, thì chỉ còn được thấy nương khoai hiện ra, tuyệt nhiên không nhận được bóng dáng của hai nhà vo sĩ "cụt đầu" nữa! tôi thí nghiệm đến mười mấy lượt; lượt nào cũng vậy; cứ bỏ ống kính ra thì tha hồ mà trông mà ngắm, hể đem ống kính lên mắt, hình ảnh kia lại biến lúc nào rồi...

Kế ấy không xong tôi dùng kế khác. Tôi trao ống nhòm cho bạn, chỉ đeo có một chiếc máy ảnh, một mình đi sát lại chân đồi. Cách xa độ bốn cột đèn tôi còn trông rõ bóng hai con ma đương đấm đá. Đi thêm lên độ chục bước nữa hai bóng ma ấy cứ mờ dần đi rồi, sau cùng, khi tôi chỉ còn cách đồi độ chừng mươi bước, trông lên chỉ thấy không khí một màu trong vắt, ruộng khoai một màu vàng đỏ, hình như không hề xảy ra sự gì cả.

Cho rằng mắt tôi bị các âm hồn làm cho mờ quáng đi, tôi đem máy ảnh ra cứ chụp lấy năm sáu bức, mong rằng may ra con mắt kính sẽ hơn tôi, ghi dợc cảnh thần bí mà mắt người không ghi nổi. Về nhà, rửa ảnh, tôi vẫn bị thất vọng như thường; trên kính không có dấu vết gì của hai người võ sĩ cả!

Sự bí mật thực là hoàn toàn bí mật. Tôi vừa ngạc nhiên kinh dị, vừa tức tối khó chịu. Khó chịu cũng đành vậy, chớ biết làm thế nào! Mình còn ở cõi dương gian, lại muốn vén tấm màn huyền vi của Tạo hóa để nhìn rõ sang cõi âm, thì làm sao cho được. Hai oan hồn kia chỉ có thể hiện lên cho loài người thấy chúng một cách lờ mờ mà thôi; muốn thấy rõ nữa, thì ít ra cũng phải là con ma phù thủy đặc biệt thế nào mới được chứ!

Tôi có hỏi bạn về sự tích hai nhà võ sĩ bạc mệnh chịu bất đắc kỳ tử; bạn tôi chỉ biết lờ mờ rằng hai người đó đã chết năm chục năm nay, lúc anh chưa đẻ, mà, theo như lời các cụ già kể lại, là hai tên cướp bị sa vào lưới pháp luật và bị hành hình ngay ở chỗ chân đồi. Bạn tôi biết có thế thôi, câu chuyện của anh càng làm tăng tính tò mò hiếu sự của tôi, càng gợi lòng tôi muốn đi sâu vào bí mật của Thời Gian để giải cho ra vấn đề tôi suy nghĩ. Tôi muốn biết thủa bình sinh, hai vong hồn kia làm gì, mà tại sao cùng chịu chết thảm thương uất ức. Uất ức, bởi lẽ họ hiện lên múa võ như thế; chớ nếu họ làm nên tội rồi bị giết, thì còn oan khổ nỗi gì mà đến nỗi, ngoài năm mươi năm, khối hận vẫn chưa tiêu? Thực là một sự lạ.

Tôi nhất định phải dò xét sự lạ ấy cho tới gốc ngọn, dù phi tốn công khó nhọc cũng cam lòng! Trong lúc hăng hái, tôi tự nhận lấy một nhiệm vụ bí hiểm như thế; nhưng rồi dần dần, tôi phải tin rằng tôi, một kẻ cuồng ngông, chỉ nói khoác hão huyền và ước muốn những điều vô lý. Làm gì có đủ vật liệu mà đi ngược Thời Gian để đem ra ánh sáng một câu chuyện trong hàng nghìn chuyện có lẽ còn ly kỳ hơn, đã xảy ra hồi nước Đại Pháp vừa dựng cờ bảo hộ trên đất Việt Nam này?

Tuy nghĩ thế thì nghĩ, nhưng lòng tôi cũng muốn biết vì sao lại có hai oan hồn cụt đầu, cứ mưa xuống nắng lên, là hiện lên diễn võ. Trước còn là một ý muốn, rồi sau dần thành một dục vọng, sau nữa thành hẳn một định ý cứ bám chặt lấy hồn tôi. Tôi như kẻ đứng trong cảnh ngộ một nhà toán học chưa tìm ra kết quả một bài tính khó nhưng thú vị. Cả ngày, cả đêm, tôi chỉ mải mê về chuyện ma không đầu của tôi; rồi tôi lục các sách trong nhà Bác Cổ để họa may có tìm đợc một vết tích gì về hai nhà võ sĩ bạc mệnh kia không. Trong sách tôi thấy nói rất nhiều chuyện về hồi ấu trĩ của cuộc bảo hộ, xong chả có pho nào đả động đến hai nhà thiện xạ chịu tử hình ở mạn núi Gôi...

Sau khi tôi ở nhà bạn ra về, cách đến hai năm, tôi vẫn còn nhớ cảnh vật tôi trông thấy tựa như nó mới vừa xảy ra ngày hôm qua vậy. Tôi rất bực mình vì đã cố tận tâm gắng sức, mà không tài nào biết thêm tí gì về quái trạng ấy cả. Những chuyện mà các người ở quanh vùng Gôi kể cho tôi nghe đều là những vật liệu lờ mờ, không chuyện nào giống chuyện nào, vì mỗi người lại thêm bớt mỗi vẻ theo ý riêng mình.

Sau cùng, biết rằng tôi vô lực, tôi đành gắng quên dục vọng của tôi đi. Quên! Quên làm sao được? Càng ở những chỗ phồn hoa đô thị, lòng tôi lại càng như quằn quại khó chịu; tôi càng tự trách mình sao không cố gắng thêm chút nữa, dò xét thêm chút nữa; biết đâu trong một pho sách ở viện bảo tàng, hoặc trong ký ức của một ông già đã sống thời loạn lạc, lại không có một vết tích, một dấu hiệu, chỉ cho tôi biết đường lần mò để đi sâu vào câu chuyện huyền bí của hai nhà võ sĩ không đầu, hiện lên mỗi lần mưa tạnh nắng lên?

Ấy, cũng bởi tin rằng có người biết được sự tôi cần biết, nên tôi bỏ hẳn nhà một dạo, đi ngao du khắp đây đó, mong rằng sự tình cờ sẽ cho tôi được thỏa lòng. Không ngờ khi đến Đồng Giao, tôi đã không biết được tí gì về câu chuyện của tôi, lại nghe thêm được một câu chuyện ly kỳ hơn, khiến cho tính tò mò của tôi càng sôi nổi thêm lên nữa.

 

MA RỪNG

(Tác giả: TCHYA)

 

Ông Cai Móm lại ngừng lần thứ ba, lấy cốc rượu uống một hơi rồi kéo một mồi thuốc lào. Lệ Thi nóng ruột muốn nghe, giục ông Cai kể nốt, nhưng ông vẫn điềm tĩnh thong thả uống rượi hút thuốc khề khà, làm cho vợ tôi càng thúc giục thêm nữa. Thi muốn nghe, mà hễ nghe đến chỗ nào rùng rợn, thì lại bám riết lấy tôi, thu mình cuốn vó lại , trông buồn cời lắm. Phải thế chăng mình?

Một hồi lâu ông Cai đủ nghiện, mới oang oang nói tiếp:

- Bấy giờ Oanh Cơ ngồi gục mặt vào vai tráng sĩ. Tráng sĩ muốn cho nàng đỡ sợ, phải tìm kế nói chuyện để bắt nàng phải chú ý vào một sự khác, ngõ hầu quên nỗi đau xót và quên cảnh vật ghê sợ của rừng khuya. Câu chuyện tráng sĩ nói, sau này lại chính mồm Oanh Cơ kể lại cho cậu ruột tôi nghe, vì thế nên tôi mới biết rõ. Tráng sĩ sợ nàng cứ nghĩ ngợi mãi về cái chết thê thảm của anh chị nàng, và cứ bồn chồn lo ngại luôn luôn, thì không khéo chết ngất đi lần nữa, chàng phi nói luôn mồm cho nàng thấy bao giờ cũng có người ngồi bên cạnh và che chở cho mình. Tráng sĩ bảo Oanh Cơ:

- Cô đừng nên sợ hãi kinh ngạc, cô ạ! Có tôi ở đây, không khi nào tôi để thú dữ ma thiêng phạm đèn cô được. Tôi có khi nằm trên chòi này hàng nửa tháng, đêm đêm trơ trọi một mình, tôi chả e ngại gì hết. Gặp ác điểu, mãnh thú thì tôi bắn, tôi đánh, tôi cầm Imã tấu hoặc đoản côn thử chơi với chúng nó vài keo, đi cho chúng nó xem vài đường võ, bao giờ chúng cũng thua nhạy, hoặc bỏ xác lại cho tôi khiêng về. Chúng nó có làm gì được tôi? To lớn, khỏe mạnh và nhanh nhẹn như con hổ, tôi chỉ coi như loài chó dữ mà thôi.

Cái đáng sợ nhất, ấy là ma rừng. Giống ấy thiêng lắm, và lợi hại lắm. Nhưng tôi có làm gì phạm đến chúng đâu, mà chủng nỡ xử tàn tẽ với tôi? Chả qua chúng chỉ muốn đùa giỡn quấy quả tôi cho vui chớ chưa làm tôi phải ốm đau và chịu thiệt bao giờ. Hay là chúng có ý nể tôi thì chả rõ. Một vài lần đầu tiên, có vài con đầu đàn chúa tể ở vùng này, hiện lên dọa nạt tôi. Tôi đang nằm trên sàn thì nó làm sàn quay tít như chong chóng, định thân ngồi một lúc thì lại chả thấy gì. Cỏ khi nó ném tôi đến bịch một cái xuống tận gốc cây, tôi nhìn lại thì vẫn còn ở trên sàn. Lại có lần buổi chiều, mới trèo lên cây đã thấy ngay lủng lẳng treo trên cành chỗ thì một cánh tay, chỗ thì một cẳng chân, chỗ khác lại cái đầu lâu máu ở cổ chảy xuống ròng ròng, chỗ khác nữa thì cái thây người. Một chốc, tất cả mấy thứ ấy bay vùng lên sàn, liền nhau lại thành một người đen thui thủi, đầu tóc dựng ngược, mắt mở rõ to, há mồm cười nhe răng trắng nhơn nhởn. Tôi cứ ngồi yên nhìn con ma ấy không nói; nó thè lỡi đỏ như lửa dí tận sát mặt tôi, khí lạnh của nó thấu vào khắp người tôi, tôi rợn lắm lắm, song vẫn cố trấn tĩnh. Nó dọa chán thì biến mất.

Lần khác nó hiện lên đến sáu bảy con, nhớn có, bé có, trẻ có, đứa nào cũng quần áo rách rưới hoặc trần như nhộng, trông người gầy gò đem thủI, xấu xí lắm. Chúng đi lơ lửng như không bước, là là tiến trên mặt cỏ, lại chỗ tôi đứng dưới gốc cây, dang tay bao vành lấy tôi rồi nhảy múa làm tôi hoa cả mắt. Tôi bị chúng trêu nhiều lần lắm, lần này tôi mới chắp tay vào tước ngực, nhắm mắt niệm Phật Quan âm, rồi đọc câu thần chú trừ tà: "Tả Thanh long, hữu Bạch hổ, tiền Chu tước, hậu Huyền vũ'. Mở mắt ra chúng đều biến cả. Tôi lên được trên sàn, ngồi khấn rằng:

Tôi tên là Lê Trọng Việt, là một kẻ đi săn các ác điểu, mãnh thú, không xâm phạm gì đến vong hồn các anh em cả. Anh em nếu có linh thiêng, xin phù hộ cho tôi, săn được nhiều, tôi sẽ chia cho một phần và xin cúng tế anh em tử tế, mỗi khi tôi tới đây. Từ trước tới nay, anh em trêu ghẹo tôi, tôi đã chịu nhẫn nại, không khi gì cả, không làm gì cả. Tôi không dám chửi rủa các vong hồn, cũng không dám láo xược với các vong hồn, xin các người từ đây đừng dọa nạt đùa bỡn tôi nữa! Nếu tôi khấn khứa tử tế thế này mà không tha, thì sau sẽ có cách tôi đối phó lại, bấy giờ đừng trách móc tôi đó! Đây, gọi là thành tâm lễ bạc, tôi có chút quà này xin biếu anh em!

Khấn xong, tôi dở tay nải đem ra bày ở sàn một ít bánh đúc để trên vài tàu lá, và một ít hoa quả tôi đã cố tình mang đi từ chiều. Rồi tôi đốt hương, đốt nến, vái bốn vái. Xong lại đem đốt mấy chục lá vàng hồ. Công việc ấy ổn thỏa, tôi nằm chèo queo đánh một giấc đã, chờ đến canh hai thì dậy. Đêm hôm đó, quả nhiên, tôi săn được nhiều lắm, song toàn là các thứ nhỏ. Và tôi cũng không bị trêu ghẹo nữa. Bắn được cáo, được cầy, tôi đợi rạng sáng là đem thui ngay vài con dưới gốc cây, cúng tế xong rồi mới về. Những đêm sau đều săn được kha khá. Tôi vẫn giữ lời hứa chia phần cho ma, nhưng ma ăn quen rồi lại rửng mỡ, đến đêm lại tìm cách làm cho trong nhà sàn của tôi các đồ đạc lung tung lên cả. Có một lũ chuột, mỗi con bằng con mèo to đến hì hục tìm mồi, ăn bánh đúc cơm nắm của tôi gặm nát cả chuối tôi trữ sẵn để tráng miệng, cắn rách áo tôi và nhá chân tôi đau lắm. Chúng nó tha nỏ của tôi quăng xuống đất tha mã tấu của tôi cắm vào một cành cây, vác tay nải của tôi treo lủng lẳng ở mái sàn. Lũ ranh ấy lục lọi đủ thứ chọc tôi đến cực điểm. Đêm tôi ngủ dậy, sờ nải ch thấy đâu, biết có chuyện. Tôi bèn ngồi một lúc định thần cho mắt sáng ra, có thể trông rõ trong đêm tối được; tôi nhờ ánh mờ mờ của các ngôi sao le lói tìm được đẫy nải và mã tấu vì lưỡi đao lấp lánh dễ thấy lắm.

Tôi mở nải lấy sẵn bùi nhùi, đá lửa, và hai ống địa lôi to. Rồi tôi ngồi đợi xem cái giống quái kia có đến quấy nhiễu tôi nữa chăng. Quả nhiên, chúng trở lại để xem tôi bị tức giận đến thế nào. Lần này, chúng biến ra một lũ cú mèo và mèo rừng đến vỗ cánh ầm ầm và kêu nheo nhéo rầm rĩ cả chung quanh mình tôi, bâu lấy tôi đen nghịt. Tôi đã biết ý, thủ sẵn một sợi dây ngũ sắc dài, một bông phẩm đỏ ướt; tôi cứ ngồi điềm nhiên niệm Phật và đọc thần chú. Chúng quây quần lấy người tôi nhưng không phạm đến tôi được. Tôi đánh đá tóe lửa, đốt bùi nhùi; bùi nhùi cháy, tôi dí ngay vào ngòi hai cái pháo khổng lồ treo ở mé sàn; xong tôi vội vàng đứng dậy, quờ tay túm được một anh mèo, rồi nhảy vọt ra ngoài chuyền cành nọ sang cành kia, ra ngồi một chẻ cây gần gốc. Tôi vừa leo cây vừa kéo dây ngũ sắc ờ cổ buộc vào mình con mèo, nó cắn tôi, cào tôi, giãy giụa và đập đuôi chan chát, tôi cũng mặc kệ. Buộc dây xong, tôi lại sờ vào túi lấy bông phẩm đỏ, bôi nhoe nhoét vào mặt nó, xong đâu đấy, tôi thả nó rơi đánh bịch xuống đất.

Tôi làm những việc trên đây nhanh như chớp, bởi đã định trước cả rồi; chỉ loáng một tí là đốt xong ngòi pháo, bắt một con mèo và nhảy chuyền xuống gốc cây ngồi ở một chỗ, tươm tất lắm.

Tôi vừa an vị, hai tiếng nổ kinh thiên động địa nối tiếp nhau xé tan vừng lặng lẽ của rừng khuya; bốn bên toàn là sườn núi cả nên tiếng pháo địa lôi càng dữ dội lắm lắm. Đàn mèo tranh nhau mà chạy, đàn cú tranh nhau mà bay, chúng chen nhau, húc nhau ùa cả ra khỏi sàn. Phần nhiều đều rơi xuống đất huỳnh huỵch, có con chạy không kịp, phải biến ra khói, tan đi. Pháo vừa dứt nổ, định thần mà nhìn, chả thấy một con nào nữa cả, thì ra rơi vừa đến đất, hay chưa đến mặt cỏ, là chúng đã biến cả rồi? Vô phúc có một anh cú bay tạt qua mặt tôi, tôi túm ngay lấy, luồn ngay dây ngũ sắc buộc lấy hai cánh, rồi cũng đem phẩm bôi vào mặt. Lại vứt con quái vật ấy xuống đất theo với con mèo; hai con đó giãy giụa, vật mình đùng đùng vào gốc cây nghe rõ mồn một. Y chừng chúng nó muốn tháo dây thì phải, nhưng tôi buộc theo phép phù thủy, có mà tháo đường trời!

Tôi lên ngồi chễm chệ trên sàn nứa. Lúc này tôi đốt bùi nhùi, thắp một ngọn bạch lạp, đi tìm các thứ binh khí, thu thập xem có thiếu gì không. Xét ra chỉ mất cái "nỏ thần" của tôi mà chúng ném xuống gốc cây cổ thụ, còn đồ thì đủ cả. Tôi ngồi im đợi xem động tĩnh thế nào. Lúc đó rõ ràng tôi tỉnh táo, bao nhiêu tinh thần tâm trí đều sáng suốt cũng như ngọn bạch lạp rạng to thế mà không hiểu vì đâu tôi như mơ màng, tai nghe văng vẳng có tiếng nói rất sẽ mà rất rõ, một thứ tiếng không phải là tiếng, chỉ như một dư âm xa lơ xa lắc, một tiếng gọi bị đập vào đá rồi oang oang đưa lại từ chỗ nào, một cái "bóng của lời nói" thì đúng hơn. Cái tiếng gọi đó gần sát tai tôi, nhưng quái, cũng như ở một nơi xa lắm, chỉ nhận biết nó rành rọt, nghe tờng tận vô cùng. Nó nh thế này:

- Ông Trọng Việt ơi! Ông ác làm chi, ông tắt đèn đi! Chúng tôi biết lỗi rồi, chịu phục ông rồi! Ông cứu cho lần này, lần sau không bao giờ dám phá ông nữa! Riêng hai đứa tôi, chúng tôi sẽ đội ơn ông và phù hộ cho ông. Ông hãy tắt đèn đi...

Tôi đoán ngay là lời kêu van của hai con ma bị bùa ngũ sắc buộc, không biến được. Chúng nó đã hối quá, tôi cũng chả nên táng tận lương tâm. Chả qua tại chúng xử tệ với tôi hết sức, nên tôi mới phải báo thù, nếu không tôi cũng chẳng hơi đâu nghịch ngợm với chúng nó để mất một đêm săn bắn. Cái đêm ấy, thế là vô ích: tôi bị mất nỏ, lại lục đục mất thì giờ, lại đốt địa lôi và châm đèn thì còn con thú nào dám đến gần cho mà bắn nữa, mà dù có đến thì biết tìm nỏ ở đâu? Xuống gốc cây ư? Chả dại. Nhỡ ra có làm sao trong đêm tối, giữa rừng vắng, thi hết kế thoát thân. Thôi, chúng nó đã xin tắt đèn thì tôi tắt để xem chúng giở trò trống gì nào! Tôi dụi cây nến, ngồi đợi. Trời vừa tối bỗng nghe bịch bịch hai tiếng, sờ thì ra có con mèo và con cú ở ngay bên cạnh chân. Văng vẳng bên tai lại có tiếng:

- Ông làm phúc tháo dây cho chúng tôi, và gột vết phẩm cho chúng tôi. Ông tha cho, sẽ đội ơn ông mãi mãi.

