CĂN NHÀ MA - MA KHÔNG ĐẦU
*
CĂN NHÀ MA
(Tác giả: Tam Tang)
Khi còn học ở đại học 4 năm, Tuấn sống với bố mẹ
tại một thành phố thuộc vùng Đông Bắc Hoa Kỳ ! Sáu tháng trước khi tốt nghiệp
cử nhân khoa học về Tin Học (BS in Computer Science,) Tuấn đã gửi đơn xin việc
đến một số các hảng về điện tử (hardware) hoặc về phần mềm (Software) để xin
việc ! Lúc này đang trong thời kinh tế thịnh vượng nên trong vòng vài tháng
Tuấn đã được bốn công ty thâu nhận ! Chàng chọn một công ty làm về phần mềm ở
thành phố North Andover thuộc tiểu bang
Sống ở vùng Đông Bắc này đã lâu nhưng Tuấn vẫn ngại
lái xe trong trời tuyết mùa Đông! Nên khi chấp nhận nhận việc Tuấn phải lo kiếm
nhà để thuê cho gần nơi mình làm, hơn nữa không sống chung với bố mẹ bao giờ
cũng được tự do và thoải mái hơn! Ngặt một nỗi là nhà cửa ở thành phố này rất
đắt và khó kiếm! Đa số là dân trung lưu trở lên và hầu hết dân cư là Mỹ trắng!
Đọc báo tìm nhà để thuê cả gần hai tuần mà Tuấn chưa kiếm ra một căn nào vừa ý
cả!
Thời gian nhận việc đã gần kề nên Tuấn hơi lo là chắc hàng ngày phải lái xe cả gần 100 miles đi tới sở làm! May mắn cho chàng là chỉ một tuần trước ngày vào làm Tuấn thấy báo đăng có một nhà cho thuê phòng! Mừng quá chàng vội gọi điện thoại xin đến coi phòng ngay!
Thật ngoài sức tưởng tượng của chàng, bà già chủ
nhà cho Tuấn hoàn toàn tự do trên lầu hai của căn nhà! Trên đó có đầy đủ tiện
nghi như một căn nhà riêng biệt, gồm hai phòng ngủ, bếp, nhà tắm, và phòng
khách! Chỉ một điều bất tiện nhỏ là phải dùng cầu thang để xuống nhà dưới mới
ra ngoài được! Đó chỉ là chuyện nhỏ nên Tuấn bằng lòng thuê ngay không cần do
dự gì! Căn nhà này chỉ cách chổ làm khoảng 15 phút lái xe thôi! Thật là tuyệt,
dù có bão tuyết Tuấn cũng chẳng lo! Tiền thuê cũng quá rẻ nếu so với các nhà
khác ở vùng này! Hơn nữa nhà chỉ có một bà lão già gần 80 tuổi ở thôi! Bà chủ
nhà ở một mình tầng dưới với một con mèo làm bạn! Người già ít nói và bà này
trông có vẻ hiền hậu nên Tuấn không có gì phải lo nghĩ cả!
Căn nhà cổ này chắc cũng phải dựng trên 100 năm
rồi! Nhà kiểu Colonial, tường gạch, mái thì lợp lại bằng giấy dầu! Chung quanh nhà
là một vườn rộng như một khu rừng với toàn là cây thông và cây maple nên trông
có vẻ âm u lắm! Tuấn rất thích cảnh yên tịnh này!
Ở một nơi mà không phải nghe tiếng ồn của xe cộ,
tiếng la hét của trẻ con trước nhà thì đâu phải là dễ trên cái đất Mỹ này! Tuấn
mượn đỡ tiền bố mẹ mua sắm các thứ cần thiết cho cái "nhà riêng" của
mình!
Chàng dọn nhà vào ngày thứ Bảy ngay trước tuần đi
làm. Ngày đi làm, chiều về nấu đại món gì để ăn! Làm biếng thì mì gói, còn lười
hơn thì trên đường về ghé vào nhà hàng Tàu ăn xong rồi về! Tối đến mở TV xem
vài chương trình hài (comedy shows) rồi đi ngủ! Thứ Bảy đi giặt quần áo và đi
chợ, còn Chủ Nhật lái xe về thăm bố mẹ, tiện thể đi lễ VN và được ăn hai bữa
cơm đàng hoàng với gia đình! Tuấn chưa có người yêu nên chàng chẳng tốn thì giờ
cho việc hẹn hò!
Tuấn cũng như các chàng thanh niên khác, làm việc,
ăn, ngủ và it' để ý đến gì chung quanh mình! Tối lên giường một chút là ngủ say
ngay! Trên này có hai phòng ngủ, Tuấn chọn phòng rộng hơn và cửa mở ngay ra
phòng khách để làm nơi ngủ! Tuấn có thói quen đóng cửa phòng khi ngủ nên dù
sống một mình trên lầu chàng vẫn đóng cửa khi lên giường! Một sáng thức dậy
Tuấn ngạc nhiên khi thấy cửa phòng bị mở toang ra và càng ngạc nhiên hơn nữa là
cái "TV's remote control" lại nằm ở cuối giường chàng! Tuấn không bao
giờ mang nó vào phòng ngủ cả và chàng nhớ là đã đóng cửa khi bước vào phòng đêm
qua rồi! Nhưng phải sửa soạn đi làm nên Tuấn không để ý lâu đến việc này! Nhưng
sáng hôm sau chàng lại thấy cái remote control ở cuối giường và cửa phòng cũng
lại bị mở ra! Chắc có điều gì lạ đây, Tuấn nghĩ, vì sự việc này xảy ra hai ngày
liên tiếp rồi! Tuấn tắm gội, thay quần áo, ăn sơ sài rồi đi làm! Nhưng chàng
bắt đầu để ý đến việc lạ này!
Nói là để ý nhưng Tuấn vẫn ngủ say và hôm sau sự
việc lại đã xảy ra đúng như hai hôm trước! Cái remote control vẫn nằm ở cuối
giường, cửa phòng vẫn bị mở ra! Đêm hôm sau, Tuấn cố thức để rình xem động
tỉnh! Đến nửa đên chàng nghe có tiếng bước chân từ nhà dưới lên cầu thang, rồi
tiếng lịch kịch trong phòng khách! Tiếng bước chân tới lui trong phòng! Rồi yên
lặng một hồi! Tiếng bước chân lại vang lên đi xuống cầu thang! Đợi một lúc
không nghe thấy gì nữa, Tuấn ra phòng khách bật đèn rồi nhìn xuống nhà dưới!
Bên dưới tối om om chẳng thấy gì ! Chàng tắt đèn và trở về phòng và rơi vào
giấc ngủ lúc nào không biết! Lúc thức dậy lại thấy cái remote control đã nằm
chình ình ở cuối giường từ bao giờ! Cửa phòng vẫn bị mở ra như các hôm trước!
Tuấn nghĩ ngay đến bà già chủ nhà! Tiếng bước chân không có vẻ nặng nề, và từ
dưới nhà dưới đi lên rồi lại trở xuống thì còn ai khác vào đây nữa nếu không
phải là của bà già chủ nhà này!
Khi đi làm, Tuấn thấy bà già đang ngồi ăn sáng bèn
hỏi:
- Đêm qua Bà có lên lầu làm gì không?
- Tôi lên đó làm gì! Trên đó tôi đã dành cho cậu
mà! - Bà lão trả lời và Tuấn không hỏi thêm gì nữa!
Cuối tuần đó Tuấn về nhà bố mẹ chơi và thuật lại sự
việc đã xảy ra cho mọi người nghe! Anh em trong gia đình nói chắc là ma đó! Bố
mẹ chàng gạt phăng cái giả thuyết đó đi và cho rằng bà già chủ nhà vì già nên
khó ngủ cho nên đi lại trong đêm cho đỡ buồn thôi! Anh của Tuấn đưa ra giả
thuyết nữa: "Có khi bà già bị bệnh mộng du, nên đêm đêm đi lang thang
trong nhà đó! Em coi chừng đó nghe! Anh thấy trên TV họ nói là có khi những
người mộng du giết người mà chẳng biết gì hết, và họ cũng không bị kết tội gì
đâu vì là bệnh mà!" Tuấn nghe cũng hơi ngán! Không chừng bà già mắc bệnh
đó cũng nên! Điều làm Tuấn run hơn là bà ta đêm nào cũng vào phòng chàng và để
lại cái remote control ở cuối giường! Lỡ hôm nào bà ta mang theo con dao vào
thì thật là họa lớn! Tuấn quyết định tìm cho ra lẽ việc này!
Trở về nhà, đêm đó chàng uống mấy ly cafe thật đậm
với dụng tâm thức tỉnh để rình! Tuấn khép hờ cửa và nằm giả vờ như đang ngủ.
Đến khoảng 11:30PM chàng nghe tiếng cửa bị đẩy từ
từ mở ra! Một làn hơi lạnh chạy rần trên xương sống của Tuấn! Tuy run chàng vẫn
hướng mắt về phía cửa! Cánh cửa mở ra chừng 3 tấc rồi ngừng tại vị trí đó! Tuấn
cố nhìn nhưng không thấy ai cả! Tuấn vẫn nằm yên hồi hộp chờ đợi coi việc gì sẽ
xảy ra! Nhưng trong phòng vẫn yên ắng!
Qúa căng thẳng Tuấn ngồi bật dậy! Tuấn hoảng hốt
khi thấy một bóng đen nhỏ phóng vụt ra ngoài qua khe cửa, và có tiếng kêu tiếng
kêu "Meo, meo!" vang lên! Thì ra là con mèo mun của bà chủ nhà lẻn
vào! Tuấn đã làm nó hoảng hốt cũng như nó làm chàng xanh cả mặt mày! Tuấn định
thần và thở phào nhẹ nhỏm, miệng lẩm bẩm một mình: "Con mèo quỷ, làm tao
hết hồn!" Tuấn ra đóng cửa lại rồi nằm nghe ngóng tiếp nhưng không thấy
gì, và chàng rơi vào giấc ngủ lúc nào chẳng biết!
Sáng dậy, cửa phòng vẫn bị mở toang ra và cái
remote control lại đã nằm ở chổ cũ từ bao giờ!
Đúng không sai rồi, bà già và con mèo của bà ta
hàng đêm vào phòng Tuấn chứ chẳng còn ai vào đây nữa! Điệu này chắc phải đi tìm
nhà khác thuê thôi! Ở đây biết đâu có ngày bà già xách dao lên lụi thì uổng
mạng!
Bị ám ảnh với cái tâm trạng đó Tuấn hơi hoang mang
trong lòng! Đêm hôm sau lúc đang nằm mơ mơ màng màng, Tuấn nghe thấy tiếng chân
bước lên cầu thang, rồi thấy tiếng mở cửa phòng! Chàng nhìn ra thì thấy bà già
đang từ từ bước tới giường chàng đang nằm với dáng điệu của kẻ vô hồn! Đến bên
giường bà lão giơ cao con dao trong tay lên rồi đâm phập xuống ngực Tuấn!
Tuấn thất thanh la lớn lên và bật ngồi dậy! May
thay đó chỉ là một cơn ác mộng! Tuy thế Tuấn cũng toát mồ hôi lạnh khắp người!
Trong khi để ý tìm nhà mới, hàng đêm trước khi đi
ngủ Tuấn dùng cái ghế chèm dựa vào tay vặn của ổ khóa để người ngoài không thể
mở đẩy cửa vào được! Tuấn vẫn nghe tiếng chân lên xuống cầu thang hàng đêm, và
có một một điều lạ là dù cửa phòng không bị mở ra nhưng mà cái remote control
vẫn nằm ở nơi cuối giường mỗi sáng.
Bà già dù có bị mộng du đi nữa cũng không có thể
nào vào phòng Tuấn rồi trở ra được mà không gây ra tiếng động được! Đàng này
cái ghế vẫn ở nguyên vị thế khi Tuấn gài lúc đi ngủ!
Tuấn tìm trong cái tủ (closet) xem có cái cửa bí
mật nào thông với phòng khác không! Không có cái nào cả! Bà già không thể nào
mò vào phòng bằng cách xuyên qua tường được! Chắc là do ai đó! Mà ai đó có thể
xuyên qua cửa đóng để vào thì không thể là người thường được! Tuấn tránh không
nói đến từ "MA" để khỏi tự hù chính mình!
Ít ngày sau, trong một đêm mưa gió mịt mùng ngoài
trời! Tuấn lên giường trể sau khi xem một trận bóng rổ giữa hai đội LA Lakers
và Chicago Bulls!
Đang nằm mơ màng thì linh tính như báo cho chàng
biết có ai đang nhìn mình!
Tuấn mở mắt ra và thấy một bóng dáng nhỏ nhắn mờ mờ
đứng phía cuối giường! Bóng của một bé gái khoảng 12 hay 13 tuổi, mặc bộ đầm
xanh lá cây có in các hoa hồng to, áo kiểu thời thế kỷ 19! Cô bé nhìn Tuấn với
đôi mắt buồn buồn, tay cô cầm cái remote control đang định đặt xuống giường!
Tuấn hoảng quá thét to lên! Bóng cô bé từ từ mờ dần
rồi biến mất! Cái remote control rơi xuống sàn gây ra một tiếng động khô khan!
Tuấn phóng xuống giường chạy bay ra cửa, kéo ghế mở
cửa ra, và nhào xuống tầng dưới đập cửa phòng bà già cầu cứu!
Bà già chủ nhà mở cửa mắt còn chớp chớp cho tỉnh
ngủ:
- Cái gì thế?
- Baaà aaà! Cháu... cháu thấy có người trong phòng
cháu!
- Tào lao nè! Ai mà vào đây làm gì!! Thôi đi ngủ đi
!! Trai tráng gì mà nhát gan quá vậy!?
Tuấn không biết nói gì hơn đành trở lên lầu, bật
đèn sáng trưng và coi TV chờ sáng! May cho chàng vì hôm sau là thứ Bẩy không
phải đi làm Sáng đến, Tuấn lái xe về và thuật lại chuyện cho mẹ chàng nghe! Mẹ
chàng nghiêm giọng nói:
- Đúng là ma rồi không sai vào đâu nữa ! Hãy dọn
tạm về đây ở đi, đợi khi kiếm được nhà mới rồi dọn đi nghe con!
- Con cũng tính vậy đó! Con ngán ở lại cái nhà đó
quá!
Thế là Tuấn về lấy các thứ cần dùng và báo cho bà
chủ là chàng sẽ dọn nhà đi vào cuối tháng này! Đầu tuần sau khi vào sở Tuấn
mang chuyện này nói với các bạn đồng nghiệp. Có mấy người lớn tuổi là dân kỳ
cựu ở vùng này! Họ hỏi:
- Có phải cái nhà cổ xưa nằm một mình trong khu
rừng thông, và chủ nhà là một bà già không ?
- Đúng đó! Tôi thuê ở đó mới được gần một tháng
thôi!
- Nhà đó có ma ! Ai ở vùng này đều biết hết ! Vì
thế bà ta cho thuê rẻ rề mà cũng chẳng ai giám ở cả ! Công nhận cậu gan thiệt
đó nghe chưa ! _ Họ diễu tôi rồi cùng nhau cười.
- Tôi đâu có biết gì đâu! Thấy nhà rẻ mà rộng rãi
nên thuê ngay thôi!
- Giỡn chơi với cậu thôi! Nhà đó bị ma ám lâu lắm
rồi! Người ta đồn là năm 1886, cô bé gái con của người chủ nhà bị đạn lạc qua
cửa sổ chết ở trong một phòng ngủ trên lầu! Từ đó cô ta hay hiện về đi lên đi
xuống cầu thang! Cô ấy tuy chẳng nhát chết một ai nhưng mà cứ nghe tiếng chân
lên xuống cầu thang trong đêm tối cũng đủ làm người ta kinh hoàng rồi! Hình như
cô ấy vẫn lưu luyến căn nhà hay cỏi trần này thì phải! Cả trăm năm rồi mà vẫn
cứ ở trong căn nhà đó! Căn nhà đó được truyền cho con cháu trong nhà và không
thấy họ than phiền gì cả ?! Có lẽ họ quen rồi và cô bé cũng không chọc phá gì
họ chắc!
- Tôi dọn về nhà bố mẹ tôi ở tạm rồi! Đợi thuê được
nhà mới sẽ dọn đồ đi !
Cuối tháng đó Tuấn dọn đến căn nhà mới thuê, một
cái town house gần phố, tuy phải trả tiền thuê gấp đôi so với căn nhà cũ nhưng
nơi này yên ổn chẳng có ma quỷ gì hiện ra hết! Đến bây giờ mỗi khi có dịp lái
xe qua căn nhà cổ đó Tuấn vẫn thấy có một hơi lạnh chạy dài theo xương sống của
chàng!
XÁC AI TRONG QUAN TÀI
(Tác giả: Người Khăn Trắng)
Buổi tối đêm ba mươi, trời tối ngửa bàn tay không
nhìn thấy, nên bác Ba chủ nhà gọi con gái:
- Đốt cho ba cây đèn coi, con út.
Lát sau cây đèn dầu loại lớn được mang lên đặt giữa
bàn. Quanh bàn đã có năm người, nhìn một lượt, bác Ba ngạc nhiên hỏi:
- Ủa, thằng Sáu Sự đâu không thấy?
Một người lên tiếng:
- Hồi nãy nó nói mình nhậu nhưng ít mồi quá nên nó
xách chĩa ra đồng kiếm vài con ếch về nướng.
- Có lý à nghen!
Vừa lúc đó đã có tiếng từ sau vườn vọng
tới:
- Mấy cha ở đó nói dóc hoài, chẳng ai đi kiếm mồi
hết!
- Thằng Sáu Sự về kìa!
Sự bước vô với xâu ếch khá nặng. Bác Ba
khen:
- Thằng giỏi đa! Tao mà còn con gái lớn cũng dám gả
cho thằng này lắm a!
Sự chỉ vô trong:
- Còn chớ sao không, bác Ba.
- Hết rồi mày. Con Tư tao gả gồi năm ngoái, giờ chỉ
còn con út, nó mới có 15 tuổi...
Ai đó nói thêm:
- Thằng Sự giỏi làm, kiếm chừng vài chục giạ lúa là
nuôi con út đủ lớn gồi, lo gì chú Ba!
Mọi người cười ồ, chợt Út chót bước ra với dĩa khô
nướng, miệng chẩu ra:
- Ai thèm lớn!
Chú Ba điểm mặt từng người:
- Đứa nào muốn có mồi nhậu bữa nay thì đừng có lộn
xộn với nó!
Lại một tràng cười nữa vang lên. Sáu Sự xách xâu
ếch đi thẳng ra nhà sau định cùng làm với Út chót thì bị phát hiện, nhiều người
cùng la lên:
- Bác Ba làm trọng tài mà thiên vị quá, ai
chịu!
Chú Ba trợn mắt:
- Ai thiên vị ai tụi mày?
- Thì chú thiên vị thằng Sáu Sự. Nó ỷ kiếm được mồi
rồi rút ra sau bếp làm với cô Út, sướng quá vậy!
Chú Ba cười khì:
- Nó bắt được ếch đem về thì cùng làm với con Út là
hợp lý, chớ còn sao nữa? Hổng lẽ cả bọn bây đều muốn xuống bếp sao,
hả?
Họ đồng thanh: - Thà cùng xuống, cùng
làm, vậy mới công bằng.
- Thôi đi mấy ông con, cái bếp có chút xíu, cả đống
cùng xuống cho nó sập nhà sập cửa người ta!
- Vậy thì phải xí xùm thôi, ai thắng thì được làm
ếch cùng Út, ai thua thì ngồi đây chờ ăn.
- Ờ, nghe cũng có lý, vậy kêu thằng Sự lên
đi!
Chợt chú Ba lên tiếng:
- Tao có ý này hay hơn. Thằng Sự mày lên đây tao
nói.
Chờ mọi người đông đủ, chú bảo:
- Ở trại đóng hòm phía sau nhà tao đang có sáu
chiếc quan tài vừa đóng xong, vậy lần lượt sáu thằng bây có dám ra ngoài đó
không?
Họ đều là thợ mộc, chuyên đóng quan tài gia công
cho nhà chú Ba, vậy thì việc cỏn con này đâu có gì là ghê gớm...
Sáu Sự cười to:
- Chú Ba không nhớ là có lần trời lạnh quá con còn
chui vô đó nằm rồi ngủ quên hay sao. Nhằm nhò gì chú!
- Việc ban ngày ban mặt tụi bây là làm ngoài đó thì
khác, còn bây giờ là đêm tối. Tao đố sáu thằng bây, mỗi thằng cầm một cây đèn
cầy ra đặt vào trong quan tài rồi vô đây, đèn của ai không tắt và đặt đúng tâm
điểm nhất thì người đó thắng cuộc, tao sẽ xem xét để mai mốt gả con Út cho đứa
đó!
- Dễ ợt!
Sự dành đi trước và được mấy người kia đồng tình.
Anh cầm theo đèn và tự tin bước ra phía sau. Xưởng mộc cách nhà ở khoảng năm
mươi bước chân buổi tối không thắp đèn nên khi ánh nến rọi vào nhìn thấy những
chiếc quan tài nằm san sát bên nhau, nếu ai yếu bóng vía ắt phải rùng mình.
Nhưng đã quá quen, nên anh đi thẳng tới chiếc quan tài trong cùng, để chứng tỏ
mình không sợ, rồi bình tĩnh giở nắp quan tài ra, đặt cây đèn vào giữa tâm điểm
và lùi bước.
Đi qua một, hai, đến cái quan tài thứ ba thì chợt
có một bàn tay mềm mại, lạnh như băng từ trong nắp áo quan thò ra và nắm chặt
lấy Sự!
Sáu Sự chưa kịp có phản ứng gì thì đã bị kéo ghị về
phía quan tài. Sức kéo của bàn tay nhỏ nhắn kia vậy mà mạnh đến đỗi Sự bổ nhào
và rơi tõm vào bên trong chiếc quan tài đã mở nắp sẵn!
Sự không còn hay biết gì nữa.
Ở trong nhà mọi người chờ. Năm phút, mười phút rồi
gần hai chục phút…
Sốt ruột quá nên có ai đó nói:
- Thằng này sợ quá dám trốn về nhà luôn lắm
a!
Chú Ba có vẻ bênh Sự: - Thằng trời đánh bảy
búa không chết như nó thì sợ gì. Chắc là…
Chờ đến nửa giờ vẫn không thấy Sự trở ra, lúc ấy
mỗi người một cây đèn, cùng chạy ra xưởng mộc. Họ nhìn thấy cây đèn cầy vẫn còn
cháy, nhưng không thấy Sự đâu. Chợt có người kêu lên:
- Có cái gì ló ra từ quan tài này nè!
Mọi người nhìn thì thấy chiếc quan tài thứ ba ló ra
một vạt áo trắng. Chú Ba có linh tính chẳng lành, chú nhanh tay kéo nắp áo quan
ra và mọi người đều kêu lên: - Thằng Sự!
Sáu Sự nằm im trong quan tài, trên mình còn phủ một
chiếc áo phụ nữ tỏa hương thơm phức!
Cũng may, sau khi được trở vô bệnh viện, Sự được cứu
sống. Tuy nhiên kể từ lúc ấy đầu óc Sự không còn được bình thường như trước.
Vừa mở mắt ra, Sự đã hốt hoảng chụp vào khoảng không, kêu gào rất lạ:
- Nàng đâu rồi, nàng ở đâu? Kìa, hãy lại đây cùng
ta… lại đây đi.
Bà Hai, mẹ của Sự lo sợ gọi con:
- Má đây con. Má đây.
Nhưng hầu như Sự không còn nhìn thấy ai, mắt hướng
về khoảng không như tìm kiếm ai đó. Và bất ngờ, như vừa nhớ ra, Sự gọi
to:
- Thắm ơi!
Ai nấy đều ngơ ngác, bởi đâu biết Thắm là người
nào? Còn Sự, sau khi kêu, anh nhảy xuống đất và chạy bay ra cửa, rồi cứ thế mà
cắm đầu chạy như điên. Những người đuổi theo phía sau chẳng tài nào đuổi
kịp. Sự chạy về hướng Tây, hết xóm nhà đông đúc, cuối cùng rẽ vào
một đường vắng rất ít nhà cửa. Tuy nhiên, như có lực vô hình nào đó đưa đường,
Sự quẹo vào ngõ một ngôi nhà ngói ba gian nằm lọt giữa những hàng cây um
tùm.
Người trong nhà bước ra hỏi:
- Anh kiếm ai?
Sự đáp rất ngang tàng:
- Thắm đâu?
Người nhà vừa hỏi là một phụ nữ trung niên, vừa
nghe Sự hỏi tên Thắm đã quay vào trong gọi lớn:
- Chị Tươi ra coi nè!
Người đàn bà lớn tuổi hơn, chừng như là chủ nhà, từ
trong bước ra nhìn Sự từ đầu đến chân, cất tiếng hỏi:
- Cậu kiếm ai?
- Thắm đâu? Kêu Thắm ra đây cho tôi, tôi cần gặp
Thắm!
Bà chủ nhà trợn tròn mắt nhìn Sự, trong lúc người
phụ nữ còn lại thì bước lui mấy bước, vẻ sợ hãi.
Thấy họ chưa trả lời, Sự lại la lớn:
- Đưa Thắm ra đây cho tui!
Và không kiên nhẫn nữa, anh ta đi thẳng vào nhà.
Lúc này bà chủ nhà vừa bước lui vừa kêu lên:
- Ông ơi, ra coi ma quỷ gì đây nè!
Tuy gọi vậy nhưng bà thừa biết giờ ấy ông chồng đâu
có mặt ở nhà. Sự chẳng màng đến sự kêu la hoảng hốt kia, anh bước gần hơn đến
chỗ chiếc bàn thờ và nhìn lên đó, một bức ảnh chân dung... hình của Thắm đặt
trên đó!
Trước sự bất ngờ của hai người đàn bà, Sự nhảy tới
chụp lấy bức ảnh thờ rồi ôm chặt vào lòng như ôm người thân thương của
mình!
- Thắm ơi, anh tìm được em rồi, hãy về nhà với anh,
má đang đợi, mọi người đang chờ để dự lễ cưới của tụi mình!
Người phụ nữ nhỏ tuổi lùi sâu vào trong, ôm chặt
người kia, giọng như lạc thần:
- Gặp ma quỷ rồi chị Tươi! Lạy đi, nhanh
lên!
Hai người cùng sụp xuống lạy lấy lạy để. Trong lúc
đó, thì Sự cứ ôm khư khư tấm ảnh của Thắm và lui bước đi ra
ngoài...
Bà Hai, má của Sự và khoảng gần chục người nữa đi
theo gần rụng giò mà vẫn không theo kịp Sự. Anh chàng cứ chút chút lại quay lại
nói:
- Ráng chút nữa đi, sắp tới nhà rồi đó.
Cuối cùng họ tới trước cổng ngôi nhà ngói ba gian
mà hôm qua Sự đã lấy bức ảnh đem đi.
Sự giục:
- Vô nhà đi, đàng gái đang đợi!
Trong nhà vừa trông thấy Sự đã hốt hoảng, may là
hôm nay có đàn ông ở nhà. Ông chủ nhà Tư Toàn đứng chận ngang cửa hất hàm
hỏi:
- Cái cậu ngang tàng kia, bữa nay tính tới quậy nữa
hả?