Tôi nói: - Lấy nước đâu mà gột? Tôi chả có gì đựng nước cả, chỉ có một cái vỏ dừa ở góc sàn, nhưng lại không có một giọt nớc nào. Thì làm sao mà gột cho hai người được?

Tôi vừa dứt lời thì, quái lạ! Thấy ngay một vật ươn ướt đụng chân, sờ xem thì là một gáo nước đầy, cái gáo sứt không có cán của tôi! Tôi hơi ngạc nhiên một tí, song nghĩ ra ngay. Có gì lạ đâu? Một lũ ma nữa, vô hình, đương bao bọc lấy tôi để xin tôi gỡ cho hai đứa bạn của chúng và để xem tôi xử sự ra thế nào. Tôi lên mặt đạo mạo, phán rằng:

Chỉ tại các ngươi chọc ta, chớ ta có làm hại các ngươi đâu! Ta cúng các ngươi, cho các ngươi nào thịt, nào bánh, nào hoa quả, nào vàng lá, thế mà các ngươi chả biết ơn phù hộ ta lại còn quấy quả ta, thì trời đất nào chứng cho các ngươi? Ta đây biết phù thủy, (chỗ này, tôi nói khoác mà để dọa chúng mà thôi, chớ thật tình tôi chả có phép quái gì!) Chúng bây làm gì nổi ta? Các ngươi nạt ta thế, chứ nạt nữa ta cũng chả sợ! Ta đã có cách đối phó lại, còn nhiều cách lắm, đây này, các ngi hãy xem?

Nói đến đó, tôi sờ tay vào nải, lấy ra một củ tỏi, bóp nát rồi dí vào mũi con mèo và mũi con cú. Quả nhiên chúng nó giãy lên đành đạch. Tai tôi lại nghe văng vẳng: - Chúng con lạy ông! Chúng con biết tội rồi, ông sinh phúc cho! Ông vứt tỏi đi, rửa tay đi!

Tôi quẳng củ tỏi xuống đất, dội nước ở gáo rửa tay, dốc hết cả gáo. Tôi lấy vạt áo lau tay, vừa lau vừa nói tiếp: - Ta còn nhiều thứ phép khác, lợi lại lắm lắm. Hễ các ngươi xử ác với ta, ta sẽ xử càng tàn tệ hơn, cho bỏ ghét? Lần này là lần đầu, ta tha cho hai ngươi; phải biết ơn và cố tu tỉnh lại, ta bắt được một lần nữa thì chớ trách ta đó! Nhưng mà gáo nước hết rồi, lấy gì gột rửa cho các ngươi đây?

Tôi nói dứt lời, sờ xuống chân thì gáo nớc đã lại đầy rồi. Tôi bèn móc trong đẫy ra một cái giẻ lau, đẫm nước đi, rồi lau mặt mũi cho con mèo và con cú. Chúng nó để tôi làm phận sự một cách ngoan ngoãn lắm, không dám cựa quậy, giãy giụa một tý gì. Tôi lau một lúc rõ lâu, áng chừng đã sạch lắm rồi , bấy giờ mới thò tháo nút dây ngũ sắc ra. Vụt một cái, vừa cởi được dây, thì đã không thấy cú và mèo đâu nữa. Chỉ có phảng phất trớc mặt tôi, lờ mờ như sương đọng lại, như khỏi tụ thành hình, hai cái bóng dịu dàng trắng toát, thực là "sương in mặt, tuyết pha thân". Hai thiếu nữ yểu điệu thanh tân, tuy trong bóng tối mà cũng đoán được đó là hai giai nhân tuyệt sắc. Cả hai tựa hồ mặc áo bằng mây trắng, mập mờ ẩn hiện, trông đẹp vô cùng. Một làn tóc đen cuồn cuộn xõa xuống ngang lưng, một thân hình thớt tha mềm mại, tứ chi nhỏ nhắn tròn trĩnh, đó là cốt cách của hai nàng. Trông cả hai đều giống nhau, tựa như chị em ruột khó lòng phân biệt được, nếu một nàng không có làn tóc dài chấm gót, khác với nàng kia tóc chỉ xế quá lưng thôi.

Tôi thấy hai bóng ma con gái ấy, trong lòng cũng hơi bồn chồn, cứ đờ mắt ngơ ngác ngắm họ. Cả hai nàng cùng quỳ xuống sàn nứa, trước mặt tôi, trong khi tôi vẳng nghe một điệu đàn ân ái vô cùng:

- Hai em cám ơn cái thầy tha cho. Đội ơn cái thầy nhiều nhiều. Sau này xin giúp cái thầy...

Điệu đàn chỉ ngắn có thế. Điệu ấy tức là giọng của hai nàng thánh thót hòa nên. Tôi lấy làm lạ rằng sao cái giọng này nó êm ái du dương, nó thỏ thẻ, trong trẻo khác hẳn với tiếng nói phào phào lúc nãy.

Tôi nghĩ một lúc, mới hiểu rằng khi hai nàng này chưa biến được thì cũng chưa nói được, đó chỉ là bạn bè thay lời hai nàng mà cầu khẩn tôi đó thôi. Tôi bảo là hai nàng ấy nói, đó là lầm, vì thực ra không có thanh âm vang ra ngoài. Tôi chỉ thấy môi hai thiếu nụ đó lắp bắp, rồi tự nhiên tôi hiểu, tựa hồ trong tai tôi có tiếng nói dội vào óc tôi. Có lẽ khi đó tôi nghe hồn của tiếng người, cũng như tôi thấy bóng của hồn người vậy.

Hai ả lạy tôi sì sà, sì sụp, đoạn đứng dậy bớc ra. Tôi vừa ngước mắt, chửa kịp trông theo thì đã không thấy bóng dáng của hai nàng đâu nữa...

Từ đấy, tôi đỡ bị nạn yêu ma quấy nhiễu nhưng tôi lại bi một cái nạn mới lạ lùng nguy hiểm hơn: là hai con ma thiếu nữ Mường nó hình như mê tôi, đêm nào cũng lên ngồi cạnh tôi nói chuyện tỉ tê, như quấn quít lấy tôi không dứt. Tôi nhắm mắt ngủ, thì thấy như mình dắt tay chúng đi chơi trong rừng, bừng mắt dậy, lại thấy hai bóng trắng ngồi kề bên mình, trong óc, trong tai lại có tiếng dội văng vẳng nói chuyện với mình thân thiết lắm. Tôi là con trai chưa vợ, thấy thế sợ lắm, chỉ ngại giọng yêu tinh ấy nó thu mất nguyên dương thì sẽ chết mất. Tôi lo quá, bỏ rừng về nhà. Đêm nằm ngủ lại thấy chúng nó đến trách móc sao không đến Đồng Giao săn bắn như mọi ngày cho chúng được gặp gỡ trò chuyện. Sáng dậy, tôi đem sự đó thuật cho anh tôi nghe. Anh tôi là người giỏi võ hơn tôi mà lại can đảm lắm. Anh tôi quyết cùng đi vào rừng với tôi một phen: Quả nhiên, anh tôi được thấy hai thiếu nữ Mường của tôi và làm quen với chúng. Một đứa bám riết lấy anh tôi, còn một đứa thì vẫn cố mê hoặc tôi đến kỳ cùng. Hai anh em tôi hễ nằm trên sàn thiu thiu ngủ là tự khắc thấy mỗi đứa ôm ấp một con ma đi dạo quanh khắp đồng nội, bắt ong, đuổi bướm, bứt quả hái hoa, tình tự vui vẻ lắm. Tỉnh dậy, vừa bừng mắt đã thấy có hai ngồi dới chân, con tóc ngắn kề anh tôi, con tóc dài kề tôi.

Thực là nguy ngập quá? Tôi hối hận vô cùng, hối hận vì đã đưa anh tôi vào cõi chết. Một mình tôi có thác cũng không oán gì số phận, song làm cho anh tôi vì muốn cứu tôi mà cũng thác nốt thì thực tôi có lỗi vô ngần! Can tràng như tôi, mà tôi phải ứa lệ khóc. Nhưng không dám khóc trớc mặt lũ quái đó, tôi đợi rạng ngày, dắt anh tôi ra khỏi núi, đi về quán trọ lúc bấy giờ mới ôm lay anh mà khóc và xin lỗi. Anh tôi mủi lòng cũng khóc và khuyên giải tôi:

- Em đừng ngại! Anh xem hai con yêu này nó khôg phải là đồ dâm tinh, chả qua chỉ là oan hồn hai con bé chết lúc còn con gái, nên si tình đó mà thôi. Từ lúc mình quen chúng nó, mòi cùng nhau đi chi trong ngàn trong nội, nào chúng đã dắt mình đến cuộc mây mưa dâu bộc gì đâu! Thế thì cha lo! Để thong thả anh nghĩ một kế làm cho chúng nó phi bạt đi mới được?

Anh tôi nói vậy thì tôi biết vậy, chớ tôi vẫn khóc lóc như thường. May sao, vì sự khóc thảm thiết đó, có một cụ già để ý đến tôi ông hỏi tôi, tôi nhất nhất Kể sự tình cho ông rõ.

Ông già ngắm mặt mũi hai anh em tôi một lúc, rồi ông đòi xem bàn tay. Xem xong, ông đưa chúng tôi vào một căn buồng hẹp trong nhà trọ, ông đứng ngoài bắt bốn cái quyết, lầm rầm đọc chú hồi lâu mới bước vào. Ông không đắn đo gì cả nói ngay:

- "Tôi xem khí sắc hai thầy, chưa đến nỗi suy. Âm khí cũng chưa phạm được lấy, vì hai thầy có can đảm nhiều, hóa nên tôi mới cứu được. Giá phải người yếu linh hồn, ắt bị hại đã lâu rỗi. Cái giống ma này nó khôn lắm, nó muốn báo thù thầy đấy, nhưng nó cứ làm dần dần, mỗi đêm đi sâu vào một chút thôi, độ nửa năm thì không chữa được nữa! Tôi cho hai thầy hai đạo bùa này, hai thầy phi giấu kỹ trong búi tóc, nó sẽ không biết: nếu để chỗ khác, nó trông thấy tất cướp mất. Ta lại tương kế tựu kế, nhân chúng nó đương rủ hai thầy đi vào đường tình ái, hai thầy sẽ làm như âu yếm nó lắm lắm, chớ đừng lộ ra vẻ lãnh đạm như xưa. Làm ra như mình thầy chúng yêu mình một lòng chân thật nên cũng hồi tâm mà sủng ái chúng. Rồi một thầy sẽ, trong khi tự tình, hỏi nó xem mả hay nhà mồ của chúng nó ở đâu. Nói rằng hễ khi nào anh thác đi, sẽ lại nằm chung với em. Khi nó chỉ mả rồi, thì thử ba lần xem có đúng một chỗ không, mỗi lần nhận địa thế và đánh dấu kỹ càng. Lúc nào biết đích mả chúng nó rồi thì các thầy nên làm thế này, thế này.. ." đến đây ông cụ nói thầm rất khẽ "chúng nó sẽ phi kiêng hai thầy, không dám đến gần nữa. Hai thầy sẽ thoát nạn. Song cốt nhất hai thầy phải điềm đạm, cẩn thận, suy xét cho tỉ mỉ, chớ có mừng rỡ lộ ra nét mặt mà khó lòng giấu được chúng. Hai thầy nên nhớ kỹ. Thôi hai thầy đi ra, thế là xong rồi!"

Chúng tôi xin tạ Ơn ông cụ, cụ nhất định từ chối. Túng thế, giữa lúc cụ vô tình, cả hai anh em tôi sụp xuống lạy cụ hai lạy, cụ phải buộc lòng nhận vậy, nhưng thế nào cũng không nhận tiền.

Đêm hôm ấy, anh em tôi lại vào rừng rồi làm đúng theo chương trình ông cụ già đã chỉ bảo. Muốn cho cẩn thận anh em tôi hỏi dò mả của hai con ma đến năm sáu lần, và chúng tôi nhận kỹ địa thế và đánh dấu chỗ ở của chúng rất minh bạch, chí kỹ không lầm lẫn được nữa. Một hôm trời có nắng, chúng tôi đợi đến đúng ngọ, vác xẻng vác cuốc vào rừng, đến chỗ hai cái mả mà chúng tôi đã đánh dấu, khai quật quan tài lên, mở nắp vứt lá bùa vào rõ nhanh rồi đậy nắp lại, xong lật sấp áo quan cho xuống hố lấp đất lên cẩn thận.

Tối hôm đó, quả nhiên không thấy hai cái bóng trắng ngồi dới chân nữa. Nhưng hai anh em tôi lúc chợp ngủ đi cùng thấy hai giấc chiêm bao giống nhau. Trong mộng, cô ả nhân tình ma của đứa nào hiện lên bảo đứa ấy rằng: - Thôi được! Anh đã đối đãi tệ bạc và tàn nhẫn với em, rồi anh sẽ biết em báo cừu thế nào! Em truyền hồn cho anh! Em sẽ làm cho anh chết đầu lìa khỏi xác, giữa lúc còn niên thiếu như em, em mới nghe! Sống anh không muốn làm chồng em, chết rồi anh sẽ phải làm chồng em, anh nghe chưa?

Chẳng qua đấy là lời hăm dọa vu vơ, chớ nó chết rồi, còn làm quái gì được ai? Sống chết đã có mệnh, dễ đâu con ma kia có thể sát hại được cả hai anh em tôi? Chỉ biết từ khi triệt được nó, tôi được bình an vô sự. Lũ ma hình như sợ tôi rồi, không con nào dám lại trêu tôi nữa. Đêm đêm tôi được ngủ ngon lành hết sức, tôi ở nhà sàn quá như ở nhà tôi, chả còn e ngại nỗi gì. Trước kia tôi săn mãi không bao giờ được hổ, báo và hươu nai; nay tôi bắn được rất nhiều hươu, săn được hàng mười mấy con, gạc chất đầy nhà, bán được nhiều tiền lắm. Tôi lại vớ được đủ thứ; ngày thì có sơn dương, có cầy hương, có các thứ chim quí, đêm thì có hoẵng, nai, lợn, báo và chồn. Có một lần tôi ném phi tiêu giết chết được một hổ mẹ và hai hổ con, vừa đây tôi hụt một con beo xám to tiếc quá! Từ lúc lũ mẹ ranh thôi không ám tôi nữa, tôi làm ăn khá lắm, chả ân hận nỗi gì! Anh cả tôi, anh Mạnh Khôi, thì lại thích về mé Chợ Ghềnh, anh tôi săn ở phía đó không vào đây mấy.

Nhưng kìa! Cô xem có phải sắp sáng rồi đó không? Chúng ta mải miết nói chuyện mà ai ngờ sắp bạch nhật rồi!

 

THẦN TRÙNG HỔ

(Tác giả: TCHYA)

 

Ông Cai Móm lại ngừng một lượt nữa để uống rượu và hút thuốc lào. Biết tính ông hay hãm câu chuyện bằng những món sở trường ấy, Lệ Thi và tôi đành đăm đăm ngồi chờ nghe nốt, không dám giục ông nữa sợ nếu làm cuống quít lên, ông sẽ bị tinh thần rối loạn quên đoạn mạch rồi làm cho sự tích kém hay đi. May sao, ông không để hai vợ chồng tôi đợi quá. Ông hút thuốc lào xong, vội vã kể tiệp: Bấy giờ Oanh Cơ trở lại ở đất Đồng Giao làm lụng khâu vá như thường. Bỗng một đêm, tự nhiên nàng thấy trong lòng bồn chồn khắc khoải, tuy nằm tận sàn trên, cửa ngõ đóng chặt và chặn kỹ lưỡng cả, thang cũng rút lên rồi, cửa gác đóng sập xuống rồi, thế mà nàng vẫn thấy lo ngại quá. Nàng cố ngủ đi cho đỡ mệt, thế mà không sao ngủ được, từ mấy tháng nay, có đêm nào nàng nhắm mắt được đâu. Nàng cùng cháu mỗi người một góc phòng, thám thính. Lúc bấy giờ vừa hết canh hai.

Bỗng nghe có tiếng đập cửa thình lình, cấp bách: - Mở cửa cho tôi với. Mau lên, cô Oanh ơi! Mở mau.

Đầu tiên, nàng nghe rõ cả, nhưng bấm cháu, cố làm thinh không trả lời. Tiếng đập cửa lại gấp nữa.

- Tôi đây mà, tôi là Lê Trọng Việt đây mà! Mở cửa mau cho tôi, tôi bảo cái này cần kíp lắm, không thì chết cả bây giờ nào! Mau lên!

Nghe đến tên Lê Trọng Việt, nàng mới sai cháu thắp đèn lên, xuống từng sàn dưới dựng liếp, mở rèm, giơ đèn ra ngoài rọi xem. Quả nhiên là Lê Trọng Việt thực. Người cháu nhanh trí khôn, gọi Việt lại mé cửa song, vứt xuống cho Việt một cái chạc lớn, bảo tráng sĩ nắm vào chạc mà đu lên, còn một đầu thì người cháu cố sức kéo. Hì hục một lúc, tráng sĩ lẫn mò lên được, vội vàng cùng người cháu đóng liếp thả rèm cẩn thận, lấy gỗ chắn ngang cả cửa song, rồi cùng lên cả từng trên, rút thanh lên, đóng sập cửa gác lại, bắc ghế để lên trên cho chắc.

Tráng sĩ vừa lên đến nơi, bỗng thấy Oanh Cơ rên một tiếng, rồi ôm bụng la ó vang lừng, lăn tử trên giường xuống mặt sàn, giẫy giụa khóc lóc. Hỏi nàng, nàng kêu đau bụng lắm lắm, vừa nói vừa quằn quại dưới chân tráng sĩ, ôm lấy bụng mà kêu van.

Người cháu lại nâng đỡ cô, đấm lưng cho cô và lần trong bao, có một miếng mộc hương, bắt Oanh phải bỏ mồm nhai nuốt đi, mặc dầu nó đắng hơn mật gấu. Nuốt mộc hương rồi nàng vẫn còn kêu đau; được một lúc, đòi xuống nhà, ra vườn đi đại tiện. Tráng sĩ vội ngăn nàng lại nói rằng:

- Cô điên đấy hay sao? Bây giờ mà đòi xuống nhà, cô không sợ chết ư? Cô cứ phải ngồi đây. Cô cứ phải ở ngay bên cạnh tôi, chả được đi đâu cả. Tôi không cho cô xuống!

Oanh Cơ hết sức kêu khóc, một mực đòi ra vườn, nếu không thì chết mất. Tráng sĩ nhất quyết giữ chặt lấy nàng, mặc nàng kêu la khan cổ thì thôi. Mãi sau cùng, nàng đau dữ dội kịch liệt quá, cuống cuồng cả lên, xé cả áo yếm, toan đập đầu vào vách tự tử nếu ngăn cấm không cho nàng toại ý xuống gác. Tráng sĩ bất đắc dĩ, phải tìm một kế hoạch mới, bảo nàng rằng:

- Cô cần kíp đi sông quá, mà không thể nào xuống được, thì âu là tôi mở liếp ra, cô ngồi vào bực cửa này, thế cũng được chớ gì! Tôi chỉ có thể cho phép cô làm thế mà thôi, nếu cô không thuận nữa thì mặc cô, tôi cứ bắt cô ở đây!