Chợt nhìn thấy Chú Ba chủ trại hòm cũng có mặt
trong đoàn khách. Tư Toàn reo lên:
- Ủa, anh Ba đi đâu vậy?
Nhìn thấy mọi người với mâm, quả trịnh trọng.
Tư Toàn ngơ ngác:
- Sao có chuyện này?
Lúc này chú Ba mới lên tiếng:
- Thằng Sự con chị Hai đây là người làm công cho
tui, bữa nay nó một hai nói má nó phải đem lễ vật đến đây hỏi vợ cho nó. Tui
đâu ngờ là nhà anh.
Vợ Tư Toàn chỉ mặt Sự nói:
- Ngày hôm qua chính thằng này tới đây ăn cắp tấm
hình thờ của con gái tui chạy đi, chớ cưới hỏi gì!
Mẹ của Sự ngơ ngác: - Chuyện đó là
sao?
Tư Toàn bình tĩnh hơn, mời mọi người vô nhà rồi mới
kể:
- Con gái tui tên Thắm, nó chết hồi năm năm trước
lúc vừa tròn mười tám tuổi. Tui chỉ có mình nó, chớ còn đứa nào nữa đâu mà gả
với cưới.
Sự vẫn mang bức ảnh thờ theo, vừa chỉ vào ảnh vừa
cười nói:
- Vợ người ta ở đây mà mọi người lại độc ác nói là
chết, chết chỗ nào?
Chú Ba liền thuật lại chuyện Sự chẳng biết thế nào
mà nhảy vô quan tài rồi ngất đi trong đó cho chủ nhà nghe...
Vừa nghe xong Tư Toàn kêu lên:
- Dám từ chuyện đó lắm!
- Anh Tư nói vậy... là sao?
Tư Toàn kể:
- Cách đây vài tháng, chỗ chôn con Thắm nhà tui bị
ngập nước. Mộ bị sạt lở, nên tui cho bốc mộ, đổi sang quan tài khác, đem mai
táng ở chỗ gò cao hơn. Nghe nói có mấy người thợ đào mộ đã lấy chiếc quan tài
cũ đem bán cho một trại mộc nào đó và do áo quan lúc chôn con gái yêu của tôi,
tôi đã đóng bằng ván loại tốt, lại dầy gấp đôi ván thường, nên có thể thợ mộc
nào đó đã xẻ mỏng ván ấy ra rồi đóng thành hai cái quan tài đem bán! Tui nghi
chắc là như vậy. Bởi tui nghe nói hễ dùng áo quan cũ mà chôn người mới là sẽ có
chuyện...
Trong chuyện này chỉ có chú Ba là rõ. Nghe kể chú
muốn lên tiếng xác nhận nhưng ngại nên chỉ im lặng. Thật ra đúng là
mấy tháng trước chú có mua của một người buôn gỗ gần chục miếng gỗ gõ mun cũ
nhưng còn rất tốt và đem về xẻ ra để... đóng hai chiếc quan tài mới! Mà một
chiếc tối đó Sự đã ngã vào...
Tư Toàn trầm ngâm một lúc rồi nhìn sang Sáu
Sự: - Chú em này chắc là bị con Thắm nhà tui nhập về hoặc là bị nó ám sao
đó…
Một người trong đoàn đi rước dâu khá rành chuyện
này, cũng xác nhận:
- Nhẹ thì bị hành xác, đau ốm, còn nặng như thằng
Sự đây thì bị hồn người chôn trong quan tài trước ám suốt đời cho đến khi nào…
chịu làm đám cưới mới thôi.
Bà mẹ Sự hỏi lại: - Cưới ai?
- Thì cưới người chết đó chớ cưới ai nữa. Như thằng
Sự đây thì cưới... con nhà này!
Chuyện nghe cực kỳ vô lý, nhưng cuối cùng cả hai
bên đều đồng ý cho tiến hành hôn lễ!
Tất nhiên chỉ là hình thức. Nhưng cũng có đủ lễ lạy
bàn thờ tổ tiên, lạy người sống và trao quà cưới, lễ rước dâu. Tất cả đều chỉ
một mình chú rể Sáu Sự đóng vai. Trong lễ rước dâu, lần đầu tiên người ta thấy
cô dâu đi bên cạnh chú rể chỉ là... bức ảnh chân dung!
Lạ một điều là kể từ sau “lễ cưới” đó, Sự lại tỉnh
táo như trước. Mọi người ai cũng mừng. Chỉ có cô Út con chú Ba là hơi buồn.
Hiểu ra mới biết, dù âm thầm nhưng Út đã có cảm tình với anh chàng Sáu Sự thật
thà như đếm kia. Phải chi không có chuyện oái oăm đêm đó thì…
Cô Út ngồi khóc một mình...
MA KHÔNG ĐẦU
(Tác giả: TCHYA)
Tôi dụi mắt ngắm kỹ một lần chót nữa. Quả nhiên,
cũng như cảnh tượng vừa hiện ra lúc tôi mới đến, tất cả sự vật chung quanh mình
tôi cứ tựa hồ như chứa đầy một vẻ bí mật thiêng liêng rùng rợn, một vẻ bí mật
mà hình như rõ rệt tôi đợc mục kích càng làm cho dữ dội nặng nề.
Hiện trạng đương phô bày trên mái đồi kia, trớc mắt
tôi không xa mấy, dưới ánh nắng vàng đỏ của buổi chiều tà, hiện trạng đó có quả
thực là một hiện trạng hay không, hay chỉ là một hình ảnh mơ hồ mà đôi mắt
quáng của tôi lầm tưởng là một bức tranh kỳ quặc tôi phân vân không biết tự đáp
thế nào. Ngắm đi ngắm lại, rồi lại dụi mắt, dụi mắt xong lại nhìn, tôi hết sức
nghiền ngẫm cho chắc chắn, cho kỳ mối ngờ vực của tôi thành hẳn ra ngờ vực,
hoặc biến thành một tín ngưỡng sâu xa. Nhưng... có lẽ nó hóa ra tín ngưỡng mất.
Vì, chỉ cách tôi bảy tám cột đèn, nghĩa là non hai
trăm thước, giữa ban ngày, sự lạ lùng hiện ra cho tôi trông thấy vẫn không hề
biến đi, mà cũng không thay đổi. Sự ấy thực là một kỳ quan độc nhất vô nhị, một
sự tối vô lý mà mình phải tin là thật, nhưng cũng có khi ngờ là giả dối, mơ hồ.
Cứ lấy con mắt hết sức chú ý nhìn, thì sự đó vẫn không trốn tránh tính tò mò
hiếu sự của ta; song, hễ khi nào ta dùng đến một vật gì để đi gần lại trường
hoạt động của nó, thì nó biến vụt ngay nh làn khói bị gió lùa. Hoặc ta tìm cách
đi lại gần chân đồi, còn độ hai ba cột đèn sẽ tới nơi, trông lên không thấy gì
nữa cả; hoặc ta đem lên mắt một cặp ống nhòm để phóng đại trưởng quan sát,
phong cảnh càng to ra bao nhiêu thì hình như ta muốn thấy mờ đi bấy nhiêu, có
khi hóa thành trong vắt như kính, nghĩa là không có hình sắc nữa.
Bằng cứ chịu khó đứng xa mà ngắm nhìn thì dẫu ngắm
chán mắt, sự kỳ quặc kia cũng vẫn hiện ra cho mình trông thấy, hiện ra một cách
nửa rõ rệt, nửa mơ hồ lạ lùng khó tả quá! Nhưng không phải ngày nào, giờ nào,
bất cứ lúc nào, ta cũng có hạnh phúc được nhìn nó. Nó chỉ thoát khỏi cõi âm trở
về cõi dương một năm có vài kỳ, mỗi lần sự biến thiên của khí hậu gợi cho nó
nỗi nhớ tiếc một thời oanh liệt thủa xưa.
Sự biến thiên đó họa hoằn mới xảy ra; ấy là một
điều tối không may cho những khách tò mò hiếu sự. Như tôi chả hạn. tôi đã phải
dằn lòng gắng sức đợi đến ngót tháng trời mới đợc trông thấy hình bóng tôi muốn
thấy; nào phải đâu là sự dễ dàng.
Cảnh tượng dị kỳ tôi đã được mục kích, nó là hai
con ma, hai cái oan hồn uất ức của hai kẻ chịu tử hình, lâu ngày không tiêu đi
được tụ lại thành bóng, hấp thụ mãi khí thiêng liêng của trời đất, nên mỗi khi
bị hoàn cảnh xúc động đến là hiện được lên ngay, hiện lên để diễn lại một tấn
trò mà xưa kia, hai oan hồn đó thường diễn những giờ cao hứng.
Phàm giả người ta, trong buổi sinh thời, có một thú
gì mình yêu nhất, mê nhất, một thú gì làm then chốt cho tất cả bao nhiêu tính
hình dục vọng của mình, một thú gì mình đã biết hưởng và đã đặt trên tất cả
những khoái lạc của cuộc đời , thì nhiều lúc, sau khi đã lìa bỏ cõi tục rồi,
vẫn còn nhớ tiếc đến thú ấy luôn luôn chỉ ngong ngóng chờ có dịp hưởng lại là
chộp lấy ngay, không bỏ sót.
Cũng bởi cớ đó nên một khi thi nhân đã chết, hồn
thi nhân còn muốn ngâm thơ, một khi nhạc công đã chết, hồn nhạc công còn muốn
gảy đàn. Câu thơ của Đường Vương Bột văng vẳng trên dòng sông Lạc, liệu đàn cua
Sư Quyên véo von trên mặt sông Bộc chẳng phải là những chứng cớ rõ ràng cho
thuyết ấy hay sao?
Mà nhất là khi kẻ bị thác lại là người mệnh bạc, vì
nghiệp chướng mà chết oan, chết yểu, bất đắc kỳ tử hay bị nhục hình, thì một
điểm linh hồn bay phiêu diêu trong gầm non nước không tài nào siêu linh tịnh độ
được, cứ mập mò khi tan khi tụ, bơ vơ trôi dạt, không đâu là bến là bờ. Điểm
linh hồn đó vẫn còn nhớ rõ rệt cuộc sinh hoạt mình vừa trải, vẫn còn đầy dục
vọng và tình cảm, nhưng chỉ vì không có xác vật chất nên khó lòng diễn được dục
vọng và tình cảm đó mà thôi. Nhiều linh hồn còn muốn sống thêm nữa trên cõi thế,
bởi chưa dứt hẳn trần duyên, còn muốn vẫy vùng nữa, ganh đua nữa cùng người đời
cùng tranh đấu cho tới cùng. Có linh hồn thì một khi thác đã tỉnh ngộ ra, bay
lên một gầm thiêng liêng cao sạch để ngao du, tịnh dưỡng. Những linh hồn đó
không mấy khi trở lại nữa, một đi, đi chẳng trở về. Còn như các linh hồn bi
nghiệt duyên dục vọng buộc chặt với cuộc sinh hoạt của loài người. thì chúng
thường thường bay vẩn vơ quanh quẩn bên mình ta, trông ta một cách ham muốn
thèm thuồng, chỉ đợi có dịp tốt là trở về sống chung lại với ta, dẫu rằng trong
một phút.
Mỗi khi có đàn tràng cúng tế, là chúng lần mò cùng
đến, để rồi chóp lộc cúng cơm, mỗi khi có kẻ ngồi đồng, hay có kẻ thần hồn bị
suy nhược là chúng ám vào người để được cử động quay cuồng cho đắc ý. Lại những
lúc có cuộc thi hội, thi hương, thì chúng tụ họp cả ở cửa trường, để đợi gọi
đến thì ùa vào mà báo ân báo oán.
Nói ra không hết được; ta chỉ biết bởi cớ có nhiều
âm hồn còn muốn sống nữa, nên có khi xảy ra những chuyện kỳ dị mà, nếu mắt ta
không đợc quan sát thì ta vội cho là hoang đường. Song le , nêu ta chịu khó bỏ
hết cả các thành kiến, nếu ta chịu lưu tâm suy xét đôi chút đến nhẽ huyền vi
của máy âm dương, ta sẽ nhận thấy rõ là không có sự gì hoang đường cả. Trên đời
chỉ hoàn toàn có sự thực mà thôi, cái gì có thể xảy ra được đều là thực cả.
Chỉ có một điều, là không phải ma nào, oan hồn nào
cũng hiện lên được cả. Ma muốn hiện hình tất phi đủ tư cách, phải ở trong những
trường hợp không bị ngăn trở mới biến hóa được. Tỷ như vàng muốn biến hóa ra
nước tất phi nấu lên ngoài ngàn độ, sự biến từ thể nọ sang thể kia có phải bất
cứ trường hợp nào cũng xảy ra đâu?
Cho nên, ma có thể hiện hình được, trước hết cốt
phi thiêng, mà muốn thiêng, thì theo như sự chúng ta cùng biết, phải có một vài
điều kiện. Một là chết đúng giờ. Hai là chết trẻ, mà chết một cách thê tham dữ
dội. Ba là chết oan. Bốn là được chôn ở chỗ đất có mạch. Năm là phải hấp thu
được khí thiêng của trời đất.
Phi mấy điều kiện ấy, thì chỉ là một mảnh hồn yếu
ớt, phất phưởng, khi tán khi tụ, bay là là vô định trong gầm vô định mà thôi.
Mà có được cả mấy điều kiện vừa kể, cũng phải tùy từng buổi, từng chỗ, từng
thời, mới hiện lên được. Ngày xưa, lúc văn minh Âu Mỹ chưa tràn sang bên cõi Á
Đông, lúc máy móc chưa rầm rộ chạy dưới gầm trời Trung Hoa và Nam Việt, thì các
chốn thị thành không đông đúc lắm, các đường sá không mở mang nhiều, những chốn
hoang vu lạnh lẽo nhiều hơn những chốn phồn thịnh, mà sự tối tăm cũng lâu hơn
sự sáng sủa vì đêm không có đèn điện rọi đường; bới thế nên trong một hoàn cảnh
lặng lẽ đìu hiu khí âm tràn ngập cả non sông mà phủ trên cuộc sinh hoạt của
loài ngời, khiến dương khí không có thể hưng thịnh lên được.
Nhưng, sau một cuộc suy vong, khí dương lại dần dần
hăng hái, nó từ cõi Âu Tây tràn sang Đông Á, khiến cho các sự vật thay đổi cả.
Máy móc ngày nào cũng rầm rộ, xe pháo ngày nào cũng xôn xao, đêm thì đèn sáng
như ban ngày, ngày thì ầm ầm như chợ, lúc nào cũng có kèn có trống, có âm nhạc
hùng hồn; mà người thì, bị hoàn cảnh run rủi, cũng ưa múa may quay cuồng hoạt
động cạnh tranh, hơn là nhàn cư mà tĩnh dưỡng.
Cuộc sống ồn ào đã đánh tan âm khí, ma thiêng phi
bạt đi xa. Những linh hồn, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng khó lòng hiện lên được vì
khí dương mạnh quá. Có lẽ các ma thiêng đều chạy cả về những chốn đồng rừng xa
vắng, ở lẩn lút trên đồi, trên ải, không còn hy vọng gì phảng phất ở những đô
thành.
Chả bù với thời thái bình êm ái thủa xưa: đâu đâu
âm khí cũng đều vượng cả, muốn rong chơi chỗ nào cũng được, không bị một mãnh
lực gì ngăn cản, đánh tan đi. Thủa đó, người âm phủ với người dương gian nào có
xa nhau mấy: ông Bồ đã vì sự người với ma hay chung chạ mà viết nên pho truyện
Liêu Trai. Đến thời này, Liêu Trai đã hóa ra một cuốn truyện hoang đường vô lý!
Cho hay ma cũng có thời!
Tôi có lẽ còn được nhiều hạnh phúc hơn Bồ tiên sinh
là tôi đã được thấy ma hiện hình giữa ban ngày, trong thời đại bây giờ, lại ở
một nơi không cách xa đô thành phồn nhiệt mấy. Đó thực là một sự lạ; và, cũng
vì sự lạ đó, tôi mới chép nên câu chuyện này, khiến các bạn cùng được như tôi,
thưởng thức một chuyện thần linh, gọi là những lúc thanh nhàn, quên được cuộc
vật lộn quay cuồng mà ngày ngày ta phải dấn thân vào để kiếm cách mưu y mưu
thực.
Thì đây, câu chuyện thần linh.
Hôm đó, cách đây chừng khoảng hai năm, tôi về vùng
Lúc ấy, vào khoảng bốn giờ. Trời tháng qui hạ, nồng
nực lắm, tuy sắp sang thu mà cũng vẫn còn oi. Tôi đến lúc một giờ chiều, ngồi
hàn huyên với bạn đã ba giờ có lẻ. Lúc tôi đến, trời nắng chang chang như lửa
đốt, nhưng khi vào nhà bạn được hơn một tiếng đồng hồ thì trời bỗng đâu sa sầm
mặt lại; mây đen bốn bề rầm rộ kéo đến, rồi sấm chớp nối tiếp nhau xé toạc
quãng không gian bằng những tiếng nổ ầm ầm và những luồng quang tuyến sáng xanh
chói lọi. Sau cuộc thị uy thị hùng ấy, mưa ở lưng chừng tới xuống trần ai như
thác chảy, nhưng chỉ trong quãng nửa giờ lại tạnh ráo ngay. Mây đen, tụ lại ít
lâu, cũng theo chiều gió tan đi hết cả. Trời lúc nãy bi vẩn ám , bây giờ quang
đãng như không; vài tiếng sấm cuối mùa thỉnh thoảng nổi dậy, nhưng chậm rãi uể
oi, không có vẻ hùng tráng như khi mưa chưa rỏ giọt.
Mặt trời , khỏi bị che kín sau bức màn mây tối, lai
vui vẻ tia ra những luồng ánh sánh đỏ rực và gay gắt; hình như sau mỗi trận mưa
rào, thì ánh nắng càng nồng càng đượm; để cỏ cây mau chóng được khô ráo nhẹ
nhàng. Mưa xuống nắng lên là một sự rất thường trong thời tiết. nhưng sự đó
không xảy ra trong các mùa êm dịu như xuân thu, và trong vụ mấy tháng mùa đông
rét mướt. Nó chỉ thường xảy ra giữa mùa hạ, là một mùa hay có giông tố thất
thường.
Mỗi một lần mưa xuống nắng lên, thì khí đất lại
ngùn ngụt bốc cao khỏi đầu ngọn cỏ, hơi thở của Tạo vật lại nặng nề bực bội, mà
khí hậu thì lại hóa ra độc địa vô cùng.
Những buổi trái trời trái đất ấy, ngoài sự làm cho
khí hậu hóa nên ám chướng, có lẽ còn có một mãnh lực gì u ẩn, huyền bí, xúc
động cả các âm hồn. Người ta phòng nghiệm ra rằng, sau một cơn bão, khí trời ở
chỗ thôn quê có mùi khen khét, khiến nhiều kẻ tưởng lầm là sét đốt cháy một
vùng nào. Sự thật chỉ là, dưới sức mạnh âm ỉ của các luồng điện nhấp nhoáng
trong không gian, dưỡng khí tụ đặc lại mà gây nên mùi khét. Sự tụ đặc ấy vô
hình, ta chỉ nhận thấy như hưởng của nó mà thôi ; nếu không có nhà bác học thí
nghiệm xét ra, có lẽ ta cũng cho là hoang đường.
Hoang đường là tất cả mọi sự mà loài người chưa tìm
ra cội rễ căn nguyên vậy.
Sự tôi sắp nói ra đây, vì chưa dò xét được nguyên
cớ, nên cũng phải tạm liệt vào loại hoang đường. Ấy là sự thay đổi trong cõi
huyền bí do sức của luồng điện trong không khí tạo nên. Âm hồn làm bằng chất
gì, ta không được rõ; ta chỉ biết nó vô hình ảnh, nó nhẹ nhàng phảng phất, đằm
như hơi sương, thoảng như làn gió, nó tan đi hay tụ lại theo những luật riêng
óc mình không xét đoán được Nó cũng ví như những khói, những luồng điện trong
vũ trụ vậy
Những nhà phù thủy cao tay, những kẻ thôi miên
thiện nghệ phần nhiều đều luyện được một thứ mãnh lực tiềm tàng có thể sai
khiến âm hồn tan tụ, tỷ nhà nhà kỹ sư biết cách phát điện đi hay gom điện lại.
Nếu ta cho âm khí là một thứ điện, thì ta sẽ nhận rằng mỗi khi mưa dầm gió bấc,
mỗi khi trời đất nặng nề, mỗi khi có mưa xuống nắng lên, thứ điện đó thường hay
tụ lại thành khối. Nó tựa như chịu ảnh hưởng mật thiết của các luồng điện trong
không khí, mỗi khi có sấm sét thì bị rung chuyển, xúc động; rồi, khi sấm sét đã
nguôi nó cũng đông lại, cũng đặc lại như dưỡng khí, để hiện ra thành bóng.
Vì tình cờ run rủi, tôi đã được mục kích sự âm hồn
hiển hiện, sau một trận mưa sau một ngày gay gắt nắng. Hôm đó, ngồi đàm luận
cùng bạn, tôi đương vui vẻ, kể lể mọi nỗi hàn huyên tâm sự, thì bỗng thấy bạn
tôi như chợt nghĩ đến sự gì, vùng đứng dậy, vừa kéo tay tôi, vừa nói:
- Bác hây theo tôi, sẽ cho bác xem một sự lạ lắm!
Tôi ngạc nhiên, hỏi bạn:
- Trời đang mưa xuống nắng lên thế này, khí đất bốc
lên ngùn ngụt như thế kia, bác muốn chúng ta đi đâu?
- Bác cứ theo tôi, rồi tự khắc rõ! Bác sẽ không
phải hối hận xông pha mưa nắng đâu. Mau lên, kẻo bỏ mất dịp này thì uổng quá!
Nói đoạn, bạn kéo tay tôi rõ mạnh. tôi không cưỡng
cũng không dùng dằng, vội đứng dậy cùng đì. Hai chúng tôi ra khỏi nhà, lần theo
bờ ruộng đi một quãng khá xa, gần tới một cái đồi. Đến một nơi cổ am, có bóng
cây cao rườm rà phủ kín một vùng đất rộng, bạn tôi ra hiệu bảo tôi ngừng bước.
Tôi theo đúng lời bạn, đứng tựa lưng vào gốc cây, nhưng chưa hiểu bạn tôi định
tâm cho xem một cảnh vật thế nào.
Anh ta đứng trước mặt tôi độ vài bước, ngoảnh đầu
nhìn bốn phía, rồi ngước mắt trông ra phía chân đồi như tìm kiếm sự gì. Một
chốc, hình như anh ta đã thấy sự muốn cho tôi được mục kích, anh lùi lại, bá
vai tôi, một tay trỏ ra phía sườn đồi xanh biếc:
- Này, anh cứ thẳng tầm mắt trông theo ngón tay tôi
chỉ, có phải ở ven đồi , chỗ có nương khoai mà ta nhìn xa chỉ thấy màu đất vàng
đỏ hiện rõ giữa một màu xanh thẫm, chính chỗ ấy, có hai người đang diễu võ
dương oai, vật nhau chán thì cùng múa một bài quyền...
Trong lúc bạn nói, tôi chăm chú thu hết nhỡn lực cố
phóng luồng nhỡn tuyến ra mé đồi để ghi lấy cảnh vật mà anh đương tả một cách
hùng dũng. Nhưng khốn nạn cho tôi? Hai mắt đã hết sức nhận xét cho rõ rệt, mà
vẫn chưa thấy tí gi! Ngàn trùng mây lam lợt lợt, ruộng lúa xanh rờn, đồi cây
thẫm biếc; chả có một dấu hiệu gì tỏ cho tôi là có người đương nhảy múa cả. Bạn
tôi thì cứ níu chặt lấy vai tôi, bắt đầu tôi phải gần sát đầu anh, hình như
muốn truyền sang cho tôi nhỡn lực của anh vậy.
- Chết nỗi? Anh chưa thấy gì ư? Kia kìa, anh cứ chú
ý nhìn vào nương khoai đo đỏ kia, chúng nó đương vờn nhau hay lắm. Anh đã thấy
chưa?
Bấy giờ hình như mắt tôi mới đỡ quáng đỡ mờ, tôi
thình lình thấy một vệt trắng xám, hung hung ở sườn đồi, mé dới nghiêng về bên
tả. Liền lúc ấy, tôi cũng hình như trông thấy hai cái bóng sẫm, tựa hồ hình
dáng người nhưng rất lạ. Buột mồm, tôi kêu lên rông:
- Quái! Làm sao nó không đầu!
Tôi vừa dứt tiếng, một đống cát bụi, ở đâu cạnh chỗ
chúng tôi đứng, bỗng vụt bốc lên. Tôi nhắm mắt lại. Bụi cát và lá khô phả vào
mặt tôi rõ mạnh, tôi cảm thấy một luồng gió dữ dội đương quấn lấy thân tôi, hút
tôi, làm cho tôi nghẹn ngào khó thở. Mũ tôi tự nhiên bi cuốn lôi lên. tôi níu
chặt lấy bạn.
Một khắc như thế, không thấy bụi phả vào mặt nữa,
tôi mở mắt ra, thì bị một cảnh tượng làm cho giật mình kinh sợ. Một luồng gió
lốc, nhanh như chớp, cuốn chiếc mũ trắng của tôi lôi đi rõ xa, ở lưng chừng
trời. Cơn gió lốc ấy như tiến lại mé chân đồi vùn vụt Khi đến chỗ nương khoai,
chiếc mũ tôi - lúc đó trông chỉ là một điểm trắng cỏn con, bỗng rơi xuống đất
tỏ rằng cn gió đã tan rồi.
Cố nhìn, thì chẳng thấy bóng dáng của hai anh chàng
múa võ nữa. tôi lấy làm lạ, chưa kịp hỏi bạn, anh đã cười bảo tôi:
-Thực là anh làm uổng mất một tấn tuồng đặc biệt!
Vì anh mà cuộc phô diễn này bị bỏ dở; nếu không ta đã được một phen khoái trá
vô cùng!
- Cớ sao anh lại bảo vì tôi...
- Anh mới đến nên không biết. Sự mà tôi muốn anh
được mục kích là một sự lạ lắm: ma diễn võ giữa ban ngày. Ở chân đồi kia, có hai
oan hồn của hai nhà thiện xạ, vì phạm phép nước nên bị chém đầu. Hễ cứ có mưa
xuống nắng lên, thì hai oan hồn đó lại hiện về, cùng nhau thí võ. Muốn xem họ
nhảy múa, phải đứng rõ xa mới thấy, lại gần quan sát thì biến mất. Mà lại phải
kiêng, không nên nói đến sự mất đầu. Nếu lở mồm, ắt xảy ra cái cảnh tượng như
hai anh em mình vừa thấy đó. Thôi, bây giờ ta hãy đi lại nương khoai nhặt lấy
mũ về, rồi đợi đến dịp khác sẽ thưởng ngoạn cuộc múa võ kia, tưởng không lấy gì
làm muộn...
Bạn tôi dìu tôi cùng đi lại mé chân đồi. Nhưng can
đảm của tôi ít ỏi quá, tôi đành mất mũ, không dám đi xa nữa chỉ cầu xin bạn dẫn
về nhà mà thôi. Bạn cười tôi là hèn nhát, song cũng chiều lòng; anh đem tôi về
nhà và sai một tên gia đinh ra chân đồi lượm mũ về cho tôi.
Tôi ở nhà bạn non bể, ba tuần nóng ruột muốn thỏa
chí tò mò hiếu sự của mình ngay, nưhng ngặt nỗi không gặp ngày nào có mưa xuống
nắng lên cả. Tôi đã xếp sẵn những khí cụ để sự quan sát được dễ dàng; lại luôn
luôn mình tự dặn mình đừng bao giờ nói đến hai tiếng "không đầu"
khiến cho hỏng việc một lần nữa.
Thấm thoát vài hôm sau, tính đốt tay thì ra tôi
quấy quả bạn tôi đã trọn hai mươi hai ngày. Hôm đó, may quá, vào khoảng chín
mười giờ sáng trời đương nắng chang chang bỗng có cơn mưa. Tôi mừng quá. Mưa
vừa ngớt hột, tôi thủ ngay cái máy ảnh và ống dòm, rủ bạn đi lại chỗ có cái
miễu thần và cây cổ thụ mà chúng tôi đã đến một lần hôm trước.
Tới nơi không cần bạn phải chỉ bảo, tôi tự đứng lên
mé trên nhìn phương hướng, rồi quay trông đầu về vệt hung đỏ ở sườn đồi. Quả nhiên
bạn tôi nói có ngoa đâu, Tôi nhận thấy hai cái bóng đương vờn nhau nhảy nhót.
Mới đầu tiên, trông không được rõ lắm; nhưng dần
dần mắt tôi trông càng quen càng sáng suốt ra. Cảnh vật tôi được mục kích thật
là kỳ dị , từ bé đến giờ tôi mới thấy một sự thú vị như thế này.
Đó chỉ là hai cái bóng, nhưng quái dị làm sao! Hai
cái bóng giống hệt như hai người, có tay chân, biết cử động, song chỉ không có
đầu! Hai cái bóng ma cụt trốc! Đứng mé xa trông lại, tuy hình ảnh mình được
thấy không lấy gì làm đích xác nhưng cũng rõ rệt vô cùng. Mới trông thì chỉ
thấy lờ mờ hai vệt xám, hiện rõ trên màu hung đỏ của nương khoai; để ý nhìn lâu
tý nữa, thì rỏ ràng là hai thân thể đàn ông, đương đấm đá nhau hùng dũng lắm.
Hai cái bóng ấy màu xám thẫm, xanh biếc, như màu
khói đặc tụ lại. Không thấy rõ quần áo mặc ra làm sao, chỉ hình như cùng mặc áo
chẽn mà quần thì xắn đến tận đùi. Đó là một thứ y phục tôi tưởng tượng ra, vì
tôi trông na ná như thế: sự thực thì chỉ có hai cái bóng chập chờn như hai hình
ảnh nhấp nháy trên màn chớp bóng. Ngắm kỹ quái trạng hiện ra đó, ta có thể vừa
trông vừa đoán, nhận ra rằng hai bóng ma kia là hai thân thể vạm vỡ cờng tráng
mà cũng lanh lẹn phi thường. Chúng nó tuy không đầu, song đánh nhau chả kém gì
người có mắt, lại có phần giỏi giang, sắc sảo hơn những người có mắt nhiều.
Chúng diễn những đường võ cực kỳ bí hiểm, trông
ngoạn mục và lý thú vô cùng. Cũng đấm, cũng đá, cũng né, cũng xông, cũng quay
đi lộn lại, cũng cúi xuống ngửng lên, thực chẳng khác gì hai võ sĩ còn sống
cùng nhau thi quyền trong một kỳ đả lôi đài hay cử võ vậy. Võ vẽ đôi ba miếng
côn quyền học lỏm, tôi nhận rằng bản lĩnh của hai oan hồn kia siêu quần, xuất
chúng, ít người thời này sánh kíp. Có lẽ hai con ma đó thuộc về thế hệ trước,
một thế hệ còn trọng những môn đao kiếm, một thế hệ chỉ suy tài nghệ trong các
đường quyền hiểm hóc, chớ không ỷ vào súng đạn để thủ thân. Thế hệ ấy ngày nay
đã mất, đã biến trong cuộc di vãng xa lắc xa lơ; vết tích của nó, có chăng còn
là hai bóng ma này, lạc loài vào một thời đại mới, mà vẫn còn mê muội trong cái
chí hướng ngang tàng của thủa bình sinh?
Hai bóng ma kia cứ rạp rờn quay lợn mãi. Chúng nó
xử nhau những miếng võ tuyệt kỹ th các miếng Song long quá hải, Mãnh hổ tầm
sào, Thái Sơn áp đính, Hạng Võ phi truy v.v... nhưng tựa hồ chúng không có ý
làm hại nhau, chỉ thi nhau trổ hết tài nghệ cho thỏa thích, cho bõ nhớ nhung
cái thời oanh liệt chúng đã từng sống, mà không được sống tới cùng.
Đứng ngắm nhìn sự phô diễn tự nhiên kia, cũng thực
là một khoái lạc ý vi. Trong buổi văn minh ngày nay, dễ đâu đã có dịp xem hai
ngời sử võ?
Giả dĩ có xem xiếc hay xem tuồng Tàu, thì chi toàn
một màu là múa may cho qua loa câu chuyện, mấy khi đã gặp hai tay thiện nghệ
hết sức trổ tài quyền cước cho mà coi? Bời thế khi gặp trường hợp mà tình cờ
tôi được trải qua, tôi ngắm nhìn mãi không hề mỏi mắt.
Ngắm chán. tôi lại giơ ống dòm lên quan sát cho rõ
rệt: nhưng, thực là kỳ quặc mỗi khi tôi để mắt vào ống nhòm, thì chỉ còn được
thấy nương khoai hiện ra, tuyệt nhiên không nhận được bóng dáng của hai nhà vo
sĩ "cụt đầu" nữa! tôi thí nghiệm đến mười mấy lượt; lượt nào cũng
vậy; cứ bỏ ống kính ra thì tha hồ mà trông mà ngắm, hể đem ống kính lên mắt,
hình ảnh kia lại biến lúc nào rồi...
Kế ấy không xong tôi dùng kế khác. Tôi trao ống
nhòm cho bạn, chỉ đeo có một chiếc máy ảnh, một mình đi sát lại chân đồi. Cách
xa độ bốn cột đèn tôi còn trông rõ bóng hai con ma đương đấm đá. Đi thêm lên độ
chục bước nữa hai bóng ma ấy cứ mờ dần đi rồi, sau cùng, khi tôi chỉ còn cách
đồi độ chừng mươi bước, trông lên chỉ thấy không khí một màu trong vắt, ruộng
khoai một màu vàng đỏ, hình như không hề xảy ra sự gì cả.
Cho rằng mắt tôi bị các âm hồn làm cho mờ quáng đi,
tôi đem máy ảnh ra cứ chụp lấy năm sáu bức, mong rằng may ra con mắt kính sẽ
hơn tôi, ghi dợc cảnh thần bí mà mắt người không ghi nổi. Về nhà, rửa ảnh, tôi
vẫn bị thất vọng như thường; trên kính không có dấu vết gì của hai người võ sĩ
cả!
Sự bí mật thực là hoàn toàn bí mật. Tôi vừa ngạc
nhiên kinh dị, vừa tức tối khó chịu. Khó chịu cũng đành vậy, chớ biết làm thế
nào! Mình còn ở cõi dương gian, lại muốn vén tấm màn huyền vi của Tạo hóa để
nhìn rõ sang cõi âm, thì làm sao cho được. Hai oan hồn kia chỉ có thể hiện lên
cho loài người thấy chúng một cách lờ mờ mà thôi; muốn thấy rõ nữa, thì ít ra
cũng phải là con ma phù thủy đặc biệt thế nào mới được chứ!
Tôi có hỏi bạn về sự tích hai nhà võ sĩ bạc mệnh
chịu bất đắc kỳ tử; bạn tôi chỉ biết lờ mờ rằng hai người đó đã chết năm chục
năm nay, lúc anh chưa đẻ, mà, theo như lời các cụ già kể lại, là hai tên cướp
bị sa vào lưới pháp luật và bị hành hình ngay ở chỗ chân đồi. Bạn tôi biết có
thế thôi, câu chuyện của anh càng làm tăng tính tò mò hiếu sự của tôi, càng gợi
lòng tôi muốn đi sâu vào bí mật của Thời Gian để giải cho ra vấn đề tôi suy
nghĩ. Tôi muốn biết thủa bình sinh, hai vong hồn kia làm gì, mà tại sao cùng
chịu chết thảm thương uất ức. Uất ức, bởi lẽ họ hiện lên múa võ như thế; chớ
nếu họ làm nên tội rồi bị giết, thì còn oan khổ nỗi gì mà đến nỗi, ngoài năm
mươi năm, khối hận vẫn chưa tiêu? Thực là một sự lạ.
Tôi nhất định phải dò xét sự lạ ấy cho tới gốc
ngọn, dù phi tốn công khó nhọc cũng cam lòng! Trong lúc hăng hái, tôi tự nhận
lấy một nhiệm vụ bí hiểm như thế; nhưng rồi dần dần, tôi phải tin rằng tôi, một
kẻ cuồng ngông, chỉ nói khoác hão huyền và ước muốn những điều vô lý. Làm gì có
đủ vật liệu mà đi ngược Thời Gian để đem ra ánh sáng một câu chuyện trong hàng
nghìn chuyện có lẽ còn ly kỳ hơn, đã xảy ra hồi nước Đại Pháp vừa dựng cờ bảo
hộ trên đất Việt
Tuy nghĩ thế thì nghĩ, nhưng lòng tôi cũng muốn
biết vì sao lại có hai oan hồn cụt đầu, cứ mưa xuống nắng lên, là hiện lên diễn
võ. Trước còn là một ý muốn, rồi sau dần thành một dục vọng, sau nữa thành hẳn
một định ý cứ bám chặt lấy hồn tôi. Tôi như kẻ đứng trong cảnh ngộ một nhà toán
học chưa tìm ra kết quả một bài tính khó nhưng thú vị. Cả ngày, cả đêm, tôi chỉ
mải mê về chuyện ma không đầu của tôi; rồi tôi lục các sách trong nhà Bác Cổ để
họa may có tìm đợc một vết tích gì về hai nhà võ sĩ bạc mệnh kia không. Trong
sách tôi thấy nói rất nhiều chuyện về hồi ấu trĩ của cuộc bảo hộ, xong chả có
pho nào đả động đến hai nhà thiện xạ chịu tử hình ở mạn núi Gôi...
Sau khi tôi ở nhà bạn ra về, cách đến hai năm, tôi
vẫn còn nhớ cảnh vật tôi trông thấy tựa như nó mới vừa xảy ra ngày hôm qua vậy.
Tôi rất bực mình vì đã cố tận tâm gắng sức, mà không tài nào biết thêm tí gì về
quái trạng ấy cả. Những chuyện mà các người ở quanh vùng Gôi kể cho tôi nghe
đều là những vật liệu lờ mờ, không chuyện nào giống chuyện nào, vì mỗi người
lại thêm bớt mỗi vẻ theo ý riêng mình.
Sau cùng, biết rằng tôi vô lực, tôi đành gắng quên
dục vọng của tôi đi. Quên! Quên làm sao được? Càng ở những chỗ phồn hoa đô thị,
lòng tôi lại càng như quằn quại khó chịu; tôi càng tự trách mình sao không cố
gắng thêm chút nữa, dò xét thêm chút nữa; biết đâu trong một pho sách ở viện
bảo tàng, hoặc trong ký ức của một ông già đã sống thời loạn lạc, lại không có
một vết tích, một dấu hiệu, chỉ cho tôi biết đường lần mò để đi sâu vào câu
chuyện huyền bí của hai nhà võ sĩ không đầu, hiện lên mỗi lần mưa tạnh nắng
lên?
Ấy, cũng bởi tin rằng có người biết được sự tôi cần
biết, nên tôi bỏ hẳn nhà một dạo, đi ngao du khắp đây đó, mong rằng sự tình cờ
sẽ cho tôi được thỏa lòng. Không ngờ khi đến Đồng Giao, tôi đã không biết được
tí gì về câu chuyện của tôi, lại nghe thêm được một câu chuyện ly kỳ hơn, khiến
cho tính tò mò của tôi càng sôi nổi thêm lên nữa.
MA RỪNG
(Tác giả: TCHYA)
Ông Cai Móm lại ngừng lần thứ ba, lấy cốc rượu uống
một hơi rồi kéo một mồi thuốc lào. Lệ Thi nóng ruột muốn nghe, giục ông Cai kể
nốt, nhưng ông vẫn điềm tĩnh thong thả uống rượi hút thuốc khề khà, làm cho vợ
tôi càng thúc giục thêm nữa. Thi muốn nghe, mà hễ nghe đến chỗ nào rùng rợn,
thì lại bám riết lấy tôi, thu mình cuốn vó lại , trông buồn cời lắm. Phải thế
chăng mình?
Một hồi lâu ông Cai đủ nghiện, mới oang oang nói
tiếp:
- Bấy giờ Oanh Cơ ngồi gục mặt vào vai tráng sĩ.
Tráng sĩ muốn cho nàng đỡ sợ, phải tìm kế nói chuyện để bắt nàng phải chú ý vào
một sự khác, ngõ hầu quên nỗi đau xót và quên cảnh vật ghê sợ của rừng khuya.
Câu chuyện tráng sĩ nói, sau này lại chính mồm Oanh Cơ kể lại cho cậu ruột tôi
nghe, vì thế nên tôi mới biết rõ. Tráng sĩ sợ nàng cứ nghĩ ngợi mãi về cái chết
thê thảm của anh chị nàng, và cứ bồn chồn lo ngại luôn luôn, thì không khéo
chết ngất đi lần nữa, chàng phi nói luôn mồm cho nàng thấy bao giờ cũng có
người ngồi bên cạnh và che chở cho mình. Tráng sĩ bảo Oanh Cơ:
- Cô đừng nên sợ hãi kinh ngạc, cô ạ! Có tôi ở đây,
không khi nào tôi để thú dữ ma thiêng phạm đèn cô được. Tôi có khi nằm trên
chòi này hàng nửa tháng, đêm đêm trơ trọi một mình, tôi chả e ngại gì hết. Gặp
ác điểu, mãnh thú thì tôi bắn, tôi đánh, tôi cầm Imã tấu hoặc đoản côn thử chơi
với chúng nó vài keo, đi cho chúng nó xem vài đường võ, bao giờ chúng cũng thua
nhạy, hoặc bỏ xác lại cho tôi khiêng về. Chúng nó có làm gì được tôi? To lớn,
khỏe mạnh và nhanh nhẹn như con hổ, tôi chỉ coi như loài chó dữ mà thôi.
Cái đáng sợ nhất, ấy là ma rừng. Giống ấy thiêng
lắm, và lợi hại lắm. Nhưng tôi có làm gì phạm đến chúng đâu, mà chủng nỡ xử tàn
tẽ với tôi? Chả qua chúng chỉ muốn đùa giỡn quấy quả tôi cho vui chớ chưa làm
tôi phải ốm đau và chịu thiệt bao giờ. Hay là chúng có ý nể tôi thì chả rõ. Một
vài lần đầu tiên, có vài con đầu đàn chúa tể ở vùng này, hiện lên dọa nạt tôi.
Tôi đang nằm trên sàn thì nó làm sàn quay tít như chong chóng, định thân ngồi
một lúc thì lại chả thấy gì. Cỏ khi nó ném tôi đến bịch một cái xuống tận gốc
cây, tôi nhìn lại thì vẫn còn ở trên sàn. Lại có lần buổi chiều, mới trèo lên
cây đã thấy ngay lủng lẳng treo trên cành chỗ thì một cánh tay, chỗ thì một
cẳng chân, chỗ khác lại cái đầu lâu máu ở cổ chảy xuống ròng ròng, chỗ khác nữa
thì cái thây người. Một chốc, tất cả mấy thứ ấy bay vùng lên sàn, liền nhau lại
thành một người đen thui thủi, đầu tóc dựng ngược, mắt mở rõ to, há mồm cười
nhe răng trắng nhơn nhởn. Tôi cứ ngồi yên nhìn con ma ấy không nói; nó thè lỡi
đỏ như lửa dí tận sát mặt tôi, khí lạnh của nó thấu vào khắp người tôi, tôi rợn
lắm lắm, song vẫn cố trấn tĩnh. Nó dọa chán thì biến mất.
Lần khác nó hiện lên đến sáu bảy con, nhớn có, bé
có, trẻ có, đứa nào cũng quần áo rách rưới hoặc trần như nhộng, trông người gầy
gò đem thủI, xấu xí lắm. Chúng đi lơ lửng như không bước, là là tiến trên mặt
cỏ, lại chỗ tôi đứng dưới gốc cây, dang tay bao vành lấy tôi rồi nhảy múa làm
tôi hoa cả mắt. Tôi bị chúng trêu nhiều lần lắm, lần này tôi mới chắp tay vào
tước ngực, nhắm mắt niệm Phật Quan âm, rồi đọc câu thần chú trừ tà: "Tả
Thanh long, hữu Bạch hổ, tiền Chu tước, hậu Huyền vũ'. Mở mắt ra chúng đều biến
cả. Tôi lên được trên sàn, ngồi khấn rằng:
Tôi tên là Lê Trọng Việt, là một kẻ đi săn các ác
điểu, mãnh thú, không xâm phạm gì đến vong hồn các anh em cả. Anh em nếu có
linh thiêng, xin phù hộ cho tôi, săn được nhiều, tôi sẽ chia cho một phần và
xin cúng tế anh em tử tế, mỗi khi tôi tới đây. Từ trước tới nay, anh em trêu
ghẹo tôi, tôi đã chịu nhẫn nại, không khi gì cả, không làm gì cả. Tôi không dám
chửi rủa các vong hồn, cũng không dám láo xược với các vong hồn, xin các người
từ đây đừng dọa nạt đùa bỡn tôi nữa! Nếu tôi khấn khứa tử tế thế này mà không
tha, thì sau sẽ có cách tôi đối phó lại, bấy giờ đừng trách móc tôi đó! Đây,
gọi là thành tâm lễ bạc, tôi có chút quà này xin biếu anh em!
Khấn xong, tôi dở tay nải đem ra bày ở sàn một ít
bánh đúc để trên vài tàu lá, và một ít hoa quả tôi đã cố tình mang đi từ chiều.
Rồi tôi đốt hương, đốt nến, vái bốn vái. Xong lại đem đốt mấy chục lá vàng hồ.
Công việc ấy ổn thỏa, tôi nằm chèo queo đánh một giấc đã, chờ đến canh hai thì
dậy. Đêm hôm đó, quả nhiên, tôi săn được nhiều lắm, song toàn là các thứ nhỏ.
Và tôi cũng không bị trêu ghẹo nữa. Bắn được cáo, được cầy, tôi đợi rạng sáng
là đem thui ngay vài con dưới gốc cây, cúng tế xong rồi mới về. Những đêm sau
đều săn được kha khá. Tôi vẫn giữ lời hứa chia phần cho ma, nhưng ma ăn quen
rồi lại rửng mỡ, đến đêm lại tìm cách làm cho trong nhà sàn của tôi các đồ đạc
lung tung lên cả. Có một lũ chuột, mỗi con bằng con mèo to đến hì hục tìm mồi,
ăn bánh đúc cơm nắm của tôi gặm nát cả chuối tôi trữ sẵn để tráng miệng, cắn
rách áo tôi và nhá chân tôi đau lắm. Chúng nó tha nỏ của tôi quăng xuống đất
tha mã tấu của tôi cắm vào một cành cây, vác tay nải của tôi treo lủng lẳng ở
mái sàn. Lũ ranh ấy lục lọi đủ thứ chọc tôi đến cực điểm. Đêm tôi ngủ dậy, sờ
nải ch thấy đâu, biết có chuyện. Tôi bèn ngồi một lúc định thần cho mắt sáng
ra, có thể trông rõ trong đêm tối được; tôi nhờ ánh mờ mờ của các ngôi sao le
lói tìm được đẫy nải và mã tấu vì lưỡi đao lấp lánh dễ thấy lắm.
Tôi mở nải lấy sẵn bùi nhùi, đá lửa, và hai ống địa
lôi to. Rồi tôi ngồi đợi xem cái giống quái kia có đến quấy nhiễu tôi nữa
chăng. Quả nhiên, chúng trở lại để xem tôi bị tức giận đến thế nào. Lần này,
chúng biến ra một lũ cú mèo và mèo rừng đến vỗ cánh ầm ầm và kêu nheo nhéo rầm
rĩ cả chung quanh mình tôi, bâu lấy tôi đen nghịt. Tôi đã biết ý, thủ sẵn một
sợi dây ngũ sắc dài, một bông phẩm đỏ ướt; tôi cứ ngồi điềm nhiên niệm Phật và
đọc thần chú. Chúng quây quần lấy người tôi nhưng không phạm đến tôi được. Tôi
đánh đá tóe lửa, đốt bùi nhùi; bùi nhùi cháy, tôi dí ngay vào ngòi hai cái pháo
khổng lồ treo ở mé sàn; xong tôi vội vàng đứng dậy, quờ tay túm được một anh
mèo, rồi nhảy vọt ra ngoài chuyền cành nọ sang cành kia, ra ngồi một chẻ cây
gần gốc. Tôi vừa leo cây vừa kéo dây ngũ sắc ờ cổ buộc vào mình con mèo, nó cắn
tôi, cào tôi, giãy giụa và đập đuôi chan chát, tôi cũng mặc kệ. Buộc dây xong,
tôi lại sờ vào túi lấy bông phẩm đỏ, bôi nhoe nhoét vào mặt nó, xong đâu đấy,
tôi thả nó rơi đánh bịch xuống đất.
Tôi làm những việc trên đây nhanh như chớp, bởi đã
định trước cả rồi; chỉ loáng một tí là đốt xong ngòi pháo, bắt một con mèo và
nhảy chuyền xuống gốc cây ngồi ở một chỗ, tươm tất lắm.
Tôi vừa an vị, hai tiếng nổ kinh thiên động địa nối
tiếp nhau xé tan vừng lặng lẽ của rừng khuya; bốn bên toàn là sườn núi cả nên
tiếng pháo địa lôi càng dữ dội lắm lắm. Đàn mèo tranh nhau mà chạy, đàn cú
tranh nhau mà bay, chúng chen nhau, húc nhau ùa cả ra khỏi sàn. Phần nhiều đều
rơi xuống đất huỳnh huỵch, có con chạy không kịp, phải biến ra khói, tan đi.
Pháo vừa dứt nổ, định thần mà nhìn, chả thấy một con nào nữa cả, thì ra rơi vừa
đến đất, hay chưa đến mặt cỏ, là chúng đã biến cả rồi? Vô phúc có một anh cú
bay tạt qua mặt tôi, tôi túm ngay lấy, luồn ngay dây ngũ sắc buộc lấy hai cánh,
rồi cũng đem phẩm bôi vào mặt. Lại vứt con quái vật ấy xuống đất theo với con
mèo; hai con đó giãy giụa, vật mình đùng đùng vào gốc cây nghe rõ mồn một. Y
chừng chúng nó muốn tháo dây thì phải, nhưng tôi buộc theo phép phù thủy, có mà
tháo đường trời!
Tôi lên ngồi chễm chệ trên sàn nứa. Lúc này tôi đốt
bùi nhùi, thắp một ngọn bạch lạp, đi tìm các thứ binh khí, thu thập xem có
thiếu gì không. Xét ra chỉ mất cái "nỏ thần" của tôi mà chúng ném
xuống gốc cây cổ thụ, còn đồ thì đủ cả. Tôi ngồi im đợi xem động tĩnh thế nào.
Lúc đó rõ ràng tôi tỉnh táo, bao nhiêu tinh thần tâm trí đều sáng suốt cũng như
ngọn bạch lạp rạng to thế mà không hiểu vì đâu tôi như mơ màng, tai nghe văng
vẳng có tiếng nói rất sẽ mà rất rõ, một thứ tiếng không phải là tiếng, chỉ như
một dư âm xa lơ xa lắc, một tiếng gọi bị đập vào đá rồi oang oang đưa lại từ
chỗ nào, một cái "bóng của lời nói" thì đúng hơn. Cái tiếng gọi đó
gần sát tai tôi, nhưng quái, cũng như ở một nơi xa lắm, chỉ nhận biết nó rành
rọt, nghe tờng tận vô cùng. Nó nh thế này:
- Ông Trọng Việt ơi! Ông ác làm chi, ông tắt đèn
đi! Chúng tôi biết lỗi rồi, chịu phục ông rồi! Ông cứu cho lần này, lần sau
không bao giờ dám phá ông nữa! Riêng hai đứa tôi, chúng tôi sẽ đội ơn ông và
phù hộ cho ông. Ông hãy tắt đèn đi...
Tôi đoán ngay là lời kêu van của hai con ma bị bùa
ngũ sắc buộc, không biến được. Chúng nó đã hối quá, tôi cũng chả nên táng tận
lương tâm. Chả qua tại chúng xử tệ với tôi hết sức, nên tôi mới phải báo thù,
nếu không tôi cũng chẳng hơi đâu nghịch ngợm với chúng nó để mất một đêm săn
bắn. Cái đêm ấy, thế là vô ích: tôi bị mất nỏ, lại lục đục mất thì giờ, lại đốt
địa lôi và châm đèn thì còn con thú nào dám đến gần cho mà bắn nữa, mà dù có
đến thì biết tìm nỏ ở đâu? Xuống gốc cây ư? Chả dại. Nhỡ ra có làm sao trong
đêm tối, giữa rừng vắng, thi hết kế thoát thân. Thôi, chúng nó đã xin tắt đèn
thì tôi tắt để xem chúng giở trò trống gì nào! Tôi dụi cây nến, ngồi đợi. Trời
vừa tối bỗng nghe bịch bịch hai tiếng, sờ thì ra có con mèo và con cú ở ngay
bên cạnh chân. Văng vẳng bên tai lại có tiếng:
- Ông làm phúc tháo dây cho chúng tôi, và gột vết
phẩm cho chúng tôi. Ông tha cho, sẽ đội ơn ông mãi mãi.
Tôi nói: - Lấy nước đâu mà gột? Tôi chả có gì đựng
nước cả, chỉ có một cái vỏ dừa ở góc sàn, nhưng lại không có một giọt nớc nào.
Thì làm sao mà gột cho hai người được?
Tôi vừa dứt lời thì, quái lạ! Thấy ngay một vật ươn
ướt đụng chân, sờ xem thì là một gáo nước đầy, cái gáo sứt không có cán của
tôi! Tôi hơi ngạc nhiên một tí, song nghĩ ra ngay. Có gì lạ đâu? Một lũ ma nữa,
vô hình, đương bao bọc lấy tôi để xin tôi gỡ cho hai đứa bạn của chúng và để
xem tôi xử sự ra thế nào. Tôi lên mặt đạo mạo, phán rằng:
Chỉ tại các ngươi chọc ta, chớ ta có làm hại các
ngươi đâu! Ta cúng các ngươi, cho các ngươi nào thịt, nào bánh, nào hoa quả,
nào vàng lá, thế mà các ngươi chả biết ơn phù hộ ta lại còn quấy quả ta, thì
trời đất nào chứng cho các ngươi? Ta đây biết phù thủy, (chỗ này, tôi nói khoác
mà để dọa chúng mà thôi, chớ thật tình tôi chả có phép quái gì!) Chúng bây làm
gì nổi ta? Các ngươi nạt ta thế, chứ nạt nữa ta cũng chả sợ! Ta đã có cách đối phó
lại, còn nhiều cách lắm, đây này, các ngi hãy xem?