Lần này, Oanh Cơ bằng lòng, nhưng nàng không chịu cho ai sờ đến nàng cả, muốn cho hai người đàn ông, cháu nàng và tráng sĩ, để mặc nàng một mình ra cửa sổ, không ai được đến gần. Nàng chỉ rình cho tráng sĩ vô ý là lao mình xuống đất. Tráng sĩ hình như hiểu biết tất cả, chàng ghé sát mồm vào tai người cháu nói vài câu nhỏ, rồi giả vờ cho phép Oanh Cơ muốn làm gì thì làm. Người cháu lại gần Oanh bảo nàng:

- Nào! Cháu đỡ cô lại cửa sổ nào! Khi nào cô an vị rồi, cháu sẽ buông cô ra!

Kỳ thực, cậu ta giả vờ nói thế, nhưng lại gần đến liếp thì cứ nắm chặt lấy dây lưng và dải yếm của cô không buông. Oanh giằng co, mắng cháu tàn tệ, bắt cháu phải thả mình ra. Giữa lúc hai cô cháu đưng xung đột ấy, nhanh như chớp, tráng sĩ đã nhận được ngay dưới cửa sổ một cái bóng đưng thu hình ngồi đợi, rình hễ Oanh có văng mình xuống là đỡ lấy đem đi. Chàng giả vờ lại mé cửa song, can ngăn hai cô cháu:

- Thôi! Cậu bỏ cô ấy ra đi, để mặc cho cô ấy ngồi một mình!

Mồm tuy nói thế, nhưng chàng đã dang cổ tay sắt chặn ngang tấm cửa, bấm vào vai Tiêu. Người cháu biết ý, chạy đem cái đèn dầu lại. Oanh giãy nãy:

- Ô hay! Đem đèn lại làm gì thế này! Tôi thẹn đến chết mất thôi! Ô kìa! Sao lại thế?

Rồi nàng mắng Tiêu, chửi Tiêu thậm tệ. Tráng sĩ chả nói gì cả, mặc nàng la ó; chàng sẽ hơi né đầu qua cửa sổ, xem xét tình hình một chút, nhận rõ đích xác tọa vị của bên địch, rồi rút trong lưng ra cái pháo địa lôi cùng hai chiếc dùi đồng. Nhanh như cắt, chàng dí ngòi pháo vào đèn, luồn tay qua vai Oanh ném mạnh cả pháo xuống thềm, ngay dưới cửa sổ.

Tiếng pháo nổ kinh thiên động địa xen với tiếng hổ gầm rung chuyển vùng lặng lẽ giữa đêm khuya. Tiếp những tiếng huỳnh huỵch nặng nề tỏ rằng một vật bị thương đương chạy bán sống bán chết. Oanh Cơ nghe tiếng nổ ngã gục về đằng trước, cháu nàng vội giơ tay nâng đỡ và vực nàng lại nằm nghỉ trên giường. Hồi lâu nàng tỉnh dậy, hỏi nàng vừa làm trò gì khi nãy, nàng chối rằng mê đi, chả biết đã xử sự ra làm sao. Thì ra nàng bị hồn ma ám ảnh ốp vào nàng để chực đưa nàng vào tử lộ. Bấy giờ tráng sĩ mới ngỏ cho nàng rõ chàng đã tình cờ cứu mạng nàng một lượt thứ hai.

Chàng ngồi kể:

- Tôi vào đây chiều hôm nay, định vào thăm cô trước khi vào thung lũng mọi ngày để săn bắn. Song không hiểu vì đâu tôi lại nghĩ rằng: “Mình ở Nam vào, chả có quà bánh gì, lại chơi thì khó coi quá, âu là ta hãy vào rừng kiếm con cầy con cáo, may ra nếu vớ được con hoẵng, con nai, mai đem về làm quà, nấu nướng đánh chén với nhau thì vừa lịch sự vừa thú vị!” Tôi nghĩ thế nên đi thẳng vào rừng lại chỗ nhà sàn của tôi. Tôi thắp hương đốt vàng khấn thần Linh thổ địa và các vong, rồi theo lệ thường, nằm chèo khoeo ngủ một giấc dưỡng thần, đợi đến đầu canh hai thì dậy. Không hiểu thế nào tôi chỉ chợp đi có một chốc, khi tỉnh dậy, thấy một sự rất dị kỳ.

Trước lúc tôi còn ở đây săn bắn, cây cổ thụ chỗ tôi đóng đô tuy có nhiều rễ từ trên cành mọc xuống, song chưa có rễ nào mọc từ cành này liền qua cành kia. Đến nay, nó có nhiều rễ như thế lắm trĩu xuống là là mặt đất, trông như một cái võng. Mới có sáu tháng mà rễ ấy đã chóng tốt thế! Tôi mở mắt dậy, lúc ấy vừa cuối canh một mà thôi, chưa qua canh hai. Tôi nhìn xuống gốc cây, thấy một con hổ đương phủ phục nằm đó, hình như ngủ. Song không phải nó ngủ, bởi chỉ một chốc, thấy nó vẫy đuôi, rồi chồm đứng dậy hai chân trước víu vào thân cây, tựa hồ muốn đứng thẳng hai chân như người. Quả nhiên nó muốn thế thật. Mới đầu tiên nó phải dùng thân cây làm chỗ dựa để đứng lên, sau nó tập quen thì đứng vững được. Nó cố lê đi một bước, đặt đít ngồi lên những rễ cây uốn cong như võng, còn hai chân thì víu vào những rễ ở là là ngang mặt nó. Tôi ngồi trên cây, lấy làm kinh dị lắm, cố ngồi yên không cựa quậy, thử xem con quái vật kia giở trò gì mà càng ngày càng bí hiểm lạ lùng như vậy.

Con hổ an vị rồi thì lấy đuôi đập mạnh xuống đất, co chân sau lên khỏi mặt cỏ, làm cho mấy cái rễ cây lung lay, đưa đi đưa lại như võng. Hình như nó cho sự bắt chước loài người như thế là thú lắm, nó ngồi chễm chệ, vênh váo, có vẻ tự tôn tự tại và đắc ý vô cùng. Nó ngồi như vậy trong giờ lâu, gầm gầm gừ gừ tỏ vẻ khoái lạc sung sướng tuyệt điểm. Bỗng thấy nó gầm lên một tiếng, nhưng gầm be bé thôi, không há hốc miệng ra “à uôm” như mọi ngày đâu. Có lẽ nó ra một mệnh lệnh nên khi vừa hét xong, có hai cái bóng hiện ra ngồi dưới đất, trước mặt nó: một người đàn ông, áo thâm, quần trắng, tay ôm một cây đàn dài, một người đàn bà áo thâm, váy thâm, khăn mỏ quạ, cầm một đôi gỗ phách. Một kép một đào. Tôi mới thấy, cũng đoán đó là ông cả và cô hai nhà ta vậy. Gia dĩ mặt trăng lưỡi liềm lúc đó lại không bị mây che khuất; dưới ánh trăng mờ, tôi trông thấy ông cả và cô hai ngồi ngay ở chỗ cả đôi tuẫn nạn ngày hôm trước. Ông cả lên dây đàn rồi gảy, cô em theo nhịp gõ phách hát. Tiếng đàn ca nghe rõ mồn một, vang cả một vùng thung lũng. Lần này, thứ tiếng tôi nghe, nó y như tiếng đàn hát của loài người, không có cái vẻ âm thầm xa lắc xa lơ như tiếng ma ngày nọ, cái thứ tiếng mà tôi gọi là “bóng lời nói” ấy mà.

Ca hát lâm ly não nuột, tôi nghe cũng còn nhẹ nhàng khoan khoái cả tâm trí, nữa là hổ. Nó nghe tiếng du dương hình như ngồi ngủ gật gà gật gưỡng, vừa mơ màng vừa rung rinh đưa võng theo nhịp đàn phách. Nghe như thế đến gần giữa canh hai. Bỗng thấy con hổ bỏ võng, nhảy chồm lại cào cấu ông cả, rồi cô hai.

Vẳng nghe có tiếng than khóc và kêu van: - Lạy ông vạn lạy! ông sinh phúc tha cho chúng tôi! Ông đã biết nhà em nó ở đâu rồi, ông cứ việc lại bắt nó, hà tất phải cần đến chúng tôi! Lạy ông vạn lạy.

Hổ nhảy lên chồm chỗm, gầm gừ như thất ý, hành hạ hai kẻ bạc mệnh một lần nữa. Lại than khóc, cầu xin:

- Em nó còn nhỏ dại, ông tha cho nó? Vả nó xấu xí, hát còn kém cỏi lắm dở hơn tôi nhiều, ông bắt nó làm gì. Nó còn thơ, da thịt hôi tanh, lại là đàn bà, bẩn thỉu, ông xơi mà làm chỉ Ông tha cho nó.

Đó là lời cô Huyền, Hổ nghe nói thế thì gầm thét lên, đánh, tát cào cấu túi bụi. Hai oan hồn vừa tránh vừa né, vừa xin:

- Lạy ông muôn vạn lạy! Tha cho chúng tôi, chúng tôi xin dẫn ông lại bắt nó!

Hổ hất hàm, nhìn chõ vào mặt hai oan hồn, như hỏi cách bắt ra làm sao. Có tiếng thưa lại:

- Canh ba đêm nay, giờ tý ông ngồi ở dưới thềm. Chúng tôi đến, làm cho nó đau bụng, run rủi nó xuống sàn, ra vườn đi rữa, ông sẽ vồ nó đem đi. Nếu nó không chịu xuống, chúng tôi làm cho nó phải đâm đầu qua cửa sổ phía tây nhảy xuống hiên, ông cứ việc chờ ở đó, đỡ lấy nó mà yên việc. Ông có bằng lòng không?

Hổ gật đầu, lại ngồi ở võng. Đàn hát nữa.

Tôi xem chừng kíp giờ lắm, chả mấy chốc đến canh ba; nếu tôi không về ngay, e mạng cô nguy lắm lắm. Tôi sờ tay nải, đếm xem có bao nhiêu chiếc pháo địa lôi, thì ra tôi đem đi tất cả hơn chục cái. Tôi theo phương pháp hôm nọ, đốt hai cái ném xuống cạnh hổ, nó vùng cẳng chạy mất, mà hai oan hồn cũng biến theo. Tôi chẳng quản đêm khuya trời tối, thu thập một vài khí giới giắt vào lưng, rồi cầm mã tấu trèo xuống. Muốn cho ác thú đừng theo tôi quấy quả, cứ vài chục thước, tôi lại đốt một chiếc địa lôi cho vang động cả vùng. Đốt xong tôi chạy, chạy được quãng xa, lại ngừng lại đốt, như thế về mãi tận đây sờ lưng chỉ còn mỗi một chiếc pháo. Tôi về kịp nên mới cứu cô thoát nạn, cũng là một sự maỵ Bắt đầu từ ngày mai, cô nên nghe tôi, đừng ở nán tại đây làm gì nữa. Có và cậu em hãy theo tôi cùng về Gội, ở với mẹ tôi là hơn. Cô nghĩ thế nào?

Oanh Cơ bấy giờ cảm động đến cực điểm, nàng không biết lấy gì để tạ Ơn tráng sĩ đã hai lần cứu mạng cho nàng; nàng bèn thành thực thưa rằng:

- Em đội ơn anh rất dày, dẫu gan óc lầy đất cũng không đáp đền được. Ngày nay em không còn ai thân thích nữa chỉ có một đứa cháu, vậy xin tình nguyện theo anh. Nếu anh quả có lòng thương, không chê em là ti tiện, không quản em là con nhà ca kỹ, thì em xin dùng quãng đời sống sót này để hầu hạ anh, nâng khăn sửa túi đỡ đần anh, dù phải làm phận tiểu tinh em cũng cam lòng. Tấm thân băng giá này, em xin phó thác cho anh, gọi là để đáp lại mảy may tấm lòng trọng nghĩa của anh và ơn anh đã cứu mạng! Có lẽ cũng tại Trời xui khiến, nên từ buổi sơ thân, tình cờ đã chỉ bảo cho chúng ta biết thân em phải chọn anh làm chủ. Em đang lúc thụ tang, nói đến hôn thú thực là mang tội cùng với người khuất; song le, đến nỗi nước này, không thưa thực anh bấy nhiêu lời, cũng không được. Chỉ mong anh cho biết rõ một điều là anh có ưng thuận hay không, thế là đủ. Em sẽ theo anh về Nam. Bao giờ em hết tang trở rồi, lúc đó sẽ làm vợ anh, anh có đem em vào chốn rừng hoang núi thẳm em cũng cam lòng.

Vài lời tâm huyết xuất phát từ tim phổi, xin anh chớ cười em là người thô lỗ, không biết đắn đo lời nói, cũng như không biết thẹn thùng. Đối với anh, là người đã hai lần cứu em, đã săn sóc cho em trên giường bệnh trong nửa tháng trời, em còn phải e lệ ngại ngùng làm gì nữa? Em một niềm kính cẩn giãi bày tâm sự hầu anh, xin anh định liệu cho em được nhờ, cho phận em nào em xin bái lĩnh phận ấy!

Câu chuyện Oanh Cơ đến đây là hết, chả biết tráng sĩ trả lời nàng ra làm sao, chỉ biết ngày hôm sau chàng đem cả hai cô cháu nàng vượt đèo Tam Điệp đi ra Nam Định. Từ đấy, chả còn ai biết rõ tông tích Oanh Cơ nữa. Cũng chẳng biết nàng sống hay thác, còn hay mất, có thoát được nạn hổ bắt hay đã bị mãnh thú ấy tha đi vào rừng lau sậy để ăn rồi! Duy có một điều chúng ta biết rõ, là hồn anh chị của nàng vẫn thường hiện lên để đàn ca réo rắt, mà đến nay đã năm sáu chục năm rồi, hai oan hồn ấy vẫn ngậm hờn chưa tan...

Ông Cai Móm nói xong câu chuyện, tôi trông đồng hồ trên vách thấy điểm hơn ba giờ. Ông Cai phải ngủ lại trong trại của tôi, không về nhà được. Tôi nghe nói, cũng có phần tin câu chuyện của ông đúng sự thật, vì nó ý vị và rành mạch xem chừng không phải chuyện người ta cố ý bịa đặt ra. Tuy nhiên, tín ngưỡng của tôi cũng chửa lấy chi làm vững vàng lắm. Tấm lòng hiếu sự của tôi xui tôi dò xét xem lời ông Cai nói quả có đúng không hay là chỉ như những chuyện vu vơ mà người quanh vùng này thường bàn tán? Phải trông thấy hai con ma đào kép, thì mới có thể tin rằng chuyện nàng Oanh Cơ có thực, không phải chuyện chơi. Phần nhiều, người trong hạt này, họ chỉ “văn kỳ thanh” mà thôi, rồi xây nặn ra đủ các thứ cổ tích, chưa ai dám có can đảm vào rừng dò xem bóng ma bóng quỉ nó ra làm sao.

Chỉ riêng một mình tôi có can đảm ấy. Tôi bắt ép ông Cai Móm phải đưa tôi vào cái thung lũng xưa kia làm trường săn bắn cho tay tráng sĩ đã cứu mạng nàng Oanh. Ông Cai hai ba lần ngăn tôi đừng nên đi, tôi nhất quyết không nghe, bắt ông phải dẫn đi xem cho kỳ được. Bất đắc dĩ, ông phải chiều lòng tôi. Ông bèn sắm sửa đủ khí cụ và khí giới để vào rừng, rồi hai thầy trò nai nịt gọn gang, rẽ lau vạch cỏ tìm vào thung lũng. Đi mất ba, bốn giờ đồng hồ mới tới một nơi um tùm đầy cây cối, cỏ mọc cao vút, lau sậy trắng xóa, rễ cây cành cây chi chít, phải lấy dao bảy phạt bờ bụi mới vào được.

Chúng tôi tìm đến một cây cổ thụ, luồn dây qua chẻ cành đánh đu leo lên, rồi lấy dao phạt bớt lá rậm, dọn một chỗ để ngồi. Chỗ đó có hai cành cây to mọc ngang, chỉ việc lấy một ít then tre hay một tấm phên gác lên trên là có cái sàn sạch sẽ tươm tất, có thể nằm ngủ được. Dọn dẹp chỗ xong rồi, hai thầy trò tháo bỏ các đồ đạc đeo trên vai, ngồi nghỉ một chốc, giở các đồ nguội ra ăn uống. Chẳng bao lâu, mặt trời xế bóng, sương bắt đầu nặng hột, tối đến lúc nào không haỵ

Hôm đó là một hôm có trăng sáng vằng vặc ngồi trên cây ngắm xuống thực không còn gì thú bằng. Cái cảnh sương rừng rậm, tôi đã từng quen lắm, hóa nên cũng không sợ hãi kinh khủng chút nào. Lòng hiếu kỳ làm cho tôi nhẫn nại và can đảm thêm, tôi cứ ngồi điềm tĩnh trên ngọn cổ thụ, đến xem ma sẽ hiện thế nào. Thì giờ bằn bặt trôi, chả mấy chốc hết canh một. Các thứ tiếng chung quanh người tôi nổi lên như một cuộc hòa nhạc âm thầm ảo não, chúng nó gồm đủ cả âm thanh cao thấp, khoan nhặt, thực là hết sức lạ lùng.

Tôi tuy quen ở đồng rừng, thế mà chưa bao giờ tai được nghe hết mọi thứ tiếng kêu, tiếng hú, tiếng gọi, tiếng gầm, tiếng la, tiếng thét, như trong cái đêm hôm ấy. Giọng nói của rừng hoang là một giọng cực kỳ huyền bí; trong bóng tói âm u, tịch mịch, biết bao giống sinh vật, biết bao loài thảo mộc, giữa cuộc đua tranh vật lộn, phát ra mỗi giống mỗi loài một khẩu hiệu riêng, cái đục cái thanh, cái dài cái ngắn, để hòa thành một cái âm hưởng không tên tuổi, có thể ví được với tiếng ầm ầm, lạo xạo trong một ngày phiên chợ, hoặc trong một ngày hội hè tấp nập ở một chốn đô thành. Khó lòng tả rõ được cái vẻ ồn ào phức tạp ấy, chỉ có thể tưởng tượng ra nó mà thôi.

Giữa chốn rừng khuya, tôi có cảm giác là chung quanh người tôi có một vũ trụ đông đúc, tôi tuy không nhận được bằng mắt song thấy được bằng tai; thế giới đó bao bọc khăng khít lấy tôi, quay cuồng múa máy trên đầu tôi, dưới chân tôi, tựa hồ lấy tôi làm đích cho một cuộc khiêu vũ phi thường. Ông Cai Móm và tôi thu hết can đảm và trí tuệ, ngồi chờ xem một cuộc phô diễn hiếm có, sắp sửa xảy ra giữa cái vũ trụ hãi hùng náo động ấy. Óc hiếu sự thực quả xui người ta làm lắm sự cầu kỳ, có khi đến quên cả sinh mệnh, chỉ có một ý định duy nhất trong tâm hồn là thỏa mản được tính tò mò, mà nếu không như nguyện được thì ngồi đứng không an, bứt rứt khó chịu lắm. Bởi thế, dẫu vào nơi hang hùm tổ rắn, để được thỏa thích thói hiếu sự của mình, ta cũng chẳng từ nan.