Nói đến đó, tôi sờ tay vào nải, lấy ra một củ tỏi,
bóp nát rồi dí vào mũi con mèo và mũi con cú. Quả nhiên chúng nó giãy lên đành
đạch. Tai tôi lại nghe văng vẳng: - Chúng con lạy ông! Chúng con biết tội rồi,
ông sinh phúc cho! Ông vứt tỏi đi, rửa tay đi!
Tôi quẳng củ tỏi xuống đất, dội nước ở gáo rửa tay,
dốc hết cả gáo. Tôi lấy vạt áo lau tay, vừa lau vừa nói tiếp: - Ta còn nhiều
thứ phép khác, lợi lại lắm lắm. Hễ các ngươi xử ác với ta, ta sẽ xử càng tàn tệ
hơn, cho bỏ ghét? Lần này là lần đầu, ta tha cho hai ngươi; phải biết ơn và cố
tu tỉnh lại, ta bắt được một lần nữa thì chớ trách ta đó! Nhưng mà gáo nước hết
rồi, lấy gì gột rửa cho các ngươi đây?
Tôi nói dứt lời, sờ xuống chân thì gáo nớc đã lại
đầy rồi. Tôi bèn móc trong đẫy ra một cái giẻ lau, đẫm nước đi, rồi lau mặt mũi
cho con mèo và con cú. Chúng nó để tôi làm phận sự một cách ngoan ngoãn lắm,
không dám cựa quậy, giãy giụa một tý gì. Tôi lau một lúc rõ lâu, áng chừng đã
sạch lắm rồi , bấy giờ mới thò tháo nút dây ngũ sắc ra. Vụt một cái, vừa cởi
được dây, thì đã không thấy cú và mèo đâu nữa. Chỉ có phảng phất trớc mặt tôi,
lờ mờ như sương đọng lại, như khỏi tụ thành hình, hai cái bóng dịu dàng trắng
toát, thực là "sương in mặt, tuyết pha thân". Hai thiếu nữ yểu điệu
thanh tân, tuy trong bóng tối mà cũng đoán được đó là hai giai nhân tuyệt sắc.
Cả hai tựa hồ mặc áo bằng mây trắng, mập mờ ẩn hiện, trông đẹp vô cùng. Một làn
tóc đen cuồn cuộn xõa xuống ngang lưng, một thân hình thớt tha mềm mại, tứ chi
nhỏ nhắn tròn trĩnh, đó là cốt cách của hai nàng. Trông cả hai đều giống nhau,
tựa như chị em ruột khó lòng phân biệt được, nếu một nàng không có làn tóc dài
chấm gót, khác với nàng kia tóc chỉ xế quá lưng thôi.
Tôi thấy hai bóng ma con gái ấy, trong lòng cũng
hơi bồn chồn, cứ đờ mắt ngơ ngác ngắm họ. Cả hai nàng cùng quỳ xuống sàn nứa,
trước mặt tôi, trong khi tôi vẳng nghe một điệu đàn ân ái vô cùng:
- Hai em cám ơn cái thầy tha cho. Đội ơn cái thầy
nhiều nhiều. Sau này xin giúp cái thầy...
Điệu đàn chỉ ngắn có thế. Điệu ấy tức là giọng của
hai nàng thánh thót hòa nên. Tôi lấy làm lạ rằng sao cái giọng này nó êm ái du
dương, nó thỏ thẻ, trong trẻo khác hẳn với tiếng nói phào phào lúc nãy.
Tôi nghĩ một lúc, mới hiểu rằng khi hai nàng này
chưa biến được thì cũng chưa nói được, đó chỉ là bạn bè thay lời hai nàng mà
cầu khẩn tôi đó thôi. Tôi bảo là hai nàng ấy nói, đó là lầm, vì thực ra không
có thanh âm vang ra ngoài. Tôi chỉ thấy môi hai thiếu nụ đó lắp bắp, rồi tự
nhiên tôi hiểu, tựa hồ trong tai tôi có tiếng nói dội vào óc tôi. Có lẽ khi đó
tôi nghe hồn của tiếng người, cũng như tôi thấy bóng của hồn người vậy.
Hai ả lạy tôi sì sà, sì sụp, đoạn đứng dậy bớc ra.
Tôi vừa ngước mắt, chửa kịp trông theo thì đã không thấy bóng dáng của hai nàng
đâu nữa...
Từ đấy, tôi đỡ bị nạn yêu ma quấy nhiễu nhưng tôi
lại bi một cái nạn mới lạ lùng nguy hiểm hơn: là hai con ma thiếu nữ Mường nó
hình như mê tôi, đêm nào cũng lên ngồi cạnh tôi nói chuyện tỉ tê, như quấn quít
lấy tôi không dứt. Tôi nhắm mắt ngủ, thì thấy như mình dắt tay chúng đi chơi
trong rừng, bừng mắt dậy, lại thấy hai bóng trắng ngồi kề bên mình, trong óc,
trong tai lại có tiếng dội văng vẳng nói chuyện với mình thân thiết lắm. Tôi là
con trai chưa vợ, thấy thế sợ lắm, chỉ ngại giọng yêu tinh ấy nó thu mất nguyên
dương thì sẽ chết mất. Tôi lo quá, bỏ rừng về nhà. Đêm nằm ngủ lại thấy chúng
nó đến trách móc sao không đến Đồng Giao săn bắn như mọi ngày cho chúng được
gặp gỡ trò chuyện. Sáng dậy, tôi đem sự đó thuật cho anh tôi nghe. Anh tôi là người
giỏi võ hơn tôi mà lại can đảm lắm. Anh tôi quyết cùng đi vào rừng với tôi một
phen: Quả nhiên, anh tôi được thấy hai thiếu nữ Mường của tôi và làm quen với
chúng. Một đứa bám riết lấy anh tôi, còn một đứa thì vẫn cố mê hoặc tôi đến kỳ
cùng. Hai anh em tôi hễ nằm trên sàn thiu thiu ngủ là tự khắc thấy mỗi đứa ôm
ấp một con ma đi dạo quanh khắp đồng nội, bắt ong, đuổi bướm, bứt quả hái hoa,
tình tự vui vẻ lắm. Tỉnh dậy, vừa bừng mắt đã thấy có hai ngồi dới chân, con
tóc ngắn kề anh tôi, con tóc dài kề tôi.
Thực là nguy ngập quá? Tôi hối hận vô cùng, hối hận
vì đã đưa anh tôi vào cõi chết. Một mình tôi có thác cũng không oán gì số phận,
song làm cho anh tôi vì muốn cứu tôi mà cũng thác nốt thì thực tôi có lỗi vô
ngần! Can tràng như tôi, mà tôi phải ứa lệ khóc. Nhưng không dám khóc trớc mặt
lũ quái đó, tôi đợi rạng ngày, dắt anh tôi ra khỏi núi, đi về quán trọ lúc bấy
giờ mới ôm lay anh mà khóc và xin lỗi. Anh tôi mủi lòng cũng khóc và khuyên
giải tôi:
- Em đừng ngại! Anh xem hai con yêu này nó khôg
phải là đồ dâm tinh, chả qua chỉ là oan hồn hai con bé chết lúc còn con gái,
nên si tình đó mà thôi. Từ lúc mình quen chúng nó, mòi cùng nhau đi chi trong
ngàn trong nội, nào chúng đã dắt mình đến cuộc mây mưa dâu bộc gì đâu! Thế thì
cha lo! Để thong thả anh nghĩ một kế làm cho chúng nó phi bạt đi mới được?
Anh tôi nói vậy thì tôi biết vậy, chớ tôi vẫn khóc
lóc như thường. May sao, vì sự khóc thảm thiết đó, có một cụ già để ý đến tôi
ông hỏi tôi, tôi nhất nhất Kể sự tình cho ông rõ.
Ông già ngắm mặt mũi hai anh em tôi một lúc, rồi
ông đòi xem bàn tay. Xem xong, ông đưa chúng tôi vào một căn buồng hẹp trong
nhà trọ, ông đứng ngoài bắt bốn cái quyết, lầm rầm đọc chú hồi lâu mới bước
vào. Ông không đắn đo gì cả nói ngay:
- "Tôi xem khí sắc hai thầy, chưa đến nỗi suy.
Âm khí cũng chưa phạm được lấy, vì hai thầy có can đảm nhiều, hóa nên tôi mới
cứu được. Giá phải người yếu linh hồn, ắt bị hại đã lâu rỗi. Cái giống ma này
nó khôn lắm, nó muốn báo thù thầy đấy, nhưng nó cứ làm dần dần, mỗi đêm đi sâu
vào một chút thôi, độ nửa năm thì không chữa được nữa! Tôi cho hai thầy hai đạo
bùa này, hai thầy phi giấu kỹ trong búi tóc, nó sẽ không biết: nếu để chỗ khác,
nó trông thấy tất cướp mất. Ta lại tương kế tựu kế, nhân chúng nó đương rủ hai
thầy đi vào đường tình ái, hai thầy sẽ làm như âu yếm nó lắm lắm, chớ đừng lộ
ra vẻ lãnh đạm như xưa. Làm ra như mình thầy chúng yêu mình một lòng chân thật
nên cũng hồi tâm mà sủng ái chúng. Rồi một thầy sẽ, trong khi tự tình, hỏi nó
xem mả hay nhà mồ của chúng nó ở đâu. Nói rằng hễ khi nào anh thác đi, sẽ lại
nằm chung với em. Khi nó chỉ mả rồi, thì thử ba lần xem có đúng một chỗ không,
mỗi lần nhận địa thế và đánh dấu kỹ càng. Lúc nào biết đích mả chúng nó rồi thì
các thầy nên làm thế này, thế này.. ." đến đây ông cụ nói thầm rất khẽ
"chúng nó sẽ phi kiêng hai thầy, không dám đến gần nữa. Hai thầy sẽ thoát
nạn. Song cốt nhất hai thầy phải điềm đạm, cẩn thận, suy xét cho tỉ mỉ, chớ có
mừng rỡ lộ ra nét mặt mà khó lòng giấu được chúng. Hai thầy nên nhớ kỹ. Thôi
hai thầy đi ra, thế là xong rồi!"
Chúng tôi xin tạ Ơn ông cụ, cụ nhất định từ chối.
Túng thế, giữa lúc cụ vô tình, cả hai anh em tôi sụp xuống lạy cụ hai lạy, cụ
phải buộc lòng nhận vậy, nhưng thế nào cũng không nhận tiền.
Đêm hôm ấy, anh em tôi lại vào rừng rồi làm đúng
theo chương trình ông cụ già đã chỉ bảo. Muốn cho cẩn thận anh em tôi hỏi dò mả
của hai con ma đến năm sáu lần, và chúng tôi nhận kỹ địa thế và đánh dấu chỗ ở
của chúng rất minh bạch, chí kỹ không lầm lẫn được nữa. Một hôm trời có nắng,
chúng tôi đợi đến đúng ngọ, vác xẻng vác cuốc vào rừng, đến chỗ hai cái mả mà
chúng tôi đã đánh dấu, khai quật quan tài lên, mở nắp vứt lá bùa vào rõ nhanh
rồi đậy nắp lại, xong lật sấp áo quan cho xuống hố lấp đất lên cẩn thận.
Tối hôm đó, quả nhiên không thấy hai cái bóng trắng
ngồi dới chân nữa. Nhưng hai anh em tôi lúc chợp ngủ đi cùng thấy hai giấc
chiêm bao giống nhau. Trong mộng, cô ả nhân tình ma của đứa nào hiện lên bảo
đứa ấy rằng: - Thôi được! Anh đã đối đãi tệ bạc và tàn nhẫn với em, rồi anh sẽ
biết em báo cừu thế nào! Em truyền hồn cho anh! Em sẽ làm cho anh chết đầu lìa
khỏi xác, giữa lúc còn niên thiếu như em, em mới nghe! Sống anh không muốn làm
chồng em, chết rồi anh sẽ phải làm chồng em, anh nghe chưa?
Chẳng qua đấy là lời hăm dọa vu vơ, chớ nó chết
rồi, còn làm quái gì được ai? Sống chết đã có mệnh, dễ đâu con ma kia có thể
sát hại được cả hai anh em tôi? Chỉ biết từ khi triệt được nó, tôi được bình an
vô sự. Lũ ma hình như sợ tôi rồi, không con nào dám lại trêu tôi nữa. Đêm đêm
tôi được ngủ ngon lành hết sức, tôi ở nhà sàn quá như ở nhà tôi, chả còn e ngại
nỗi gì. Trước kia tôi săn mãi không bao giờ được hổ, báo và hươu nai; nay tôi
bắn được rất nhiều hươu, săn được hàng mười mấy con, gạc chất đầy nhà, bán được
nhiều tiền lắm. Tôi lại vớ được đủ thứ; ngày thì có sơn dương, có cầy hương, có
các thứ chim quí, đêm thì có hoẵng, nai, lợn, báo và chồn. Có một lần tôi ném
phi tiêu giết chết được một hổ mẹ và hai hổ con, vừa đây tôi hụt một con beo
xám to tiếc quá! Từ lúc lũ mẹ ranh thôi không ám tôi nữa, tôi làm ăn khá lắm, chả
ân hận nỗi gì! Anh cả tôi, anh Mạnh Khôi, thì lại thích về mé Chợ Ghềnh, anh
tôi săn ở phía đó không vào đây mấy.
Nhưng kìa! Cô xem có phải sắp sáng rồi đó không?
Chúng ta mải miết nói chuyện mà ai ngờ sắp bạch nhật rồi!
THẦN TRÙNG HỔ
(Tác giả: TCHYA)
Ông Cai Móm lại ngừng một lượt nữa để uống rượu và
hút thuốc lào. Biết tính ông hay hãm câu chuyện bằng những món sở trường ấy, Lệ
Thi và tôi đành đăm đăm ngồi chờ nghe nốt, không dám giục ông nữa sợ nếu làm
cuống quít lên, ông sẽ bị tinh thần rối loạn quên đoạn mạch rồi làm cho sự tích
kém hay đi. May sao, ông không để hai vợ chồng tôi đợi quá. Ông hút thuốc lào
xong, vội vã kể tiệp: Bấy giờ Oanh Cơ trở lại ở đất Đồng Giao làm lụng khâu vá
như thường. Bỗng một đêm, tự nhiên nàng thấy trong lòng bồn chồn khắc khoải,
tuy nằm tận sàn trên, cửa ngõ đóng chặt và chặn kỹ lưỡng cả, thang cũng rút lên
rồi, cửa gác đóng sập xuống rồi, thế mà nàng vẫn thấy lo ngại quá. Nàng cố ngủ
đi cho đỡ mệt, thế mà không sao ngủ được, từ mấy tháng nay, có đêm nào nàng
nhắm mắt được đâu. Nàng cùng cháu mỗi người một góc phòng, thám thính. Lúc bấy
giờ vừa hết canh hai.
Bỗng nghe có tiếng đập cửa thình lình, cấp bách: -
Mở cửa cho tôi với. Mau lên, cô Oanh ơi! Mở mau.
Đầu tiên, nàng nghe rõ cả, nhưng bấm cháu, cố làm
thinh không trả lời. Tiếng đập cửa lại gấp nữa.
- Tôi đây mà, tôi là Lê Trọng Việt đây mà! Mở cửa
mau cho tôi, tôi bảo cái này cần kíp lắm, không thì chết cả bây giờ nào! Mau
lên!
Nghe đến tên Lê Trọng Việt, nàng mới sai cháu thắp
đèn lên, xuống từng sàn dưới dựng liếp, mở rèm, giơ đèn ra ngoài rọi xem. Quả
nhiên là Lê Trọng Việt thực. Người cháu nhanh trí khôn, gọi Việt lại mé cửa
song, vứt xuống cho Việt một cái chạc lớn, bảo tráng sĩ nắm vào chạc mà đu lên,
còn một đầu thì người cháu cố sức kéo. Hì hục một lúc, tráng sĩ lẫn mò lên
được, vội vàng cùng người cháu đóng liếp thả rèm cẩn thận, lấy gỗ chắn ngang cả
cửa song, rồi cùng lên cả từng trên, rút thanh lên, đóng sập cửa gác lại, bắc
ghế để lên trên cho chắc.
Tráng sĩ vừa lên đến nơi, bỗng thấy Oanh Cơ rên một
tiếng, rồi ôm bụng la ó vang lừng, lăn tử trên giường xuống mặt sàn, giẫy giụa
khóc lóc. Hỏi nàng, nàng kêu đau bụng lắm lắm, vừa nói vừa quằn quại dưới chân
tráng sĩ, ôm lấy bụng mà kêu van.
Người cháu lại nâng đỡ cô, đấm lưng cho cô và lần
trong bao, có một miếng mộc hương, bắt Oanh phải bỏ mồm nhai nuốt đi, mặc dầu
nó đắng hơn mật gấu. Nuốt mộc hương rồi nàng vẫn còn kêu đau; được một lúc, đòi
xuống nhà, ra vườn đi đại tiện. Tráng sĩ vội ngăn nàng lại nói rằng:
- Cô điên đấy hay sao? Bây giờ mà đòi xuống nhà, cô
không sợ chết ư? Cô cứ phải ngồi đây. Cô cứ phải ở ngay bên cạnh tôi, chả được
đi đâu cả. Tôi không cho cô xuống!
Oanh Cơ hết sức kêu khóc, một mực đòi ra vườn, nếu
không thì chết mất. Tráng sĩ nhất quyết giữ chặt lấy nàng, mặc nàng kêu la khan
cổ thì thôi. Mãi sau cùng, nàng đau dữ dội kịch liệt quá, cuống cuồng cả lên,
xé cả áo yếm, toan đập đầu vào vách tự tử nếu ngăn cấm không cho nàng toại ý
xuống gác. Tráng sĩ bất đắc dĩ, phải tìm một kế hoạch mới, bảo nàng rằng:
- Cô cần kíp đi sông quá, mà không thể nào xuống
được, thì âu là tôi mở liếp ra, cô ngồi vào bực cửa này, thế cũng được chớ gì!
Tôi chỉ có thể cho phép cô làm thế mà thôi, nếu cô không thuận nữa thì mặc cô,
tôi cứ bắt cô ở đây!
Lần này, Oanh Cơ bằng lòng, nhưng nàng không chịu
cho ai sờ đến nàng cả, muốn cho hai người đàn ông, cháu nàng và tráng sĩ, để
mặc nàng một mình ra cửa sổ, không ai được đến gần. Nàng chỉ rình cho tráng sĩ
vô ý là lao mình xuống đất. Tráng sĩ hình như hiểu biết tất cả, chàng ghé sát
mồm vào tai người cháu nói vài câu nhỏ, rồi giả vờ cho phép Oanh Cơ muốn làm gì
thì làm. Người cháu lại gần Oanh bảo nàng:
- Nào! Cháu đỡ cô lại cửa sổ nào! Khi nào cô an vị
rồi, cháu sẽ buông cô ra!
Kỳ thực, cậu ta giả vờ nói thế, nhưng lại gần đến
liếp thì cứ nắm chặt lấy dây lưng và dải yếm của cô không buông. Oanh giằng co,
mắng cháu tàn tệ, bắt cháu phải thả mình ra. Giữa lúc hai cô cháu đưng xung đột
ấy, nhanh như chớp, tráng sĩ đã nhận được ngay dưới cửa sổ một cái bóng đưng
thu hình ngồi đợi, rình hễ Oanh có văng mình xuống là đỡ lấy đem đi. Chàng giả
vờ lại mé cửa song, can ngăn hai cô cháu:
- Thôi! Cậu bỏ cô ấy ra đi, để mặc cho cô ấy ngồi
một mình!
Mồm tuy nói thế, nhưng chàng đã dang cổ tay sắt
chặn ngang tấm cửa, bấm vào vai Tiêu. Người cháu biết ý, chạy đem cái đèn dầu
lại. Oanh giãy nãy:
- Ô hay! Đem đèn lại làm gì thế này! Tôi thẹn đến
chết mất thôi! Ô kìa! Sao lại thế?
Rồi nàng mắng Tiêu, chửi Tiêu thậm tệ. Tráng sĩ chả
nói gì cả, mặc nàng la ó; chàng sẽ hơi né đầu qua cửa sổ, xem xét tình hình một
chút, nhận rõ đích xác tọa vị của bên địch, rồi rút trong lưng ra cái pháo địa
lôi cùng hai chiếc dùi đồng. Nhanh như cắt, chàng dí ngòi pháo vào đèn, luồn
tay qua vai Oanh ném mạnh cả pháo xuống thềm, ngay dưới cửa sổ.
Tiếng pháo nổ kinh thiên động địa xen với tiếng hổ
gầm rung chuyển vùng lặng lẽ giữa đêm khuya. Tiếp những tiếng huỳnh huỵch nặng
nề tỏ rằng một vật bị thương đương chạy bán sống bán chết. Oanh Cơ nghe tiếng
nổ ngã gục về đằng trước, cháu nàng vội giơ tay nâng đỡ và vực nàng lại nằm
nghỉ trên giường. Hồi lâu nàng tỉnh dậy, hỏi nàng vừa làm trò gì khi nãy, nàng
chối rằng mê đi, chả biết đã xử sự ra làm sao. Thì ra nàng bị hồn ma ám ảnh ốp
vào nàng để chực đưa nàng vào tử lộ. Bấy giờ tráng sĩ mới ngỏ cho nàng rõ chàng
đã tình cờ cứu mạng nàng một lượt thứ hai.
Chàng ngồi kể:
- Tôi vào đây chiều hôm nay, định vào thăm cô trước
khi vào thung lũng mọi ngày để săn bắn. Song không hiểu vì đâu tôi lại nghĩ
rằng: “Mình ở Nam vào, chả có quà bánh gì, lại chơi thì khó coi quá, âu là ta
hãy vào rừng kiếm con cầy con cáo, may ra nếu vớ được con hoẵng, con nai, mai
đem về làm quà, nấu nướng đánh chén với nhau thì vừa lịch sự vừa thú vị!” Tôi
nghĩ thế nên đi thẳng vào rừng lại chỗ nhà sàn của tôi. Tôi thắp hương đốt vàng
khấn thần Linh thổ địa và các vong, rồi theo lệ thường, nằm chèo khoeo ngủ một
giấc dưỡng thần, đợi đến đầu canh hai thì dậy. Không hiểu thế nào tôi chỉ chợp
đi có một chốc, khi tỉnh dậy, thấy một sự rất dị kỳ.
Trước lúc tôi còn ở đây săn bắn, cây cổ thụ chỗ tôi
đóng đô tuy có nhiều rễ từ trên cành mọc xuống, song chưa có rễ nào mọc từ cành
này liền qua cành kia. Đến nay, nó có nhiều rễ như thế lắm trĩu xuống là là mặt
đất, trông như một cái võng. Mới có sáu tháng mà rễ ấy đã chóng tốt thế! Tôi mở
mắt dậy, lúc ấy vừa cuối canh một mà thôi, chưa qua canh hai. Tôi nhìn xuống
gốc cây, thấy một con hổ đương phủ phục nằm đó, hình như ngủ. Song không phải
nó ngủ, bởi chỉ một chốc, thấy nó vẫy đuôi, rồi chồm đứng dậy hai chân trước
víu vào thân cây, tựa hồ muốn đứng thẳng hai chân như người. Quả nhiên nó muốn
thế thật. Mới đầu tiên nó phải dùng thân cây làm chỗ dựa để đứng lên, sau nó
tập quen thì đứng vững được. Nó cố lê đi một bước, đặt đít ngồi lên những rễ
cây uốn cong như võng, còn hai chân thì víu vào những rễ ở là là ngang mặt nó.
Tôi ngồi trên cây, lấy làm kinh dị lắm, cố ngồi yên không cựa quậy, thử xem con
quái vật kia giở trò gì mà càng ngày càng bí hiểm lạ lùng như vậy.
Con hổ an vị rồi thì lấy đuôi đập mạnh xuống đất,
co chân sau lên khỏi mặt cỏ, làm cho mấy cái rễ cây lung lay, đưa đi đưa lại
như võng. Hình như nó cho sự bắt chước loài người như thế là thú lắm, nó ngồi
chễm chệ, vênh váo, có vẻ tự tôn tự tại và đắc ý vô cùng. Nó ngồi như vậy trong
giờ lâu, gầm gầm gừ gừ tỏ vẻ khoái lạc sung sướng tuyệt điểm. Bỗng thấy nó gầm
lên một tiếng, nhưng gầm be bé thôi, không há hốc miệng ra “à uôm” như mọi ngày
đâu. Có lẽ nó ra một mệnh lệnh nên khi vừa hét xong, có hai cái bóng hiện ra
ngồi dưới đất, trước mặt nó: một người đàn ông, áo thâm, quần trắng, tay ôm một
cây đàn dài, một người đàn bà áo thâm, váy thâm, khăn mỏ quạ, cầm một đôi gỗ
phách. Một kép một đào. Tôi mới thấy, cũng đoán đó là ông cả và cô hai nhà ta
vậy. Gia dĩ mặt trăng lưỡi liềm lúc đó lại không bị mây che khuất; dưới ánh
trăng mờ, tôi trông thấy ông cả và cô hai ngồi ngay ở chỗ cả đôi tuẫn nạn ngày
hôm trước. Ông cả lên dây đàn rồi gảy, cô em theo nhịp gõ phách hát. Tiếng đàn
ca nghe rõ mồn một, vang cả một vùng thung lũng. Lần này, thứ tiếng tôi nghe,
nó y như tiếng đàn hát của loài người, không có cái vẻ âm thầm xa lắc xa lơ như
tiếng ma ngày nọ, cái thứ tiếng mà tôi gọi là “bóng lời nói” ấy mà.
Ca hát lâm ly não nuột, tôi nghe cũng còn nhẹ nhàng
khoan khoái cả tâm trí, nữa là hổ. Nó nghe tiếng du dương hình như ngồi ngủ gật
gà gật gưỡng, vừa mơ màng vừa rung rinh đưa võng theo nhịp đàn phách. Nghe như
thế đến gần giữa canh hai. Bỗng thấy con hổ bỏ võng, nhảy chồm lại cào cấu ông
cả, rồi cô hai.
Vẳng nghe có tiếng than khóc và kêu van: - Lạy ông
vạn lạy! ông sinh phúc tha cho chúng tôi! Ông đã biết nhà em nó ở đâu rồi, ông
cứ việc lại bắt nó, hà tất phải cần đến chúng tôi! Lạy ông vạn lạy.
Hổ nhảy lên chồm chỗm, gầm gừ như thất ý, hành hạ
hai kẻ bạc mệnh một lần nữa. Lại than khóc, cầu xin:
- Em nó còn nhỏ dại, ông tha cho nó? Vả nó xấu xí,
hát còn kém cỏi lắm dở hơn tôi nhiều, ông bắt nó làm gì. Nó còn thơ, da thịt
hôi tanh, lại là đàn bà, bẩn thỉu, ông xơi mà làm chỉ Ông tha cho nó.
Đó là lời cô Huyền, Hổ nghe nói thế thì gầm thét
lên, đánh, tát cào cấu túi bụi. Hai oan hồn vừa tránh vừa né, vừa xin:
- Lạy ông muôn vạn lạy! Tha cho chúng tôi, chúng
tôi xin dẫn ông lại bắt nó!
Hổ hất hàm, nhìn chõ vào mặt hai oan hồn, như hỏi
cách bắt ra làm sao. Có tiếng thưa lại:
- Canh ba đêm nay, giờ tý ông ngồi ở dưới thềm.
Chúng tôi đến, làm cho nó đau bụng, run rủi nó xuống sàn, ra vườn đi rữa, ông
sẽ vồ nó đem đi. Nếu nó không chịu xuống, chúng tôi làm cho nó phải đâm đầu qua
cửa sổ phía tây nhảy xuống hiên, ông cứ việc chờ ở đó, đỡ lấy nó mà yên việc.
Ông có bằng lòng không?
Hổ gật đầu, lại ngồi ở võng. Đàn hát nữa.
Tôi xem chừng kíp giờ lắm, chả mấy chốc đến canh
ba; nếu tôi không về ngay, e mạng cô nguy lắm lắm. Tôi sờ tay nải, đếm xem có
bao nhiêu chiếc pháo địa lôi, thì ra tôi đem đi tất cả hơn chục cái. Tôi theo
phương pháp hôm nọ, đốt hai cái ném xuống cạnh hổ, nó vùng cẳng chạy mất, mà hai
oan hồn cũng biến theo. Tôi chẳng quản đêm khuya trời tối, thu thập một vài khí
giới giắt vào lưng, rồi cầm mã tấu trèo xuống. Muốn cho ác thú đừng theo tôi
quấy quả, cứ vài chục thước, tôi lại đốt một chiếc địa lôi cho vang động cả
vùng. Đốt xong tôi chạy, chạy được quãng xa, lại ngừng lại đốt, như thế về mãi
tận đây sờ lưng chỉ còn mỗi một chiếc pháo. Tôi về kịp nên mới cứu cô thoát
nạn, cũng là một sự maỵ Bắt đầu từ ngày mai, cô nên nghe tôi, đừng ở nán tại
đây làm gì nữa. Có và cậu em hãy theo tôi cùng về Gội, ở với mẹ tôi là hơn. Cô
nghĩ thế nào?
Oanh Cơ bấy giờ cảm động đến cực điểm, nàng không
biết lấy gì để tạ Ơn tráng sĩ đã hai lần cứu mạng cho nàng; nàng bèn thành thực
thưa rằng:
- Em đội ơn anh rất dày, dẫu gan óc lầy đất cũng
không đáp đền được. Ngày nay em không còn ai thân thích nữa chỉ có một đứa
cháu, vậy xin tình nguyện theo anh. Nếu anh quả có lòng thương, không chê em là
ti tiện, không quản em là con nhà ca kỹ, thì em xin dùng quãng đời sống sót này
để hầu hạ anh, nâng khăn sửa túi đỡ đần anh, dù phải làm phận tiểu tinh em cũng
cam lòng. Tấm thân băng giá này, em xin phó thác cho anh, gọi là để đáp lại mảy
may tấm lòng trọng nghĩa của anh và ơn anh đã cứu mạng! Có lẽ cũng tại Trời xui
khiến, nên từ buổi sơ thân, tình cờ đã chỉ bảo cho chúng ta biết thân em phải
chọn anh làm chủ. Em đang lúc thụ tang, nói đến hôn thú thực là mang tội cùng
với người khuất; song le, đến nỗi nước này, không thưa thực anh bấy nhiêu lời,
cũng không được. Chỉ mong anh cho biết rõ một điều là anh có ưng thuận hay
không, thế là đủ. Em sẽ theo anh về
Vài lời tâm huyết xuất phát từ tim phổi, xin anh
chớ cười em là người thô lỗ, không biết đắn đo lời nói, cũng như không biết
thẹn thùng. Đối với anh, là người đã hai lần cứu em, đã săn sóc cho em trên
giường bệnh trong nửa tháng trời, em còn phải e lệ ngại ngùng làm gì nữa? Em
một niềm kính cẩn giãi bày tâm sự hầu anh, xin anh định liệu cho em được nhờ, cho
phận em nào em xin bái lĩnh phận ấy!
Câu chuyện Oanh Cơ đến đây là hết, chả biết tráng
sĩ trả lời nàng ra làm sao, chỉ biết ngày hôm sau chàng đem cả hai cô cháu nàng
vượt đèo Tam Điệp đi ra Nam Định. Từ đấy, chả còn ai biết rõ tông tích Oanh Cơ
nữa. Cũng chẳng biết nàng sống hay thác, còn hay mất, có thoát được nạn hổ bắt
hay đã bị mãnh thú ấy tha đi vào rừng lau sậy để ăn rồi! Duy có một điều chúng
ta biết rõ, là hồn anh chị của nàng vẫn thường hiện lên để đàn ca réo rắt, mà
đến nay đã năm sáu chục năm rồi, hai oan hồn ấy vẫn ngậm hờn chưa tan...
Ông Cai Móm nói xong câu chuyện, tôi trông đồng hồ
trên vách thấy điểm hơn ba giờ. Ông Cai phải ngủ lại trong trại của tôi, không
về nhà được. Tôi nghe nói, cũng có phần tin câu chuyện của ông đúng sự thật, vì
nó ý vị và rành mạch xem chừng không phải chuyện người ta cố ý bịa đặt ra. Tuy
nhiên, tín ngưỡng của tôi cũng chửa lấy chi làm vững vàng lắm. Tấm lòng hiếu sự
của tôi xui tôi dò xét xem lời ông Cai nói quả có đúng không hay là chỉ như
những chuyện vu vơ mà người quanh vùng này thường bàn tán? Phải trông thấy hai
con ma đào kép, thì mới có thể tin rằng chuyện nàng Oanh Cơ có thực, không phải
chuyện chơi. Phần nhiều, người trong hạt này, họ chỉ “văn kỳ thanh” mà thôi,
rồi xây nặn ra đủ các thứ cổ tích, chưa ai dám có can đảm vào rừng dò xem bóng
ma bóng quỉ nó ra làm sao.
Chỉ riêng một mình tôi có can đảm ấy. Tôi bắt ép
ông Cai Móm phải đưa tôi vào cái thung lũng xưa kia làm trường săn bắn cho tay
tráng sĩ đã cứu mạng nàng Oanh. Ông Cai hai ba lần ngăn tôi đừng nên đi, tôi
nhất quyết không nghe, bắt ông phải dẫn đi xem cho kỳ được. Bất đắc dĩ, ông
phải chiều lòng tôi. Ông bèn sắm sửa đủ khí cụ và khí giới để vào rừng, rồi hai
thầy trò nai nịt gọn gang, rẽ lau vạch cỏ tìm vào thung lũng. Đi mất ba, bốn
giờ đồng hồ mới tới một nơi um tùm đầy cây cối, cỏ mọc cao vút, lau sậy trắng
xóa, rễ cây cành cây chi chít, phải lấy dao bảy phạt bờ bụi mới vào được.
Chúng tôi tìm đến một cây cổ thụ, luồn dây qua chẻ
cành đánh đu leo lên, rồi lấy dao phạt bớt lá rậm, dọn một chỗ để ngồi. Chỗ đó
có hai cành cây to mọc ngang, chỉ việc lấy một ít then tre hay một tấm phên gác
lên trên là có cái sàn sạch sẽ tươm tất, có thể nằm ngủ được. Dọn dẹp chỗ xong
rồi, hai thầy trò tháo bỏ các đồ đạc đeo trên vai, ngồi nghỉ một chốc, giở các
đồ nguội ra ăn uống. Chẳng bao lâu, mặt trời xế bóng, sương bắt đầu nặng hột,
tối đến lúc nào không haỵ
Hôm đó là một hôm có trăng sáng vằng vặc ngồi trên
cây ngắm xuống thực không còn gì thú bằng. Cái cảnh sương rừng rậm, tôi đã từng
quen lắm, hóa nên cũng không sợ hãi kinh khủng chút nào. Lòng hiếu kỳ làm cho
tôi nhẫn nại và can đảm thêm, tôi cứ ngồi điềm tĩnh trên ngọn cổ thụ, đến xem
ma sẽ hiện thế nào. Thì giờ bằn bặt trôi, chả mấy chốc hết canh một. Các thứ
tiếng chung quanh người tôi nổi lên như một cuộc hòa nhạc âm thầm ảo não, chúng
nó gồm đủ cả âm thanh cao thấp, khoan nhặt, thực là hết sức lạ lùng.
Tôi tuy quen ở đồng rừng, thế mà chưa bao giờ tai
được nghe hết mọi thứ tiếng kêu, tiếng hú, tiếng gọi, tiếng gầm, tiếng la,
tiếng thét, như trong cái đêm hôm ấy. Giọng nói của rừng hoang là một giọng cực
kỳ huyền bí; trong bóng tói âm u, tịch mịch, biết bao giống sinh vật, biết bao
loài thảo mộc, giữa cuộc đua tranh vật lộn, phát ra mỗi giống mỗi loài một khẩu
hiệu riêng, cái đục cái thanh, cái dài cái ngắn, để hòa thành một cái âm hưởng
không tên tuổi, có thể ví được với tiếng ầm ầm, lạo xạo trong một ngày phiên
chợ, hoặc trong một ngày hội hè tấp nập ở một chốn đô thành. Khó lòng tả rõ
được cái vẻ ồn ào phức tạp ấy, chỉ có thể tưởng tượng ra nó mà thôi.
Giữa chốn rừng khuya, tôi có cảm giác là chung
quanh người tôi có một vũ trụ đông đúc, tôi tuy không nhận được bằng mắt song
thấy được bằng tai; thế giới đó bao bọc khăng khít lấy tôi, quay cuồng múa máy
trên đầu tôi, dưới chân tôi, tựa hồ lấy tôi làm đích cho một cuộc khiêu vũ phi
thường. Ông Cai Móm và tôi thu hết can đảm và trí tuệ, ngồi chờ xem một cuộc
phô diễn hiếm có, sắp sửa xảy ra giữa cái vũ trụ hãi hùng náo động ấy. Óc hiếu
sự thực quả xui người ta làm lắm sự cầu kỳ, có khi đến quên cả sinh mệnh, chỉ
có một ý định duy nhất trong tâm hồn là thỏa mản được tính tò mò, mà nếu không
như nguyện được thì ngồi đứng không an, bứt rứt khó chịu lắm. Bởi thế, dẫu vào
nơi hang hùm tổ rắn, để được thỏa thích thói hiếu sự của mình, ta cũng chẳng từ
nan.
Riêng tôi, tính tò mò sôi nổi trong trí não, ngồi
trên cây nóng lòng sốt ruột lắm, chăm chăm chú chú nhìn vào chỗ rễ cây uốn cong
như chiếc võng chỉ ước sao ma hiện ngay ra cho xem mới cam tâm. Tôi đợi cũng
chả lâu lắm: Vào khoảng giữa canh hai, một tiếng gầm to lớn khiến tôi phải giật
nẩy mình. Vừa định thần mở mắt nhìn, tôi đã thấy ngay trên cái võng rễ cây một
con cọp xám, to gấp rưỡi con hổ thường, da vằn đen vằn trắng, trông đẹp lắm.
Ông tướng ấy ngồi chễm chệ như người, hai chân sau bơi bơi trên mặt cỏ để làm
cho võng lúc lắc, mau lẹ vô cùng. Hai chân trước thì giơ thẳng về phía trước,
không bám vào gì cả. Một chốc như thế, tôi vừa chớp mắt có một khắc con con,
trông xuống lại không phải cọp xám nữa, mà là ông cụ già đầu râu bạc phới, ngồi
nghiêng nghiêng trên võng, tay để vào má, xem có vẻ trầm ngâm nghiêm nghị, tựa
hồ đang nghĩ ngợi sự gì.
Tóc tôi tự nhiên bỗng thấy dựng đứng cả trên đầu,
một luồng khí lạnh chạy khắp các mạch máu tôi, luồn vào sống lưng tôi, tôi nắm
chặt lấy cánh tay ông Cai Móm. Giữa lúc đó, ông cụ cọp già kêu lên một tiếng,
như ra một mệnh lệnh.
Ông vừa dứt lời, ba cái bóng không biết từ đâu,
bỗng phơi phới lướt trên mặt cỏ, lại đứng trước mặt ông rồi quỳ xuống lạy ông
cung kính lắm.
Đó là bóng một người, hình như đàn ông thì phải, áo
thâm, quần trắng, búi tóc tay ôm một cây đàn giai; và hai người nữa tựa hồ như
đàn bà, quần áo trắng toát, một làn tóc đen bỏ xõa sau lưng gần chấm gót, tay
cầm vật gì đen đen, trông giống một cái then gỗ nhỏ.
Cả ba cầm tay nhau làm thành một cái vòng, bao bọc
lấy ông cụ già ngồi võng, rồi quay cuồng chung quanh ông cụ, trông chả khác gì
đèn kéo quân. Có một sự rất lạ là dưới gốc cổ thụ chi chít những rễ cây giằng
buộc lấy nhau, những cành cây, những lá cỏ, không có đủ chỗ cho người thường
nhảy múa được. Thế mà ba cái bóng kia khiêu vũ như không có gì vướng cả, họ cứ
lâng lượn phiêu phiêu trong không khí nhẹ nhàng dễ dãi vô cùng.
Họ lượn quanh mình ông cụ một hồi, ông cứ ngồi gật
gưỡng thưởng thức tấn trò ấy như làm thú lắm. Bỗng ông thét lên một tiếng nữa,
to hơn tiếng khi nảy nhiều. Sau mệnh lệnh thứ hai này, trong rừng tự nhiên hiện
ra không biết cơ man nào là bóng, cái trắng lốp, cái xam xám, cái đen sì đều
cầm tay nhau thành mười mấy lớp vòng tròn bay lợn mé ngoài tưởng chừng một cuộc
hội hè của lũ Mọi Châu Phi khi nhảy múa chung quanh thây chết.
Thực là một quang cảnh lạ lùng hiếm có càng xem
sống lưng càng thấy lạnh buốt mà tóc càng dựng ngược cả lên. Đó mới là bài học
hay cho mấy kẻ tò mò hiếu sự như tôi vậy. Tôi cứ bám chặt lấy ông Cai Móm.
Trong khi khủng khiếp, khuỷu chân tôi rủn quá, làm
tôi gần quỵ xuống, phải lấy gân để đứng thẳng người lên. Ai ngờ tôi hụt chân,
bước ra ngoài then tre hụt chân xuống khe sàn, suýt ngã dúi xuống trước mặt ông
Hổ xám. Tôi kinh hồn thất đảm, trống ngực đánh như tim sắp vỡ, hoảng hốt kêu
lên một tiếng vang trời. Ông Cai Móm phải vội vã đỡ lấy tôi, ôm chặt lây nách
tôi nâng lên, nếu chỉ chậm một khắc tôi sẽ bị lăn xông đất.
Tôi kêu thét lên xong, chết ngất đi, không biết
trời đất là gì nữa.
Đến lúc tôi tỉnh dậy, thấy mình đương nằm trong
buồng, trên chăng dưới nệm, và trước mặt có Lệ Thi, Thu Nhi, cả hai đều ra vẻ
lo ngại, trong khi ngồi trên một chiếc ghế đẩu ở góc phòng, ông Cai Móm vừa
chúm chím cười vừa nhai bỏm bẻm một miếng trầu đỏ loét:
- Nào, thầy đã bằng lòng chưa? Lần sau có muốn vào
rừng xem cọp nữa không, thì con lại dẫn thầy đi lần nữa!
Từ đấy trở đi, anh xem, tôi chẳng dám không tin lời
ông Cai Móm, nhưng thực quả là các vàng cho kẹo, tôi đây cũng hết đám vào rừng.
Đêm đêm tôi chỉ cùng Lệ Thi ngồi điềm tĩnh ở một xó nhà, lắng tai chủ ý nghe
xem có nhận được điệu hát đào mà thiên hạ nhao nhao nói đến. Nhưng tôi vô duyên
hết sức; cái lần đáng lẽ được nghe thì chết ngất đi, phải có người nhà cõng về
tận trại, còn những lần sau thì thức suốt mấy đêm ròng mà tịnh chả thấy gì! Thế
mà ai ngờ mới đến đây lần đầu, anh đã có diễm phúc nhận được ngay điệu ca nhạc
đó!
Đấy, điển tích của điệu hát ấy dị kỳ là như thế,
bây giờ anh đã rõ rồi. Có một điều tôi đoán được sau khi theo ông Cai Móm vào
rừng, là có lẽ nàng Oanh Cơ cũng chết về nạn hổ. Bởi lẽ, đúng lý ra, chỉ có hai
cái bóng ma hiện lên diễn trò hầu cọp, cớ sao tôi lại thấy những bả Người thứ
ba chắc hẳn là Oanh Cơ, theo anh chị chết chung một nghiệp. Song chẳng biết
nàng chết bao giờ, chết nơi đâu và có lấy được ý trung nhân là tráng sĩ Lê
Trọng Việt hay chăng? Điều đó hiện còn mờ ám lắm.
ĐÈO Ô QUÝ HỒ
(Tác giả: TCHYA)
Trên con đường từ Chapa qua Phong Thổ, một đoàn
khách dừng chân nghỉ giữa con đèo Ô Qúi Hồ. Đoàn hành khách có mười hai người:
một người đàn bà và một người con gái bé ngồi ghế đăng sơn một người con trai
cưỡi ngựa, còn bao nhiêu là phu khiêng ghế và tải đồ đạc cả.
Hỏi ra mới biết người đàn bà đó là bà Tri Châu
Phong Thổ, chồng vừa ra đất ấy phóng nhậm được ít lâu naỵ Đứa con gái bé là con
bà, người con trai là cháu bà. Đoàn phu để chiếc ghế đăng sơn ở chỗ có bóng
mát, rồi họ tản mác ngồi mỗi người ở một gốc cây để nghỉ chân dưỡng sức. Bà Tri
Châu lúc ấy giở tráp trầu ra ăn một miếng, trông bà có vẻ buồn rầu lo lắng,
nhưng vẻ lo buồn không làm thế nào át được sắc đẹp dịu dàng sắc so của bà. Bà
ăn mặc cực kỳ diễm dắn, nền nếp, không đeo lắm vàng ngọc, không đánh phấn thoa
son; song càng ngắm bà càng thấy có duyên, càng bị say đắm vì đôi con mắt mơ
mộng của bà, đôi mắt đăm đăm nhìn vào khoảng chân trời xa thẳm.
Lúc ấy khoảng ba giờ chiều. Bóng nắng xê xế, trên
đường rừng mát mẻ dễ chịu lắm. Người thiếu niên đi ngựa buộc con vật đỡ chân
của chàng vào một gốc cây rồi đi dạo quanh quẩn ngắm nhìn vẻ đẹp lộng lẫy tươi
thắm của ngàn nội. Tụi phu có vẻ mệt nhọc, vì họ đã tất tưởi cả ngày rồi, ai ai
cũng nhân dịp lúc dừng chân mà quạt mồ hôi, và nghỉ ngơi cho lại sức. Họ để các
rương hòm rải rác dọc đường, núi, rồi ngồi phanh ngực ra mà quạt, có người thì
dựa vào gốc cây, vách đá mà lim dim ngủ, chả ai để ý đến chiếc đăng sơn để ngay
sát rìa núi trước mặt bãi sậy rườm rà.
Bỗng đâu, một tiếng la to làm cho mọi người hoảng
hốt đứng cả dậy, rồi đến tiếng khóc, rỗi đến một lời kêu the thé vang lùng
trong rừng sậy đưa ra:
- Cháu Tiêu ơi! Cháu nhớ lấy lời cô đó!
Xong, im bặt. Cả đoàn ùa lại mé đăng sơn. Cô bé con
nằm chết ngất, ngoẹo đầu dựa vào thành ghế, còn bà Tri Châu đã biến tự lúc nào
rồi. Dưới đất, ngay chỗ đăng sơn, có vết bốn cái vuốt in sâu xuống cát. Đoàn
phu nhận ra đó là dấu chân hổ. Thì ra bà Tri Châu đã bị hổ cắp tha đi!
Bà Tri Châu đó là Oanh Cợ Ngày nay, theo đúng
nghiệp số của nàng, nàng phải theo hai anh chị chết dưới vuốt thiêng loài mãnh
thú. Con hổ này rình nàng từ lâu lắm, nó định bắt nàng đi đã mấy năm nay rồi!
Bới chưa có dịp nào, nó đành phải đợi sau khi bắt hụt nàng một phen ở Đồng
Giao. Tra khảo anh chị nàng, nó biết nàng tất phải qua đèo Ô Qúi Hồ vì theo
chồng ra Phong Thổ. Nó phục trong bụi lau đợi nàng ở đó. Ngày giờ nàng đã đến,
số kiếp nàng đã tận, nàng bị nó nhảy xô ra ngắm chặt lấy lôi đi, giữa khi cháu
nàng và các phu phen đều vô ý mỗi người chăm chú vào việc riêng của mình.
Đời Oanh Cơ thế là đoạn tuyệt; nàng vừa ra khỏi
kịch trường mà nàng đã đóng một vai đào thương hết sức bi ai. Nhưng kỷ niệm của
nàng mãi mãi vẫn không bị ám mờ trong lớp bể dâu; hình bóng nàng còn sống trong
tâm hồn con nàng và cháu nàng, trước khi nhắm mắt lìa đời, nàng đã tìm ra được
một bí mật: là chồng cũ nàng, Lê Trọng Việt không phải bị các quan tòa lầm lẫn
bắt buộc vào tội chết, mà chính là kẻ thù đã thêu dệt đã bịa đặt ra nhiều
chuyện để xui giục quan tòa hạ bút phê án tử hình! Kẻ thù ấy, độc địa thay! Lại
là thầy Thông, người đã cùng nàng gá nghĩa sau này! Cậu ấm Lê Trọng Việt chết
được 3 năm, nàng nghe lời đường mật của thầy cùng thầy đánh bạn. Nàng về nhà
thầy được 3 năm thì thầy bổ đi Bắc Cạn, rồi được 2 năm nữa, thầy thăng Tri
Châu, lên phó nhậm ở Phong Thổ. Trong khi chung chạ, nàng nhận ra thầy Thông là
người gian trá xảo quyệt, chỉ có vẻ ngoài niềm nở lịch sự, mà thực tình trong
lòng chứa đầy các kế độc, mưu sâu, nàng nhận được rằng thầy là kẻ tham lam bôn
tẩu, tìm hết cách hại nhân thắng kỷ, một là để ăn tiền cho giàu có, hai là để
chóng cao thăng. Thầy đã làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu nhân vật
điêu linh, thế mà không tỏ vẻ gì hối hận cả, lại còn đắc ý là đàng khác. Những
giờ chăn gối, nàng có ý gợi câu chuyện chồng cũ, than vãn sao kẻ kia vô tội mà
đến nỗi bị quan trên khép vào án tử hình. Nghe nàng căn vặn thầy Thông cứ ầm ừ
không trả lời sao cả; mãi lâu lắm, lâu lắm, một đêm mà trời đất lạnh lùng buồn
tẻ, một đêm mà hoàn cảnh như gợi lòng người phải mở phanh cho tâm sự lọt ra,
thầy Thông mới khe khẽ rỉ tai nàng, bằng một giọng trầm trầm, ngần ngại:
- Sở dĩ tôi yêu mợ quá, nên buộc lòng phải làm như
thế! Đáng lý ra, anh em họ Lê không đến nỗi chết, chỉ phải tù tội mà thôi; tôi
có nói thêm vào nên họ mới bị xử trảm. Song ngẫm ra đến ái tình là hết, tôi có
quý thương mợ, nên mới gây ra tội ác ấy; không thì sao có ngày nay?
Từ khi nghe lời thú nhận của thầy Thông, Oanh Cơ coi
thầy như con vật dữ, ngoài mặt nàng không lộ ra vẻ gì giận dỗi căm tức cả,
nhưng trong lòng nàng chứa chất một khối oán hận tầy đình. Nàng oán thầy khẩu
Phật tâm xà, làm hại người ngay thẳng để quyến rũ vợ người ta mà vẫn nhơn nhơn
vui vẻ, hình như không coi việc ác của mình là một sự xấu xa.
Nàng trót đã lấy thầy, không nhẽ giết thầy để rửa
hận cho người đã thác; vả có giết thầy chăng nữa, cũng không đủ trả thù rửa
oán; tội thầy đáng phải hình phạt một cách tàn nhẫn, độc địa sâu cay hơn, hình
phạt thế nào cho thầy sống cũng như chết, ăn mất ngon, ngủ mất yên, đêm ngày
tâm trí lo sợ, hối hận, hai mắt dù mở dù nhắm, cũng thấy những cảnh mất đầu đổ
máu tự tay thầy đã gây nên. Như thế, may ra mới xứng đáng!
Nàng muốn tìm một kế báo thù như thế, nhưng thời
gian thấm thoắt, nàng chưa tìm được kế gì. Có lắm lúc mối oán hận trong lòng
như sóng nước chơi vơi, tràn lên tới cổ, nàng muốn chém thầy ngay, đầu độc thầy
ngay, song chợt nghĩ đến đứa con thơ, nàng lại nén dằn khối lòng, hết sức trấn
tĩnh, lộ ra vẻ điềm đạm như thường, khiến thầy khỏi nghi ngờ.
Muốn biết rõ ngày xưa thầy hành động thế nào, Oanh
Cơ lần về Nam Định, đến tòa sứ, hỏi những người bạn của thầy Thông, nhờ họ cho
xem tập hồ sơ của cái án cũ Lê Trọng Việt. Xem tập án ấy, nàng mới hay lá đơn
khiếu nại thầy đã làm hộ cho mẹ con nàng đại ý như sau này:
"Chúng tôi là Bùi Thị Lan, vợ góa của quan
nguyên Lãnh binh Lê Văn Khúc và Nguyễn Oanh Cơ, nàng dâu thứ hai của vị cựu
quan ấy, cúi đầu thành kính xin các quan Tòa đèn trời soi xét trông lại cho
chúng con nhờ.
Nguyên hai tên Lê Mạnh Khôi và Lê Trọng Việt tức là
con, anh chồng và chồng chúng con, gần đây lại can phạm vào vụ cướp ở làng Ngọc
Chính Hạ. Tên đầu đang bọn cướp đó là Nguyễn Quán. có rủ rê người nhà chúng con
làm việc phạm pháp, người nhà chúng con trót dại giúp đỡ quân phản nghịch,
nhưng cúi xin các quan thương cho mà đừng bắt tội, bởi lẽ, nếu hai anh em Khôi
và Việt bị tội, thì họ Lê chúng con sẽ tuyệt tự. Khôi và Việt còn mẹ già năm
nay đã ngoài 50 lại có vợ dại con thơ không biết nàng tựa vào đâu, tình cảnh
thực là bi thiết. Cúi xin các quan mở lượng hải hà, hết sức che chở bao dung
cho, chúng con sẽ ngậm vành kết có, đội ơi các quan lớn vạn bội."