Riêng tôi, tính tò mò sôi nổi trong trí não, ngồi trên cây nóng lòng sốt ruột lắm, chăm chăm chú chú nhìn vào chỗ rễ cây uốn cong như chiếc võng chỉ ước sao ma hiện ngay ra cho xem mới cam tâm. Tôi đợi cũng chả lâu lắm: Vào khoảng giữa canh hai, một tiếng gầm to lớn khiến tôi phải giật nẩy mình. Vừa định thần mở mắt nhìn, tôi đã thấy ngay trên cái võng rễ cây một con cọp xám, to gấp rưỡi con hổ thường, da vằn đen vằn trắng, trông đẹp lắm. Ông tướng ấy ngồi chễm chệ như người, hai chân sau bơi bơi trên mặt cỏ để làm cho võng lúc lắc, mau lẹ vô cùng. Hai chân trước thì giơ thẳng về phía trước, không bám vào gì cả. Một chốc như thế, tôi vừa chớp mắt có một khắc con con, trông xuống lại không phải cọp xám nữa, mà là ông cụ già đầu râu bạc phới, ngồi nghiêng nghiêng trên võng, tay để vào má, xem có vẻ trầm ngâm nghiêm nghị, tựa hồ đang nghĩ ngợi sự gì.

Tóc tôi tự nhiên bỗng thấy dựng đứng cả trên đầu, một luồng khí lạnh chạy khắp các mạch máu tôi, luồn vào sống lưng tôi, tôi nắm chặt lấy cánh tay ông Cai Móm. Giữa lúc đó, ông cụ cọp già kêu lên một tiếng, như ra một mệnh lệnh.

Ông vừa dứt lời, ba cái bóng không biết từ đâu, bỗng phơi phới lướt trên mặt cỏ, lại đứng trước mặt ông rồi quỳ xuống lạy ông cung kính lắm.

Đó là bóng một người, hình như đàn ông thì phải, áo thâm, quần trắng, búi tóc tay ôm một cây đàn giai; và hai người nữa tựa hồ như đàn bà, quần áo trắng toát, một làn tóc đen bỏ xõa sau lưng gần chấm gót, tay cầm vật gì đen đen, trông giống một cái then gỗ nhỏ.

Cả ba cầm tay nhau làm thành một cái vòng, bao bọc lấy ông cụ già ngồi võng, rồi quay cuồng chung quanh ông cụ, trông chả khác gì đèn kéo quân. Có một sự rất lạ là dưới gốc cổ thụ chi chít những rễ cây giằng buộc lấy nhau, những cành cây, những lá cỏ, không có đủ chỗ cho người thường nhảy múa được. Thế mà ba cái bóng kia khiêu vũ như không có gì vướng cả, họ cứ lâng lượn phiêu phiêu trong không khí nhẹ nhàng dễ dãi vô cùng.

Họ lượn quanh mình ông cụ một hồi, ông cứ ngồi gật gưỡng thưởng thức tấn trò ấy như làm thú lắm. Bỗng ông thét lên một tiếng nữa, to hơn tiếng khi nảy nhiều. Sau mệnh lệnh thứ hai này, trong rừng tự nhiên hiện ra không biết cơ man nào là bóng, cái trắng lốp, cái xam xám, cái đen sì đều cầm tay nhau thành mười mấy lớp vòng tròn bay lợn mé ngoài tưởng chừng một cuộc hội hè của lũ Mọi Châu Phi khi nhảy múa chung quanh thây chết.

Thực là một quang cảnh lạ lùng hiếm có càng xem sống lưng càng thấy lạnh buốt mà tóc càng dựng ngược cả lên. Đó mới là bài học hay cho mấy kẻ tò mò hiếu sự như tôi vậy. Tôi cứ bám chặt lấy ông Cai Móm.

Trong khi khủng khiếp, khuỷu chân tôi rủn quá, làm tôi gần quỵ xuống, phải lấy gân để đứng thẳng người lên. Ai ngờ tôi hụt chân, bước ra ngoài then tre hụt chân xuống khe sàn, suýt ngã dúi xuống trước mặt ông Hổ xám. Tôi kinh hồn thất đảm, trống ngực đánh như tim sắp vỡ, hoảng hốt kêu lên một tiếng vang trời. Ông Cai Móm phải vội vã đỡ lấy tôi, ôm chặt lây nách tôi nâng lên, nếu chỉ chậm một khắc tôi sẽ bị lăn xông đất.

Tôi kêu thét lên xong, chết ngất đi, không biết trời đất là gì nữa.

Đến lúc tôi tỉnh dậy, thấy mình đương nằm trong buồng, trên chăng dưới nệm, và trước mặt có Lệ Thi, Thu Nhi, cả hai đều ra vẻ lo ngại, trong khi ngồi trên một chiếc ghế đẩu ở góc phòng, ông Cai Móm vừa chúm chím cười vừa nhai bỏm bẻm một miếng trầu đỏ loét:

- Nào, thầy đã bằng lòng chưa? Lần sau có muốn vào rừng xem cọp nữa không, thì con lại dẫn thầy đi lần nữa!

Từ đấy trở đi, anh xem, tôi chẳng dám không tin lời ông Cai Móm, nhưng thực quả là các vàng cho kẹo, tôi đây cũng hết đám vào rừng. Đêm đêm tôi chỉ cùng Lệ Thi ngồi điềm tĩnh ở một xó nhà, lắng tai chủ ý nghe xem có nhận được điệu hát đào mà thiên hạ nhao nhao nói đến. Nhưng tôi vô duyên hết sức; cái lần đáng lẽ được nghe thì chết ngất đi, phải có người nhà cõng về tận trại, còn những lần sau thì thức suốt mấy đêm ròng mà tịnh chả thấy gì! Thế mà ai ngờ mới đến đây lần đầu, anh đã có diễm phúc nhận được ngay điệu ca nhạc đó!

Đấy, điển tích của điệu hát ấy dị kỳ là như thế, bây giờ anh đã rõ rồi. Có một điều tôi đoán được sau khi theo ông Cai Móm vào rừng, là có lẽ nàng Oanh Cơ cũng chết về nạn hổ. Bởi lẽ, đúng lý ra, chỉ có hai cái bóng ma hiện lên diễn trò hầu cọp, cớ sao tôi lại thấy những bả Người thứ ba chắc hẳn là Oanh Cơ, theo anh chị chết chung một nghiệp. Song chẳng biết nàng chết bao giờ, chết nơi đâu và có lấy được ý trung nhân là tráng sĩ Lê Trọng Việt hay chăng? Điều đó hiện còn mờ ám lắm.

 

ĐÈO Ô QUÝ HỒ

(Tác giả: TCHYA)

 

Trên con đường từ Chapa qua Phong Thổ, một đoàn khách dừng chân nghỉ giữa con đèo Ô Qúi Hồ. Đoàn hành khách có mười hai người: một người đàn bà và một người con gái bé ngồi ghế đăng sơn một người con trai cưỡi ngựa, còn bao nhiêu là phu khiêng ghế và tải đồ đạc cả.

Hỏi ra mới biết người đàn bà đó là bà Tri Châu Phong Thổ, chồng vừa ra đất ấy phóng nhậm được ít lâu naỵ Đứa con gái bé là con bà, người con trai là cháu bà. Đoàn phu để chiếc ghế đăng sơn ở chỗ có bóng mát, rồi họ tản mác ngồi mỗi người ở một gốc cây để nghỉ chân dưỡng sức. Bà Tri Châu lúc ấy giở tráp trầu ra ăn một miếng, trông bà có vẻ buồn rầu lo lắng, nhưng vẻ lo buồn không làm thế nào át được sắc đẹp dịu dàng sắc so của bà. Bà ăn mặc cực kỳ diễm dắn, nền nếp, không đeo lắm vàng ngọc, không đánh phấn thoa son; song càng ngắm bà càng thấy có duyên, càng bị say đắm vì đôi con mắt mơ mộng của bà, đôi mắt đăm đăm nhìn vào khoảng chân trời xa thẳm.

Lúc ấy khoảng ba giờ chiều. Bóng nắng xê xế, trên đường rừng mát mẻ dễ chịu lắm. Người thiếu niên đi ngựa buộc con vật đỡ chân của chàng vào một gốc cây rồi đi dạo quanh quẩn ngắm nhìn vẻ đẹp lộng lẫy tươi thắm của ngàn nội. Tụi phu có vẻ mệt nhọc, vì họ đã tất tưởi cả ngày rồi, ai ai cũng nhân dịp lúc dừng chân mà quạt mồ hôi, và nghỉ ngơi cho lại sức. Họ để các rương hòm rải rác dọc đường, núi, rồi ngồi phanh ngực ra mà quạt, có người thì dựa vào gốc cây, vách đá mà lim dim ngủ, chả ai để ý đến chiếc đăng sơn để ngay sát rìa núi trước mặt bãi sậy rườm rà.

Bỗng đâu, một tiếng la to làm cho mọi người hoảng hốt đứng cả dậy, rồi đến tiếng khóc, rỗi đến một lời kêu the thé vang lùng trong rừng sậy đưa ra:

- Cháu Tiêu ơi! Cháu nhớ lấy lời cô đó!

Xong, im bặt. Cả đoàn ùa lại mé đăng sơn. Cô bé con nằm chết ngất, ngoẹo đầu dựa vào thành ghế, còn bà Tri Châu đã biến tự lúc nào rồi. Dưới đất, ngay chỗ đăng sơn, có vết bốn cái vuốt in sâu xuống cát. Đoàn phu nhận ra đó là dấu chân hổ. Thì ra bà Tri Châu đã bị hổ cắp tha đi!

Bà Tri Châu đó là Oanh Cợ Ngày nay, theo đúng nghiệp số của nàng, nàng phải theo hai anh chị chết dưới vuốt thiêng loài mãnh thú. Con hổ này rình nàng từ lâu lắm, nó định bắt nàng đi đã mấy năm nay rồi! Bới chưa có dịp nào, nó đành phải đợi sau khi bắt hụt nàng một phen ở Đồng Giao. Tra khảo anh chị nàng, nó biết nàng tất phải qua đèo Ô Qúi Hồ vì theo chồng ra Phong Thổ. Nó phục trong bụi lau đợi nàng ở đó. Ngày giờ nàng đã đến, số kiếp nàng đã tận, nàng bị nó nhảy xô ra ngắm chặt lấy lôi đi, giữa khi cháu nàng và các phu phen đều vô ý mỗi người chăm chú vào việc riêng của mình.

Đời Oanh Cơ thế là đoạn tuyệt; nàng vừa ra khỏi kịch trường mà nàng đã đóng một vai đào thương hết sức bi ai. Nhưng kỷ niệm của nàng mãi mãi vẫn không bị ám mờ trong lớp bể dâu; hình bóng nàng còn sống trong tâm hồn con nàng và cháu nàng, trước khi nhắm mắt lìa đời, nàng đã tìm ra được một bí mật: là chồng cũ nàng, Lê Trọng Việt không phải bị các quan tòa lầm lẫn bắt buộc vào tội chết, mà chính là kẻ thù đã thêu dệt đã bịa đặt ra nhiều chuyện để xui giục quan tòa hạ bút phê án tử hình! Kẻ thù ấy, độc địa thay! Lại là thầy Thông, người đã cùng nàng gá nghĩa sau này! Cậu ấm Lê Trọng Việt chết được 3 năm, nàng nghe lời đường mật của thầy cùng thầy đánh bạn. Nàng về nhà thầy được 3 năm thì thầy bổ đi Bắc Cạn, rồi được 2 năm nữa, thầy thăng Tri Châu, lên phó nhậm ở Phong Thổ. Trong khi chung chạ, nàng nhận ra thầy Thông là người gian trá xảo quyệt, chỉ có vẻ ngoài niềm nở lịch sự, mà thực tình trong lòng chứa đầy các kế độc, mưu sâu, nàng nhận được rằng thầy là kẻ tham lam bôn tẩu, tìm hết cách hại nhân thắng kỷ, một là để ăn tiền cho giàu có, hai là để chóng cao thăng. Thầy đã làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu nhân vật điêu linh, thế mà không tỏ vẻ gì hối hận cả, lại còn đắc ý là đàng khác. Những giờ chăn gối, nàng có ý gợi câu chuyện chồng cũ, than vãn sao kẻ kia vô tội mà đến nỗi bị quan trên khép vào án tử hình. Nghe nàng căn vặn thầy Thông cứ ầm ừ không trả lời sao cả; mãi lâu lắm, lâu lắm, một đêm mà trời đất lạnh lùng buồn tẻ, một đêm mà hoàn cảnh như gợi lòng người phải mở phanh cho tâm sự lọt ra, thầy Thông mới khe khẽ rỉ tai nàng, bằng một giọng trầm trầm, ngần ngại:

- Sở dĩ tôi yêu mợ quá, nên buộc lòng phải làm như thế! Đáng lý ra, anh em họ Lê không đến nỗi chết, chỉ phải tù tội mà thôi; tôi có nói thêm vào nên họ mới bị xử trảm. Song ngẫm ra đến ái tình là hết, tôi có quý thương mợ, nên mới gây ra tội ác ấy; không thì sao có ngày nay?

Từ khi nghe lời thú nhận của thầy Thông, Oanh Cơ coi thầy như con vật dữ, ngoài mặt nàng không lộ ra vẻ gì giận dỗi căm tức cả, nhưng trong lòng nàng chứa chất một khối oán hận tầy đình. Nàng oán thầy khẩu Phật tâm xà, làm hại người ngay thẳng để quyến rũ vợ người ta mà vẫn nhơn nhơn vui vẻ, hình như không coi việc ác của mình là một sự xấu xa.

Nàng trót đã lấy thầy, không nhẽ giết thầy để rửa hận cho người đã thác; vả có giết thầy chăng nữa, cũng không đủ trả thù rửa oán; tội thầy đáng phải hình phạt một cách tàn nhẫn, độc địa sâu cay hơn, hình phạt thế nào cho thầy sống cũng như chết, ăn mất ngon, ngủ mất yên, đêm ngày tâm trí lo sợ, hối hận, hai mắt dù mở dù nhắm, cũng thấy những cảnh mất đầu đổ máu tự tay thầy đã gây nên. Như thế, may ra mới xứng đáng!

Nàng muốn tìm một kế báo thù như thế, nhưng thời gian thấm thoắt, nàng chưa tìm được kế gì. Có lắm lúc mối oán hận trong lòng như sóng nước chơi vơi, tràn lên tới cổ, nàng muốn chém thầy ngay, đầu độc thầy ngay, song chợt nghĩ đến đứa con thơ, nàng lại nén dằn khối lòng, hết sức trấn tĩnh, lộ ra vẻ điềm đạm như thường, khiến thầy khỏi nghi ngờ.

Muốn biết rõ ngày xưa thầy hành động thế nào, Oanh Cơ lần về Nam Định, đến tòa sứ, hỏi những người bạn của thầy Thông, nhờ họ cho xem tập hồ sơ của cái án cũ Lê Trọng Việt. Xem tập án ấy, nàng mới hay lá đơn khiếu nại thầy đã làm hộ cho mẹ con nàng đại ý như sau này:

"Chúng tôi là Bùi Thị Lan, vợ góa của quan nguyên Lãnh binh Lê Văn Khúc và Nguyễn Oanh Cơ, nàng dâu thứ hai của vị cựu quan ấy, cúi đầu thành kính xin các quan Tòa đèn trời soi xét trông lại cho chúng con nhờ.

Nguyên hai tên Lê Mạnh Khôi và Lê Trọng Việt tức là con, anh chồng và chồng chúng con, gần đây lại can phạm vào vụ cướp ở làng Ngọc Chính Hạ. Tên đầu đang bọn cướp đó là Nguyễn Quán. có rủ rê người nhà chúng con làm việc phạm pháp, người nhà chúng con trót dại giúp đỡ quân phản nghịch, nhưng cúi xin các quan thương cho mà đừng bắt tội, bởi lẽ, nếu hai anh em Khôi và Việt bị tội, thì họ Lê chúng con sẽ tuyệt tự. Khôi và Việt còn mẹ già năm nay đã ngoài 50 lại có vợ dại con thơ không biết nàng tựa vào đâu, tình cảnh thực là bi thiết. Cúi xin các quan mở lượng hải hà, hết sức che chở bao dung cho, chúng con sẽ ngậm vành kết có, đội ơi các quan lớn vạn bội."

Một lá đơn như thế có bao giờ hai mẹ con nàng Oanh chịu ký tên ở dưới, nếu thầy Thông không đọc trại đi một cách khác, bảo rằng hai cậu ấm Lê không từng vào phe với đảng cướp bao giờ. Cứ theo lá đơn này, thì rõ ràng là, nàng Oanh và mẹ chồng nàng đã nhận rằng hai cậu ấm có đi ăn cướp thật, và kêu xin quan tòa ra tay tế độ, mở đường hiếu sinh chọ Nàng Oanh xem đến đấy, khí giận bốc lên ngùn ngụt nàng phải rút khăn lau mồ hôi trán đến bốn năm lần. Nàng lại giở xem nữa. Đến đoạn lấy khẩu cung, nàng thấy chép bằng tiếng Pháp, mới mượn người dịch lại cho nghe. Khẩu cung của anh em Khôi, Việt mà chính thầy Thông hồi ấy đã dịch cho các quan tòa nghe, như sau này:

- "Chúng tôi vì có những điều tức giận nên đi theo đảng cướp. Nay đã làm nên tội, chúng tôi không hối hận gì cả!"

Trời ôi! Có lẽ nào anh chồng và chồng nàng lại điên cuồng ngộ dại mà khai như vậy? Thực tình họ có đi theo đảng cướp bao giờ. Con ngời độc địa sâu cay làm sao. Thế mà ngoài mặt vẫn đạo mao nghiêm trang, nào ai dám bảo là một kẻ giết người không đao kiếm?

Sau khi ở Nam Định về Oanh Cơ viện hết lẽ này đến lẽ khác. không hề chung chạ gối chăn với thầy Thông nữa. Cho mãi tới ngày thầy được giấy quan trên cho thăng chức Tri Châu, và bổ đi Phong Thổ. Thầy đi trước, chỉ đem một ít hành lý, dặn nàng ở lại Bắc Kạn, rồi đem người nhà và đồ đạc theo sau. Trước khi lên đường, không hiểu tại sao, nàng cảm thấy một sự gì buồn buồn khó tả, tựa hồ báo trớc cho nàng biết, nàng sắp gặp những tai nạn bất ngờ. Rửa mặt, nàng ngửi nước thấy mùi tanh; ra cửa nàng bị vấp suýt ngã, rồi lại có con chó vàng đến kéo áo như muốn lôi nàng trở lại. Nàng ngồi ở đâu thì chỗ ấy có nhện đen sạ Thực là những điềm quái dị vô cùng. Nàng bèn thảo một phong thư di chúc trao cho cháu là Nguyễn Đức Tiêu; đoạn, nàng tỏ bày nỗi oán hận cho cháu rõ và bảo chàng rằng:

- Cháu chịu khó giữ lấy thư này cho kín đáo cẩn thận lắm mới được! Khi nào em Quyên (con gái nàng) đúng 18 tuổi, bây giờ cháu sẽ kể sự tích cha nó thế nào cho nó nghe. Và cháu sẽ bảo nó nên theo đúng lời cô mà báo thù. Báo thế nào cho kẻ kia phải điêu linh, khổ sở, còn cũng như mất chứ đừng giết hại nó làm gì! Bởi giết nó, tức là gia ân cho nó đấy! Đi chuyến này, cô cảm thấy mệnh số cô hình như sắp hết; cô cháu ta sẽ cùng nhau vĩnh quyết nay mai! Trên đời này, cô không còn ai họ hàng thân thích cả, chỉ có cháu và em Quyên. Cô thường vẫn thương cháu như con, vậy một mai cô có mệnh hệ nào, cháu sẽ nghĩ tình, tận lực giúp em cho nó trả được thù, ấy là cháu đáp nghĩa cho cô đấy!