Một lá đơn như thế có bao giờ hai mẹ con nàng Oanh
chịu ký tên ở dưới, nếu thầy Thông không đọc trại đi một cách khác, bảo rằng
hai cậu ấm Lê không từng vào phe với đảng cướp bao giờ. Cứ theo lá đơn này, thì
rõ ràng là, nàng Oanh và mẹ chồng nàng đã nhận rằng hai cậu ấm có đi ăn cướp
thật, và kêu xin quan tòa ra tay tế độ, mở đường hiếu sinh chọ Nàng Oanh xem
đến đấy, khí giận bốc lên ngùn ngụt nàng phải rút khăn lau mồ hôi trán đến bốn
năm lần. Nàng lại giở xem nữa. Đến đoạn lấy khẩu cung, nàng thấy chép bằng
tiếng Pháp, mới mượn người dịch lại cho nghe. Khẩu cung của anh em Khôi, Việt
mà chính thầy Thông hồi ấy đã dịch cho các quan tòa nghe, như sau này:
- "Chúng tôi vì có những điều tức giận nên đi
theo đảng cướp. Nay đã làm nên tội, chúng tôi không hối hận gì cả!"
Trời ôi! Có lẽ nào anh chồng và chồng nàng lại điên
cuồng ngộ dại mà khai như vậy? Thực tình họ có đi theo đảng cướp bao giờ. Con
ngời độc địa sâu cay làm sao. Thế mà ngoài mặt vẫn đạo mao nghiêm trang, nào ai
dám bảo là một kẻ giết người không đao kiếm?
Sau khi ở
- Cháu chịu khó giữ lấy thư này cho kín đáo cẩn
thận lắm mới được! Khi nào em Quyên (con gái nàng) đúng 18 tuổi, bây giờ cháu
sẽ kể sự tích cha nó thế nào cho nó nghe. Và cháu sẽ bảo nó nên theo đúng lời
cô mà báo thù. Báo thế nào cho kẻ kia phải điêu linh, khổ sở, còn cũng như mất
chứ đừng giết hại nó làm gì! Bởi giết nó, tức là gia ân cho nó đấy! Đi chuyến
này, cô cảm thấy mệnh số cô hình như sắp hết; cô cháu ta sẽ cùng nhau vĩnh
quyết nay mai! Trên đời này, cô không còn ai họ hàng thân thích cả, chỉ có cháu
và em Quyên. Cô thường vẫn thương cháu như con, vậy một mai cô có mệnh hệ nào,
cháu sẽ nghĩ tình, tận lực giúp em cho nó trả được thù, ấy là cháu đáp nghĩa
cho cô đấy!
Nỗi lo ngại của nàng Oanh quả nhiên thành sự thực.
Nàng đã bỏ con thơ cháu bé ở lại với cuộc đời tàn ác, để một mình lánh sang cõi
thế bên kia. Câu chuyện sự tích nàng Oanh đến đây là dứt. Từ ngày nàng bị hổ
tha vào bụi, thì cứ những đêm ma dầm gió bấc, những đêm u ám không trăng, trên
quãng đèo Ô Qúi Hồ lại văng vẳng có tiếng đàn ca não nuột, ai bạo gan xông xáo
trong đêm khuya rừng vắng, thì thấy ba cái bóng ma ngồi đàn hát cho một con cọp
lớn ngồi nghe. Quái trạng đó hiện chán ở đèo Ô Qúi Hồ, thì lại quay về hiện ở
Đồng Giao tức chỗ ngày trước nó thường dùng làm nơi cơ sở. Ở đây, cũng như ở
kia, chỉ là do một gốc tích mà xảy ra tình hình ghê rợn ấy.
Nàng Oanh thác rồi, 15 năm sau, con gái nàng mới
thay nàng báo thù cho cha là Lê Trọng Việt. Câu chuyện báo thù ấy, lại là một
vấn đề khác, nó dài dòng lắm, và nó ly kỳ rùng rợn chẳng kém gì câu chuyện của
Oanh Cơ.
Con người độc nhất vô nhị được rõ nguồn gốc và kết
quả sự báo phục ấy là tôi, bởi lẽ tình cờ và duyên số đã khiến tôi đóng một
vai, một vai thụ động trong tấn kịch thương tâm chua xót ấy. Mà cũng vì có chân
trong kịch, tâm tôi bị đeo một vết đau đớn thấm thía đến nay đã bốn mươi năm
rồi, cũng vẫn chưa nguôi... Nhưng mà?... Bây giờ đêm sắp hết rồi, tôi không thể
kể tiếp cho ông nghe được nữa! Mai khi chúng ta lên tới Chapa, trong những giờ
rỗi rãi nhàn cả, tôi sẽ dần dần thuật một lượt để ông thởng thức!
Kìa! ông hút nữa đi chứ! Hút đi và tiêm cho tôi một
điếu xem nào!
Cụ Trần Công Chất nói tới đây, ngừng lại, tôi nhìn
cửa sổ trong phòng thấy ánh sáng nhờ nhờ đương xuyên qua luỗng kính...
BÓNG NGƯỜI DƯỚI VỰC
SÂU
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Trong đợt đi công tác tại tỉnh T… khoảng 10 giờ đêm,
khi xe của chúng tôi chuẩn bị qua cầu, bất chợt xe bị gẫy láp. Thế là phải dừng
lại để sửa. Cư, cậu lái xe ngán ngẩm:
- Xe cũ quá rồi. Lần nào qua cầu sông Mây này cũng
bị hư, kỳ lạ thật!
Anh Hồng, người cùng đi với tôi, là dân thổ địa nơi
đây cười.
- Xe qua cầu, chở nặng hỏng là thường, có gì lạ
đâu. Thôi ta ra khỏi xe hít thở không khí một ít.
Tôi nhảy xuống xe cùng anh, thong thả tản bộ. Trời
khuya lạnh lẽo, tiếng chim ăn đêm kêu lảnh lót. Sương mờ mờ, ánh trăng yếu ớt
xuyên qua màn sương. Bất chợt tôi nhìn thấy một bóng áo trắng lướt qua. Tôi
rùng mình, anh Hồng bảo:
- Cậu lạnh phải không? Mặc thêm áo vào, miền cao
này gió lam khí chướng độc lắm đấy.
Tôi run giọng:
- Hình như có bóng áo trắng lướt qua. Kìa! Nó đang
ở dưới chân cầu kìa. Anh có thấy không?
Anh Hồng bật cười: - Cậu khéo tưởng tượng quá. A,
mà ở đây có ma quỷ là chuyện bình thường vì ngày xưa đây là bãi chiến trường.
Cư xen vào: - Chắc là con Hạnh và thằng Tú hiện về
chứ gì? Ngày nào chúng nó chẳng nhát tụi em.
Anh Hồng ngạc nhiên:
- Con Hạnh và thằng Tú nhảy cầu chết ấy à? Tớ nghe
nói chúng nó chuẩn bị làm đám cưới kia mà.
- Chúng chết lâu chưa?
Cư cười khì:- Đã ba năm rồi, anh ở trên tỉnh đâu có
biết gì? Kia kìa, chúng nó đang cười sằng sặc, múa hát ầm ĩ, ai yếu bóng vía là
chết ngay với chúng.
Tôi hỏi: - Cư có vẻ rành câu chuyện này quá. Cậu kể
cho tớ nghe với.
Cư gật đầu: - Hai đứa nó là hàng xóm với nhau. Yêu
nhau tha thiết cha mẹ chúng nó ngăn cấm vì hai bên gia đình có ân oán với nhau,
vì chuyện gì thì không biết. Chúng nó lén lút nhau ra rẫy hẹn hò. Bị bắt quả
tang. Thế là bị gọt đầu bên suối. Con Hạnh nhục quá ra cầu Mây nhảy xuống tự
tử. Thằng Tú cũng vậy linh hồn không siêu thoát nên hiện ra chọc ghẹo mọi
người. Cả hai gia đình rất ân hận nhưng muộn quá rồi.
Anh Hồng chép miệng: - Tội nghiệp chúng nó quá nhỉ.
Thế không ai lập cho chúng cái miếu để chúng có chỗ nương thân.
Cư cười: - Lập miếu, rồi mời cả pháp sư nữa, nửa
đêm ra cúng. Nhưng đến hôm sau, lão pháp sư sợ quá, bỏ nghề luôn, bây giờ điên
khùng nằm ở nhà.
Tôi bảo: - Thế ta xuống với chúng nó, thắp nén
nhang gọi là lòng thành. Biết đâu gặp người có lòng, chúng sẽ không quậy phá
chúng ta nữa.
Cư tròn mắt: - Anh liều thế. Coi chừng nó dụ anh
xưống nước chết chung với chúng nó đấy.
Tôi cười: - Xưa nay chỉ có ma sợ người, chứ làm gì
có người sợ ma. Nào, ta đi!
Cả ba chúng tôi bỏ xe rọi đèn pin xuống cầu. Tôi
nghe có tiếng thì thào.
- Nào! Xuống đây với em. Em đang ở đây này.
Tôi như người mất hồn, cứ theo bóng áo trắng là là
bay. Nhưng rồi, một cú giật mạnh khiến tôi tỉnh lại. Anh Hồng đang níu chặt tay
tôi, nói không ra hơi.
- Cậu nhìn kìa, chút nữa thì rơi xuống vực. Thôi,
mau lên ngay.
Tôi tỉnh lại, vội vã nhìn xuống. Trời ơi, chỉ chút
nữa là tôi đặt một chân xuống vực. Hú vía, mà cái bóng trắng kia cứ giơ tay vẫy
gọi mãi. Tôi lủi thủi bước lên cầu, cả ba chúng tôi ngồi trong xe chờ trời
sáng.
NGHIỆP CHƯỚNG 2
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Phần I:
Việc con gái cưng Thể Phụng chuyển bụng sinh kéo
dài đến ba ngày mà vẫn chưa sinh được đã khiến bà Phủ Hoài lo lắng, đứng ngồi
không yên. Đến chiều ngày thứ ba thì bà hết kiên nhẫn, gọi cô em chồng bảo:
- Cô kêu xe chở con nhỏ lên ngay Sài Gòn đi, thầy
bà, mụ đỡ ở Cần Thơ này kêu họ bỏ nghề hết cho rồi! Ai đời có chuyện sinh con
mà làm ba ngày rồi cũng chưa được! Tôi đây sinh sáu mặt con mà chỉ cần mụ vườn
cũng cái "rẹt" là xong!
Cô Út Nguyệt phân trần:
- Không phải họ dở đâu chị Hai. Mà chỉ vì con Phụng
sinh khó, nghe mấy bác sĩ ở bệnh viện nói không chừng phải mổ để lấy con ra nữa
đó!
Bà Phủ kêu lên:
- Không được đâu! Con gái tôi lá ngọc cành vàng,
thân thể ngà ngọc mà mổ xẻ thì còn gì con nhỏ!
Út Nguyệt vẫn cố giải thích:
- Người ta nói nếu không mổ coi chừng đứa nhỏ trong
bụng bị ngạt mà chết chứ chẳng phải chơi!
- Cô này nói xui xẻo không hà! Mà thôi, đi đánh
điện cho thằng tài xế về nhanh lên, để chở nó đi liền!
- Đánh điện, nhận điện rồi đi về hai ngày nữa mới
tới, chắc là con Phụng nó đau mấy lớp rồi! Sao không nhờ xe của bên nhà Phán
Hữu cho tiện?
Bà Phủ trề môi: - Thèm mượn của nhà đó! Cái xe
Traction "cà tàng" đó chở con nhỏ đi bị dần xóc, chắc con Phụng sinh
trên xe chứ không đợi tới nhà bảo sanh! Vả lại, nhà đó có ưa gì bên mình đâu mà
mượn với vay. Cô không nhớ vụ con Thể Phụng từ hôn con trai họ sao? Họ thù nhà
mình lắm!
Nguyệt vẫn nói: - Theo em thì nếu mình nhờ là họ
đáp ứng ngay! Mới hồi sáng này thằng Lộc còn qua hỏi thăm sức khỏe con Phụng
đây, và còn gửi chục cam sành nói là của má nó mua biếu cho con Phụng! Họ còn
thương con Phụng lắm!
- Thương với yêu gì cái ngữ ấy! Tôi nói thật, con
Phụng từ hôn đúng lúc, chứ nếu không thì đời con nhỏ sẽ khổ cho mà coi! - Bà
Phủ gạt ngang.
- Nhưng theo em thấy...
Thấy Út Nguyệt cứ một mực bênh vực cho họ, bà Phủ
gắt lên: - Tôi nói rồi, nhà đó không
được! Cô thấy không, gả con Phụng cho cánh này, nó...
Bà bị Nguyệt cắt ngang: - Tôi thấy có ngon lành gì
đâu! Đến đỗi con nhỏ tới ngày sinh mà thằng chồng còn không ló mặc về, thì thử
hỏi...
Bà Phủ tuy bị cứng họng, nhưng vẫn cố nói:
- Thằng Tường nó bận công chuyện làm ăn nên về
không kịp, chứ đâu phải không về! Mà đàn ông thời buổi này họ lo làm ăn nhiều
hơn là lo cho vợ con. Mà nói thật, tôi cũng không thích loại đàn ông cứ tối
ngày lẽo đẽo bên vợ, ru rú trong nhà!
Út Nguyệt trề môi, lắc đầu: - Đàn ông mà đi mịt mù
kiểu đó ham cái gì! Tôi để ý rồi, bữa báo tin con Phụng sinh khó, bảo nó về
gấp, vậy mà nó có về đâu.
Bà Phủ vẫn chống chế: - Trên Sài Gòn báo điện về
nói thằng Tường phải đi
Đà Lạt lo việc làm ăn gì đó về không kịp.
- Đà Lạt chứ phải bên Tây Tàu gì đâu mà năm sáu bữa
rồi về không tới? Nói thật với chị, chị cứ bênh nó hoài như vậy có ngày à...
Bà Phủ biết Út Nguyệt vốn có cảm tình với nhà Phán
Hữu, mà thằng Lộc, con họ từng là bạn học của Nguyệt, nên khi Phụng từ hôn với
Lộc, chính Nguyệt là người phản đối đầu tiên và còn quyết liệt phản đối việc
Thể Phụng lấy Tường, con trai một của nhà trọc phú Ba Lến!
Biết cứ để cho Út Nggyệt nói một lát, cô ta sẽ càng
nói linh tinh, nhức đầu lắm! Cho nên bà Phủ liền nói cho qua: - Thôi được, cô
muốn nhờ ai đó thì nhờ. Nhưng tôi không ra mặt đó!
Út Nguyệt hăng hái:
- Để tôi lo, chị Hai coi như không biết!
Cô chạy đi một lát, khi trở về đã hí hửng:
- Thằng Lộc sẽ trực tiếp lái xe đưa con Thể Phụng
đi và chờ để đưa về nữa!
Bà Phủ có vẻ khó chịu, nhưng đành phải im lặng để
Nguyệt lo. Tuy nhiên bà dặn: - Coi chừng con Phụng sẽ không chịu lên xe đó
nghen!
Út Nguyệt nheo mắt: - Bảo đảm với chị, con nhỏ được
thằng Lộc chở đi sinh nó sinh lẹ hơn cho chị coi.
Nửa giờ sau, chính Lộc lái chiếc Traction qua tận
bệnh viện tỉnh, rước Thể Phụng và đưa đi Sài Gòn. Út Nguyệt đi theo. Trên đường
đi, Út Nguyệt cười ngặt nghẽo: - Bà già bị tao gạt mà cũng đành ngậm tăm mà
chấp nhận! Bà ấy đâu có biết là con Phụng tính lộn ngày mang thai nên phải một
tuần nữa mới tới ngày sinh. Bây giờ hai đứa bay tha hồ mà hú hí, chừng nào sắp
sinh thì điện tín về cho bà ấy hay.
Thể Phụng hơi lo: - Lỡ má con đòi lên Sài Gòn thăm
con thì làm sao?
- Thì thằng Lộc "thêm tay thêm chân" cũng
vài ngày thôi, chứ bộ muốn cả tháng sao. Lúc đó tao đã đưa con này vào nhà bảo
sanh rồi, bà ấy có lên cũng đâu có sao.
Lộc cười gượng, anh nhìn sang Phụng nói mà lòng đau
như cắt: - Đáng lẽ mình tạo cả hình hài chứ đâu chỉ thêm tay thêm chân như thế
này. Nhưng sao cũng được, miễn Phụng hiểu cho lòng dạ con là được rồi, dì Út.
Út Nguyệt cũng xót xa: - Thấy tụi bay mà lòng tao
cũng đau. Cũng tại thằng
Lộc hết, lúc sắp đám cưới con Phụng, tao đã bảo là
hai đứa cứ bỏ trốn mà mày không dám!
Lộc chống chế: - Dì Út xúi nghe cũng phải, nhưng
con mà làm vậy, ông Phủ cào nhà ba má con! Vả Iại Phụng lúc ấy có đồng tình đâu
mà con dám...
Thể Phụng bùi ngùi:
- Tại má em đòi chết nếu em không từ hôn anh và lấy
thằng Tường! Nói phải tội, chỉ vì má em ham cái tài sản khổng lồ mà thằng Tường
được hưởng, chứ bà thừa biết em đâu thương yêu gì thằng đó!
Út Nguyệt chợt điểm mặt cả hai: - Nhưng tao cảnh
cáo nghe. Hai đứa bay cứ lén lút tò tí với nhau có bữa thằng Tường nó hay được
thì có mà chết! Mà tao cũng nghi quá, không biết cái thai trong bụng mày đây
thằng Lộc đóng góp hết mấy chục phần trăm.
Thể Phụng đập vào vai bà cô mình mấy cái liền:
- Cô này... biết rồi còn phải hỏi! Mà nói thật, nếu
đổ bể ra con sẽ khai trong vụ này đầu dây mối nhợ là do cô Út! Chính cô bày
đầu, chính cô chỉ đạo!
- Cha mày, giúp cho tụi bay mà bây giờ mang tiếng.
Lộc chen vào: - Con cám ơn cô Út. Nếu không có cô Út giúp thì qua vụ bị từ hôn
vừa rồi, con đã cắn lưỡi mà chết cho rồi! Đó là chưa nói ba má con đã nhục nhã,
uất ức vô cùng khi bị từ hôn.
- Thôi thì bây giờ tao đền cho! Mà nói thật, không
phải tao trù, chứ còn chuyện vợ chồng con Phụng, tao dám chắc sẽ không thọ đâu.
Một khi con Phụng bỏ thằng Tường, mày dám nhận lại nó không?
Lộc đáp không cần suy nghĩ:
- Con thề có trời, con nhận liền.
- Hưởng xái cũng được sao?
- Xái hay nguyên gì cũng được hết! Cô Út quên là
con từng nói, nếu Phụng có tan nát hết đời thì con vẫn yêu Phụng, con quyết ăn
đời ở kiếp với Phụng!
Thể Phụng bật khóc thành tiếng. Cô lắc vai Nguyệt:
- Cô Út đừng nói nữa, con... chết bây giờ!
Út Nguyệt nhìn cháu gái mình rồi nhìn sang Lộc và
thở dài...
Bất chợt Lộc nói: - Nếu bây giờ tụi con bỏ trốn
luôn thì cô Út có giúp con không?
Út Nguyệt giật mình:
- Có phải hai đứa đã có tính trước phải không?
Thể Phụng ôm vai bà cô mình: - Tụi con không giấu
cô Út, hai đứa tính chuyến này trốn luôn! Tụi con sẽ đi thật xa, rồi sau khi
sinh xong, chúng con sẽ lập nghiệp nơi đó luôn. Vậy sau khi đưa tụi con lên Sài
Gòn xong thì cô Út quay về, sau đó khoảng một tuần lễ Út hãy nói với mọi người
rằng sau khi sinh xong, con đã đi đâu Út không biết!
Út Nguyệt sợ hãi: - Chuyện này thì không nên đâu! Hay
là để sinh nở xong đã, đứa con này đem giao cho bên nội nó, rồi tụi con muốn đi
đâu cũng được!
- Tới nước này con xin nói thật với cô Út, con
không còn đứa con nữa! Phụng khóc rấm rứt.
Câu nói như sét đánh ngang tai Út Nguyệt, cô run
giọng hỏi: - Con nói gì, Thể Phụng?
Bây giờ Phụng bình tĩnh trở lại: - Con đã phá cái
thai này ngay từ tháng thứ năm rồi!
- Phụng! Nguyệt gọi một tiếng lớn rồi nhìn sững đứa
cháu gái mình. Mọi việc như một giấc mơ. Hồi lâu cô mới hỏi lại:
- Sao tới giờ con vẫn còn mang thai?
Bất ngờ, Phụng giở áo ngoài lên, để lộ cái thai giả
quấn bằng vải độn gòn bên trong và kể:
- Út nhớ trận đau nặng của con cách nay mấy tháng
không? Đó là lần con phá thai, suýt mạng vong! Sau khi phá xong, bởi thằng
Tường đâu có khi nào ở nhà, cho nên con dễ dàng qua mặt bên chồng bằng cái bụng
giả này! Sở dĩ con làm vậy là vì con không muốn có bất cứ mối quan hệ nào với
cái gia đình quái quỷ đó.
Con đã tính cùng với Lộc bỏ đi từ lúc ấy, nhưng
chưa thuận lợi, nên mới nấn ná tới bây giờ. Đây là thời điểm thích hợp để tụi
con thực hiện ý nguyện của mình, vậy cô Út hãy giúp con lần cuối! Con lạy cô
Út! Út Nguyệt chới với, ngẩn ngơ một lúc mới thở dài nói:
- Tụi bay đặt tao trước việc đã rồi này thì bảo tao
còn làm cách nào được nữa! Thôi thì muốn làm gì đó cứ làm...
Cô móc trong túi ra còn một số tiền, thấy quá ít
nên vội tháo luôn chiếc xuyến đeo trên tay và đôi bông nhận hột dừa luôn cho
Thể Phụng:
- Cô không có nhiều, chỉ có bấy nhiêu thôi, hai đứa
cầm đỡ để tiêu xài, rồi có gì cô liên lạc sau và giúp tiếp!
Phụng xua tay: - Không cần đâu cô Út ơi! Con đã
chuẩn bị từ lâu nay rồi, nên đã ngầm tích trữ, hiện nay cũng có được một số vốn
kha khá, có thể gầy vốn làm ăn, sinh sống được, cô…
Suốt dọc đường đi, câu chuyện của ba người chỉ xoay
quanh đề tài bỏ trốn. Đến xế chiều thì họ tới một nơi mà Lộc nói: - Tối nay Út
ngủ lại với tụi con chỗ này. Đây là ngôi nhà nhỏ mà tụi con đã âm thầm chuẩn bị
từ mấy tháng nay, rất kín đáo, nên chắc chắn không một ai biết!
Đó là một xóm ngoại ô rất vắng vẻ nhà cửa, ít người
qua lại. Ngôi nhà tuy nhỏ nhưng có được khoảng sân, có chỗ để xe kín đáo. Phụng
hớn hở trước khung cảnh mới mẻ này, cô ôm chầm lấy Út Nguyệt: - Đây mới thật sự
là tổ ấm của tụi con đó cô Út ơi!
Nhìn qua một lượt, Út Nguyệt gật đầu: - Cũng khá ấm
cúng. Thôi, Út mừng cho hai đứa con. Còn bây giờ coi bộ con Phụng mệt rồi, hãy
mở cửa vào nhà cho nó nghỉ ngơi, trong lúc đó để Út đi ra ngoài kia mua chút gì
về chuẩn bị bữa cơm trưa nay và cho cả bữa chiều luôn!
Cô nói xong đi liền. Trong khi đó Thể Phụng cũng
mệt thật sự, cô bảo Lộc: - Anh cất xe cho kỹ, đừng để người quen nhìn thấy. Em
đi nghỉ chút đây.
Cô mở cửa đi thẳng vào phòng khách. Nhưng vừa bước
vào cô đã phải khựng lại, bởi ngay giữa bộ ghế trường kỷ đã có một người ngồi
sẵn! Đó là một phụ nữ tuổi trung niên.
Bà ta không để Phụng lên tiếng, đã nói ngay:
- Đã sinh rồi mà cái bụng sao còn lớn vậy?
Phụng giật mình, nhìn sững bà ta: - Bà là...
- Là người đem tin chẳng lành đến cho cô! Cô có
muốn nghe tin về đứa con bị bỏ rơi không?
Như giẫm phải lửa, Phụng thảng thốt:
- Bà... bà nói gì? Tôi nào có... có bỏ ai.
Người phụ nữ mặt đanh lại: - Chuyện bỏ con là
chuyện riêng cô, còn tôi là người tới để bắt cô phải chịu trách nhiệm về đứa
con của mình.
Bà ta lấy ra từ trong giỏ xách một tấm chăn bông và
chiếc áo ấm còn mới, đưa cho Phụng và nói gay gắt: - Người ta sinh con ra khi
không nuôi, đem cho người khác thì ít nhất cũng bọc con trong cái chăn cỡ này,
mặc cho đứa nhỏ cái áo ấm cỡ này... Có đâu như cô, chỉ cho đứa nhỏ một cái bao
cũ, mấy tờ báo cũ để gói và liệng xuống ao!
Bà ta nói đến đâu Thể Phụng gai ốc đến đó, và cuối
cùng cô phải bước lùi mấy bước run run hỏi:
- Bà là... là ai? Bà tới đây để...
- Tôi nói rồi, tôi tới để bắt cô chịu trách nhiệm
về đứa con bị bỏ rơi của mình.
Phụng cố chống chế. - Đứa con đó tôi bị hư thai. Bỏ
nó là lẽ đương nhiên...
Giọng người đàn bà đanh lại: - Nó đâu có chết khi
thai đã hơn năm tháng tuổi! Lúc ấy nó đã thành hình và khi lọt lòng nó đã là
một sinh mạng! Cô...
Thể Phụng vùng chạy ra ngoài trong tâm trạng bấn
loạn, sau lưng cô, giọng nói kia vẫn vang lên:
- Cô không thèm nhìn mặt con mình hay sao? Nó đi
tìm cô mà cô vẫn nhẫn tâm thì đừng có trách!
Phụng dừng lại ngay, cô sửng sốt:
- Nó làm sao sống được?
- Cô không nghe ai khóc trong phòng hay sao?
Lúc này Phụng mới để ý lắng nghe, và hốt hoảng khi
nghe rõ mồn một tiếng trẻ con khóc trong nhà!
- Ai?
Người phụ nữ giọng vẫn lạnh lùng: - Vào mà nhận con
đi!
Như bị điện giật, Thể Phụng la lên:
- Tôi không có con! Tôi...
Người phụ nữ đứng vụt lên và bước thẳng ra ngoài
cửa. Vừa lúc Lộc cất xe xong bước vào, anh ngạc nhiên: - Có chuyện gì vậy em?
Vừa lúc tiếng khóc lớn hơn của đứa trẻ vọng ra,
khiến cả Lộc và Phụng đều sửng sốt, họ chạy bay vào và... đứng sững lại trước
một đứa trẻ hình hài quái dị đang nằm trên giường, khóc thét từng hồi!
Lộc bình bĩnh hơn, anh nói: - Tìm hiểu xem là con
ai mà bỏ đây đã, rồi sẽ tính.
Nhưng Phụng đã run rẩy và lắp bắp:
- Là con... con của... em!
Đến phiên Lộc há hốc mồm: - Em điên hả Phụng?
- Em nói thật. Nó là cái bào thai năm tháng tuổi mà
hôm trước anh dẫn em đi phá đó...
Lộc ngơ ngác: - Nó đã chết ngay sau khi lấy thai ra
mà! Chính anh đã thấy...
Thể Phụng rụng rời tay chân, phải ngồi bệt xuống
sàn, mặt tái xanh... Lộc hỏi lại:
- Ai nói với em chuyện này?
- Lúc nãy anh không thấy người phụ nữ từ đây đi ra
sao? Chính bà ta tới giao con và nói rõ...
Lộc chợt nhớ ra: - Bà ta... anh nhớ ra rồi, bà này
là người nhà của bà mụ, người anh đã nhờ lo vụ phá thai cho em. Hồi nãy thấy bà
ta đi ra anh cứ tưởng là em có hẹn để nhờ vả chuyện gì đó...
Nhìn lại đứa trẻ một lần nữa, Lộc chợt rùng mình,
anh nói rất khẽ với Phụng:
- Mình phải làm sao... chứ để vậy sao được?
Phụng nói như khóc: - Làm sao thì... em đâu biết.
Mà trời ơi, sao nó chỉ có một con mắt và không có cái lỗ mũi! Nó là người hay
là...
- Là người! Là đứa con được người sinh ra đàng
hoàng chứ bộ!
Tiếng nói đó phát ra từ đâu cả Lộc và Phụng đều
không biết, họ ngơ ngác nhìn nhau rồi đảo mắt khắp phòng, tìm kiếm...
- Con đây nè!
Lúc này họ mới tá hỏa, bởi tiếng nói đó phát ra từ
đứa bé! Thể Phụng gần như bò lết dưới sàn, cô hoảng loạn chỉ muốn bỏ chạy mà
không làm sao đứng lên được. Chợt giọng nói kia lại cất lên:
- Sao gặp con mà mẹ không mừng? Con là Tài đây mà.
Tài Lộc, Lộc Tài, cái tên hồi đó mẹ dự định đặt cho con, mẹ không nhớ sao?
Giọng nói hướng về phía Lộc:
- Ba của con đây mà! Tài Lộc của ba đây!
Lộc chết điếng: - Con... con..
Anh chỉ nói được mấy tiếng rồi cứng họng đờ đẫn cả
người... Trong khi đó thì đột nhiên đứa bé nhanh như sóc nó phóng từ giường
xuống rồi nhảy lên đeo cứng Thể Phụng, khiến cho cô phải ẵm nó khác nào mẹ ẵm
con!
Giọng nó lại rót vào tai Phụng:
- Hãy ẵm con cho chắc con mà té thì con chết. Mà
con chết thì.. người ẵm cũng chết theo luôn!
Phụng hầu như không còn kiểm soát được mình, cô sắp
ngã người sang một bên thì Lộc đã kịp thời lao tới chụp lại kịp. Đứa bé thích
thú cười vang:
- Như vậy phải được không! Có cả cha lẫn mẹ cùng ôm
con như vậy mà bấy lâu nay con cứ tưởng là không bao giờ có được! Con cám ơn
cha mẹ...
Phụng đã thật sự ngất. Lộc ngẫu nhiên trở thành
người phải sang tay, ẵm đứa bé, để nó khỏi té. Và đến phiên anh nghe đứa nhỏ
thỏ thẻ bên tai: - Con đã về đây rồi thì đừng hòng đưa con đi nữa...
* *
*
Phải khó khăn lắm Thể Phụng mới thoát được ra khỏi
nhà. Suốt ba ngày phải sống trong cực hình, nằm bên một đứa trẻ mà nội hình hài
của nó thôi Phụng đã phát chết khiếp. Có lẽ nhờ cô phát bệnh từ hôm đầu, cho
nên suốt mấy hôm nay Lộc là người phải chịu trận bồng ẵm, chăm sóc cho nó!
Có một hôm lợi dụng lúc nó ngủ, cả Lộc và Phụng
liền lẻn ra khỏi nhà, định bỏ trốn, nhưng khi vừa leo lên xe thì đã bị nó leo
lên lúc nào chẳng biết và đeo cứng cổ, không cho Lộc lái xe! Bởi vậy bữa nay
nhân nó nằm ngủ với Lộc, Phụng dặn trước Lộc, cô sẽ đi tìm bà mụ, người đã lấy
thai ra cho cô, để hỏi cho rõ, nhất là gặp người đàn bà kia, hầu nhờ giải quyết
vụ này.
Quả nhiên Phụng thoát được, cô đi một mạch về chợ
Phụng Hiệp. Tuy lần đó đi lén vào ban đêm, nhưng Phụng vẫn còn nhớ nhà, cô hỏi
thăm thì được người ta chỉ đúng chỗ bà mụ. Bà vừa gặp Phụng đã nhớ ra, bà ngạc
nhiên hỏi:
- Sao, bộ cô có thai nữa và cần... phá nữa sao?
Phụng ngượng đỏ mặt:
- Làm gì có. Tôi tới là để thăm lần phá năm đó bà
chắc là cái thai đã chết không?
Bà mụ Ba hơi sựng lại một chút, rồi đáp: - Thì...
lấy ra khỏi bụng mẹ thì... coi như chết chứ sao!
- Nhưng... cỡ thai đó nuôi có sống được không?
- Hơn năm tháng, làm sao sống được.
- Vậy sao...
Phụng sợ nói ngang bà mụ không hiểu, nên hỏi lại: -
Hồi bà làm cho tôi, tôi nhớ có một bà phụ việc... bà đó bây giờ còn ở đây
không?
- Bà Tám Thôi, chính bà ta đã là người giúp đem đứa
nhỏ đi mai táng. Bà đó làm ăn đàng hoàng, chu đáo, nên cô đừng lo, vong hồn đứa
bé chắc là cũng siêu thoát rồi. Chỉ tiếc là hồi đó tôi quên không hỏi bà ấy
chôn cái xác đó ở đâu để mai mốt mình đem vào chùa cầu siêu cho nó.
- Tôi muốn gặp bà Tám đó, bà làm ơn...
Bà mụ Ba đáp gọn lỏn:
- Bà ấy chết cách đây hơn một tháng rồi!
Câu nói khiến Phụng tá hỏa: - Bà nói gì? Ai chết?
- Thì bà Tám Thôi, bà bị chết bất đắc kỳ tử mà
chẳng thấy có bệnh gì! Bởi vậy tôi mới không kịp hỏi bà chôn cái thai ở đâu.
Phụng phải vịn vào thành ghế mới đứng vững được,
người cô run và phải một hồi sau mới có thể hỏi tiếp: - Có phải chắc chắn đúng
bà ấy là người đã cùng làm với bà?
Bà mụ Ba nói chắc nịch: - Mấy cái vụ này thì làm
sao dám cho người ngoài sờ tay vào. Bà Tám này xưa nay có tay nghề và kín
miệng, cho nên chỉ mình bà ta là cùng làm với tôi, chứ không có ai khác cả!
Chưa tin hẳn, Phụng hỏi thêm: - Bà chỉ nhà giùm...
tôi tới thắp cho bà ấy nén nhang.
Nghĩ là Phụng có lòng, nên bà mụ Ba chỉ và còn dặn:
- Bà ấy hoàn cảnh khó khăn, cô có tới thì cũng cho bà ấy chút đỉnh.
Phụng đi ngay tới chỗ đó. Khi bước vào nhà thì cô
đã nhìn thấy tấm ảnh chân dung của bà ta đặt trên bàn thờ, Phụng kêu khẽ.
- Đúng là bà ta rồi!
Người nhà đón tiếp Phụng rất ngạc nhiên khi thấy
một người lạ mà tới nhà họ, nên đã hỏi thẳng:
- Cô tới để nhờ vả vụ... phá thai phải không? Nếu
là chuyện đó thì yêu cầu cô đi ngay cho!
Phụng phải đính chính: - Dạ không phải, tôi là
người quen cũ, nhân về qua đây ghé thăm bà gửi cúng bà ít quà...
Cô lấy ra một số tiền kha khá đặt lên bàn thờ và
nói: - Cầu cho vong linh bà Tám siêu thoát...
Người con gái lớn của bà bỗng ôm mặt khóc:
- Má tôi đâu có làm gì ác, mà sao từ khi chết đến
giờ đêm nào cũng về báo mộng, toàn là chuyện gì đâu không, làm cả nhà mất ăn
mất ngủ?
Phụng tò mò: - Có chuyện gì vậy?
Nghĩ Phụng cũng là người quen với má mình, nên chị
nọ không giấu: - Má tôi chết mà không có bệnh gì, tôi đã nghi rồi... không ngờ
có thật? Đêm nào bà ấy cũng về báo là bị một oan hồn uổng tử đeo theo phá, đòi
đền mạng! Bà sợ hãi, khóc lóc và kêu cứu, nhưng mình là người trần thì làm sao
cứu giúp được những vong hồn cõi âm.
- Uổng tử là cái gì?
- Là vong hồn của trẻ nhi bị chết oan! Chẳng hiểu
lúc giúp cho bà mụ Ba, má tôi có phạm phải tội ác gì hay không mà...
Chị nói tới đó thì lại khóc lớn hơn. Rồi lát sau
hơi bình tâm lại, chị chỉ lên bàn thờ và bảo: - Có cái tên của người nào đó mà
lần nào hiện về má tôi cũng bảo ghi lại. Hỏi để làm gì thì bà nói để bà chỉ cho
đứa uổng tử kia, để nó không còn đeo theo bà nữa!
Phụng như bị lôi cuốn vào câu chuyện, cô đứng lên
và bước về phía bàn thờ, rồi tiện tay cầm lên mảnh giấy nhỏ có ghi mấy chữ: Thể
Phụng, con gái bà Phủ Hoài! Phụng tái
mặt, cô tìm cách tháo lui ngay:
- Xin lỗi, tôi có việc phải đi... để lần khác tôi
tới thắp nhang cho bà Tám sau.
Ra đường rồi Phụng đi như chạy và lúc này trong đầu
cô hình ảnh của bà Tám Thôi hôm gặp cô ở nhà đang là nỗi ám ảnh khủng khiếp! Và
theo như những gì đứa con gái bà thuật lại hồi nãy thì chuyện bà ấy mang đứa bé
tới giao cho Phụng không phải là ý của riêng bà. Đó là ý của... oan hồn uổng tử
kia!
Trở về Sài Gòn ư? Điều này Phụng không dám. Nhưng
để cho Lộc chịu trận với đứa bé thì khác nào biết anh sắp nguy mà không cứu!
Cuối cùng Phụng nghĩ ra một cách. Cô cũng về Sài Gòn, nhưng thay vì về thẳng
nhà, cô ghé lại một nhà quen, nhờ một người đạp xích lô, cho anh ta một số tiền
bằng cả ngày chạy xe và dặn: - Anh tìm cách tới số nhà này, theo địa chỉ tôi
ghi trong giấy, tới đó tìm người tên Lộc, gọi anh ta ra cửa rồi dặn anh ấy là
phải đem đứa bé về nhà của bà Phủ Hoài. Đưa nó cho cô Út Nguyệt và dặn...
Người đạp xích lô lắc đầu nói: - Cô dặn nhiều quá
tôi đâu có nhớ. Tốt nhất là cô viết vô tờ giấy, rồi tôi tới đó đưa, người ta sẽ
đọc và làm theo!
Nghe có lý, Phụng viết vội mấy ý, dặn Lộc cứ ôm đứa
bé về nhà, nói đại là cô vừa sinh ra... quái thai, nên sợ không dám về nhà. Rồi
bảo cô Út Nguyệt đem đứa nhỏ giao cho bên nội nó, để bên đó họ xử lý sao là tùy
họ!
Người đạp xích lô đi chừng một tiếng đồng hồ, trở
về với vẻ thất vọng:
- Việc cô nhờ tôi làm không xong rồi, tôi tới đó
thì nhà đóng kín cửa, kêu hoài cũng chẳng ai ra mở!
Phụng lặng người đi khá lâu, cuối cùng cô quyết
định liều, cô bảo chở mình về đó. Khi mở cửa ra thì đúng là Lộc và đứa bé không
có ở nhà. Họ đi đâu chẳng hiểu, nhưng chiếc xe hơi thì vẫn còn ở đó. Lúc xem
lại hành lý thì những gì của Lộc cũng biến mất, chỉ còn lại quần áo, vật dụng
của Phụng.
- Như vậy là sao? Chẳng lẽ Lộc bỏ trốn với đứa bé?
Điều này hoàn toàn không thể, nhưng những gì diễn ra trước mắt khiến cho Phụng
càng lúc càng hoang mang. Cũng may, sau đó khi ra chỗ chiếc xe, Phụng chợt phát
hiện có dòng chữ viết bằng phấn trên ca-pô xe: Anh đem con về nhà cho cô Út.
Phụng reo lên: - Lộc đã làm đúng ý mình!
Cô thầm cám ơn trời phật đã giúp cho mọi việc như
ý...
Phần II:
Út Nguyệt nhanh tay đặt đứa bé vào trong xe hơi của
Tường, rồi chạy đi ngay khi nó còn đang ngủ. Do đã cho tiền tài xế Tư Sang rồi,
nên anh ta lúc đó làm như vô tình bỏ đi uống cà phê.
Như vậy là mọi việc coi như ổn. Điều lo sợ canh
cánh trong lòng từ hai ngày qua giờ đã giải tỏa. Việc này Út Nguyệt dám tự hào
rằng, ngoài cô ra thì khó lòng ai làm được. Thứ nhất, không ai dám ẵm đứa bé dị
hình và tính tình quỷ quái như nó. Thứ hai là ẵm được nó và giao tận nơi mà nó
phải tới, người cha ruột thịt của nó, là điều khó lòng thực hiện!
Làm xong việc khó, như trút được gánh nặng ngàn
cân, Út Nguyệt về nhà lòng hí hửng. Ở một căn nhà mướn tạm để cho Phụng và Lộc
ở, Út Nguyệt phấn khởi kể lại thành tích của mình: - Tụi bay biết không, lúc
đặt đứa bé vô xe, tao cứ nơm nớp lo sợ nó giật mình tỉnh lại và đeo cứng như
thằng Lộc nói, nào ngờ nó lại nằm im, ngủ ngon lành! Tao tưởng tượng lúc thằng
Tường trở ra mà nhìn thấy nó chắc là hắn ta sợ đến... đái trong quần luôn!
Lộc vẫn chưa yên tâm: - Đứa bé này nó quỷ quái lắm, không phải ai
nó cũng đeo bám đâu. Chỉ đúng người nó mới làm vậy. Sợ e...
Út Nguyệt trừng mắt: - Thì thằng Tường là cha đẻ
của nó thì nhất định nó sẽ đeo khi gặp mặt. Chứ còn như tao, tụi bay thấy
không, nó đâu có đeo cứng như đeo thằng Lộc... à mà cũng lạ, sao thằng Lộc là
người ngoài, đâu có dính dáng máu mủ gì với nó đâu mà đứa bé lại đeo như sam là
sao?
Bà quay sang Phụng: - Mày nói thật coi, đứa bé là
con của ai, thằng Tường hay thằng Lộc nào?
- Dạ... của ông Tường, chứ anh Lộc thì...
- Thằng Lộc không có sao đứa nhỏ đeo nó dữ vậy? Tao
nghi quá... Hay là nó hoàn toàn là của thằng Lộc trước khi mày lấy chồng?
- Đâu có cô Út! Của cha Tường mà.
- Tao thấy sau ngày cưới rồi mà mày còn thậm thò
thậm thụt với thằng Lộc, tao sợ...
Phụng không muốn bàn tới chuyện đau đầu này nữa,
nên đứng lên và nói: - Thôi, cô Út giúp kêu chiếc xe lôi vào đây, để tụi con
trở lên Sài Gòn liền. Tụi con sẽ thực hiện tiếp những gì đã tính.
Út Nguyệt nhẹ lắc đầu: - Tao cũng mất ăn mất ngủ vì
chuyện tụi bay! Từ bữa con Phụng lên Sài Gòn rồi không thấy về, cả nhà thằng
Tường chạy đôn chạy đáo kiếm tìm. Sau khi họ biết là mày cùng bỏ đi bởi thằng
Lộc thì họ làm giặc lên, họ đòi kiện ba má bay! Cũng may là uy thế cha bay còn
lớn nên họ mới để yên. Nhưng với thằng Lộc thì họ hăm sẽ làm dữ với nhà mày!
Lộc không hề nao núng: - Con đã quyết rồi thì họ
muốn làm gì cũng được. Cái quan trọng nhất với con là Phụng, trừ khi là Phụng
bỏ con, chứ không thì con thề sẽ không bao giờ con để mất Phụng lần nữa!
Phụng cũng nói:
- Con chỉ lỡ một lần thôi, sẽ không có lần thứ hai.
Út Nguyệt hạ thấp giọng: - Mà tao vẫn còn thắc mắc,
sao mày không thương thằng Tường, sao lại để có con với nó! Mày ngừa rồi chứ cơ
hội như thế này có phải đỡ rắc rối hơn không!
Phụng chán ngán: - Ngừa sao được với cái thằng lúc
nào về nhà cũng say xỉn. Mỗi lần như vậy hắn coi con như con súc vật, đè ra
đánh, đập và... làm đủ trò, con làm sao cưỡng lại được!
Rồi Nguyệt thở dài: - Cái số con này không ngờ lại
khổ! Bởi vậy đâu phải cứ sinh làm con nhà giàu, nhà quyền thế là sướng đâu!
Phụng bước vào phòng trong chuẩn bị hành lý, thì từ
trong đó cô hét to: - Út ơi, anh Lộc ơi!
Hai người này chạy vào thì muốn chết khiếp! Bởi,
trước mặt họ là đứa bé đang nằm ngủ ngon lành trên giường! Phụng run giọng:
- Sao... sao nó vẫn còn ở đây cô Út?
Út Nguyệt cũng mất bình tĩnh:
- Nghe tụi bay kể tao không tin nó là… oan hồn uổng
tử. Nhưng bây giờ thì… tao tin. Mà đã là oan hồn thì làm sao bắt nó theo ý mình
được.
Phụng vừa sợ vừa chán nản:
- Con biết làm sao bây giờ đây Út? Út có cách nào
giúp con với...
Út Nguyệt chợt nhớ, cô kéo tay hai đứa ra ngoài
bảo: - Cô có quen một ông thầy chuyên làm phép trục ma quỷ ít ra ông ấy cũng có
thể làm cho đứa bé này không quậy phá con nữa.
Phụng mừng quýnh:
- Sao Út không nói sớm. Vậy Út còn chờ gì nữa.
Út Nguyệt bảo:
- Bây giờ để nó khỏi nghi, Lộc hãy ở lại nhà coi
chừng nó, cô sẽ dẫn con Phụng qua bên ông thầy.
Ông thầy gọi là thầy Tư Thế, vốn nổi tiếng từ Xiêm
La về. Đã lâu năm hành nghề từ
Biết vậy nên trước khi ghé chỗ thầy, Út Nguyệt đã
dò hỏi trước ở nhà một người quen và được người này cho biết: - Thầy Tư đã đóng
cửa không tiếp khách từ ba ngày nay. Có dặn mấy đệ tử là khi nào có người tới
tìm thì từ chối hết.
Út Nguyệt thất vọng: - Tôi từ xa tới, mà thầy như
vậy thì biết làm sao đây?
Người nọ mách: - Cũng đã từng có vài lần như vậy
rồi. Nếu cô muốn được thầy tiếp thu phải đợi lúc nửa đêm tới đứng chờ thầy ở
cổng. Giờ đó thầy thường ra ngồi cầu vong giữa trời. Lúc đó hễ thầy gặp ai đầu
tiên thì nhờ gì thầy cũng giúp.
Út Nguyệt ái ngại:
- Nhưng tôi và đứa cháu là thân nữ, làm sao có thể
tới vào đêm khuya như vậy được?
- Nếu không làm vậy thì đành chịu thôi!
Út Nguyệt về bàn lại với Phụng, thế là nửa đêm hôm đó
hai cô cháu đích thân tới nhà thầy Tư Thế và đợi...
Đúng như chị nọ nói, đúng nửa đêm hôm đó thầy Tư
xuất hiện như một tiên ông, trong bộ quần áo toàn trắng. Thầy ngồi xếp bằng
giữa sân, không thắp hương, nhưng mắt thầy nhìn vào khoảng không bao la như nhìn
làn khói hương quyện bay theo gió... Hồi lâu bỗng thầy ngẩng lên và nhìn ra
cổng nói đủ cho hai người nghe:
- Hai người chờ đợi chi cho mất công. Hãy về đi,
oan gia nghiệp chướng đó đã trót mang thì không làm sao dứt ra được đâu!
Út Nguyệt nghe vậy lên tiếng liền:
- Lạy thầy, thầy đã biết rồi thì xin ra tay giúp
giùm cho cháu tôi, tội nó lắm! Nó gặp phải cuộc hôn nhân không ra gì, bây giờ
lại mang cái khổ này nữa, làm sao nó sống nổi.
Thầy Tư không nhìn Phụng, nhưng đã phán: - Nó sống
không nổi vậy sao bắt kẻ khác phải khổ?
Út Nguyệt cãi:
- Cháu tôi đâu có làm ai khổ đâu thầy! Nó... nó…
Thầy Tư giờ mới nhìn ra, giọng thầy đanh lại:
- Vậy xác đứa bé năm tháng tuổi nằm dưới đáy ao là
con của ai?
Phụng nãy giờ im lặng, bỗng thốt lên:
- Chuyện đó không phải do con làm! Cái đó...
- Ai mang nó trong bụng?
- Dạ... con lỡ...
Giọng thầy Tư đanh lại: - Lỡ mang thì phải đẻ và
nuôi, cớ sao phá bỏ giữa chừng, mà phá xong khi biết nó còn sống lại giết nó
chết?
Phụng hốt hoảng: - Con không có giết nó. Con giao
chuyện ấy cho bà mụ và...
Thầy Tư đanh giọng:
- Tội của bà mụ và người trợ giúp cho bà ta thì đã
rõ, cả hai người họ đều sẽ lần lượt lãnh hậu quả thôi.
Ông thầy nói xong câu đó thì im lặng, ngồi nhắm mắt
và tiếp tục cuộc cầu hồn. Út Nguyệt và Phụng có nói gì thì vẫn không nhận được
câu trả lời. Đứng mòn mỏi, cuối cùng Út Nguyệt dẫn cháu về. Họ nhận được lời
khuyên của thầy nói với theo:
- Đứa bé có thể biến mất, nhưng nghiệp chướng thì
sẽ không hết đâu!
Đầu óc hoang mang, Phụng đi theo Nguyệt chỉ được
một đoạn rồi kêu đau bụng. Lúc đầu bụng chỉ đau râm ran... nhưng càng về sau
thì cơn đau tăng lên dữ dội. Nhìn thấy mặt cháu mình xanh tái, Út Nguyệt hốt
hoảng:
- Có sao không con?
Phụng thở hổn hển đầy mệt nhọc:
- Không... không xong rồi... Út ơi... con chịu
không nổi nữa rồi...
Phụng chỉ nói được mấy tiếng đó rồi ngã quỵ xuống
giữa đường. Hoảng quá, Út Nguyệt vội kêu xe chở đi bệnh viện. Phụng đã gần như
mê man lúc vào tới chỗ khám bệnh.
Sau gần một giờ, một cô y tá bước ra hỏi:
- Ai là thân nhân của cô Thể Phụng?
Út Nguyệt vội đáp: - Dạ tôi.
Nhìn Nguyệt từ đầu đến chân, cô y tá hơi tò mò:
- Cô là gì của cô Phụng?
- Tôi là cô ruột của nó. Tôi...
- Được rồi, mời bà vô gặp bác sĩ.
Ngỡ bệnh tình của Phụng quá nặng, nên Út Nguyệt vừa
bước theo mà vừa run. Vừa gặp bác sĩ cô đã hỏi ngay: - Cháu tôi sao rồi bác sĩ?
Liệu có chữa được không?
Vị bác sĩ Iại nhìn cô một lượt, rồi đột nhiên hỏi:
- Bà chưa biết gì?
Út Nguyệt ngơ ngác: - Biết gì?
- Cô Phụng này đã có thai được ba bốn tháng, cái
thai bị động nên hành, mà sao bà để cho đến nỗi này?
Út Nguyệt tưởng mình nghe lầm:
- Bác sĩ nói thật hay giỡn?
Vị bác sĩ nghiêm nét mặt:
- Tôi đâu có thời giờ để nói chơi với bà. Cô này bị
động thai, nhất thời chúng tôi chưa xác định được là cái thai có bị gì hay
không, phải đợi chuyển qua chuyên khoa rồi mới rõ.
Nguyệt bắt đầu run: - Cháu tôi mới sinh đây mà sao
lại có thai được? Hay là bác sĩ lầm lẫn?
Vị bác sĩ có vẻ bực mình, ông gọi cô y tá dặn:
- Cô cho chuyển bệnh nhân qua khoa sản ngay. Lưu ý,
phải kịp thời, nếu không sợ e...
Ông bỏ ra khỏi phòng rồi mà Út Nguyệt vẫn còn ngơ
ngác nhìn theo. Mãi một lúc cô mới hỏi lại cô y tá: - Bác sĩ nói gì vậy?
Cô y tá cũng bực mình: - Thì bà nghe rồi đó, bệnh
nhân này bị động thai, chứ có bệnh hoạn nào khác đâu! Mà sao thai lớn rồi mà bộ
không biết sao để cho nó tệ như vậy?
Năm phút sau thì Phụng được chuyển sang phòng khác.
Khoa sản.
Cho đến nửa đêm hôm đó thì bệnh viện cho một kết
quả động trời: Bệnh nhân Thể Phụng mang thai gần bốn tháng, thai bị động, có
thể nguy hiểm chẳng những cho đứa bé trong bụng, mà ngay cả mẹ nó cũng bị nguy
hiểm đến. Út Nguyệt thất thần:
- Không thể nào! Làm sao lại như vậy...
Bà cứ đứng yên như bị trời trồng, vừa lẩm bẩm khiến
mấy cô y tá phải phát bực:
- Bà không đi làm thủ tục cho bệnh nhân nhập viện
đi, còn đứng đó, bộ muốn nhìn bệnh nhân bị nguy hiểm sao!
Mãi đến khi theo Phụng vào tới phòng điều trị rồi
mà Nguyệt vẫn còn lừng khừng như kẻ mất hồn. Cho đến khi cô gọi khẽ sau lưng:
- Cô Út! Cô Út...
Út Nguyệt quay lại thấy Phụng vừa tỉnh thì mừng: -
Con ơi, dậy đi để cãi với họ, chứ cô nói không được..
- Cãi cái gì?
- Thì... họ nói mày có thai bốn năm tháng gì đó,
nghe có tức cười không?
Phụng cũng ngơ ngác: - Thai gì? Con mới phá thai
cách năm tháng trước, rồi từ đó có... ăn nằm gì với ông Tường đâu mà có thai?
Út Nguyệt ngập ngừng:
- Vậy mày với thằng Lộc... có gì với nó không?
- Làm gì có.
- Thật không?
- Con thề độc với dì mà.
Hai cô cháu nhìn nhau mà chẳng hiểu chuyện gì đang
xảy ra...