Nỗi lo ngại của nàng Oanh quả nhiên thành sự thực. Nàng đã bỏ con thơ cháu bé ở lại với cuộc đời tàn ác, để một mình lánh sang cõi thế bên kia. Câu chuyện sự tích nàng Oanh đến đây là dứt. Từ ngày nàng bị hổ tha vào bụi, thì cứ những đêm ma dầm gió bấc, những đêm u ám không trăng, trên quãng đèo Ô Qúi Hồ lại văng vẳng có tiếng đàn ca não nuột, ai bạo gan xông xáo trong đêm khuya rừng vắng, thì thấy ba cái bóng ma ngồi đàn hát cho một con cọp lớn ngồi nghe. Quái trạng đó hiện chán ở đèo Ô Qúi Hồ, thì lại quay về hiện ở Đồng Giao tức chỗ ngày trước nó thường dùng làm nơi cơ sở. Ở đây, cũng như ở kia, chỉ là do một gốc tích mà xảy ra tình hình ghê rợn ấy.

Nàng Oanh thác rồi, 15 năm sau, con gái nàng mới thay nàng báo thù cho cha là Lê Trọng Việt. Câu chuyện báo thù ấy, lại là một vấn đề khác, nó dài dòng lắm, và nó ly kỳ rùng rợn chẳng kém gì câu chuyện của Oanh Cơ.

Con người độc nhất vô nhị được rõ nguồn gốc và kết quả sự báo phục ấy là tôi, bởi lẽ tình cờ và duyên số đã khiến tôi đóng một vai, một vai thụ động trong tấn kịch thương tâm chua xót ấy. Mà cũng vì có chân trong kịch, tâm tôi bị đeo một vết đau đớn thấm thía đến nay đã bốn mươi năm rồi, cũng vẫn chưa nguôi... Nhưng mà?... Bây giờ đêm sắp hết rồi, tôi không thể kể tiếp cho ông nghe được nữa! Mai khi chúng ta lên tới Chapa, trong những giờ rỗi rãi nhàn cả, tôi sẽ dần dần thuật một lượt để ông thởng thức!

Kìa! ông hút nữa đi chứ! Hút đi và tiêm cho tôi một điếu xem nào!

Cụ Trần Công Chất nói tới đây, ngừng lại, tôi nhìn cửa sổ trong phòng thấy ánh sáng nhờ nhờ đương xuyên qua luỗng kính...

 

BÓNG NGƯỜI DƯỚI VỰC SÂU

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Trong đợt đi công tác tại tỉnh T… khoảng 10 giờ đêm, khi xe của chúng tôi chuẩn bị qua cầu, bất chợt xe bị gẫy láp. Thế là phải dừng lại để sửa. Cư, cậu lái xe ngán ngẩm:

- Xe cũ quá rồi. Lần nào qua cầu sông Mây này cũng bị hư, kỳ lạ thật!

Anh Hồng, người cùng đi với tôi, là dân thổ địa nơi đây cười.

- Xe qua cầu, chở nặng hỏng là thường, có gì lạ đâu. Thôi ta ra khỏi xe hít thở không khí một ít.

Tôi nhảy xuống xe cùng anh, thong thả tản bộ. Trời khuya lạnh lẽo, tiếng chim ăn đêm kêu lảnh lót. Sương mờ mờ, ánh trăng yếu ớt xuyên qua màn sương. Bất chợt tôi nhìn thấy một bóng áo trắng lướt qua. Tôi rùng mình, anh Hồng bảo:

- Cậu lạnh phải không? Mặc thêm áo vào, miền cao này gió lam khí chướng độc lắm đấy.

Tôi run giọng:

- Hình như có bóng áo trắng lướt qua. Kìa! Nó đang ở dưới chân cầu kìa. Anh có thấy không?

Anh Hồng bật cười: - Cậu khéo tưởng tượng quá. A, mà ở đây có ma quỷ là chuyện bình thường vì ngày xưa đây là bãi chiến trường.

Cư xen vào: - Chắc là con Hạnh và thằng Tú hiện về chứ gì? Ngày nào chúng nó chẳng nhát tụi em.

Anh Hồng ngạc nhiên:

- Con Hạnh và thằng Tú nhảy cầu chết ấy à? Tớ nghe nói chúng nó chuẩn bị làm đám cưới kia mà.

- Chúng chết lâu chưa?

Cư cười khì:- Đã ba năm rồi, anh ở trên tỉnh đâu có biết gì? Kia kìa, chúng nó đang cười sằng sặc, múa hát ầm ĩ, ai yếu bóng vía là chết ngay với chúng.

Tôi hỏi: - Cư có vẻ rành câu chuyện này quá. Cậu kể cho tớ nghe với.

Cư gật đầu: - Hai đứa nó là hàng xóm với nhau. Yêu nhau tha thiết cha mẹ chúng nó ngăn cấm vì hai bên gia đình có ân oán với nhau, vì chuyện gì thì không biết. Chúng nó lén lút nhau ra rẫy hẹn hò. Bị bắt quả tang. Thế là bị gọt đầu bên suối. Con Hạnh nhục quá ra cầu Mây nhảy xuống tự tử. Thằng Tú cũng vậy linh hồn không siêu thoát nên hiện ra chọc ghẹo mọi người. Cả hai gia đình rất ân hận nhưng muộn quá rồi.

Anh Hồng chép miệng: - Tội nghiệp chúng nó quá nhỉ. Thế không ai lập cho chúng cái miếu để chúng có chỗ nương thân.

Cư cười: - Lập miếu, rồi mời cả pháp sư nữa, nửa đêm ra cúng. Nhưng đến hôm sau, lão pháp sư sợ quá, bỏ nghề luôn, bây giờ điên khùng nằm ở nhà.

Tôi bảo: - Thế ta xuống với chúng nó, thắp nén nhang gọi là lòng thành. Biết đâu gặp người có lòng, chúng sẽ không quậy phá chúng ta nữa.

Cư tròn mắt: - Anh liều thế. Coi chừng nó dụ anh xưống nước chết chung với chúng nó đấy.

Tôi cười: - Xưa nay chỉ có ma sợ người, chứ làm gì có người sợ ma. Nào, ta đi!

Cả ba chúng tôi bỏ xe rọi đèn pin xuống cầu. Tôi nghe có tiếng thì thào.

- Nào! Xuống đây với em. Em đang ở đây này.

Tôi như người mất hồn, cứ theo bóng áo trắng là là bay. Nhưng rồi, một cú giật mạnh khiến tôi tỉnh lại. Anh Hồng đang níu chặt tay tôi, nói không ra hơi.

- Cậu nhìn kìa, chút nữa thì rơi xuống vực. Thôi, mau lên ngay.

Tôi tỉnh lại, vội vã nhìn xuống. Trời ơi, chỉ chút nữa là tôi đặt một chân xuống vực. Hú vía, mà cái bóng trắng kia cứ giơ tay vẫy gọi mãi. Tôi lủi thủi bước lên cầu, cả ba chúng tôi ngồi trong xe chờ trời sáng.

 

NGHIỆP CHƯỚNG 2

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Phần I:

Việc con gái cưng Thể Phụng chuyển bụng sinh kéo dài đến ba ngày mà vẫn chưa sinh được đã khiến bà Phủ Hoài lo lắng, đứng ngồi không yên. Đến chiều ngày thứ ba thì bà hết kiên nhẫn, gọi cô em chồng bảo:

- Cô kêu xe chở con nhỏ lên ngay Sài Gòn đi, thầy bà, mụ đỡ ở Cần Thơ này kêu họ bỏ nghề hết cho rồi! Ai đời có chuyện sinh con mà làm ba ngày rồi cũng chưa được! Tôi đây sinh sáu mặt con mà chỉ cần mụ vườn cũng cái "rẹt" là xong!

Cô Út Nguyệt phân trần:

- Không phải họ dở đâu chị Hai. Mà chỉ vì con Phụng sinh khó, nghe mấy bác sĩ ở bệnh viện nói không chừng phải mổ để lấy con ra nữa đó!

Bà Phủ kêu lên:

- Không được đâu! Con gái tôi lá ngọc cành vàng, thân thể ngà ngọc mà mổ xẻ thì còn gì con nhỏ!

Út Nguyệt vẫn cố giải thích:

- Người ta nói nếu không mổ coi chừng đứa nhỏ trong bụng bị ngạt mà chết chứ chẳng phải chơi!

- Cô này nói xui xẻo không hà! Mà thôi, đi đánh điện cho thằng tài xế về nhanh lên, để chở nó đi liền!

- Đánh điện, nhận điện rồi đi về hai ngày nữa mới tới, chắc là con Phụng nó đau mấy lớp rồi! Sao không nhờ xe của bên nhà Phán Hữu cho tiện?

Bà Phủ trề môi: - Thèm mượn của nhà đó! Cái xe Traction "cà tàng" đó chở con nhỏ đi bị dần xóc, chắc con Phụng sinh trên xe chứ không đợi tới nhà bảo sanh! Vả lại, nhà đó có ưa gì bên mình đâu mà mượn với vay. Cô không nhớ vụ con Thể Phụng từ hôn con trai họ sao? Họ thù nhà mình lắm!

Nguyệt vẫn nói: - Theo em thì nếu mình nhờ là họ đáp ứng ngay! Mới hồi sáng này thằng Lộc còn qua hỏi thăm sức khỏe con Phụng đây, và còn gửi chục cam sành nói là của má nó mua biếu cho con Phụng! Họ còn thương con Phụng lắm!

- Thương với yêu gì cái ngữ ấy! Tôi nói thật, con Phụng từ hôn đúng lúc, chứ nếu không thì đời con nhỏ sẽ khổ cho mà coi! - Bà Phủ gạt ngang.

- Nhưng theo em thấy...

Thấy Út Nguyệt cứ một mực bênh vực cho họ, bà Phủ gắt lên:  - Tôi nói rồi, nhà đó không được! Cô thấy không, gả con Phụng cho cánh này, nó...

Bà bị Nguyệt cắt ngang: - Tôi thấy có ngon lành gì đâu! Đến đỗi con nhỏ tới ngày sinh mà thằng chồng còn không ló mặc về, thì thử hỏi...

Bà Phủ tuy bị cứng họng, nhưng vẫn cố nói:

- Thằng Tường nó bận công chuyện làm ăn nên về không kịp, chứ đâu phải không về! Mà đàn ông thời buổi này họ lo làm ăn nhiều hơn là lo cho vợ con. Mà nói thật, tôi cũng không thích loại đàn ông cứ tối ngày lẽo đẽo bên vợ, ru rú trong nhà!

Út Nguyệt trề môi, lắc đầu: - Đàn ông mà đi mịt mù kiểu đó ham cái gì! Tôi để ý rồi, bữa báo tin con Phụng sinh khó, bảo nó về gấp, vậy mà nó có về đâu.

Bà Phủ vẫn chống chế: - Trên Sài Gòn báo điện về nói thằng Tường phải đi

Đà Lạt lo việc làm ăn gì đó về không kịp.

- Đà Lạt chứ phải bên Tây Tàu gì đâu mà năm sáu bữa rồi về không tới? Nói thật với chị, chị cứ bênh nó hoài như vậy có ngày à...

Bà Phủ biết Út Nguyệt vốn có cảm tình với nhà Phán Hữu, mà thằng Lộc, con họ từng là bạn học của Nguyệt, nên khi Phụng từ hôn với Lộc, chính Nguyệt là người phản đối đầu tiên và còn quyết liệt phản đối việc Thể Phụng lấy Tường, con trai một của nhà trọc phú Ba Lến!

Biết cứ để cho Út Nggyệt nói một lát, cô ta sẽ càng nói linh tinh, nhức đầu lắm! Cho nên bà Phủ liền nói cho qua: - Thôi được, cô muốn nhờ ai đó thì nhờ. Nhưng tôi không ra mặt đó!

Út Nguyệt hăng hái:

- Để tôi lo, chị Hai coi như không biết!

Cô chạy đi một lát, khi trở về đã hí hửng:

- Thằng Lộc sẽ trực tiếp lái xe đưa con Thể Phụng đi và chờ để đưa về nữa!

Bà Phủ có vẻ khó chịu, nhưng đành phải im lặng để Nguyệt lo. Tuy nhiên bà dặn: - Coi chừng con Phụng sẽ không chịu lên xe đó nghen!

Út Nguyệt nheo mắt: - Bảo đảm với chị, con nhỏ được thằng Lộc chở đi sinh nó sinh lẹ hơn cho chị coi.

Nửa giờ sau, chính Lộc lái chiếc Traction qua tận bệnh viện tỉnh, rước Thể Phụng và đưa đi Sài Gòn. Út Nguyệt đi theo. Trên đường đi, Út Nguyệt cười ngặt nghẽo: - Bà già bị tao gạt mà cũng đành ngậm tăm mà chấp nhận! Bà ấy đâu có biết là con Phụng tính lộn ngày mang thai nên phải một tuần nữa mới tới ngày sinh. Bây giờ hai đứa bay tha hồ mà hú hí, chừng nào sắp sinh thì điện tín về cho bà ấy hay.

Thể Phụng hơi lo: - Lỡ má con đòi lên Sài Gòn thăm con thì làm sao?

- Thì thằng Lộc "thêm tay thêm chân" cũng vài ngày thôi, chứ bộ muốn cả tháng sao. Lúc đó tao đã đưa con này vào nhà bảo sanh rồi, bà ấy có lên cũng đâu có sao.

Lộc cười gượng, anh nhìn sang Phụng nói mà lòng đau như cắt: - Đáng lẽ mình tạo cả hình hài chứ đâu chỉ thêm tay thêm chân như thế này. Nhưng sao cũng được, miễn Phụng hiểu cho lòng dạ con là được rồi, dì Út.

Út Nguyệt cũng xót xa: - Thấy tụi bay mà lòng tao cũng đau. Cũng tại thằng

Lộc hết, lúc sắp đám cưới con Phụng, tao đã bảo là hai đứa cứ bỏ trốn mà mày không dám!

Lộc chống chế: - Dì Út xúi nghe cũng phải, nhưng con mà làm vậy, ông Phủ cào nhà ba má con! Vả Iại Phụng lúc ấy có đồng tình đâu mà con dám...

Thể Phụng bùi ngùi:

- Tại má em đòi chết nếu em không từ hôn anh và lấy thằng Tường! Nói phải tội, chỉ vì má em ham cái tài sản khổng lồ mà thằng Tường được hưởng, chứ bà thừa biết em đâu thương yêu gì thằng đó!

Út Nguyệt chợt điểm mặt cả hai: - Nhưng tao cảnh cáo nghe. Hai đứa bay cứ lén lút tò tí với nhau có bữa thằng Tường nó hay được thì có mà chết! Mà tao cũng nghi quá, không biết cái thai trong bụng mày đây thằng Lộc đóng góp hết mấy chục phần trăm.

Thể Phụng đập vào vai bà cô mình mấy cái liền:

- Cô này... biết rồi còn phải hỏi! Mà nói thật, nếu đổ bể ra con sẽ khai trong vụ này đầu dây mối nhợ là do cô Út! Chính cô bày đầu, chính cô chỉ đạo!

- Cha mày, giúp cho tụi bay mà bây giờ mang tiếng. Lộc chen vào: - Con cám ơn cô Út. Nếu không có cô Út giúp thì qua vụ bị từ hôn vừa rồi, con đã cắn lưỡi mà chết cho rồi! Đó là chưa nói ba má con đã nhục nhã, uất ức vô cùng khi bị từ hôn.

- Thôi thì bây giờ tao đền cho! Mà nói thật, không phải tao trù, chứ còn chuyện vợ chồng con Phụng, tao dám chắc sẽ không thọ đâu. Một khi con Phụng bỏ thằng Tường, mày dám nhận lại nó không?

Lộc đáp không cần suy nghĩ:

- Con thề có trời, con nhận liền.

- Hưởng xái cũng được sao?

- Xái hay nguyên gì cũng được hết! Cô Út quên là con từng nói, nếu Phụng có tan nát hết đời thì con vẫn yêu Phụng, con quyết ăn đời ở kiếp với Phụng!

Thể Phụng bật khóc thành tiếng. Cô lắc vai Nguyệt: - Cô Út đừng nói nữa, con... chết bây giờ!

Út Nguyệt nhìn cháu gái mình rồi nhìn sang Lộc và thở dài...

Bất chợt Lộc nói: - Nếu bây giờ tụi con bỏ trốn luôn thì cô Út có giúp con không?

Út Nguyệt giật mình:

- Có phải hai đứa đã có tính trước phải không?

Thể Phụng ôm vai bà cô mình: - Tụi con không giấu cô Út, hai đứa tính chuyến này trốn luôn! Tụi con sẽ đi thật xa, rồi sau khi sinh xong, chúng con sẽ lập nghiệp nơi đó luôn. Vậy sau khi đưa tụi con lên Sài Gòn xong thì cô Út quay về, sau đó khoảng một tuần lễ Út hãy nói với mọi người rằng sau khi sinh xong, con đã đi đâu Út không biết!

Út Nguyệt sợ hãi: - Chuyện này thì không nên đâu! Hay là để sinh nở xong đã, đứa con này đem giao cho bên nội nó, rồi tụi con muốn đi đâu cũng được!

- Tới nước này con xin nói thật với cô Út, con không còn đứa con nữa! Phụng khóc rấm rứt.

Câu nói như sét đánh ngang tai Út Nguyệt, cô run giọng hỏi: - Con nói gì, Thể Phụng?

Bây giờ Phụng bình tĩnh trở lại: - Con đã phá cái thai này ngay từ tháng thứ năm rồi!

- Phụng! Nguyệt gọi một tiếng lớn rồi nhìn sững đứa cháu gái mình. Mọi việc như một giấc mơ. Hồi lâu cô mới hỏi lại:

- Sao tới giờ con vẫn còn mang thai?

Bất ngờ, Phụng giở áo ngoài lên, để lộ cái thai giả quấn bằng vải độn gòn bên trong và kể:

- Út nhớ trận đau nặng của con cách nay mấy tháng không? Đó là lần con phá thai, suýt mạng vong! Sau khi phá xong, bởi thằng Tường đâu có khi nào ở nhà, cho nên con dễ dàng qua mặt bên chồng bằng cái bụng giả này! Sở dĩ con làm vậy là vì con không muốn có bất cứ mối quan hệ nào với cái gia đình quái quỷ đó.

Con đã tính cùng với Lộc bỏ đi từ lúc ấy, nhưng chưa thuận lợi, nên mới nấn ná tới bây giờ. Đây là thời điểm thích hợp để tụi con thực hiện ý nguyện của mình, vậy cô Út hãy giúp con lần cuối! Con lạy cô Út! Út Nguyệt chới với, ngẩn ngơ một lúc mới thở dài nói:

- Tụi bay đặt tao trước việc đã rồi này thì bảo tao còn làm cách nào được nữa! Thôi thì muốn làm gì đó cứ làm...

Cô móc trong túi ra còn một số tiền, thấy quá ít nên vội tháo luôn chiếc xuyến đeo trên tay và đôi bông nhận hột dừa luôn cho Thể Phụng:

- Cô không có nhiều, chỉ có bấy nhiêu thôi, hai đứa cầm đỡ để tiêu xài, rồi có gì cô liên lạc sau và giúp tiếp!

Phụng xua tay: - Không cần đâu cô Út ơi! Con đã chuẩn bị từ lâu nay rồi, nên đã ngầm tích trữ, hiện nay cũng có được một số vốn kha khá, có thể gầy vốn làm ăn, sinh sống được, cô…

Suốt dọc đường đi, câu chuyện của ba người chỉ xoay quanh đề tài bỏ trốn. Đến xế chiều thì họ tới một nơi mà Lộc nói: - Tối nay Út ngủ lại với tụi con chỗ này. Đây là ngôi nhà nhỏ mà tụi con đã âm thầm chuẩn bị từ mấy tháng nay, rất kín đáo, nên chắc chắn không một ai biết!

Đó là một xóm ngoại ô rất vắng vẻ nhà cửa, ít người qua lại. Ngôi nhà tuy nhỏ nhưng có được khoảng sân, có chỗ để xe kín đáo. Phụng hớn hở trước khung cảnh mới mẻ này, cô ôm chầm lấy Út Nguyệt: - Đây mới thật sự là tổ ấm của tụi con đó cô Út ơi!

Nhìn qua một lượt, Út Nguyệt gật đầu: - Cũng khá ấm cúng. Thôi, Út mừng cho hai đứa con. Còn bây giờ coi bộ con Phụng mệt rồi, hãy mở cửa vào nhà cho nó nghỉ ngơi, trong lúc đó để Út đi ra ngoài kia mua chút gì về chuẩn bị bữa cơm trưa nay và cho cả bữa chiều luôn!

Cô nói xong đi liền. Trong khi đó Thể Phụng cũng mệt thật sự, cô bảo Lộc: - Anh cất xe cho kỹ, đừng để người quen nhìn thấy. Em đi nghỉ chút đây.

Cô mở cửa đi thẳng vào phòng khách. Nhưng vừa bước vào cô đã phải khựng lại, bởi ngay giữa bộ ghế trường kỷ đã có một người ngồi sẵn! Đó là một phụ nữ tuổi trung niên.

Bà ta không để Phụng lên tiếng, đã nói ngay:

- Đã sinh rồi mà cái bụng sao còn lớn vậy?

Phụng giật mình, nhìn sững bà ta: - Bà là...

- Là người đem tin chẳng lành đến cho cô! Cô có muốn nghe tin về đứa con bị bỏ rơi không?

Như giẫm phải lửa, Phụng thảng thốt:

- Bà... bà nói gì? Tôi nào có... có bỏ ai.

Người phụ nữ mặt đanh lại: - Chuyện bỏ con là chuyện riêng cô, còn tôi là người tới để bắt cô phải chịu trách nhiệm về đứa con của mình.

Bà ta lấy ra từ trong giỏ xách một tấm chăn bông và chiếc áo ấm còn mới, đưa cho Phụng và nói gay gắt: - Người ta sinh con ra khi không nuôi, đem cho người khác thì ít nhất cũng bọc con trong cái chăn cỡ này, mặc cho đứa nhỏ cái áo ấm cỡ này... Có đâu như cô, chỉ cho đứa nhỏ một cái bao cũ, mấy tờ báo cũ để gói và liệng xuống ao!

Bà ta nói đến đâu Thể Phụng gai ốc đến đó, và cuối cùng cô phải bước lùi mấy bước run run hỏi:

- Bà là... là ai? Bà tới đây để...

- Tôi nói rồi, tôi tới để bắt cô chịu trách nhiệm về đứa con bị bỏ rơi của mình.

Phụng cố chống chế. - Đứa con đó tôi bị hư thai. Bỏ nó là lẽ đương nhiên...

Giọng người đàn bà đanh lại: - Nó đâu có chết khi thai đã hơn năm tháng tuổi! Lúc ấy nó đã thành hình và khi lọt lòng nó đã là một sinh mạng! Cô...

Thể Phụng vùng chạy ra ngoài trong tâm trạng bấn loạn, sau lưng cô, giọng nói kia vẫn vang lên:

- Cô không thèm nhìn mặt con mình hay sao? Nó đi tìm cô mà cô vẫn nhẫn tâm thì đừng có trách!

Phụng dừng lại ngay, cô sửng sốt:

- Nó làm sao sống được?

- Cô không nghe ai khóc trong phòng hay sao?

Lúc này Phụng mới để ý lắng nghe, và hốt hoảng khi nghe rõ mồn một tiếng trẻ con khóc trong nhà!

- Ai?

Người phụ nữ giọng vẫn lạnh lùng: - Vào mà nhận con đi!

Như bị điện giật, Thể Phụng la lên:

- Tôi không có con! Tôi...

Người phụ nữ đứng vụt lên và bước thẳng ra ngoài cửa. Vừa lúc Lộc cất xe xong bước vào, anh ngạc nhiên:  - Có chuyện gì vậy em?

Vừa lúc tiếng khóc lớn hơn của đứa trẻ vọng ra, khiến cả Lộc và Phụng đều sửng sốt, họ chạy bay vào và... đứng sững lại trước một đứa trẻ hình hài quái dị đang nằm trên giường, khóc thét từng hồi!

Lộc bình bĩnh hơn, anh nói: - Tìm hiểu xem là con ai mà bỏ đây đã, rồi sẽ tính.

Nhưng Phụng đã run rẩy và lắp bắp:

- Là con... con của... em!

Đến phiên Lộc há hốc mồm: - Em điên hả Phụng?

- Em nói thật. Nó là cái bào thai năm tháng tuổi mà hôm trước anh dẫn em đi phá đó...

Lộc ngơ ngác: - Nó đã chết ngay sau khi lấy thai ra mà! Chính anh đã thấy...

Thể Phụng rụng rời tay chân, phải ngồi bệt xuống sàn, mặt tái xanh... Lộc hỏi lại:

- Ai nói với em chuyện này?

- Lúc nãy anh không thấy người phụ nữ từ đây đi ra sao? Chính bà ta tới giao con và nói rõ...

Lộc chợt nhớ ra: - Bà ta... anh nhớ ra rồi, bà này là người nhà của bà mụ, người anh đã nhờ lo vụ phá thai cho em. Hồi nãy thấy bà ta đi ra anh cứ tưởng là em có hẹn để nhờ vả chuyện gì đó...

Nhìn lại đứa trẻ một lần nữa, Lộc chợt rùng mình, anh nói rất khẽ với Phụng:

- Mình phải làm sao... chứ để vậy sao được?

Phụng nói như khóc: - Làm sao thì... em đâu biết. Mà trời ơi, sao nó chỉ có một con mắt và không có cái lỗ mũi! Nó là người hay là...

- Là người! Là đứa con được người sinh ra đàng hoàng chứ bộ!

Tiếng nói đó phát ra từ đâu cả Lộc và Phụng đều không biết, họ ngơ ngác nhìn nhau rồi đảo mắt khắp phòng, tìm kiếm...

- Con đây nè!

Lúc này họ mới tá hỏa, bởi tiếng nói đó phát ra từ đứa bé! Thể Phụng gần như bò lết dưới sàn, cô hoảng loạn chỉ muốn bỏ chạy mà không làm sao đứng lên được. Chợt giọng nói kia lại cất lên:

- Sao gặp con mà mẹ không mừng? Con là Tài đây mà. Tài Lộc, Lộc Tài, cái tên hồi đó mẹ dự định đặt cho con, mẹ không nhớ sao?

Giọng nói hướng về phía Lộc:

- Ba của con đây mà! Tài Lộc của ba đây!

Lộc chết điếng: - Con... con..

Anh chỉ nói được mấy tiếng rồi cứng họng đờ đẫn cả người... Trong khi đó thì đột nhiên đứa bé nhanh như sóc nó phóng từ giường xuống rồi nhảy lên đeo cứng Thể Phụng, khiến cho cô phải ẵm nó khác nào mẹ ẵm con!

Giọng nó lại rót vào tai Phụng:

- Hãy ẵm con cho chắc con mà té thì con chết. Mà con chết thì.. người ẵm cũng chết theo luôn!

Phụng hầu như không còn kiểm soát được mình, cô sắp ngã người sang một bên thì Lộc đã kịp thời lao tới chụp lại kịp. Đứa bé thích thú cười vang:

- Như vậy phải được không! Có cả cha lẫn mẹ cùng ôm con như vậy mà bấy lâu nay con cứ tưởng là không bao giờ có được! Con cám ơn cha mẹ...

Phụng đã thật sự ngất. Lộc ngẫu nhiên trở thành người phải sang tay, ẵm đứa bé, để nó khỏi té. Và đến phiên anh nghe đứa nhỏ thỏ thẻ bên tai: - Con đã về đây rồi thì đừng hòng đưa con đi nữa...

*             *

*

Phải khó khăn lắm Thể Phụng mới thoát được ra khỏi nhà. Suốt ba ngày phải sống trong cực hình, nằm bên một đứa trẻ mà nội hình hài của nó thôi Phụng đã phát chết khiếp. Có lẽ nhờ cô phát bệnh từ hôm đầu, cho nên suốt mấy hôm nay Lộc là người phải chịu trận bồng ẵm, chăm sóc cho nó!

Có một hôm lợi dụng lúc nó ngủ, cả Lộc và Phụng liền lẻn ra khỏi nhà, định bỏ trốn, nhưng khi vừa leo lên xe thì đã bị nó leo lên lúc nào chẳng biết và đeo cứng cổ, không cho Lộc lái xe! Bởi vậy bữa nay nhân nó nằm ngủ với Lộc, Phụng dặn trước Lộc, cô sẽ đi tìm bà mụ, người đã lấy thai ra cho cô, để hỏi cho rõ, nhất là gặp người đàn bà kia, hầu nhờ giải quyết vụ này.

Quả nhiên Phụng thoát được, cô đi một mạch về chợ Phụng Hiệp. Tuy lần đó đi lén vào ban đêm, nhưng Phụng vẫn còn nhớ nhà, cô hỏi thăm thì được người ta chỉ đúng chỗ bà mụ. Bà vừa gặp Phụng đã nhớ ra, bà ngạc nhiên hỏi:

- Sao, bộ cô có thai nữa và cần... phá nữa sao?

Phụng ngượng đỏ mặt:

- Làm gì có. Tôi tới là để thăm lần phá năm đó bà chắc là cái thai đã chết không?

Bà mụ Ba hơi sựng lại một chút, rồi đáp: - Thì... lấy ra khỏi bụng mẹ thì... coi như chết chứ sao!

- Nhưng... cỡ thai đó nuôi có sống được không?

- Hơn năm tháng, làm sao sống được.

- Vậy sao...

Phụng sợ nói ngang bà mụ không hiểu, nên hỏi lại: - Hồi bà làm cho tôi, tôi nhớ có một bà phụ việc... bà đó bây giờ còn ở đây không?

- Bà Tám Thôi, chính bà ta đã là người giúp đem đứa nhỏ đi mai táng. Bà đó làm ăn đàng hoàng, chu đáo, nên cô đừng lo, vong hồn đứa bé chắc là cũng siêu thoát rồi. Chỉ tiếc là hồi đó tôi quên không hỏi bà ấy chôn cái xác đó ở đâu để mai mốt mình đem vào chùa cầu siêu cho nó.

- Tôi muốn gặp bà Tám đó, bà làm ơn...

Bà mụ Ba đáp gọn lỏn:

- Bà ấy chết cách đây hơn một tháng rồi!

Câu nói khiến Phụng tá hỏa: - Bà nói gì? Ai chết?

- Thì bà Tám Thôi, bà bị chết bất đắc kỳ tử mà chẳng thấy có bệnh gì! Bởi vậy tôi mới không kịp hỏi bà chôn cái thai ở đâu.

Phụng phải vịn vào thành ghế mới đứng vững được, người cô run và phải một hồi sau mới có thể hỏi tiếp: - Có phải chắc chắn đúng bà ấy là người đã cùng làm với bà?

Bà mụ Ba nói chắc nịch: - Mấy cái vụ này thì làm sao dám cho người ngoài sờ tay vào. Bà Tám này xưa nay có tay nghề và kín miệng, cho nên chỉ mình bà ta là cùng làm với tôi, chứ không có ai khác cả!

Chưa tin hẳn, Phụng hỏi thêm: - Bà chỉ nhà giùm... tôi tới thắp cho bà ấy nén nhang.

Nghĩ là Phụng có lòng, nên bà mụ Ba chỉ và còn dặn: - Bà ấy hoàn cảnh khó khăn, cô có tới thì cũng cho bà ấy chút đỉnh.

Phụng đi ngay tới chỗ đó. Khi bước vào nhà thì cô đã nhìn thấy tấm ảnh chân dung của bà ta đặt trên bàn thờ, Phụng kêu khẽ.

- Đúng là bà ta rồi!

Người nhà đón tiếp Phụng rất ngạc nhiên khi thấy một người lạ mà tới nhà họ, nên đã hỏi thẳng:

- Cô tới để nhờ vả vụ... phá thai phải không? Nếu là chuyện đó thì yêu cầu cô đi ngay cho!

Phụng phải đính chính: - Dạ không phải, tôi là người quen cũ, nhân về qua đây ghé thăm bà gửi cúng bà ít quà...

Cô lấy ra một số tiền kha khá đặt lên bàn thờ và nói: - Cầu cho vong linh bà Tám siêu thoát...

Người con gái lớn của bà bỗng ôm mặt khóc:

- Má tôi đâu có làm gì ác, mà sao từ khi chết đến giờ đêm nào cũng về báo mộng, toàn là chuyện gì đâu không, làm cả nhà mất ăn mất ngủ?

Phụng tò mò: - Có chuyện gì vậy?

Nghĩ Phụng cũng là người quen với má mình, nên chị nọ không giấu: - Má tôi chết mà không có bệnh gì, tôi đã nghi rồi... không ngờ có thật? Đêm nào bà ấy cũng về báo là bị một oan hồn uổng tử đeo theo phá, đòi đền mạng! Bà sợ hãi, khóc lóc và kêu cứu, nhưng mình là người trần thì làm sao cứu giúp được những vong hồn cõi âm.

- Uổng tử là cái gì?

- Là vong hồn của trẻ nhi bị chết oan! Chẳng hiểu lúc giúp cho bà mụ Ba, má tôi có phạm phải tội ác gì hay không mà...

Chị nói tới đó thì lại khóc lớn hơn. Rồi lát sau hơi bình tâm lại, chị chỉ lên bàn thờ và bảo: - Có cái tên của người nào đó mà lần nào hiện về má tôi cũng bảo ghi lại. Hỏi để làm gì thì bà nói để bà chỉ cho đứa uổng tử kia, để nó không còn đeo theo bà nữa!

Phụng như bị lôi cuốn vào câu chuyện, cô đứng lên và bước về phía bàn thờ, rồi tiện tay cầm lên mảnh giấy nhỏ có ghi mấy chữ: Thể Phụng, con gái bà Phủ Hoài!  Phụng tái mặt, cô tìm cách tháo lui ngay:

- Xin lỗi, tôi có việc phải đi... để lần khác tôi tới thắp nhang cho bà Tám sau.

Ra đường rồi Phụng đi như chạy và lúc này trong đầu cô hình ảnh của bà Tám Thôi hôm gặp cô ở nhà đang là nỗi ám ảnh khủng khiếp! Và theo như những gì đứa con gái bà thuật lại hồi nãy thì chuyện bà ấy mang đứa bé tới giao cho Phụng không phải là ý của riêng bà. Đó là ý của... oan hồn uổng tử kia!

Trở về Sài Gòn ư? Điều này Phụng không dám. Nhưng để cho Lộc chịu trận với đứa bé thì khác nào biết anh sắp nguy mà không cứu! Cuối cùng Phụng nghĩ ra một cách. Cô cũng về Sài Gòn, nhưng thay vì về thẳng nhà, cô ghé lại một nhà quen, nhờ một người đạp xích lô, cho anh ta một số tiền bằng cả ngày chạy xe và dặn: - Anh tìm cách tới số nhà này, theo địa chỉ tôi ghi trong giấy, tới đó tìm người tên Lộc, gọi anh ta ra cửa rồi dặn anh ấy là phải đem đứa bé về nhà của bà Phủ Hoài. Đưa nó cho cô Út Nguyệt và dặn...

Người đạp xích lô lắc đầu nói: - Cô dặn nhiều quá tôi đâu có nhớ. Tốt nhất là cô viết vô tờ giấy, rồi tôi tới đó đưa, người ta sẽ đọc và làm theo!

Nghe có lý, Phụng viết vội mấy ý, dặn Lộc cứ ôm đứa bé về nhà, nói đại là cô vừa sinh ra... quái thai, nên sợ không dám về nhà. Rồi bảo cô Út Nguyệt đem đứa nhỏ giao cho bên nội nó, để bên đó họ xử lý sao là tùy họ!

Người đạp xích lô đi chừng một tiếng đồng hồ, trở về với vẻ thất vọng:

- Việc cô nhờ tôi làm không xong rồi, tôi tới đó thì nhà đóng kín cửa, kêu hoài cũng chẳng ai ra mở!

Phụng lặng người đi khá lâu, cuối cùng cô quyết định liều, cô bảo chở mình về đó. Khi mở cửa ra thì đúng là Lộc và đứa bé không có ở nhà. Họ đi đâu chẳng hiểu, nhưng chiếc xe hơi thì vẫn còn ở đó. Lúc xem lại hành lý thì những gì của Lộc cũng biến mất, chỉ còn lại quần áo, vật dụng của Phụng.

- Như vậy là sao? Chẳng lẽ Lộc bỏ trốn với đứa bé? Điều này hoàn toàn không thể, nhưng những gì diễn ra trước mắt khiến cho Phụng càng lúc càng hoang mang. Cũng may, sau đó khi ra chỗ chiếc xe, Phụng chợt phát hiện có dòng chữ viết bằng phấn trên ca-pô xe: Anh đem con về nhà cho cô Út.

Phụng reo lên: - Lộc đã làm đúng ý mình!

Cô thầm cám ơn trời phật đã giúp cho mọi việc như ý...

Phần II:

Út Nguyệt nhanh tay đặt đứa bé vào trong xe hơi của Tường, rồi chạy đi ngay khi nó còn đang ngủ. Do đã cho tiền tài xế Tư Sang rồi, nên anh ta lúc đó làm như vô tình bỏ đi uống cà phê.

Như vậy là mọi việc coi như ổn. Điều lo sợ canh cánh trong lòng từ hai ngày qua giờ đã giải tỏa. Việc này Út Nguyệt dám tự hào rằng, ngoài cô ra thì khó lòng ai làm được. Thứ nhất, không ai dám ẵm đứa bé dị hình và tính tình quỷ quái như nó. Thứ hai là ẵm được nó và giao tận nơi mà nó phải tới, người cha ruột thịt của nó, là điều khó lòng thực hiện!

Làm xong việc khó, như trút được gánh nặng ngàn cân, Út Nguyệt về nhà lòng hí hửng. Ở một căn nhà mướn tạm để cho Phụng và Lộc ở, Út Nguyệt phấn khởi kể lại thành tích của mình: - Tụi bay biết không, lúc đặt đứa bé vô xe, tao cứ nơm nớp lo sợ nó giật mình tỉnh lại và đeo cứng như thằng Lộc nói, nào ngờ nó lại nằm im, ngủ ngon lành! Tao tưởng tượng lúc thằng Tường trở ra mà nhìn thấy nó chắc là hắn ta sợ đến... đái trong quần luôn!

Lộc vẫn chưa yên tâm:  - Đứa bé này nó quỷ quái lắm, không phải ai nó cũng đeo bám đâu. Chỉ đúng người nó mới làm vậy. Sợ e...

Út Nguyệt trừng mắt: - Thì thằng Tường là cha đẻ của nó thì nhất định nó sẽ đeo khi gặp mặt. Chứ còn như tao, tụi bay thấy không, nó đâu có đeo cứng như đeo thằng Lộc... à mà cũng lạ, sao thằng Lộc là người ngoài, đâu có dính dáng máu mủ gì với nó đâu mà đứa bé lại đeo như sam là sao?

Bà quay sang Phụng: - Mày nói thật coi, đứa bé là con của ai, thằng Tường hay thằng Lộc nào?

- Dạ... của ông Tường, chứ anh Lộc thì...

- Thằng Lộc không có sao đứa nhỏ đeo nó dữ vậy? Tao nghi quá... Hay là nó hoàn toàn là của thằng Lộc trước khi mày lấy chồng?

- Đâu có cô Út! Của cha Tường mà.

- Tao thấy sau ngày cưới rồi mà mày còn thậm thò thậm thụt với thằng Lộc, tao sợ...

Phụng không muốn bàn tới chuyện đau đầu này nữa, nên đứng lên và nói: - Thôi, cô Út giúp kêu chiếc xe lôi vào đây, để tụi con trở lên Sài Gòn liền. Tụi con sẽ thực hiện tiếp những gì đã tính.

Út Nguyệt nhẹ lắc đầu: - Tao cũng mất ăn mất ngủ vì chuyện tụi bay! Từ bữa con Phụng lên Sài Gòn rồi không thấy về, cả nhà thằng Tường chạy đôn chạy đáo kiếm tìm. Sau khi họ biết là mày cùng bỏ đi bởi thằng Lộc thì họ làm giặc lên, họ đòi kiện ba má bay! Cũng may là uy thế cha bay còn lớn nên họ mới để yên. Nhưng với thằng Lộc thì họ hăm sẽ làm dữ với nhà mày!

Lộc không hề nao núng: - Con đã quyết rồi thì họ muốn làm gì cũng được. Cái quan trọng nhất với con là Phụng, trừ khi là Phụng bỏ con, chứ không thì con thề sẽ không bao giờ con để mất Phụng lần nữa!

Phụng cũng nói:

- Con chỉ lỡ một lần thôi, sẽ không có lần thứ hai.

Út Nguyệt hạ thấp giọng: - Mà tao vẫn còn thắc mắc, sao mày không thương thằng Tường, sao lại để có con với nó! Mày ngừa rồi chứ cơ hội như thế này có phải đỡ rắc rối hơn không!

Phụng chán ngán: - Ngừa sao được với cái thằng lúc nào về nhà cũng say xỉn. Mỗi lần như vậy hắn coi con như con súc vật, đè ra đánh, đập và... làm đủ trò, con làm sao cưỡng lại được!

Rồi Nguyệt thở dài: - Cái số con này không ngờ lại khổ! Bởi vậy đâu phải cứ sinh làm con nhà giàu, nhà quyền thế là sướng đâu!

Phụng bước vào phòng trong chuẩn bị hành lý, thì từ trong đó cô hét to: - Út ơi, anh Lộc ơi!

Hai người này chạy vào thì muốn chết khiếp! Bởi, trước mặt họ là đứa bé đang nằm ngủ ngon lành trên giường! Phụng run giọng:

- Sao... sao nó vẫn còn ở đây cô Út?

Út Nguyệt cũng mất bình tĩnh:

- Nghe tụi bay kể tao không tin nó là… oan hồn uổng tử. Nhưng bây giờ thì… tao tin. Mà đã là oan hồn thì làm sao bắt nó theo ý mình được.

Phụng vừa sợ vừa chán nản:

- Con biết làm sao bây giờ đây Út? Út có cách nào giúp con với...

Út Nguyệt chợt nhớ, cô kéo tay hai đứa ra ngoài bảo: - Cô có quen một ông thầy chuyên làm phép trục ma quỷ ít ra ông ấy cũng có thể làm cho đứa bé này không quậy phá con nữa.

Phụng mừng quýnh:

- Sao Út không nói sớm. Vậy Út còn chờ gì nữa.

Út Nguyệt bảo:

- Bây giờ để nó khỏi nghi, Lộc hãy ở lại nhà coi chừng nó, cô sẽ dẫn con Phụng qua bên ông thầy.

Ông thầy gọi là thầy Tư Thế, vốn nổi tiếng từ Xiêm La về. Đã lâu năm hành nghề từ Băng-Cốc, Nam Vang, Thất Sơn. Ông tài giỏi, nhưng rất kén khách. Chỉ những ai thầy cho là có hoàn cảnh ngặt nghèo, đáng thương thì nhờ thầy thầy mới giúp. Còn không, dẫu có trả bao nhiêu tiền thầy cũng từ chối.

Biết vậy nên trước khi ghé chỗ thầy, Út Nguyệt đã dò hỏi trước ở nhà một người quen và được người này cho biết: - Thầy Tư đã đóng cửa không tiếp khách từ ba ngày nay. Có dặn mấy đệ tử là khi nào có người tới tìm thì từ chối hết.

Út Nguyệt thất vọng: - Tôi từ xa tới, mà thầy như vậy thì biết làm sao đây?

Người nọ mách: - Cũng đã từng có vài lần như vậy rồi. Nếu cô muốn được thầy tiếp thu phải đợi lúc nửa đêm tới đứng chờ thầy ở cổng. Giờ đó thầy thường ra ngồi cầu vong giữa trời. Lúc đó hễ thầy gặp ai đầu tiên thì nhờ gì thầy cũng giúp.

Út Nguyệt ái ngại:

- Nhưng tôi và đứa cháu là thân nữ, làm sao có thể tới vào đêm khuya như vậy được?

- Nếu không làm vậy thì đành chịu thôi!

Út Nguyệt về bàn lại với Phụng, thế là nửa đêm hôm đó hai cô cháu đích thân tới nhà thầy Tư Thế và đợi...

Đúng như chị nọ nói, đúng nửa đêm hôm đó thầy Tư xuất hiện như một tiên ông, trong bộ quần áo toàn trắng. Thầy ngồi xếp bằng giữa sân, không thắp hương, nhưng mắt thầy nhìn vào khoảng không bao la như nhìn làn khói hương quyện bay theo gió... Hồi lâu bỗng thầy ngẩng lên và nhìn ra cổng nói đủ cho hai người nghe:

- Hai người chờ đợi chi cho mất công. Hãy về đi, oan gia nghiệp chướng đó đã trót mang thì không làm sao dứt ra được đâu!

Út Nguyệt nghe vậy lên tiếng liền:

- Lạy thầy, thầy đã biết rồi thì xin ra tay giúp giùm cho cháu tôi, tội nó lắm! Nó gặp phải cuộc hôn nhân không ra gì, bây giờ lại mang cái khổ này nữa, làm sao nó sống nổi.

Thầy Tư không nhìn Phụng, nhưng đã phán: - Nó sống không nổi vậy sao bắt kẻ khác phải khổ?

Út Nguyệt cãi:

- Cháu tôi đâu có làm ai khổ đâu thầy! Nó... nó…

Thầy Tư giờ mới nhìn ra, giọng thầy đanh lại:

- Vậy xác đứa bé năm tháng tuổi nằm dưới đáy ao là con của ai?

Phụng nãy giờ im lặng, bỗng thốt lên:

- Chuyện đó không phải do con làm! Cái đó...

- Ai mang nó trong bụng?

- Dạ... con lỡ...

Giọng thầy Tư đanh lại: - Lỡ mang thì phải đẻ và nuôi, cớ sao phá bỏ giữa chừng, mà phá xong khi biết nó còn sống lại giết nó chết?

Phụng hốt hoảng: - Con không có giết nó. Con giao chuyện ấy cho bà mụ và...

Thầy Tư đanh giọng:

- Tội của bà mụ và người trợ giúp cho bà ta thì đã rõ, cả hai người họ đều sẽ lần lượt lãnh hậu quả thôi.

Ông thầy nói xong câu đó thì im lặng, ngồi nhắm mắt và tiếp tục cuộc cầu hồn. Út Nguyệt và Phụng có nói gì thì vẫn không nhận được câu trả lời. Đứng mòn mỏi, cuối cùng Út Nguyệt dẫn cháu về. Họ nhận được lời khuyên của thầy nói với theo:

- Đứa bé có thể biến mất, nhưng nghiệp chướng thì sẽ không hết đâu!

Đầu óc hoang mang, Phụng đi theo Nguyệt chỉ được một đoạn rồi kêu đau bụng. Lúc đầu bụng chỉ đau râm ran... nhưng càng về sau thì cơn đau tăng lên dữ dội. Nhìn thấy mặt cháu mình xanh tái, Út Nguyệt hốt hoảng:

- Có sao không con?

Phụng thở hổn hển đầy mệt nhọc:

- Không... không xong rồi... Út ơi... con chịu không nổi nữa rồi...

Phụng chỉ nói được mấy tiếng đó rồi ngã quỵ xuống giữa đường. Hoảng quá, Út Nguyệt vội kêu xe chở đi bệnh viện. Phụng đã gần như mê man lúc vào tới chỗ khám bệnh.

Sau gần một giờ, một cô y tá bước ra hỏi:

- Ai là thân nhân của cô Thể Phụng?

Út Nguyệt vội đáp: - Dạ tôi.

Nhìn Nguyệt từ đầu đến chân, cô y tá hơi tò mò:

- Cô là gì của cô Phụng?

- Tôi là cô ruột của nó. Tôi...

- Được rồi, mời bà vô gặp bác sĩ.

Ngỡ bệnh tình của Phụng quá nặng, nên Út Nguyệt vừa bước theo mà vừa run. Vừa gặp bác sĩ cô đã hỏi ngay: - Cháu tôi sao rồi bác sĩ? Liệu có chữa được không?

Vị bác sĩ Iại nhìn cô một lượt, rồi đột nhiên hỏi:

- Bà chưa biết gì?

Út Nguyệt ngơ ngác: - Biết gì?

- Cô Phụng này đã có thai được ba bốn tháng, cái thai bị động nên hành, mà sao bà để cho đến nỗi này?

Út Nguyệt tưởng mình nghe lầm:

- Bác sĩ nói thật hay giỡn?

Vị bác sĩ nghiêm nét mặt:

- Tôi đâu có thời giờ để nói chơi với bà. Cô này bị động thai, nhất thời chúng tôi chưa xác định được là cái thai có bị gì hay không, phải đợi chuyển qua chuyên khoa rồi mới rõ.

Nguyệt bắt đầu run: - Cháu tôi mới sinh đây mà sao lại có thai được? Hay là bác sĩ lầm lẫn?

Vị bác sĩ có vẻ bực mình, ông gọi cô y tá dặn:

- Cô cho chuyển bệnh nhân qua khoa sản ngay. Lưu ý, phải kịp thời, nếu không sợ e...

Ông bỏ ra khỏi phòng rồi mà Út Nguyệt vẫn còn ngơ ngác nhìn theo. Mãi một lúc cô mới hỏi lại cô y tá: - Bác sĩ nói gì vậy?

Cô y tá cũng bực mình: - Thì bà nghe rồi đó, bệnh nhân này bị động thai, chứ có bệnh hoạn nào khác đâu! Mà sao thai lớn rồi mà bộ không biết sao để cho nó tệ như vậy?

Năm phút sau thì Phụng được chuyển sang phòng khác. Khoa sản.

Cho đến nửa đêm hôm đó thì bệnh viện cho một kết quả động trời: Bệnh nhân Thể Phụng mang thai gần bốn tháng, thai bị động, có thể nguy hiểm chẳng những cho đứa bé trong bụng, mà ngay cả mẹ nó cũng bị nguy hiểm đến. Út Nguyệt thất thần:

- Không thể nào! Làm sao lại như vậy...

Bà cứ đứng yên như bị trời trồng, vừa lẩm bẩm khiến mấy cô y tá phải phát bực:

- Bà không đi làm thủ tục cho bệnh nhân nhập viện đi, còn đứng đó, bộ muốn nhìn bệnh nhân bị nguy hiểm sao!

Mãi đến khi theo Phụng vào tới phòng điều trị rồi mà Nguyệt vẫn còn lừng khừng như kẻ mất hồn. Cho đến khi cô gọi khẽ sau lưng:

- Cô Út! Cô Út...

Út Nguyệt quay lại thấy Phụng vừa tỉnh thì mừng: - Con ơi, dậy đi để cãi với họ, chứ cô nói không được..

- Cãi cái gì?

- Thì... họ nói mày có thai bốn năm tháng gì đó, nghe có tức cười không?

Phụng cũng ngơ ngác: - Thai gì? Con mới phá thai cách năm tháng trước, rồi từ đó có... ăn nằm gì với ông Tường đâu mà có thai?

Út Nguyệt ngập ngừng:

- Vậy mày với thằng Lộc... có gì với nó không?

- Làm gì có.

- Thật không?

- Con thề độc với dì mà.

Hai cô cháu nhìn nhau mà chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra...

*             *

*

Bà Phủ Hoài điếng hồn trước tin báo của Út Nguyệt. Bà lặng người ngồi thừ người ra hồi lâu rồi mới hỏi lại:

- Rồi biết ăn nói làm sao với bên nhà chồng nó? Cái con mẹ phú hộ Ba Lến là loại đàn bà miệng mồm độc địa, đâu dễ để yên.

Nguyệt đã tính kỹ rồi, nên có cách nói của mình:

- Sợ gì thứ nhà giàu dốt nát đó! Tôi nói thật với chị, cùng lắm thì mình bắt con Phụng về có sao đâu!

Bà Phủ nhảy dựng lên:

- Bộ giỡn sao Út! Họ đâu có để cho mình yên khi con Phụng đã là dâu nhà họ? Rồi mình giải thích sao với thiên hạ nữa chuyện con Phụng mới đi bệnh viện nằm chờ sinh, rồi bữa nay lại nói mới có thai bốn tháng? Bộ cô nói họ con nít sao chứ!

Út Nguyệt hạ thấp giọng:

- Con Phụng sẽ có cách nói, nó đã tính rồi...

Bà Phủ trợn mắt nhìn đứa em chồng chỉ bằng tuổi con gái mình:

- Cô với nó còn tính toán, âm mưu gì nữa đây?

Nguyệt kề tai nói nhỏ cho bà chị dâu nghe một hồi. Vừa nghe xong bà Phủ la lớn:  - Không được! Phá thai là tội lớn, suốt đời cất đầu lên không nổi đâu!

- Nhưng con Phụng đã...

Suýt nữa Nguyệt đã nói lộ ra chuyện Phụng từng phá thai một lần rồi, may mà cô dừng lại kịp... Bà Phủ tinh ý nên thắc mắc:

- Bộ con Phụng đã...

Nguyệt nói lảng ngay:

- Đâu có chuyện gì. Tôi muốn nói con nhỏ đang có sức khỏe kém, không thể để nó bệnh hoạn bởi mang cái thai... nhưng thôi, tôi sẽ có cách khác...

Thấy Nguyệt úp mở như vậy bà Phủ lo ngại:

- Cô tính toán gì thì cũng nghĩ tới tôi với ông anh Hai cô. Ông ấy mà biết được chuyện con Phụng làm bậy bạ gì đó là ông ấy giết chết!

Nguyệt nói ỡm ờ:

- Làm thì làm cho đúng, chứ ai lại làm bậy...

Cô nói xong đứng lên đi ngay, khiến cho bà Phủ càng lo thêm, bà gọi giật ngược:

- Cô Út! Cô lại đây tôi hỏi thêm coi!

Nhưng Út Nguyệt đã đi nhanh ra khỏi cửa. Bởi Phụng đang nằm ở ngôi nhà mướn chờ đợi... Từ hôm ở bệnh viện về, Phụng lúc nào cũng ở trong tâm trạng nơm nớp lo sợ, hoang mang. Vừa thấy Nguyệt về, cô nàng đã vồ lấy, khóc nức nở:

- Con chết Út ơi! Nó... nó lại hành con...

- Ai hành?

- Cái thai! Từ sáng lúc Út đi thì nó liên tục quậy, làm con đau đớn không chịu nổi.

- Đã uống chén thuốc an thai cô pha sẵn chưa?

- Uống rồi, nhưng vừa uống vô là con ói ra sạch hết và cái thai càng quậy dữ hơn! Con chịu hết nổi rồi Út ơi!

Họ đang nói chuyện thì từ ngoài cửa Lộc chạy ùa vào. Anh vừa thở hổn hển vừa mừng ra mặt:

- Xong rồi cô Út ơi!

Nguyệt ngạc nhiên:

- Chuyện gì vậy?

- Đứa... đứa nhỏ.. coi như xong rồi.

Đến Phụng đang đau đớn mà cũng hỏi dồn:

- Xong là sao?

Lộc nói chậm từng tiếng một:

- Nó biến đâu mất rồi!

Út Nguyệt kinh ngạc.

- Thật vậy sao? Mà biến đi đâu?

Phụng lo lắng:  - Thứ quỷ quái đó không dễ bỏ đi đâu. Nó là oan hồn thì chuyện ở hay biến mình làm sao kiểm soát được.

Nhưng Lộc quả quyết:

- Anh đã tìm khắp nơi rồi, không hề thấy nó.

Và anh lấy ra bộ đồ trẻ con đưa cho Út Nguyệt xem, vừa trông thấy thì cả cô và Phụng đều kêu lên:

- Đồ của nó!

- Thì đây là quần áo đứa bé đang mặc, vừa rồi cháu tìm thấy nó bỏ ngoài sân.

Phụng nghe trong bụng mình nhói đau và như có ai xúi, cô thốt lên: - Đem đốt nó đi!

Lộc còn lưỡng lự thì Út Nguyệt giật lấy, cô chạy ra sân và châm lửa đốt liền. Bộ quần áo cháy rất nhanh và khi nó vừa cháy hết thì cũng vừa lúc Phụng bật đứng dậy vừa reo lên sung sướng:

- Con hết đau bụng rồi Út ơi.

Cô đưa tay xoa xoa bụng như còn chưa tin và rồi đột nhiên hỏi: - Hình như con... đâu còn có thai nữa?

Hôm qua Út Nguyệt đã sờ vào bụng cháu mình, rõ ràng cái thai gò lên và động đậy nữa, còn bữa nay...

Sau khi sờ vào, Nguyệt la lên:

- Đúng là không có gì hết!

Lộc chưa được thông báo việc Phụng có thai lần nữa, nên ngơ ngác: - Cái gì không có vậy?

Út Nguyệt nháy mắt không cho Phụng nói, cô hỏi Lộc:

- Tao hỏi thật, mày có ăn nằm gì với con Phụng từ bốn năm tháng nay không?

Lộc thành thật: - Từ lúc Phụng phá thai đến giờ tụi con hoàn toàn không có gì với nhau hết!

- Thật không?

- Dạ thật. Con mà nói láo trời tru đất diệt con đi!

Nguyệt cười:

- Thấy mày thề thốt tao cũng tạm tin. Mà thôi, để tao lo vụ con Phụng cho xong đã...

Cô quay sang Phụng thì cô này đang ưỡn ẹo ra vẻ mừng vui lắm:

- Con không còn thấy có chút gì trong bụng hết. Chắc chắn là con... hết mang thai rồi Út ơi!

Vô tình cô nói hớ lên khiến Lộc ngơ ngác:

- Em mang thai?

Đến nước này Út Nguyệt đành phải nói:

- Con Phụng thấy bụng đau, đi bệnh viện khám, người ta ghi là có thai...

Phụng chen vào nói:

- Nhưng bây giờ hầu như không có gì! Út ơi, mình trở lại bệnh viện cho họ khám lại đi!

Lộc xung phong: - Để anh đưa em đi!

Út Nguyệt chặn lại:

- Ở đây gần với nhà chồng con Phụng, họ mà thấy nó đi với mày thì họ cào nhà mày xuống! Thôi, để tao đưa đi, thằng Lộc muốn nghe ngóng thì đi theo, nhưng phải cải trang thành người nào đó, để thiên hạ không nhận ra.

Lộc mau mắn: - Để con giả làm người đạp xe lôi. Con có quen với một bác có chiếc xe lôi đang bỏ không, cô Út và Phụng chờ cho một chút, con sẽ kiếm đồ thay rồi đưa xe tới đây chở Út và Phụng đi tới một bác sĩ sản khoa giỏi mà con có biết.

Phần III:

Lộc đi chừng nửa giờ sau trở lại. Anh ngừng xe ngoài cửa gọi vào nhà: - Ai đi xe thì ra đi!

Khi Út Nguyệt và Phụng bước ra họ đã vô cùng kinh ngạc khi nhìn trong lớp quần áo phu xe với chiếc nón lá rách lụp xụp trên đầu. Phụng kêu lên:

- Anh giống dân xe lôi quá trời!

Lộc đùa: - Cũng phải tập dần, để mai mốt về sống chung với Phụng, lỡ có thất nghiệp thì cũng có sẵn cái nghề để sinh nhai chứ!

Họ leo lên xe, Lộc đưa tới một bà bác sĩ chuyên khoa sản. Sau khi khám thật kỹ, bà nói liền:

- Tuy còn phải thử thở mới biết được chắc chắn là có thai hay không, nhưng qua các dấu hiệu cho thấy thì cô đây hoàn toàn không có gì hết!

Phụng mừng rơn: - Vậy là thật rồi, mừng quá!

Bà bác sĩ ngạc nhiên: - Không có thai mà mừng vậy sao? Có đứa con nào chưa?

Phụng lắc đầu: - Dạ chưa?

- Chưa có con? Nếu thế thì phải buồn khi chưa có thai chứ?

Út Nguyệt phải chen lời:

- Thưa bác sĩ là vầy... cháu nó chưa muốn có con để còn tiện làm ăn. Chờ lúc nào thuận tiện mới tính...

Bà bác sĩ quay sang Lộc: - Anh chồng đây phải không? Anh cũng đồng ý với vợ sao?

Lộc miễn cưỡng gật đầu: - Dạ, em cũng muốn vậy.

Bà bác sĩ lắc đầu: - Từ nào đến giờ thân chủ của tôi hầu hết khi nghe chưa đậu thai thì thất vọng, chán nản lắm. Đây là lần đầu...

Trả tiền khám bệnh xong, Phụng giục hai người:

- Mình về thôi, chắc má tôi mừng lắm!

Út Nguyệt hốt hoảng:

- Bộ mày muốn trở về nhà hả Phụng?

Phụng gật đầu: - Dạ, đúng rồl! Từ nay con không sợ gì nữa hết, con sẽ trở về nhà sống đàng hoàng, rồi con sẽ bỏ chồng, để chuẩn bị lấy anh Lộc!

Nguyệt lo lắng: - Rồi biết ăn nói sao với bên phú hộ Tư Bền đây? Rồi thằng Tường nữa...

Phụng tỏ ra bình thản:

- Có gì mà phải lo. Bây giờ con nghĩ rồi, chẳng thà quyết định dứt khoát, chứ còn tiếp tục sống trong cảnh vợ hờ thì con không chấp nhận! Từ ngày lấy con, tay Tường chỉ ngủ nhà có ba đêm rồi biền biệt miết, con còn sống đời làm vợ kiểu đó được sao!

Thấy Lộc im lặng nhìn đi nơi khác, Út Nguyệt hỏi: - Ý mày thấy sao, Lộc?

Lộc quay lại đáp rất dứt khoát: - Con đã nói rồi, dẫu có chết con cũng quyết lấy Phụng!

Phụng cảm động ngã vào vai Lộc, âu yếm:

- Con không thể thiếu anh ấy được...

Út Nguyệt thở dài: - Đành thôi, chứ biết sao...

Ngay tối hôm đó Phụng theo Út Nguyệt vào thẳng nhà mình. Bà Phủ Hoài vừa thấy con về đã định quát một trận, nhưng khi thấy Phụng vẫn tươi tỉnh và bình thản thì bà hơi ngạc nhiên:

- Mày có sao không vậy?

Phụng ôm chầm lấy mẹ, cầm tay bà đặt lên bụng mình khiến bà Phủ rụt tay lại, la lớn:

- Sao lại có thai, vậy còn đứa con mới sinh đâu?

Phụng thản nhiên: - Bầu bì gì đâu má. Bộ má không thấy bụng con là bụng... con gái hay sao?

Bà Phủ tròn mắt: - Mày với cô Út mày. Bộ muốn giỡn mặt với tao hả?

Út Nguyệt giờ mới lên tiếng: - Cũng tại con nhỏ này, nó nói hoảng, làm em tưởng...

Bà Phủ mừng rỡ:

- Nếu vậy thì còn dễ ăn nói với bên kia.

Rồi bà thắc mắc: - Sao cả chục năm nay rồi, từ lúc con Phụng được lên Sài Gòn sinh tới nay. Không hề thấy bên nhà Tư Bền qua hỏi thăm tiếng nào hết?

Phụng được dịp kể lể: - Cái nhà đó mà biết gì tới ai ngoài họ đâu. Còn thằng Tường thì đi mút chỉ, hình như có vợ bé đâu trên Sài Gòn, còn nhớ gì tới nhà cửa, vợ con!

Út Nguyệt được dịp chen vào, kể tội: - Tôi đã nói rồi, dứt khoát với nhà đó cho rồi mà chị không chịu!

Bà Phủ dịu giọng: - Tôi cũng đâu có thiết tha gì, nhưng ngặt nỗi ông anh cô ông ấy sĩ diện, không muốn thiên hạ đàm tiếu. Bởi vậy cho nên...

Phụng nói thẳng ra ý của mình: - Kỳ này con tính bỏ luôn! Nhân chuyện con đi sinh về mà không có con đem theo, con báo là sảy thai, họ sẽ giận dữ và kiếm chuyện, con sẽ tuyên bố bỏ về nhà cha mẹ luôn.

- Không được đâu con...

Bà Phủ can, nhưng Út Nguyệt đã đốc vào:

- Cứ làm vậy đi con! Nếu mà bây không dám nói thẳng, thì để cô. Tôi sẽ đi với con Phụng qua bên đó nói chuyện với họ một lần cho xong!

- Nhưng mà, còn anh cô...

Nguyệt xẵng giọng:

- Cùng lắm là anh Hai giết em chứ gì, em không sợ, miễn là em cứu con Phụng thoát cảnh khổ là được.

Nói xong cô hối cháu mình

- Mày đi liền với tao qua nhà họ!

Phụng do dự: - Để từ từ đã cô. Con mới về, để con chơi với má con chút đã...

Nguyệt nóng nảy: - Tao muốn đi liền, chứ để nguội tao mất lửa luôn, không nói được!

Phụng đành phải đi theo. Cô sắp sẵn trong đầu kịch bản để nói với nhà chồng chuyện mình có thai mà không sinh. Thậm chí Út Nguyệt còn chỉ thêm cho một mánh nói hiệu quả hơn:

- Mày cứ nói là sinh.. quái thai, nên sau khi sinh xong mày hoảng quá đã nhờ người bỏ đi rồi!

Phụng dè dặt: - Người già họ không chấp nhận vậy đâu. Có lẽ con sẽ nói là sinh con dị hình và vừa ra đời nó đã chết nên bệnh viện cho mai táng giúp rồi!

- Ừ, cứ như vậy...

Tuy nhiên, mọi việc diễn ra sau đó đã làm đảo lộn mọi dự tính của cả hai. Lúc vừa bước vào nhà đã gặp ngay bà chủ Bền. Hôm nay thấy mặt con dâu bà đã cười toe toét ngay: - Dữ không, tưởng mày bỏ luôn cục cưng của tao rồi chứ! 

Phụng ngơ ngác nhìn bà rồi nhìn lại Út Nguyệt, chưa hiểu gì thì chủ Bền lại nói: - Nó dễ thương lắm mày ơi! Tao vốn ghét con nít, vậy mà từ lúc nó về đây tao thương hết biết, bồng ẵm không rời tay!

Bà nói xong quay lại chiếc nôi đặt giữa nhà, bế lên một đứa bé còn trong tháng, vừa nựng nịu:

- Cục cưng của bà nội ơi, con mẹ mày nó hư lắm sinh ra mày rồi bỏ đi luôn, bữa nay mới về! Dậy mà la cho nó một trận đi!

Phụng thảng thốt: - Má nói...

Bà chủ Bền sang thằng bé qua cho Phụng:

- Sinh con dễ thương như vậy mà không chịu về bồng ẵm, cưng yêu nó! May là có nó nên tao tha cho, bây giờ về mà chăm sóc nó đi. Nhưng nhớ, cục cưng của ta à nghen, nuôi không kỹ thì biết tay tao!

Phụng như từ trên trời rơi xuống: - Má nói...?

Út Nguyệt cũng hỏi: - Đứa trẻ này là...

Bà chủ Bền gắt lên:

- Trời ơi, con nó mà nó còn hỏi! Bộ mày điên hả Phụng? Chứ đứa nào sai ẵm nó về đây, nói mày còn phải nằm bệnh viện dưỡng bệnh sẽ về sau. Lúc đầu tao định lên Sài Gòn kiếm mày, nhưng mấy bữa nay mắc ôm cái cục cưng này đâu làm sao đi được!

Phụng ẵm đứa nhỏ trong tay mà chẳng hiểu ra sao, cô đưa mắt nhìn sang cô mình. Út Nguyệt lanh trí hơn, nên nói khỏa lấp:

- Đúng rồi, con Phụng bữa nay mới khỏe... Nhưng ai ẵm đứa nhỏ về vậy? Hay là của ba nó?

- Thì là con của thằng Tường chứ ai! Mà con thằng Tường là con của con Phụng! Bộ cô tưởng thằng con tôi nó năm thê bảy thiếp sao!

Bà quay qua Phụng, cầm bàn chân của thằng bé lên, suýt xoa: - Bàn chân giống thằng Tường như khuôn đúc. Còn cái môi, cái mũi nó giống con như cắt để qua. May cho tụi bây, sinh ra mà không giống đứa nào thì chết với tao.

Phụng nhìn kỹ thì công nhận lời nói của bà không sai, đứa bé trai quả giống cả cô và Tường không chối cãi đi đâu được.

Bà chủ Bền chợt hỏi:

- Về sao không thấy đồ đạc đâu hết?

Út Nguyệt nhanh miệng đáp thay:

- Nhân tiện tôi đưa nó về nhà, để đem qua sau.

Rồi nhân lúc bà chủ không để ý, Út Nguyệt kéo cháu ra ngoài, hỏi nhỏ: - Chuyện này là sao Phụng?

Phụng bối rối:

- Nhiều chuyện quá con cũng không biết sao nữa... Hết thằng quái thai kia, rồi cái thai mắc dịch, và bây giờ lại thằng nhỏ này? Con nghi có thể con rơi của thằng Tường, rồi nó tìm cách đưa về đây để bắt con gánh quá! Nếu vậy thì con sẽ bỏ nhà đi cho Út coi!
Út Nguyệt có được sự bình tĩnh lạ thường trong những trường hợp nguy. Cô suy nghĩ rất nhanh rồi nói:

- Chuyện này rất có uẩn khúc. Để tao tìm hiểu...

Phụng lắc đầu: - Chắc con chịu thua quá Út ơi! Con không còn chịu nổi những rắc rối nữa. Bây giờ không lẽ con phải ôm con người khác mà nuôi sao?

Bỗng từ miệng đứa bé thốt ra mấy lời nghe lạnh cả sống lưng: - Sao lại là con người khác. Con là con của bà đây mà!

Suýt nữa Phụng đã buông rơi đứa bé xuống đất! Út Nguyệt đỡ lấy nó vừa run run nói:

- Không xong rồi, còn nguy hơn cả quái thai nữa!

*             *

*

Thầy Tư Thế không cần nhìn ra cũng đã biết là ai tới. Thầy cất tiếng:

- Tới kịp lúc thì vào đi, còn ngần ngại nỗi gì nữa.

Út Nguyệt nhìn Phụng rùng mình:

- Ông này như có mắt ở ngoài đường vậy?

Chưa đợi hai người bước vào tới nhà, thầy Tư đã nói liền: - Cái họa đã tới rồi phải không? Tôi đã nói rồi, oan gia nghiệp chướng này thì khó mà thoát được nó lắm!

Út Nguyệt mạnh dạn kể sơ qua câu chuyện đã xảy ra. Cô không kể rõ chi tiết, tuy nhiên thầy Tư đã đanh giọng nhắc:

- Cô kể còn thiếu lần có thai sau này của cô kia?

Rồi không đợi Nguyệt đáp, ông nói tiếp:

- Đứa quái thai đã biến mất rồi phải không?

Phụng nhanh nhảu:

- Dạ, nó biến rồi, con mừng quá!

- Thật ra nó không biến, mà chỉ thay đổi hình dạng thôi. Nó là biến thể của cái bào thai mà cô đã phá lúc năm tháng có thai. Nó chết đi và hiện về phá cô, báo oán thì đúng hơn! Nhưng do thấy cô quá sợ và khó lòng sống chung với cô và gia đình chồng, nên nó biến thành cái bào thai bất ngờ làm cho cô hoảng sợ mấy hôm! Chính nó định qua lần có thai lần nữa của cô để ra đời và bắt đầu cuộc báo oán ầm ĩ hơn...

Phụng buột miệng:

- Con đã không còn có thai nữa rồi thầy!

Thầy Tư lắc đầu: - Có thể tự nhiên mà có thai được, bởi đó là mang thai của ma! Nhưng làm sao tự dưng mà hết có thai được.

- Vậy tại sao...?

- Cô đã sinh con mà không biết đó thôi! Con ma thì sinh cũng theo kiểu của ma! Cô vừa sinh non đứa bé đó trong lúc đi vệ sinh mà không hề hay biết. Và đứa bé đó hiện nay đang được bà nội nó nuôi!

Út Nguyệt hoảng hốt: - Vậy ra đứa nhỏ đó...

Thầy Tư trầm giọng: - Bây giờ nó đã lọt vào nhà phú hộ Bền được một cách êm xuôi, được cưng chìu nữa, như vậy coi như cuộc báo oán bắt đầu...

Phụng nói vội:

- Như vậy con có thoát được không thầy?

Ông thầy lắc đầu: - Cô mang tội nghiệt quá lớn thì làm sao thoát được!

Nhà phú hộ Bền do làm giàu bất chánh, từng có ân oán nặng với nhiều người và người ta muốn qua con cháu họ để báo oán. Đáng lý ra cô có thể thoát được, nếu cô không nhẫn tâm giết chết cái thai năm tháng tuổi đó. Bây giờ đứa bé vừa báo oán nhà Tư Bền, mà cô cũng phải lãnh phần. Nhưng do cha mẹ cô ăn ở có đức hơn, nên cô chỉ phải gánh chịu chuyện đứa bé cho đến khi nó được ba tuổi. Khi ấy nhà bá hộ Bền trả nợ xong thì cô cũng được thoát. Cho nên mọi chuyện của cô bây giờ là trở về nhà chồng và chờ cho đến mãn kỳ hạn mà thôi.

Phụng hốt hoảng:

- Cứu con thầy ơi! Con không thể chịu nổi...

Nhưng thầy Tư đã đứng lên, giọng dứt khoát:

- Ta chỉ biết và kể lại cho cô nghe thôi, còn mọi việc là do ở số phận, phúc phận của cô thôi. Về trước khi xảy ra những điều tệ hại hơn...

Ông nói xong bước ra nhà sau rồi mất tăm luôn.

*             *

*

Ba năm sau…

Cả vợ chồng phú hộ Tư Bền đều ngã bệnh và cùng chết một ngày trước sự ngơ ngác của thân nhân!

Khi cậu Hai Tường về thì đáng lẽ phải đau buồn và lo lắng chuyện ma chay, đằng này anh ta lại dửng dưng, phó mặc cho mấy người bà con. Anh ta còn ra lệnh cho người chú họ:

- Chú lo chôn hai người họ xong thì bảo tất cả bà con ở quê lên phải về hết!

Ông chú Tám của Tường bất mãn:

- Bà con anh em người ta lên đây là do hay tin anh chị Tư chết, chứ đâu phải lên để nhờ vả gì đâu!

Nhưng Tường vẫn hách dịch: - Tôi nói là sau đó tôi có chuyện phải làm việc với những quan chức ở Sài Gòn về. Tôi đâu cần nhiều người!

Quá bất mãn với thái độ mất dạy của Tường nên đám bà con thân nhân đã kéo nhau về hết. Cũng may cho họ, chứ nếu họ còn ở lại thì chỉ mất công chứng kiến một chuyện không ai ngờ.

Quả có khách Sài Gòn về thật. Nhưng họ không phải là khách thân thiện, mà họ về là để làm thủ tục tịch biên toàn bộ gia sản của phú hộ Tư Bền. Chính Tường cũng kinh ngạc:  - Tại sao mấy người làm vậy?

Một luật sư đại diện cho phía chủ nợ đã trưng ra các giấy tờ mà nhà này nợ ngân hàng họ. Số tiền quá lớn, đến Tường còn phải thất thần:

- Sao nợ gì mà lớn quá vầy nè?

Vị luật sư nói: - Phân nửa số nợ này là do cậu vay đã mấy năm nay rồi mà chưa trả, nay đã quá hạn.

Tường gân cổ cãi:

- Nhưng hôm nay tôi sẽ tính sổ và trả hết!

Vị luật sư bảo: - Đó là ý của cậu. Còn thực tế thì tài sản nhà cậu đâu còn gì để mà trả. Đây cậu coi.

Tường xem xong sổ sách, giấy nợ, anh thất thần:

- Trời ơi, như vậy mấy ông tính sao với khối gia sản này?

- Tính kỹ rồi, qua đối chiếu thì cả hai số nợ gộp lại thì tài sản này trọn vẹn đủ trả cho ngân hàng. Hôm nay chúng tôi làm thủ tục, yêu cầu anh ký tên.

Tường hét lên như điên:

- Tôi chỉ nợ có một phần, còn lại ai nợ tôi đâu có biết? Sao lại bắt tôi trả hết nợ?

- Như cậu thấy đó, người ký giấy nợ là cha mẹ anh và người được hưởng một phần sau khi ngân hàng tính toán chính là đứa con còn nhỏ của anh. Nó sẽ được hưởng khi đủ tuổi trưởng thành.

Tường bắt buộc phải ký tên vào giấy thanh lý.

Sau đó anh ta phát điên và bỏ nhà đi mà chẳng biết là đi đâu.

Thế là chỉ trong phút chốc thì cả cái gia sản kếtch sù đã biến thành của người khác. Phụng âm thầm bỏ đi, để đứa bé ba tuổi lại với chị vú em.

Lạ một điều là hình như đã biết trước mọi việc, nên thằng bé vẫn bình thản khi biết Phụng bỏ đi.

Nó còn nói như người lớn: - Bà vú cứ ở lại đây với con, rồi bà vú sẽ được đền bù!

Chuyện kết cuộc đúng y như vậy: mười lăm năm sau đứa bé lớn lên và hưởng phần gia tài còn lại. Còn Tường thì chẳng thấy bóng dáng đâu. Có người nói hình như là anh ta điên đi lang thang rồi chết bờ chết bụi ở đâu đó...

Rồi vào một đêm kia, ngôi nhà ngói như cái dinh thự của bá hộ Tư Bền đã bỗng dưng bốc cháy dữ dội vài giờ sau thì cả cái cơ ngơi đó thành tro bụi...

 

 

CĂN NHÀ MA, MA KHÔNG ĐẦU

Chịu trách nhiệm xuất bản:

       BÙI CAO TIÊU

Biên tập:   NGUYỄN CẨM HƯƠNG

Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG

Trình bày bìa: SONG THÀNH

 

In 1.200 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT

Số trích ngang xuất bản: 379-2009/CXB/27-53/ThaH,

In xong và nộp lưu chiểu Quý III năm 2010

.............................................................................................................

- Cập nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

.

0 comments:

Đăng nhận xét