* *
*
Bà Phủ Hoài điếng hồn trước tin báo của Út Nguyệt.
Bà lặng người ngồi thừ người ra hồi lâu rồi mới hỏi lại:
- Rồi biết ăn nói làm sao với bên nhà chồng nó? Cái
con mẹ phú hộ Ba Lến là loại đàn bà miệng mồm độc địa, đâu dễ để yên.
Nguyệt đã tính kỹ rồi, nên có cách nói của mình:
- Sợ gì thứ nhà giàu dốt nát đó! Tôi nói thật với
chị, cùng lắm thì mình bắt con Phụng về có sao đâu!
Bà Phủ nhảy dựng lên:
- Bộ giỡn sao Út! Họ đâu có để cho mình yên khi con
Phụng đã là dâu nhà họ? Rồi mình giải thích sao với thiên hạ nữa chuyện con
Phụng mới đi bệnh viện nằm chờ sinh, rồi bữa nay lại nói mới có thai bốn tháng?
Bộ cô nói họ con nít sao chứ!
Út Nguyệt hạ thấp giọng:
- Con Phụng sẽ có cách nói, nó đã tính rồi...
Bà Phủ trợn mắt nhìn đứa em chồng chỉ bằng tuổi con
gái mình:
- Cô với nó còn tính toán, âm mưu gì nữa đây?
Nguyệt kề tai nói nhỏ cho bà chị dâu nghe một hồi.
Vừa nghe xong bà Phủ la lớn: - Không
được! Phá thai là tội lớn, suốt đời cất đầu lên không nổi đâu!
- Nhưng con Phụng đã...
Suýt nữa Nguyệt đã nói lộ ra chuyện Phụng từng phá
thai một lần rồi, may mà cô dừng lại kịp... Bà Phủ tinh ý nên thắc mắc:
- Bộ con Phụng đã...
Nguyệt nói lảng ngay:
- Đâu có chuyện gì. Tôi muốn nói con nhỏ đang có
sức khỏe kém, không thể để nó bệnh hoạn bởi mang cái thai... nhưng thôi, tôi sẽ
có cách khác...
Thấy Nguyệt úp mở như vậy bà Phủ lo ngại:
- Cô tính toán gì thì cũng nghĩ tới tôi với ông anh
Hai cô. Ông ấy mà biết được chuyện con Phụng làm bậy bạ gì đó là ông ấy giết
chết!
Nguyệt nói ỡm ờ:
- Làm thì làm cho đúng, chứ ai lại làm bậy...
Cô nói xong đứng lên đi ngay, khiến cho bà Phủ càng
lo thêm, bà gọi giật ngược:
- Cô Út! Cô lại đây tôi hỏi thêm coi!
Nhưng Út Nguyệt đã đi nhanh ra khỏi cửa. Bởi Phụng
đang nằm ở ngôi nhà mướn chờ đợi... Từ hôm ở bệnh viện về, Phụng lúc nào cũng ở
trong tâm trạng nơm nớp lo sợ, hoang mang. Vừa thấy Nguyệt về, cô nàng đã vồ
lấy, khóc nức nở:
- Con chết Út ơi! Nó... nó lại hành con...
- Ai hành?
- Cái thai! Từ sáng lúc Út đi thì nó liên tục quậy,
làm con đau đớn không chịu nổi.
- Đã uống chén thuốc an thai cô pha sẵn chưa?
- Uống rồi, nhưng vừa uống vô là con ói ra sạch hết
và cái thai càng quậy dữ hơn! Con chịu hết nổi rồi Út ơi!
Họ đang nói chuyện thì từ ngoài cửa Lộc chạy ùa
vào. Anh vừa thở hổn hển vừa mừng ra mặt:
- Xong rồi cô Út ơi!
Nguyệt ngạc nhiên:
- Chuyện gì vậy?
- Đứa... đứa nhỏ.. coi như xong rồi.
Đến Phụng đang đau đớn mà cũng hỏi dồn:
- Xong là sao?
Lộc nói chậm từng tiếng một:
- Nó biến đâu mất rồi!
Út Nguyệt kinh ngạc.
- Thật vậy sao? Mà biến đi đâu?
Phụng lo lắng:
- Thứ quỷ quái đó không dễ bỏ đi đâu. Nó là oan hồn thì chuyện ở hay
biến mình làm sao kiểm soát được.
Nhưng Lộc quả quyết:
- Anh đã tìm khắp nơi rồi, không hề thấy nó.
Và anh lấy ra bộ đồ trẻ con đưa cho Út Nguyệt xem,
vừa trông thấy thì cả cô và Phụng đều kêu lên:
- Đồ của nó!
- Thì đây là quần áo đứa bé đang mặc, vừa rồi cháu
tìm thấy nó bỏ ngoài sân.
Phụng nghe trong bụng mình nhói đau và như có ai
xúi, cô thốt lên: - Đem đốt nó đi!
Lộc còn lưỡng lự thì Út Nguyệt giật lấy, cô chạy ra
sân và châm lửa đốt liền. Bộ quần áo cháy rất nhanh và khi nó vừa cháy hết thì
cũng vừa lúc Phụng bật đứng dậy vừa reo lên sung sướng:
- Con hết đau bụng rồi Út ơi.
Cô đưa tay xoa xoa bụng như còn chưa tin và rồi đột
nhiên hỏi: - Hình như con... đâu còn có thai nữa?
Hôm qua Út Nguyệt đã sờ vào bụng cháu mình, rõ ràng
cái thai gò lên và động đậy nữa, còn bữa nay...
Sau khi sờ vào, Nguyệt la lên:
- Đúng là không có gì hết!
Lộc chưa được thông báo việc Phụng có thai lần nữa,
nên ngơ ngác: - Cái gì không có vậy?
Út Nguyệt nháy mắt không cho Phụng nói, cô hỏi Lộc:
- Tao hỏi thật, mày có ăn nằm gì với con Phụng từ
bốn năm tháng nay không?
Lộc thành thật: - Từ lúc Phụng phá thai đến giờ tụi
con hoàn toàn không có gì với nhau hết!
- Thật không?
- Dạ thật. Con mà nói láo trời tru đất diệt con đi!
Nguyệt cười:
- Thấy mày thề thốt tao cũng tạm tin. Mà thôi, để
tao lo vụ con Phụng cho xong đã...
Cô quay sang Phụng thì cô này đang ưỡn ẹo ra vẻ
mừng vui lắm:
- Con không còn thấy có chút gì trong bụng hết.
Chắc chắn là con... hết mang thai rồi Út ơi!
Vô tình cô nói hớ lên khiến Lộc ngơ ngác:
- Em mang thai?
Đến nước này Út Nguyệt đành phải nói:
- Con Phụng thấy bụng đau, đi bệnh viện khám, người
ta ghi là có thai...
Phụng chen vào nói:
- Nhưng bây giờ hầu như không có gì! Út ơi, mình
trở lại bệnh viện cho họ khám lại đi!
Lộc xung phong: - Để anh đưa em đi!
Út Nguyệt chặn lại:
- Ở đây gần với nhà chồng con Phụng, họ mà thấy nó
đi với mày thì họ cào nhà mày xuống! Thôi, để tao đưa đi, thằng Lộc muốn nghe
ngóng thì đi theo, nhưng phải cải trang thành người nào đó, để thiên hạ không
nhận ra.
Lộc mau mắn: - Để con giả làm người đạp xe lôi. Con
có quen với một bác có chiếc xe lôi đang bỏ không, cô Út và Phụng chờ cho một
chút, con sẽ kiếm đồ thay rồi đưa xe tới đây chở Út và Phụng đi tới một bác sĩ
sản khoa giỏi mà con có biết.
Phần III:
Lộc đi chừng nửa giờ sau trở lại. Anh ngừng xe
ngoài cửa gọi vào nhà: - Ai đi xe thì ra đi!
Khi Út Nguyệt và Phụng bước ra họ đã vô cùng kinh
ngạc khi nhìn trong lớp quần áo phu xe với chiếc nón lá rách lụp xụp trên đầu.
Phụng kêu lên:
- Anh giống dân xe lôi quá trời!
Lộc đùa: - Cũng phải tập dần, để mai mốt về sống
chung với Phụng, lỡ có thất nghiệp thì cũng có sẵn cái nghề để sinh nhai chứ!
Họ leo lên xe, Lộc đưa tới một bà bác sĩ chuyên
khoa sản. Sau khi khám thật kỹ, bà nói liền:
- Tuy còn phải thử thở mới biết được chắc chắn là
có thai hay không, nhưng qua các dấu hiệu cho thấy thì cô đây hoàn toàn không
có gì hết!
Phụng mừng rơn: - Vậy là thật rồi, mừng quá!
Bà bác sĩ ngạc nhiên: - Không có thai mà mừng vậy
sao? Có đứa con nào chưa?
Phụng lắc đầu: - Dạ chưa?
- Chưa có con? Nếu thế thì phải buồn khi chưa có
thai chứ?
Út Nguyệt phải chen lời:
- Thưa bác sĩ là vầy... cháu nó chưa muốn có con để
còn tiện làm ăn. Chờ lúc nào thuận tiện mới tính...
Bà bác sĩ quay sang Lộc: - Anh chồng đây phải
không? Anh cũng đồng ý với vợ sao?
Lộc miễn cưỡng gật đầu: - Dạ, em cũng muốn vậy.
Bà bác sĩ lắc đầu: - Từ nào đến giờ thân chủ của
tôi hầu hết khi nghe chưa đậu thai thì thất vọng, chán nản lắm. Đây là lần
đầu...
Trả tiền khám bệnh xong, Phụng giục hai người:
- Mình về thôi, chắc má tôi mừng lắm!
Út Nguyệt hốt hoảng:
- Bộ mày muốn trở về nhà hả Phụng?
Phụng gật đầu: - Dạ, đúng rồl! Từ nay con không sợ
gì nữa hết, con sẽ trở về nhà sống đàng hoàng, rồi con sẽ bỏ chồng, để chuẩn bị
lấy anh Lộc!
Nguyệt lo lắng: - Rồi biết ăn nói sao với bên phú
hộ Tư Bền đây? Rồi thằng Tường nữa...
Phụng tỏ ra bình thản:
- Có gì mà phải lo. Bây giờ con nghĩ rồi, chẳng thà
quyết định dứt khoát, chứ còn tiếp tục sống trong cảnh vợ hờ thì con không chấp
nhận! Từ ngày lấy con, tay Tường chỉ ngủ nhà có ba đêm rồi biền biệt miết, con
còn sống đời làm vợ kiểu đó được sao!
Thấy Lộc im lặng nhìn đi nơi khác, Út Nguyệt hỏi: -
Ý mày thấy sao, Lộc?
Lộc quay lại đáp rất dứt khoát: - Con đã nói rồi,
dẫu có chết con cũng quyết lấy Phụng!
Phụng cảm động ngã vào vai Lộc, âu yếm:
- Con không thể thiếu anh ấy được...
Út Nguyệt thở dài: - Đành thôi, chứ biết sao...
Ngay tối hôm đó Phụng theo Út Nguyệt vào thẳng nhà
mình. Bà Phủ Hoài vừa thấy con về đã định quát một trận, nhưng khi thấy Phụng
vẫn tươi tỉnh và bình thản thì bà hơi ngạc nhiên:
- Mày có sao không vậy?
Phụng ôm chầm lấy mẹ, cầm tay bà đặt lên bụng mình
khiến bà Phủ rụt tay lại, la lớn:
- Sao lại có thai, vậy còn đứa con mới sinh đâu?
Phụng thản nhiên: - Bầu bì gì đâu má. Bộ má không
thấy bụng con là bụng... con gái hay sao?
Bà Phủ tròn mắt: - Mày với cô Út mày. Bộ muốn giỡn
mặt với tao hả?
Út Nguyệt giờ mới lên tiếng: - Cũng tại con nhỏ
này, nó nói hoảng, làm em tưởng...
Bà Phủ mừng rỡ:
- Nếu vậy thì còn dễ ăn nói với bên kia.
Rồi bà thắc mắc: - Sao cả chục năm nay rồi, từ lúc
con Phụng được lên Sài Gòn sinh tới nay. Không hề thấy bên nhà Tư Bền qua hỏi
thăm tiếng nào hết?
Phụng được dịp kể lể: - Cái nhà đó mà biết gì tới
ai ngoài họ đâu. Còn thằng Tường thì đi mút chỉ, hình như có vợ bé đâu trên Sài
Gòn, còn nhớ gì tới nhà cửa, vợ con!
Út Nguyệt được dịp chen vào, kể tội: - Tôi đã nói
rồi, dứt khoát với nhà đó cho rồi mà chị không chịu!
Bà Phủ dịu giọng: - Tôi cũng đâu có thiết tha gì,
nhưng ngặt nỗi ông anh cô ông ấy sĩ diện, không muốn thiên hạ đàm tiếu. Bởi vậy
cho nên...
Phụng nói thẳng ra ý của mình: - Kỳ này con tính bỏ
luôn! Nhân chuyện con đi sinh về mà không có con đem theo, con báo là sảy thai,
họ sẽ giận dữ và kiếm chuyện, con sẽ tuyên bố bỏ về nhà cha mẹ luôn.
- Không được đâu con...
Bà Phủ can, nhưng Út Nguyệt đã đốc vào:
- Cứ làm vậy đi con! Nếu mà bây không dám nói
thẳng, thì để cô. Tôi sẽ đi với con Phụng qua bên đó nói chuyện với họ một lần
cho xong!
- Nhưng mà, còn anh cô...
Nguyệt xẵng giọng:
- Cùng lắm là anh Hai giết em chứ gì, em không sợ,
miễn là em cứu con Phụng thoát cảnh khổ là được.
Nói xong cô hối cháu mình
- Mày đi liền với tao qua nhà họ!
Phụng do dự: - Để từ từ đã cô. Con mới về, để con
chơi với má con chút đã...
Nguyệt nóng nảy: - Tao muốn đi liền, chứ để nguội
tao mất lửa luôn, không nói được!
Phụng đành phải đi theo. Cô sắp sẵn trong đầu kịch
bản để nói với nhà chồng chuyện mình có thai mà không sinh. Thậm chí Út Nguyệt
còn chỉ thêm cho một mánh nói hiệu quả hơn:
- Mày cứ nói là sinh.. quái thai, nên sau khi sinh
xong mày hoảng quá đã nhờ người bỏ đi rồi!
Phụng dè dặt: - Người già họ không chấp nhận vậy
đâu. Có lẽ con sẽ nói là sinh con dị hình và vừa ra đời nó đã chết nên bệnh
viện cho mai táng giúp rồi!
- Ừ, cứ như vậy...
Tuy nhiên, mọi việc diễn ra sau đó đã làm đảo lộn
mọi dự tính của cả hai. Lúc vừa bước vào nhà đã gặp ngay bà chủ Bền. Hôm nay
thấy mặt con dâu bà đã cười toe toét ngay: - Dữ không, tưởng mày bỏ luôn cục
cưng của tao rồi chứ!
Phụng ngơ ngác nhìn bà rồi nhìn lại Út Nguyệt, chưa
hiểu gì thì chủ Bền lại nói: - Nó dễ thương lắm mày ơi! Tao vốn ghét con nít,
vậy mà từ lúc nó về đây tao thương hết biết, bồng ẵm không rời tay!
Bà nói xong quay lại chiếc nôi đặt giữa nhà, bế lên
một đứa bé còn trong tháng, vừa nựng nịu:
- Cục cưng của bà nội ơi, con mẹ mày nó hư lắm sinh
ra mày rồi bỏ đi luôn, bữa nay mới về! Dậy mà la cho nó một trận đi!
Phụng thảng thốt: - Má nói...
Bà chủ Bền sang thằng bé qua cho Phụng:
- Sinh con dễ thương như vậy mà không chịu về bồng
ẵm, cưng yêu nó! May là có nó nên tao tha cho, bây giờ về mà chăm sóc nó đi.
Nhưng nhớ, cục cưng của ta à nghen, nuôi không kỹ thì biết tay tao!
Phụng như từ trên trời rơi xuống: - Má nói...?
Út Nguyệt cũng hỏi: - Đứa trẻ này là...
Bà chủ Bền gắt lên:
- Trời ơi, con nó mà nó còn hỏi! Bộ mày điên hả
Phụng? Chứ đứa nào sai ẵm nó về đây, nói mày còn phải nằm bệnh viện dưỡng bệnh
sẽ về sau. Lúc đầu tao định lên Sài Gòn kiếm mày, nhưng mấy bữa nay mắc ôm cái
cục cưng này đâu làm sao đi được!
Phụng ẵm đứa nhỏ trong tay mà chẳng hiểu ra sao, cô
đưa mắt nhìn sang cô mình. Út Nguyệt lanh trí hơn, nên nói khỏa lấp:
- Đúng rồi, con Phụng bữa nay mới khỏe... Nhưng ai
ẵm đứa nhỏ về vậy? Hay là của ba nó?
- Thì là con của thằng Tường chứ ai! Mà con thằng
Tường là con của con Phụng! Bộ cô tưởng thằng con tôi nó năm thê bảy thiếp sao!
Bà quay qua Phụng, cầm bàn chân của thằng bé lên,
suýt xoa: - Bàn chân giống thằng Tường như khuôn đúc. Còn cái môi, cái mũi nó
giống con như cắt để qua. May cho tụi bây, sinh ra mà không giống đứa nào thì
chết với tao.
Phụng nhìn kỹ thì công nhận lời nói của bà không
sai, đứa bé trai quả giống cả cô và Tường không chối cãi đi đâu được.
Bà chủ Bền chợt hỏi:
- Về sao không thấy đồ đạc đâu hết?
Út Nguyệt nhanh miệng đáp thay:
- Nhân tiện tôi đưa nó về nhà, để đem qua sau.
Rồi nhân lúc bà chủ không để ý, Út Nguyệt kéo cháu
ra ngoài, hỏi nhỏ: - Chuyện này là sao Phụng?
Phụng bối rối:
- Nhiều chuyện quá con cũng không biết sao nữa...
Hết thằng quái thai kia, rồi cái thai mắc dịch, và bây giờ lại thằng nhỏ này?
Con nghi có thể con rơi của thằng Tường, rồi nó tìm cách đưa về đây để bắt con
gánh quá! Nếu vậy thì con sẽ bỏ nhà đi cho Út coi!
Út Nguyệt có được sự bình tĩnh lạ thường trong những trường hợp nguy. Cô suy
nghĩ rất nhanh rồi nói:
- Chuyện này rất có uẩn khúc. Để tao tìm hiểu...
Phụng lắc đầu: - Chắc con chịu thua quá Út ơi! Con
không còn chịu nổi những rắc rối nữa. Bây giờ không lẽ con phải ôm con người
khác mà nuôi sao?
Bỗng từ miệng đứa bé thốt ra mấy lời nghe lạnh cả
sống lưng: - Sao lại là con người khác. Con là con của bà đây mà!
Suýt nữa Phụng đã buông rơi đứa bé xuống đất! Út
Nguyệt đỡ lấy nó vừa run run nói:
- Không xong rồi, còn nguy hơn cả quái thai nữa!
* *
*
Thầy Tư Thế không cần nhìn ra cũng đã biết là ai
tới. Thầy cất tiếng:
- Tới kịp lúc thì vào đi, còn ngần ngại nỗi gì nữa.
Út Nguyệt nhìn Phụng rùng mình:
- Ông này như có mắt ở ngoài đường vậy?
Chưa đợi hai người bước vào tới nhà, thầy Tư đã nói
liền: - Cái họa đã tới rồi phải không? Tôi đã nói rồi, oan gia nghiệp chướng
này thì khó mà thoát được nó lắm!
Út Nguyệt mạnh dạn kể sơ qua câu chuyện đã xảy ra.
Cô không kể rõ chi tiết, tuy nhiên thầy Tư đã đanh giọng nhắc:
- Cô kể còn thiếu lần có thai sau này của cô kia?
Rồi không đợi Nguyệt đáp, ông nói tiếp:
- Đứa quái thai đã biến mất rồi phải không?
Phụng nhanh nhảu:
- Dạ, nó biến rồi, con mừng quá!
- Thật ra nó không biến, mà chỉ thay đổi hình dạng
thôi. Nó là biến thể của cái bào thai mà cô đã phá lúc năm tháng có thai. Nó
chết đi và hiện về phá cô, báo oán thì đúng hơn! Nhưng do thấy cô quá sợ và khó
lòng sống chung với cô và gia đình chồng, nên nó biến thành cái bào thai bất
ngờ làm cho cô hoảng sợ mấy hôm! Chính nó định qua lần có thai lần nữa của cô
để ra đời và bắt đầu cuộc báo oán ầm ĩ hơn...
Phụng buột miệng:
- Con đã không còn có thai nữa rồi thầy!
Thầy Tư lắc đầu: - Có thể tự nhiên mà có thai được,
bởi đó là mang thai của ma! Nhưng làm sao tự dưng mà hết có thai được.
- Vậy tại sao...?
- Cô đã sinh con mà không biết đó thôi! Con ma thì
sinh cũng theo kiểu của ma! Cô vừa sinh non đứa bé đó trong lúc đi vệ sinh mà
không hề hay biết. Và đứa bé đó hiện nay đang được bà nội nó nuôi!
Út Nguyệt hoảng hốt: - Vậy ra đứa nhỏ đó...
Thầy Tư trầm giọng: - Bây giờ nó đã lọt vào nhà phú
hộ Bền được một cách êm xuôi, được cưng chìu nữa, như vậy coi như cuộc báo oán
bắt đầu...
Phụng nói vội:
- Như vậy con có thoát được không thầy?
Ông thầy lắc đầu: - Cô mang tội nghiệt quá lớn thì
làm sao thoát được!
Nhà phú hộ Bền do làm giàu bất chánh, từng có ân
oán nặng với nhiều người và người ta muốn qua con cháu họ để báo oán. Đáng lý
ra cô có thể thoát được, nếu cô không nhẫn tâm giết chết cái thai năm tháng
tuổi đó. Bây giờ đứa bé vừa báo oán nhà Tư Bền, mà cô cũng phải lãnh phần.
Nhưng do cha mẹ cô ăn ở có đức hơn, nên cô chỉ phải gánh chịu chuyện đứa bé cho
đến khi nó được ba tuổi. Khi ấy nhà bá hộ Bền trả nợ xong thì cô cũng được
thoát. Cho nên mọi chuyện của cô bây giờ là trở về nhà chồng và chờ cho đến mãn
kỳ hạn mà thôi.
Phụng hốt hoảng:
- Cứu con thầy ơi! Con không thể chịu nổi...
Nhưng thầy Tư đã đứng lên, giọng dứt khoát:
- Ta chỉ biết và kể lại cho cô nghe thôi, còn mọi
việc là do ở số phận, phúc phận của cô thôi. Về trước khi xảy ra những điều tệ
hại hơn...
Ông nói xong bước ra nhà sau rồi mất tăm luôn.
* *
*
Ba năm sau…
Cả vợ chồng phú hộ Tư Bền đều ngã bệnh và cùng chết
một ngày trước sự ngơ ngác của thân nhân!
Khi cậu Hai Tường về thì đáng lẽ phải đau buồn và
lo lắng chuyện ma chay, đằng này anh ta lại dửng dưng, phó mặc cho mấy người bà
con. Anh ta còn ra lệnh cho người chú họ:
- Chú lo chôn hai người họ xong thì bảo tất cả bà
con ở quê lên phải về hết!
Ông chú Tám của Tường bất mãn:
- Bà con anh em người ta lên đây là do hay tin anh
chị Tư chết, chứ đâu phải lên để nhờ vả gì đâu!
Nhưng Tường vẫn hách dịch: - Tôi nói là sau đó tôi
có chuyện phải làm việc với những quan chức ở Sài Gòn về. Tôi đâu cần nhiều
người!
Quá bất mãn với thái độ mất dạy của Tường nên đám
bà con thân nhân đã kéo nhau về hết. Cũng may cho họ, chứ nếu họ còn ở lại thì
chỉ mất công chứng kiến một chuyện không ai ngờ.
Quả có khách Sài Gòn về thật. Nhưng họ không phải
là khách thân thiện, mà họ về là để làm thủ tục tịch biên toàn bộ gia sản của
phú hộ Tư Bền. Chính Tường cũng kinh ngạc:
- Tại sao mấy người làm vậy?
Một luật sư đại diện cho phía chủ nợ đã trưng ra
các giấy tờ mà nhà này nợ ngân hàng họ. Số tiền quá lớn, đến Tường còn phải
thất thần:
- Sao nợ gì mà lớn quá vầy nè?
Vị luật sư nói: - Phân nửa số nợ này là do cậu vay
đã mấy năm nay rồi mà chưa trả, nay đã quá hạn.
Tường gân cổ cãi:
- Nhưng hôm nay tôi sẽ tính sổ và trả hết!
Vị luật sư bảo: - Đó là ý của cậu. Còn thực tế thì
tài sản nhà cậu đâu còn gì để mà trả. Đây cậu coi.
Tường xem xong sổ sách, giấy nợ, anh thất thần:
- Trời ơi, như vậy mấy ông tính sao với khối gia
sản này?
- Tính kỹ rồi, qua đối chiếu thì cả hai số nợ gộp
lại thì tài sản này trọn vẹn đủ trả cho ngân hàng. Hôm nay chúng tôi làm thủ tục,
yêu cầu anh ký tên.
Tường hét lên như điên:
- Tôi chỉ nợ có một phần, còn lại ai nợ tôi đâu có
biết? Sao lại bắt tôi trả hết nợ?
- Như cậu thấy đó, người ký giấy nợ là cha mẹ anh
và người được hưởng một phần sau khi ngân hàng tính toán chính là đứa con còn
nhỏ của anh. Nó sẽ được hưởng khi đủ tuổi trưởng thành.
Tường bắt buộc phải ký tên vào giấy thanh lý.
Sau đó anh ta phát điên và bỏ nhà đi mà chẳng biết
là đi đâu.
Thế là chỉ trong phút chốc thì cả cái gia sản kếtch
sù đã biến thành của người khác. Phụng âm thầm bỏ đi, để đứa bé ba tuổi lại với
chị vú em.
Lạ một điều là hình như đã biết trước mọi việc, nên
thằng bé vẫn bình thản khi biết Phụng bỏ đi.
Nó còn nói như người lớn: - Bà vú cứ ở lại đây với
con, rồi bà vú sẽ được đền bù!
Chuyện kết cuộc đúng y như vậy: mười lăm năm sau
đứa bé lớn lên và hưởng phần gia tài còn lại. Còn Tường thì chẳng thấy bóng
dáng đâu. Có người nói hình như là anh ta điên đi lang thang rồi chết bờ chết
bụi ở đâu đó...
Rồi vào một đêm kia, ngôi nhà ngói như cái dinh thự
của bá hộ Tư Bền đã bỗng dưng bốc cháy dữ dội vài giờ sau thì cả cái cơ ngơi đó
thành tro bụi...
CĂN
NHÀ MA, MA KHÔNG ĐẦU
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI
CAO TIÊU
Biên tập:
NGUYỄN CẨM HƯƠNG
Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG
Trình bày bìa: SONG THÀNH
In 1.200 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT
Số trích ngang xuất bản: 379-2009/CXB/27-53/ThaH,
In xong và nộp lưu chiểu Quý III năm 2010
.............................................................................................................
- Cập
nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét