ĐƯA DÂU VỀ ÂM PHỦ
*
MỸ PHỤNG
(Tác giả: Người Khăn Trắng)
Có lẽ trên đời có mấy ai đáng thương hơn Út Nhì.
Là một chàng trai quê quanh năm suốt tháng với
ruộng đồng, nhà lại nghèo nên bạn bè trang lứa đều đã được gia đình cưới vợ gả
chồng, chỉ có Út Nhì vẫn cu ky với cái cày con trâu. Suốt ngày thui thủi lưng
trâu, hoặc cùng trâu kéo cày, kéo bừa Út Nhì buồn bã, cô độc lắm. Những khi
buồn quá mức thì Út Nhì bèn "thả" sáu câu vọng cổ để vừa tự trình
diễn vừa tự thưởng thức một mình và tự giải sầu.
Lần đó có một gánh hát phương xa về vùng Vàm Lá. Có
thể nói tin đó đến với cư dân quanh vùng như một niềm vui không gì tả nổi.
Người lớn, thanh niên, trẻ nhỏ, ai cũng náo nức chờ đợi để có những đêm hội
được xem đờn ca xướng hát.
Út Nhì cũng nằm trong số đó. Để chuẩn bị cho những
đêm được bước vào nhà lồng chợ đứng hạng "cá kèo", Út Nhì phải quần
quật mấy ngày trước đó... tát đìa trộm lấy cá bán, kiếm chút tiền rủng rỉnh cho
những đêm vui.
Hồi đó Vàm Lá là vùng đất rộng người thưa, tiếng
trống mời khán giả phải mất mấy phút mới bay đến tận những thôn xóm ở cách chợ
xa xa, giữa những con rạch, cánh đồng.
Ngay buổi chiều đầu tiên khi những tiếng trống
ngoài chợ Vàm nổi lên thúc giục thì Út Nhì đã lo dắt trâu vô chuồng, bỏ rơm cỏ
dư dả cho nó nằm nhơi suốt đêm, rồi đi tắm rửa thay bộ đồ mới duy nhứt, nhét
vào túi mấy đồng bạc tiền tát đìa trộm và lặng lẽ rời khỏi nhà.
Leo lên chiếc xuồng câu đậu trong cái xẻo nhỏ um
tùm cây bần, cây ô rô, Út Nhì khoan khoái, bổ mạnh mái dầm ra hướng chợ Vàm.
Trên đường đi Út Nhì gặp lố nhố những chiếc xuồng ba lá của đám người già trẻ
cùng trên đường đi xem hát như anh ta. Ai cũng hối hả muốn đến chợ sớm trước
vài giờ để ăn tô bánh canh, cháo gà hoặc uống vài ve rượu với đĩa lòng lợn mà
ngày thường đâu dễ gì có. Nhứt là mấy cậu thanh niên háo hức muốn ra chợ Vàm
sớm để còn có dịp đi ve vãn các nàng thôn nữ chắc chắn cũng có mặt ở đây để xem
cải lương.
Út Nhì chèo ra đến chợ Vàm thì mặt trời đã khuất
bên cánh đồng. Trời sụp tối. Chợ Vàm Lá rực sáng đèn. Đèn dầu chen lẫn với đèn
măng sông, ánh sáng lấp lánh như sao sa. Sau khi buộc ghe vào bến, Út Nhì đi
vòng ra sau chợ định ngắm nhìn các nghệ sĩ đào kép, nhưng gánh hát che bít bùng
nên chẳng thấy gì. Út Nhì vòng ra trước chợ, tấp vào một sạp bán cháo gà dằn bụng
một tô. Cả năm trời đội nắng dằm mưa Út Nhì mới có được một buổi thong dong
ngồi húp tô cháo ngọt lịm. Ăn hết một tô, Út lại gọi thêm tô nữa kèm với một
đĩa gỏi gà. Lần này tát trộm cái đìa nhỏ xíu của ông Bảy Trọn mà được mấy chục
ký cá, bán được mấy chục bạc. Vậy thì chơi cho đáng. Thong thả húp cháo, nhẩn
nha nhai miếng gỏi gà ngọt lịm, Út Nhì vừa ăn vừa nhìn nam thanh nữ tú dập dìu
lượn qua lượn lại.
Đang nghe tiếng kèn sáo bên trong nhà lồng chợ nổi
lên rộn rã, đang quét mắt khắp sân chợ, Út Nhì chợt giật mình vì một cô gái mặt
hoa da phấn từ trong phía sau chợ bước ra ngồi xuống đối diện. Cô gái kêu một
tô cháo và hối chị bán cháo:
- Chị cho em xin tô cháo lẹ lên, em sắp tới giờ
diễn rồi.
Nếu đêm nay không đi xem hát thì có lẽ suốt đời Út
Nhì ắt hẳn chẳng đời nào có dịp gặp được một người thiếu nữ đẹp như thế này.
Trái tim chàng thanh niên đồng ruộng rộn lên những nhịp đập rộn ràng khó tả.
Anh chàng lắp bắp làm quen:
- Chị ơi, có phải chị là nghệ sĩ không?
Nghe chàng trai tóc đỏ như râu bắp dáng vẻ quê mùa
mà ăn nói lễ phép, cô gái cười gật đầu:
- Ừa, đúng vậy, chị tên Mỹ Phụng, đêm nay chị sẽ
đóng vai Nghi Xuân trong vở Phạm Công Cúc Hoa.
Lần đầu tiên được nói chuyện với một nghệ sĩ lại là
một nữ nghệ sĩ đẹp như tiên nga lòng Út Nhì thật bồi hồi vui sướng.
Cô gái ăn cháo xong chào Út rồi biến vào hậu
trường. Út Nhì cũng đứng lên mua vé vào xem. Không mua vé hạng "cá
kèo" mà Út mua vé ngồi để có dịp áp gần sân khấu, để tiện ngắm nàng Mỹ
Phụng. Đến cảnh Nghi Xuân Tấn Lực được mẹ Cúc Hoa hiện hồn về chăm sóc cho hai
đứa con thơ bị bà mẹ ghẻ Tào Thị ác nghiệt đánh đập bắt đi ăn mày, ngồi ở dưới
Út Nhì khóc như mưa.
Dường như tuy đang diễn nhưng Mỹ Phụng có liếc
xuống khán giả và nhìn thấy chàng trai nhà quê đang khóc. Có lẽ cô gái cũng nao
lòng và cảm động trước những giọt nước mắt của chàng nam nhi.
Qua đêm sau nữa, cũng ở sạp cháo gà Út Nhì lại gặp
Mỹ Phụng, cô ả cười nói:
- Hôm qua chị thấy em khóc phải không? Đàn ông con
trai mà cũng dễ rơi nước mắt vậy sao?
Út Nhì đỏ rần mặt mũi:
- Ừ, tại hôm qua chị diễn hay quá cứ y như thật.
Thương chị và má Cúc Hoa nên em khóc...
Mỹ Phụng dặn bà bán cháo:
- Hai tô cháo này để em trả tiền.
Rồi quay qua Út Nhì cô nàng thân mật:
- Bữa nay chị bao em. Lát nữa có vào xem không?
- Có chớ, đêm nào em cũng chèo ghe ra đây xem hát
mà.
Ăn xong, trả tiền cháo, Mỹ Phụng nheo mắt cười với
Út Nhì rồi chạy nhanh vào hậu trường.
Vãn hát, xuồng ghe lịt kịt ra về. Út Nhì bần thần
không muốn rời khỏi nơi này. Út Nhì thấy thèm nhớ cô đào Mỹ Phụng, trong lòng
lưu luyến làm sao. Ước gì được nhìn Mỹ Phụng một lần nữa rồi về ngủ cho ngon.
Một tay cầm dầm, một tay nắm giữ nhánh bần cho ghe đừng trôi, Út Nhì nhìn về
phía gánh hát.
Có lẽ ước muốn của Út Nhì quá chân thật nên động
lòng trời hay chỉ là một sự vô tình, một bóng trắng đi xăm xăm về phía chiếc
xuồng Út Nhì đang đậu.
- Mỹ Phụng.
Út Nhì há hốc miệng, kêu nhỏ. Làm như đã biết trước
Út Nhì ở đây, Mỹ Phụng cười:
- Chưa về hả? Tính đợi chị sao?
Út Nhì say sưa ngắm Mỹ Phụng. Làn da cô đào hát hơi
xanh xao, có lẽ đã bôi hết son phấn. Bù lại, bóng dáng nàng tha thướt dịu dàng
đến lạ lùng. Nàng bước đi uyển chuyển như khói, như mây.
Không nghe Út Nhì trả lời, Mỹ Phụng hỏi tiếp:
- Nhà em ở tận đâu vậy?
Út Nhì chỉ theo hướng dọc dòng sông:
- Từ bến sông này chèo ngược vô phía trong độ nửa
giờ thì đến xóm em. Xóm em nhỏ lắm, chỉ lèo tèo độ chục nóc gia thôi.
Mũi xuồng tấp sát vào bờ, không đợi mời, Mỹ Phụng
nhanh nhẹn bước xuống, đến ngồi kế bên Út Nhì.
- Vậy đêm nào em cũng chèo ghe ra đây xem hát một
mình?
- Dạ, đêm nào cũng vậy. Em muốn được xem chị hát
lắm - Giọng Út Nhì chợt buồn - Không hiểu chừng gánh hát của chị dọn đi em sẽ
làm gì trong những chiều tối như thế này. Chắc em sẽ buồn lắm.
Nghe chàng trai thổ lộ tâm tình, Mỹ Phụng có vẻ
chạnh lòng lắm, nàng vỗ nhẹ vai chàng trai:
- Đời của bọn chị là cuộc đời rày đây mai đó, chủ
yếu sống về đêm, lúc thuận duyên thì đến, hết duyên thì đi, hơi sức đâu nhớ
nhung những kiếp người nổi trôi như bọn chị!
Út Nhì mủi lòng:
- Biết vậy nhưng em mến chị quá, hình ảnh của chị,
tiếng hát của chị cứ ám ảnh em suốt trong những giấc mơ.
Mắt cô gái long lanh, dường như nàng xúc động dữ
lắm trước tấm chân tình của chàng trai trẻ nông thôn chân chất. Nàng ướm lời:
- Ở làng quê gái mười sáu đã lấy chồng, trai mười
tám đã có vợ, vậy em đã có vợ chưa?
Út Nhì đỏ mặt lúc lắc cái đầu bù xù tóc:
- Trời ơi gia đình em nghèo lắm chị, nên đâu có cô
nào dám thương em.
Cô gái nắm nhẹ bàn tay Út Nhì:
- Thôi thì để chị làm mai cho em một người vậy. Mà
biết em có chịu người ta không đây?
- Người ấy là ai vậy chị Phụng?
Phụng bóp nhẹ tay Út:
- Bí mật, khuya mai vãn hát em xuống xuồng chờ chị
nhé.
Như có một luồng điện từ bàn tay của người con gái,
truyền sang Út khiến người cậu ta lâng lâng khó tả. Đây là lần đầu tiên trong
đời chàng trai hiền từ đồng ruộng biết thế nào là sự mềm mại của một bàn tay
con gái...
Con trăng mười tám lên muộn. Ánh trăng rải rộng một
màu vàng tươi tắn xuống dòng nước lặng lờ...
Chưa kịp vãn hát Út Nhì đã đi xuống bến sông leo
lên chiếc xuồng nhỏ của mình hồi hộp ngồi chờ. Chàng trai còn cẩn thận đậu
khuất vào một tán bần to để không ai nhìn thấy được.
Đang mơ mộng bỗng nghe mũi thuyền lắc nhẹ, Út Nhì
giật mình quay lại đã thấy Mỹ Phụng ngồi ở đó hồi nào và mỉm cười:
- Ngồi mơ cô nào mà người ta đến đây cả buổi vẫn
không hay? Thôi, xô thuyền ra đi kẻo người ta thấy bây giờ.
Như cái máy, Út Nhì đẩy mái dầm bơi xuồng ra khỏi
bến rồi thả thuyền trôi theo con nước. Mỹ Phụng đi lần xuống ngồi giữa lòng
thuyền để tóc buông xõa bay theo chiều gió. Út nghe từ mái tóc người con gái
tỏa ra mùi hương hoa lài thoang thoảng, ngất ngây. Nàng ngồi đó nhìn trăng, hát
nho nhỏ.
Khi thuyền đã đi vào một vùng sông tối do những đám
bần, dừa nước mọc hoang, cô nàng kêu Út dừng thuyền bên một nhánh bần nhỏ.
- Chỗ này thật trữ tình, sao ta không cột thuyền ở
đây để nói chuyện.
Út Nhì neo thuyền lại. Con trăng mười tám nằm trên
ngọn bần nhỏ. Dòng sông vắng lặng như thể nó đang say ngủ giữa canh khuya trăng
sáng. Mỹ Phụng đưa tay vẫy:
- Lại đây, chị nói chuyện này.
Út cột thuyền vào nhánh bần rồi lại ngồi xuống cạnh
Mỹ Phụng.
- Đâu, chị nói giới thiệu cho em người nào đâu, sao
chẳng thấy?
Mỹ Phụng cười nho nhỏ trêu:
- Con mắt em đâu mà chẳng thấy người đó?
Út ngây thơ nhìn quanh:
- Ngoài chị và em ra thì có ai đâu?
Mỹ Phụng kéo sát Út vào mình rồi nói nhỏ vào tai
cậu ta:
- Người ấy là chị đây nè, em chịu không?
Hỏi xong cô nàng không để Út trả lời đã ôm sát hôn
Út đắm đuối:
- Từ hôm gặp em, chị đã thấy có tình cảm với chàng
trai này rồi. Và chị nghĩ em cũng đã yêu chị, đúng không? Chị biết chúng ta có
duyên phận với nhau mà!
Mùi con gái thơm tho lạ lùng, hơi thở nàng ấm áp là
những thứ mà chưa bao giờ Út được cảm nhận. Út Nhì như say, như điên dại ôm
chầm lấy Mỹ Phụng. Hai người quấn nhau như hai con rắn mặc cho chiếc thuyền
chòng chành làm vỡ những mảnh trăng vàng.
Đêm ấy cả hai ân ái với nhau đến gần sáng. Khi con
trăng sắp chìm dưới dòng sông thì nàng mới giục:
- Thôi, đêm nay chị đã làm vợ của em rồi, bây giờ
phải đưa trả chị về bến chợ Vàm, tối nay mình sẽ lại gặp nhau.
Út còn quyến luyến:
- Nhưng trời chưa sáng hẳn, chúng ta nấn ná lại đôi
giờ nữa được mà.
Nàng lắc đầu và hôn nhẹ má Út:
- Không được, chị phải về ngay đây, đừng cãi chị
giận sẽ từ biệt luôn bây giờ. Đừng trẻ con nữa ông chồng bé bỏng của chị.
Suốt mấy đêm liền khuya nào Út Nhì cũng chèo xuồng
ra chợ Vàm đón Mỹ Phụng và đưa nhau ra khúc sông vắng để tâm tình ân ái.
Rồi một đêm Mỹ Phụng nói thì thầm bên tai Út:
- Bao ngày qua em đã cho chị biết thế nào là thứ
hạnh phúc xác thịt gái trai. Nhưng em với chị tuy có duyên mà không nợ nên đêm
mai ta gặp nhau sẽ là đêm cuối cùng.
Út muốn khóc:
- Hay là chị cho Út theo chị. Út nghèo tài sản chỉ
có chiếc xuồng này thôi. Út sẽ bỏ xuồng, bỏ bến sông, bỏ làng sẵn sàng theo chị
đến bất cứ nơi nào.
Mỹ Phụng vuốt ve mái tóc rối bù của Út:
- Không được đâu, đời sống của chị và em khác nhau
xa lắm, đôi bề cách trở, không thể nào ở vĩnh viễn bên nhau mãi được. Chúng
mình chỉ có bấy nhiêu thôi. Đừng buồn chồng ơi.
Đêm sau trời đã nhá nhem tối bỗng có một cơn mưa
nhỏ rơi xuống. Khung cảnh làng quê càng trở nên mịt mờ vắng lặng.
Bữa nay chắc nước ngược hay sao mà xuồng chèo lâu
quá vẫn chưa chịu đến cửa Vàm. Khi đến được chỗ gánh hát thì tuồng đang diễn.
Út cột thuyền nhảy lên bờ đi thẳng vào cửa chợ. Lố nhố người xem hát, Út Nhì há
hốc say sưa ngắm Mỹ Phụng trong vai Chiêu Quân.
Út Nhì thấy Mỹ Phụng mê mải hát dường như chẳng hề
để ý gì đến cậu ta. Gần vãn đêm hát, Út Nhì đi ra, xuống xuồng ngồi chờ trong
lòng cảm thấy buồn vô hạn. Lát sau Mỹ Phụng xuất hiện. Không chờ cho xuồng đi
xa, nàng lao tới ôm chầm lấy Út Nhì rủ rê cậu ta vào thú vui xác thịt như những
đêm trước.
Xong việc nàng khóc với Út:
- Ân tình với em đêm nay nữa là xong, về sau em nên
đi lấy vợ và xin đừng mơ tưởng.
- Không, Út sẽ theo chị, Út không lấy vợ đâu, chị
đã là vợ của Út rồi.
Nàng ủ dột:
- Biết là khó rời nhau, song duyên số đã vậy biết
nói sao bây giờ. Thôi em hãy nằm trong lòng chị, để chị hát ru cho mà ngủ.
Rồi nàng Mỹ Phụng nỉ non hát. Tiếng hát của nàng
ngọt ngào dìu dặt khi xa khi gần làm đôi mắt Út Nhì ríu lại và ngủ thiếp đi
trong vòng tay mân mê êm ái của người con gái...
Đến sáng hôm sau khi những tia nắng ban mai đầu
tiên chiếu vào mặt Út Nhì làm cậu ta giật mình tỉnh giấc. Ngó quanh không thấy
Mỹ Phụng đâu, còn chiếc xuồng của cậu ta thì đậu trên một bãi cạn chung quanh
đầy mồ mả cái cao cái thấp lúp xúp lô nhô... Hốt hoảng, Út Nhì ì ạch đẩy xuồng
xuống mép nước chèo riết về cửa Vàm. Gánh hát đã dọn đi trong đêm...
Ông cụ Út Nhì nay đã ngoài chín mươi, đang sống ở
một trung tâm nuôi dưỡng người già. Ông cụ kể chuyện về "mối tình
xưa" xa lắc nào đó chẳng rõ là thật hay hư. Đó là mối tình với một cô đào
hát mơ hồ như truyện liêu trai ma quái. Buổi chiều buồn. Trên ghế đá ngoài sân
trung tâm, ông ngồi một mình với cái bóng hiu hắt. Đôi mắt hấp háy, mọng đỏ,
ông nói:
- Từ đó tới giờ tôi không có vợ con, tôi sống thủy
chung với một bóng hình trong quá khứ. Nàng là người hay ma, tôi không xác định
được, nhưng tôi yêu nàng, tôi mong là có cơ hội được gặp lại nàng, Mỹ Phụng của
riêng tôi...
ĐƯA DÂU VỀ ÂM PHỦ
(Tác giả: Người Khăn Trắng)
Tại thôn An Lý có một ngôi nhà hoang, đã vắng người
hàng chục năm rồi mà chẳng thấy ai là chủ tới viếng thăm. Người trong vùng đồn
ngôi nhà đó có ma, nên càng cho thiên hạ thêm sợ và lánh xa.
Vậy mà vào một đêm đầu mùa đông, lại có một anh
chàng xách chiếc túi cũ, đi bộ vào ngôi nhà tối đen như mực. Anh ta dò từng
bước, đi tới đâu, lũ dơi hoang đang bám trên trần nhà bay ra ào ào. Nếu Ià
người khác thì sợ hết vía, nhưng anh chàng này thì lại bật cười và lẩm bẩm:
- Chắc ai cũng tưởng tao sợ chúng mày, hóa ra tụi
bay lại sợ tao phải bỏ chạy!
Anh ta có vẻ thích thú chuyện những con dơi vỗ cánh
bay đi. Nhưng thích nhất là khi anh ta bật diêm quẹt lên soi sáng cả một vùng,
thì Ioài côn trùng, rắn rết thi nhau chạy thục mạng!
- Tao lại chiến thắng!
Tìm được một số que nhỏ, anh ta gom lại thành một bó,
như cách người ta làm đuốc, rồi châm lửa to lên. Lát sau, ánh sáng từ cây đuốc
tự tạo đó đã giúp cho căn phòng rộng đầy bụi và mạng nhện đã có vẻ ấm cúng hơn.
Anh chàng lại tự nói:
- Có thế chứ!
Dùng mấy tấm bìa cũ rơi vãi dưới đất Iàm chổi, anh
ta quét nhanh một vùng to hơn chiếc giường. Cả lớp bụi dày, nhờ bóng đêm nên
không thấy bụi bay lên, nhưng hít vào khiến anh ta phải hắt hơi liền mấy cái.
Tiếng hắt hơi mạnh lại một lần nữa khiến lũ dơi còn lại bay ra loạn xạ, có con
bay vèo qua mặt, suýt nữa đã đập vào mắt anh ta.
- Bay hết đi, ông mày nghỉ ngơi cho yên tĩnh!
Lát sau, không khí trong phòng trở lại yên ắng đến
lạ thường. Để nguyên cả quần áo, giày và chiếc mũ lụp xụp trên đầu, anh chàng
ngã lưng đại xuống nền nhà, lấy chiếc túi cũ làm gối. Thế là anh ta có một chỗ
nghỉ ngơi tuyệt vời!
Cây đuốc tự tạo chỉ cháy được khoảng mười lăm phút
thì tàn. Ánh sáng yếu dần đi và đến lúc nó tắt phụt, trả căn phòng về với bóng
tối cố hữu của nó. Nhưng đâu hề gì, bởi anh chàng ta đã thở đều đi sâu vào giấc
nồng. Có thể do anh ta đi đường xa quá quá mệt, hoặc cũng có thể do có chút hơi
men trong người.
Lúc gần sáng, bỗng nghe có tiếng cự cãi giữa hai
người, một nam một nữ. Đầu tiên là tiếng của anh ta.
- Yêu cầu cô đi chỗ khác, nơi đây là của tôi.
Giọng nữ không vừa:
- Ai nói nơi đây là của anh? Anh có biết ngôi nhà
này đã bỏ hoang từ bao giờ không? Nó hoang tàn lúc nào thì tôi có mặt từ lúc
ấy. Nó là chỗ của tôi!
- Không đúng. Nhà hoang là nhà vắng chủ, vậy ai xí
được chỗ nào thì là của người ấy! Cô cần chỗ ngủ thì hãy đi tìm phòng khác, tôi
đang ngon giấc tại đây, không chuyển đi đâu cả!
- Anh biết đang nói chuyện với ai không? Anh còn
muốn sống nữa không?
Một tràng cười phát ra, cùng với câu nói dứt khoát
của anh chàng ngông cuồng:
- Sống cũng được, mà chết cũng đâu có sao.
- Anh...
Giọng người nữ chợt dừng lại. Rồi một lúc sau,
không còn nghe tiếng cãi vã nữa. Chỉ có những tiếng động đậy và thì thầm rất lạ
tai. Việc này kéo dài cho đến khi gà gáy rộ.
Sáng, trong lúc anh chàng lãng tử còn đang ngủ say
như chết thì có một người bước vào phòng. Đó là một lão nông. Ông ta ngước nhìn
lên trần nhà rồi buộc miệng:
- Trúng to rồi.
Thì ra ngay trên đầu ông ta có giăng một tấm lưới
to và trong lưới có nhiều con dơi mắc kẹt, đang cất tiếng kêu chí chóe.
- Sao bữa nay lũ dơi này lọt bẫy nhiều dữ vậy cà?
Thì ra lão ta là người giăng tấm lưới thưa kia,
nhầm bắt đàn dơi khi chúng vô tình bay ra bay vào ngôi nhà này. Bữa nay tha hồ
cung cấp tiệm bán cháo dơi. Lũ dơi toàn con mập. Lão ta đặt chiếc giỏ mang theo
xuống đất, chuẩn bị gỡ tấm lưới xuống. Vừa lúc ấy, lão ta phát hiện có anh:
- Ai vậy?
Tiếng hỏi của lão khá lớn khiến anh chàng đang ngủ
giật mình. Anh ta nheo mắt nhìn lên, phần thì bị ánh sáng chiếu vào, phần mới
vừa tỉnh ngủ, nên phải mất hơn chục giây anh ta mới cất tiếng hỏi:
- Ông là ai vậy?
- Tôi hỏi cậu là ai mà dám vào đây ngủ?
- Có gì mà không dám!
Anh ta vừa trả lời vừa bật ngồi dậy. Bỗng anh ta
ngơ ngác hỏi:
- Người của tôi đâu rồi?
Ông già bắt dơi hỏi lại:
- Còn có người khác nữa sao?
- Có chứ. Nàng ngủ với tôi suốt đêm rồi. Mới đây
mà...
Lão già xẵng giọng:
- Thì ra tụi bay là thứ mèo mả gà đồng, dẫn nhau
vào đây làm bậy phải không?
Gã kia trợn tròn mắt:
- Ông chửi ai vậy?
- Cậu đó. Cậu dẫn gái vào đây phải không?
Anh chàng phát cáu:
- Dẫn gái thì sao? Nhà này của lão chắc?
Thấy thái độ trịch thượng của anh ta, ông lão cũng
nổi nóng:
- Nhà của tao, được chưa!
Chẳng ngờ anh ta lại tưng tửng:
- Có nhà sao không ngủ giữ, lại để cho lũ dơi và
rắn rết làm ổ?
- Tại vì... tại...
Thấy lão ta ấp úng, anh chàng lại cố tình trêu
chọc:
- Nếu muốn tìm chỗ nghỉ chân thì tôi nhường cho căn
phòng bên trái đó, vào dọn dẹp đi, tránh chỗ để quan anh ngủ thêm chút nữa, rồi
sáng mai dậy ta sẽ mời đi ăn cưới!
Nghĩ mình gặp một tên tâm thần, nên lão già nạt
ngang:
- Im đi, để người ta làm việc!
Lo bắc chiếc ghế cũ đứng lên và gỡ từng con dơi cho
vào giỏ. Anh chàng kia có ý theo dõi, cuối cùng phát hiện ra việc bắt dơi ngộ
nghĩnh của ông ta, anh không còn nói ngang nữa:
- Thì ra bác giăng bẫy. Vậy mà nãy giờ không nói.
Cháu xin lỗi.
Anh ta thích thú với công việc nên vội đứng lên phụ
một tay. Lão già cũng không còn gay gắt nữa, lại hỏi:
- Cậu là người đâu tới đây, sao lại dám ngủ chỗ
này?
- Cháu ở xa, đi bộ hàng chục cây số, vào tới đây
thì trời tối, tiện thấy chỗ này vắng nên ngã lưng đại.
- Thì ra là vậy. Nhưng Iúc nãy cậu nói còn có ai
nữa?
Anh chàng tính kể thật, nhưng kịp nghĩ lại nên nói
khác đi:
- Cháu chỉ đùa..
Ông lão chợt cười:
- Hỏi chơi vậy chứ tôi thừa biết con gái nào dám
theo trai vào chốn này.
Khi bắt hết số dơi dính bẫy, lão hỏi:
- Cậu có muốn lấy ít dơi làm thịt nấu cháo không?
Anh chàng cười ngất:
- Cháu trên răng dưới... quần đùi thế này lấy gì
nấu nướng.
- Rồi đây cậu đi đâu?
Anh ta lại phá lên cười:
- Có lẽ cháu sẽ ở lại đây một thời gian.
Lão già lắc đầu liền:
- Đâu có được! Cậu chưa biết, chứ nơi này...
Lão ngại nên không nói tiếp. Nhưng anh chàng thì
hầu như đoán được, anh ta tiếp liền:
- Bác muốn nói tới ma chứ gì? Vậy thì cháu gặp rồi.
Gặp ma nữ nữa kìa!
- Cậu đừng có đùa. Người vùng này chưa một ai ngoài
tôi dám vào đây, chứ đừng nói là ăn nói bạt mạng như cậu. Không nên đâu...
Trước khi ra về, lão còn dặn với lại:
- Tốt hơn hết là cậu nên tìm một chỗ nào đó mà ở.
Nơi này không phải dành cho người .
Anh chàng không đáp, chờ lão đi khuất rồi lại nằm
xuống ngủ tiếp. Cả anh ta và lão già lúc nãy cũng không để ý, ngay bên cạnh chỗ
anh chàng nằm có một tấm khăn lụa màu lục, còn rất mới, đang nằm vắt vẻo ở đó.
Chiếc khăn chắc chắn là của một nữ nhân, mà phải là người sang trọng!
Chuyện ngôi nhà hoang có người lạ đến cũng chẳng
mấy chốc đã loan truyền ra khắp xóm. Cho đến trưa hôm đó thì từ ngoài vòng rào
đã có rất đông người tụ tập xem kẻ to gan.
Trong khi đó, anh chàng kia vẫn không hay biết gì,
cứ ngủ li bì. Nhiều người bàn nhau:
- Chuyện này phải đi trình báo mới được, biết đâu
là...
Người khác lại nói:
- Nếu là kẻ gian thì không vào đó mà nằm ngủ! Ắt là
kẻ tâm thần.
Người ta đứng đợi mãi mà không thấy gì thì cũng
chán, nên lần lượt ra về. Người còn lại sau cùng chính là ông lão bẫy dơi đêm
qua. Ông ta đợi cho mọi người đi hết mới lẻn vào bên trong. Đó cũng là cách vào
nhà thường khi của ông ta.
Đi vòng ra phía cửa hông, thay vì đi cửa trước như
lệ thường, ông lão nhấc một cánh cửa gỗ ngụy trang ra, rồi chui tọt vào bên
trong. Đã rành đường đi, nên lão đi trong bóng tối không có gì khó khăn. Lát
sau thì vòng ra tới căn phòng lớn mà ông ta đã gặp chàng trai. Không bật đèn,
lão ta chỉ nhẹ đẩy một cánh cửa sổ ra, ánh sáng lọt vào khiến căn phòng sáng
lên soi rõ mọi vật.
- Cậu...
Ông ta kêu lên kinh ngạc, khi thấy trước mặt mình là
anh chàng kia đang nằm ngủ, nhưng trong vòng tay lại đang ôm một con chó. Đúng
hơn đó là một con chó rừng...
- Cậu...
Ông ta chưa kêu hết tiếng thứ hai thì đã ngã lăn
ra.
Trong lúc mọi người còn đang xôn xao bên ngoài với
đèn đuốc sáng choang, thì ở bên trong có người nói:
- Tôi đây này, mọi người kêu gào gì dữ vậy?
Đám người tụ tập kia với mục đích đi tìm ông lão
bắt dơi. Sau khi ông ta vào đó cả ngày không thấy ra! Vừa nghe tiếng người thì
mọi người mừng rỡ:
- Ông Năm Lành kìa!
Ông ta bước thẳng ra cổng ngôi nhà hoang trước sự
ngạc nhiên của mọi người. Họ hỏi dồn:
- Sao ông ở cả ngày trong đó vậy, làm cả nhà ông
chạy tìm nháo nhác.
Ông già chỉ tay vào trong:
- Để cho người ta nghỉ ngơi!
Mấy người kia quá đỗi ngạc nhiên:
- Ai trong đó?
Ông ta đáp tỉnh bơ:
- Thì khách lạ!
- Nhưng mà...
Ra dấu cho mọi người đừng gây ồn, Năm Lành leo rào
ra ngoài rồi mới nói:
- Đó là người tốt, tôi phải giúp cậu ta làm một
chuyện trọng đại cái đã...
Trước những câu nói kỳ lạ của ông ta, nhiều người
không thể tin được, đã phải cầm tay lão lay mạnh, như sợ lão bị mê sảng. Nhưng
Năm Lành rất tỉnh táo:
- Tôi không bị gì đâu! Chỉ có điều ta phải giúp con
người đó. Anh ta sắp lấy vợ!
Câu nói đó càng làm cho mọi người ngơ ngác thêm.
- Ông Năm nói rõ đầu đuôi coi!
- Thì nói rồi, người này mời chúng ta ăn đám cưới
vào tối mai. Vậy bà con về đi, không có chuyện gì đâu.
Đời nào mọi người chịu nghe, họ cứ hỏi mãi:
- Ông gặp ai trong đó? Sao lúc nãy ông nói có người
tâm thần, rồi bây giờ lại nói đám cưới là sao?
Lão Năm Lành vẫn bình tĩnh:
- Có gì đâu, biết được đó là người đang hoàng nhưng
nghèo, họ cần mình giúp thì cứ giúp thôi!
Phải mất gần nửa giờ sau, ông ta mới kể được rành
mạch.
- Đó là một anh chàng ta xa tới, anh ta gặp được
một người phụ nữ cùng cảnh ngộ nên thương, và họ ngỏ ý sống cùng nhau, cho nên
vừa rồi khi tôi vào gặp họ thì họ chính thức nhờ tôi đứng chủ hôn cho họ. Đám
cưới tổ chức ngày mai.
Có người cười to:
- Làm đám cưới trong ngôi nhà hoang, chắc là cưới
ma!
Năm Lành lừ mắt nhìn anh ta:
- Đừng nói bậy mà mang tội và... và...
Lời Năm Lành chưa dứt thì tự nhiên gã kia trợn
trừng đôi mắt rồi há hốc mồm như hình nộm. Mặt người lay gọi nhưng anh ta đã
chết đứng, không cử động được.
- Ông Năm, coi thằng Tình sao kìa.
Năm Lành thở dài:
- Tôi đã nói rồi, chuyện này đâu phải chuyện đùa.
Ông vỗ lên vai anh chàng kia một cái, tự dưng anh
ta cử động được, rồi tự nhiên vùng bỏ chạy như ma đuổi. Ông Năm lắc đầu bảo mọi
người:
- Mọi người cứ nghe tôi, chuyện gì giúp được ta cứ
giúp.
Rồi ông căn dặn từng người, ông ta nói:
- Mọi người về đi, rồi tối mai đúng tám giờ tới đây
để dự lễ cưới. Nhớ có quà gì mang theo quà nấy, giống như trong đám cưới bình
thường.
Chẳng hiểu sao mọi người lại răm rắp nghe theo.
Không mấy người tin đó là chuyện thật, nhưng cũng theo lời Năm Lành, tối hôm
sau họ tề tựu về ngôi nhà hoang dự đám cưới.
Tối hôm ấy mọi việc diễn ra là thật! Ngôi nhà hoang
đang tối sầm, bỗng đèn đuốc nổi lên sáng choang, tiếng nhạc vang lừng!
Mọi người lũ lượt kéo vào cổng ngôi nhà hoang,
chẳng biết do ai mở cổng mà sự đi lại được dễ dàng như có gia nhân. Khi vào
nhà, họ ngạc nhiên vô cùng khi nhìn thấy gian đại sảnh của ngôi nhà lộng lẫy
như một tư thất của đại phú hào! Có người chưa tin lắm, hỏi người bên cạnh:
- Thật không vậy?
Anh ta vừa mở miệng thì đã bị ngay một cái tát nảy
lửa vào một bên má! Anh ta kêu lên:
- Sao đánh tôi?
Lại một cái tát nữa má bên kia. Lần này, những
người đứng gần đều không một ai có hành động nhấc tay lên, nên chắc chắn không
phải là họ đánh. Anh chàng bị đánh có lẽ hiểu mình bị trừng phạt vì câu hỏi ngớ
ngẩn vừa rồi, nên sợ thất thần, lặng im như thóc!
Vừa lúc đó, người ta nhìn thấy một thanh niên trẻ,
quần áo chỉnh tề, đi bên cạnh một mỹ nữ, bước ra đứng giữa nhà. Tất cả đều buột
miệng khen:
- Đẹp đôi quá!
Lời khen thì không sao, nên mọi người không ngớt tán
tụng nhan sắc cô dâu. Năm Lành trở thành người chủ hôn, ông ta khăn đóng áo dài
nghiêm chỉnh, dõng dạc tuyên bố.
- Hôm nay là ngày trọng đại của chú rể Bá Thông và
cô dâu Thùy Hương. Nào, chúng ta cùng nâng ly chúc mừng.
Lạ một điều là trên tay mọi người đều cầm một ly
đầy rượu. Họ cùng cụng ly mà không dám chần chờ.
Có cả một toán nữ vũ công vừa xuất hiện. Họ nhảy
múa thật vui. Trong phút chốc đã vây quanh cô dâu chú rể, kéo họ cùng xoay tròn
theo tiếng nhạc chẳng biết vọng ra từ đâu, nhưng nghe rất gần và rất lạ tai.
Đám cưới kỳ lạ kéo dài đến canh hai mới chấm dứt.
Đèn trong nhà tắt dần.
Mọi người lần lượt kéo nhau ra về. Tuy nhiên, vẫn
còn vài người do quá tò mò đã lén nán lại, nấp vào cửa tiếp tục nhìn xem.
Họ vừa nhìn thấy cô dâu chú rể kéo nhau vào phòng
riêng thì bỗng tất cả bọn họ đều ngã lăn ra hôn mê...
Ngày hôm sau, khi lý trưởng và một số dân làng vào
ngôi nhà hoang thì chỉ còn thấy một cảnh hoang tàn như nó vẫn có. Giữa gian
phòng chỉ còn lại duy nhất một bộ hài cốt!
Cùng đi theo đoàn người còn có một vị đạo sĩ. Ông
được thỉnh tới từ một ngôi chùa nổi tiếng cách đó không xa. Hòa thượng Chơn
Thiện.
Ông nhìn kỹ bộ hài cốt một lúc rồi thở dài:
- Ta chậm quá rồi. Người đàn ông đó đã chết!
Có người hỏi:
- Thầy nói ai?
Nhà sư lại thở dài:
- Tội nghiệp anh chàng lang thang nào đó, do số đã
tận nên lọt vào đây mà không may gặp phải lũ yêu tinh này. Chúng đã hại chết
cậu ta.
Năm Lành lúc đó đã tỉnh táo, nói như người đồng
lõa:
- Biết cậu ta bị oan hồn sai khiến mà tôi không làm
được gì cứu, trái lại còn bị sai khiến...
Vị đạo sĩ nhân từ:
- Không trách ông đâu. Ông không bị hại đã là may
rồi.
Nhà sư Chơn Thiện nói tiếp:
- Mọi người hãy theo tôi ra ngoài này sẽ rõ.
Ông tới bên bức tường vòng rào ngoài của ngôi nhà,
dùng gậy cày xới lớp đất, lát sau nơi đó ló ra một bộ xương trắng. Vừa trông
thấy, mọi người đã kêu lên:
- Xương người!
Nhưng nhà sư đã lắc đầu:
- Không phải xương người đâu, xương chó đó. Và đây
chính là nguyên nhân của sự việc...
Ông còn chỉ tay ra ngoài:
- Ngày xưa nơi đây là một nghĩa địa. Người chủ ngôi
nhà này không xem kỹ đã xây ngôi nhà trên nền nghĩa trang hoang phế đó, nên từ
lúc xây xong đã không ở được, nên đành phải bỏ hoang. Chỉ vì cái bộ xương này.
Ông dừng lại như nén xúc động, sau đó mới tiếp:
- Ngày xưa, có lẽ cách đây đã hơn ba mươi năm, một
hôm có một đám đưa dâu đi ngang qua đây về nhà chồng bên kia thôn xóm, khi đấy
vùng này còn hoang vu lắm, nên hùm beo thú dữ rất nhiều. Và bi kịch đã xảy ra,
kiệu hoa cô dâu bị một đàn linh cẩu tấn công. Chúng xé xác cô dâu ra rồi chia
nhau ăn thịt. Cô gái đó chết oan, nên hồn phách cứ lang thang đâu đó... Và có
lẽ vì còn vương vấn người chồng còn lại chốn trần gian, nên vong hồn cô gái cứ
lẩn quất quanh đây, đêm đêm đi tìm đàn ông, mà cô nghĩ đó là chồng của mình!
Ngôi nhà hoang này là nơi chốn cô ta nương thân và chờ đợi. Chẳng may cho anh
chàng xấu số này, khi anh ta vào đây và ngủ lại...
Nhà sư ngừng kể, đứng lên và bảo mọi người:
- Sau khi bắt được hồn anh chàng tội nghiệp kia đi,
thì coi như mọi chuyện kết thúc. Từ nay oan hồn cô gái kia sẽ chẳng còn quấy
phá ai nữa đâu. Thôi, mọi người hãy về đi...
Ông đi trước, mọi người cũng ùn ùn đi theo, bởi
chẳng một ai can đảm nán lại. Họ rùng mình khi nhớ lại hình dáng bộ xương nằm
chỏng chơ giữa nhà của chàng trai tội nghiệp! !
Giữa trưa hôm đó, chẳng hiểu sao tự dưng ngôi nhà
hoang bốc cháy dữ dội. Chẳng một ai dám tới cứu chữa. Mà thật ra họ cũng muốn
thiêu hủy những gì còn lại của một bi kịch...
NGƯỜI CHỒNG CÕI ÂM
(Tác giả: Người Khăn Trắng)
I.
Mụ chủ quán bar bực bội lắm suốt từ nãy đến giờ, nhưng
do quán còn nhiều khách, nên mụ ta chưa nổi cơn tam bành. Đợi cho đợt khách khá
đông rút khỏi quán, mụ gọi ngay tay quản lý vào trong và trợn mắt với anh ta:
- Nãy giờ sao chưa tống cổ thằng ôn hoàng đó ra,
còn để nó ngồi đó làm kiểng hay sao vậy?
Tay quản lý Tám nhún vai:
- Em mời nó ra ba lần rồi, nhưng nó móc một xấp
tiền ra dằn lên bàn, hỏi bộ sợ nó không có tiền trả sao không bán. Mà chẳng
hiểu sao thằng ấy lại có nhiều tiền quá chị Lệ?
Mụ chủ Mỹ Lệ nghe nói tới tiền thì sáng mắt lên:
- Nhiều đến cỡ nào?
- Em thấy cả cọc dày, toàn giấy lớn, có đến nhiều
triệu.
Bà chủ Mỹ Lệ hơi dịu giọng:
- Thấy nó ngồi uống rượu như uống nước, tao sợ nó
quậy quán mình. Nhưng sao nhiều tiền mà nó chỉ ngồi một mình, không kêu em nào
hết vậy?
Quản lý Tám lắc đầu:
- Em có hỏi, nhưng nó bảo không cần! Nhưng hình như
nó đợi...
- Đợi ai?
- Con Thiên Nga!
Mụ chủ giật mình:
- Nó là khách của con Thiên Nga sao?
- Hình như là vậy. Nhưng hồi nào giờ có thấy nó tới
đây đâu mà là khách của con Thiên Nga? Hay là...
Mụ Mỹ Lệ kêu lên:
- Đúng rồi! Nó là thằng người yêu hay là chồng gì
đó của Thiên Nga! Vậy thì dù nó có bao nhiêu tiền mày cũng tống cổ nó ra mau!
- Nhưng nó đã quyết ngồi lì rồi. Em thấy nó có lận
vật gì trong lưng...
Mụ Mỹ Lệ hạ thấp giọng:
- Mày không nhớ là tối nay Thiên Nga có hẹn tiếp
bàn khách của ngài Rôbe sao? Để nó ở đây lát nữa thế nào cũng sinh giặc cho
coi!
Quản lý Tám đành phải trở ra ngoài, anh lại thì
thầm với hai tên đàn em làm nhiệm vụ bảo vệ, ngay sau đó hai tên ấy bước tới
nói gì đó với người khách đang ngồi uống một mình ở chiếc bàn trong góc tận
cùng. Chẳng hiểu cuộc nói chuyện ra sao, chỉ thấy người khách bất thần tung
chân đạp đổ một lúc hai chiếc ghế, rồi anh ta đứng dậy quát lớn:
- Kêu chủ quán ra đây!
Quản lý Tám phải xuất hiện. Sau vài câu phân trần,
anh chàng vẫn hung hăng:
- Các người khinh người quá đáng, tôi uống là trả
tiền sòng phẳng, việc gì đuổi tới đuổi lui thế này?
Tám cố giải thích:
- Không phải đuổi, chỉ là người anh đợi bữa nay
không tới. Cô ấy nghỉ bán...
Khách lại ngồi xuống:
- Gọi chủ quán ra đây.
- Chủ quán đi vắng.
Anh ta quát càng to hơn:
- Gọi mụ Mỹ Lệ ra đây.
Một số khách chơi thấy không khí căng thẳng đã bỏ
về. Thấy không ổn mụ Mỹ Lệ xuất hiện ngay.
- Tôi đây. Anh cần gì?
Người khách không nhìn mụ Mỹ Lệ, anh ta từ từ mở
nút áo ngực ra, rồi bất thần bung cả phần ngực ngay trước mặt mụ Mỹ Lệ.
- Trời ơi! Thằng... thằng... Một.
Mụ nhận ra khách ở hình xăm hình con cá sấu nhe
răng chiếm nguyên mảng ngực của anh chàng! Hình xăm lạ và hiếm thấy.
- Mày... mày đã...
Trong lúc mụ ta vừa nói vừa lùi lại như muốn bỏ
chạy, thì người khách đanh giọng:
- Mụ đứng lại đó!
Bà Mỹ Lệ riu ríu làm theo bởi hồn phách mụ ta đã
bay mất hết. Với mụ ta thì khách là hiện thân của ác quỷ, của hung thần.
- Nói cho tôi biết Thiên Nga đâu?
- Dạ... dạ...
- Tao không ưa cái giọng giả dối đó. Nói mau, Thiên
Nga đâu, gọi ra đây cho tao.
Quản lý Tám đỡ hộ chủ:
- Để em đi gọi. Anh chờ hơi lâu, bởi cô Thiên Nga
hiện không có ở quán.
- Tao biểu gọi ra đây!
Vừa khi ấy có người lên tiếng từ phía cầu thang lên
lầu:
- Tôi đây. Ai cần gặp tôi mà không chút lịch sự nào
hết vậy?
Một cô gái đẹp lộng lẫy vừa bước xuống đã nghe
nhiều tiếng xì xầm:
- Cô Thiên Nga xuất hiện chi lúc này, lại có rắc
rối to cho coi!
Hình như nãy giờ nghe ồn ào, chứ Thiên Nga chưa
nhìn thấy mặt người khách, cho nên khi vừa chạm mặt thì cô nàng đứng sững lại,
há hốc mồm:
- Anh... anh...
Rồi muốn lùi lại, nhưng đôi chân cô ta lúc đó như
bị đóng chặt xuống sàn nhà. Anh chàng khách ngửa mặt lên trời, cất một tràng
cười mà bất cứ ai nghe cũng phải lạnh lưng! Cười xong, anh ta lại sa sầm nét
mặt:
- Ngồi xuống đây!
Như một mệnh lệnh của tử thần, Thiên Nga riu ríu
ngồi xuống mà người vẫn còn run. Quản lý Tám và mấy tên đàn em thấy thế, chúng
lập công với bà chủ và với cô hoa khôi của quán, nguồn thu vô tận của bà Mỹ Lệ,
nên đồng hè nhau tấn công lén từ phía sau bằng ghế và chai bia!
Bụp!
Ầm!
Những âm thanh vang lên chát tai, rung chuyển cả
quán. Ai cũng tưởng người khách đã là nạn nhân thê thảm dưới bàn tay côn đồ của
mấy gã kia. Nào ngờ khi nhìn lại thì họ mới sửng sốt khi thấy ba người nằm sóng
soài trên sàn nhà, đồ đạc đổ ngổn ngang. Mà người khách thì vẫn ngồi nghênh
ngang ở ghế! Anh ta gằn giọng:
- Còn thằng nào muốn chết nữa thì nhào vô!
Bà Mỹ Lệ sợ lắm, nhưng trong tình thế này bà ta
phải cố giàn xếp cho yên, để còn tiếp khách, nên run run giọng nói:
- Cậu Một, tôi xin cậu, tôi lạy cậu. Có gì thì cậu
từ từ giải quyết. Hay là cậu cứ đi ra ngoài trước rồi tôi khuyên con Thiên Nga
ra theo cho cậu...
Bà ta nhận được một tiếng quát như sấm:
- Nhiều lời quá!
Rồi anh ta thuận chân lại tung thêm mấy cú đá nữa,
lần này thì hầu như tất cả bàn ghế ở gần đó đều ngã, gãy ngổn ngang. Anh chàng
tên Một đứng bật dậy, ra lệnh:
- Đi theo tao.
Tưởng chỉ mình Thiên Nga phải theo lệnh, không ngờ
khi bà Mỹ Lệ còn lưỡng lự thì đã bị hắn túm lấy tóc xách cao lên:
- Đi!
Hai tay xách hai người nặng ngót trăm ký, vậy mà
hắn bước đi như bay, không vượt qua cửa, mà đi ngược cầu thang lên lầu. Sau khi
định thần lại, có người la lên:
- Mau gọi cảnh sát đi, nó còn trên lầu!
Lúc ấy quản lý Tám tỉnh lại, anh ta nói:
- Trên lầu không có lối ra, chắc chắn hắn đưa hai
người vô một trong hai phòng, một là phòng bà chủ, hai là phòng cô Thiên Nga!
Hắn tin chắc phen này khi cảnh sát tới thì tên hung
hăng kia sẽ hết đường chạy. Mười phút sau thì xe cảnh sát hụ còi và có đến gần
chục cảnh sát võ trang đầy đủ tới nơi. Sau khi nghe tường thuật lại đầy đủ chi
tiết, họ hội ý và quyết định tấn công lên lầu. Hầu hết khách được yêu cầu ra
hết bên ngoài, ngừa vạ lây.
Với sự hướng dẫn của quản lý Tám, họ tung cửa phòng
bà chủ trước. Không ai trong đó. Rồi đến phòng của Thiên Nga. Do tin chắc tên
côn đồ có mặt trong phòng, nên có đến sáu cảnh sát cùng đồng loạt tung cửa và
chĩa súng vào.
- Đứng lên, cử động sẽ bị bắn.
Nhưng họ tẽn tò nhìn nhau. Bởi trong phòng không hề
có ai! Người chỉ huy hỏi:
- Có đường nào thoát trên này không?
Quản lý Tám cương quyết:
- Dạ không! Nhà này có hai tầng thôi, không có sân
thượng, mà các cửa sổ đều có song sắt kiên cố, không làm sao nhảy ra được!
Sau khi xem lại, thấy đúng như lời nói đó, các cảnh
sát lắc đầu ngao ngán:
- Chịu thôi, không còn dấu vết gì thì biết làm thế
nào.
Vừa khi ấy có một bảo vệ kêu lên:
- Có mấy cái này nè!
Họ thấy hai bộ quần áo nữ và một mớ tóc dài nằm vắt
ngang trên giường ngủ trong phòng Thiên Nga. Quản lý Tám vừa trông thấy đã kêu
lên ngay:
- Quần áo của bà chủ và cô Thiên Nga mặc lúc nãy!
Rồi anh ta run run giọng:
- Nguy rồi... thằng khốn đó đã... đã...
Nhưng các cảnh sát quả quyết:
- Chỉ mới năm mười phút thì hắn làm được gì! Có thể
là hắn lột quần áo họ để họ không tẩu thoát được đó thôi. Biết làm cách này thì
chứng tỏ tên này khá chuyên nghiệp đây!
Quản lý Tám muốn chứng tỏ sự rành chuyện của mình:
- Tên này xăm một hình xăm lớn giữa ngực, chứng tỏ
là dân anh chị đúng nghĩa! Nội nhìn cái hình xăm bà chủ tui đã khiếp vía rồi!
Cô Thiên Nga cũng vậy.
Quan sát kỹ hơn các ngõ ngách lần nữa, các cảnh sát
lắc đầu:
- Thằng này chẳng khác nào quỷ ma, mới đó mà đã
biến mất với hai người nữa! Ngoại trừ nó... phi thân!
Một tên bảo vệ thêm vào:
- Hắn ta mạnh như voi vậy đó. Hai tay xách hai
người mà chạy như bay lên cầu thang. Tui nghĩ nó là... nó là...
Anh ta định nói, nhưng nhớ mấy đòn đã bị hồi nãy
thì bỗng im lặng, rụt cổ.
Rôbe là một quan chức Pháp quyền uy tột bậc của
tỉnh, nên nhà hắn ở đến cả một tiểu đội canh phòng và người phục dịch cũng năm
bảy người. Lão ta có một vợ người bản xứ nhỏ hơn lão đến gần phân nửa số tuổi,
do được lão cưng chiều hết mức. Nhưng mụ này thuộc loại đanh đá, dữ dằn, suốt
ngày cứ canh me, gen tuông với ông chồng Tây già. Bà ta tên Tiên, nhưng thiên
hạ ghét nên gọi trại ra thành Tiền: mụ Tiền.
Hôm đó mụ gọi một người làm thân tín vào phòng
riêng trong lúc Rôbe vắng nhà, mở tủ tiền định lấy mớ tiền để riêng, đưa cho
đứa người làm này mang về nhà cho mẹ như lệ thường. Bỗng mụ kêu thét lên:
- Tiền của tao đâu rồi?
Con sen Hai Thảnh hốt hoảng:
- Con không biết! Bà kêu, con mới vô đây thôi.
Giọng chua như giấm của mụ Ba Tiền vẫn oang oang:
- Tao mới để xấp tiền ở đây hồi tối. Mà trong phòng
này chỉ có tao và ổng thôi. À mà ổng, ổng đi đâu sáng sớm nay mới tờ mờ đã đi
rồi?
Mụ ta chợt sờ vào một tờ giấy nhỏ đặt ngay trên xấp
quần tây của Rôbe.
- Gì vậy?
Mụ cầm lên đọc: "Tiền cho gái có đòi được
không? Cứ hỏi cô Thiên Nga sẽ rõ!"
Như lợn bị chọc tiết, mụ Ba Tiền gào lên:
- Lấy tiền cho gái, trời ơi!
Con Hai Thảnh chưa rõ nên hỏi:
- Ông cho ai hả bà?
Sẵn cơn thịnh nộ, mụ ta túm lấy con nhỏ ở:
- Mày biết con Thiên Nga nào đó không?
Hai Thảnh hốt hoảng:
- Dạ... dạ không! Em không biết.
- Vậy ai biết?
Thấy mụ quá dữ nên Hai Thảnh nói đại:
- Chắc tài xế của ông biết!
- Ờ, thằng tài xế! Kêu nó lên đây.
Hai Thảnh lắc đầu:
- Dạ, tài xế Ngọc sáng nay lái xe đưa ông đi sớm
rồi!
- Còn đứa nào nữa? Còn mấy đứa...
Vừa lúc bên ngoài có người lên tiếng:
- Dạ còn có con!
Nhìn ra thấy tên cận vệ của Rôbe, mụ Tiền hỏi liền:
- Mày biết con Thiên Nga?
Cai Xạo vốn là người cận vệ thường đi theo chủ, anh
ta thấy có Hai Thảnh thì hơi ngại:
- Dạ thưa bà chủ, con chỉ...
Hiểu ý anh ta, mụ Tiền bảo:
- Không sao đâu, con Hai Thảnh là tâm phúc của tao.
Biết gì nói tao nghe coi!
Cai Xạo bước tới gần bà, nói như chuyện đại sự:
- Thiên Nga là con đào số một của quán bar Địa
Đàng, nơi mà ông chủ thường lui tới...
Như bị chạm phải lửa, mụ Tiền nhảy dựng lên:
- Sao bây giờ mày mới nói!
Cai Xạo làm bộ ngây thơ:
- Dạ, con tới đó thì chỉ có việc ngồi ngoài xe đợi,
ông đi vô trong làm gì con đâu biết được. Chỉ có điều thỉnh thoảng ông chở cô
Thiên Nga đó trên xe, biểu con đưa đi suối Xuân Trường ở Thủ Đức ăn nem...
Mụ Ba Tiền run lên, mụ chụp lấy tên Cai Xạo:
- Mày đưa tao đi tìm con đó ngay bây giờ.
Cai Xạo hiểu là mình vừa dấn vào một cuộc phiêu lưu
ngu xuẩn! Cũng chỉ vì muốn có vài ngàn tiền boa của mụ chủ.
- Lẹ lên!
Mụ kéo tay áo của Cai Xạo đi ngay, trước sự ngỡ
ngàng của Hai Thảnh. Nó còn xớ rớ đó thì mụ Tiền quay lại quát:
- Sao còn không theo để tiếp tao một tay!
Hai Thảnh phấn khởi chạy theo, bởi nó biết, sau
những vụ như vầy thế nào nó cũng được thưởng bằng gấp đôi tiền lương. Nó thầm
cám ơn Cai Xạo...
Vừa tới trước quán bar Địa Đàng mụ ta đã oang oang:
- Chủ quán đâu. Dẫn con Thiên Nga ra cho tao coi!
Nhìn thấy cửa quán đóng im ỉm, Cai Xạo ngạc nhiên:
- Sao bữa nay quán lại đóng cửa?
Hỏi mấy người xích lô đậu phía trước quán, họ bảo:
- Quán đóng cửa từ qua tới giờ.
Mụ Ba Tiền nghiến răng:
- Chắc là bận đi chơi với thằng cha Rôbe rồi chớ
gì!
Nghe nhắc tới Rôbe anh chàng đạp xích lô hỏi liền:
- Bà quen ông xếp Rôbe hả?
Rồi không đợi khách trả Iời, anh ta nói tiếp ngay:
- Ngày nào ổng hổng tới đây? Ổng là khách ruột của
quán và của cô Thiên Nga.
Nói tới đó chợt anh ta ngừng lại, nhìn bà khách
sang trọng mà ái ngại. Mụ Ba Tiền quen giọng quát nạt gia nhân:
- Nói tiếp.
Gặp phải anh chàng xích lô ba búa, đâu cần biết bà
ta là ai, đã hất hàm hỏi:
- Bà nói chuyện với ai vậy?
Mụ đành phải hạ giọng:
- Tôi... tôi muốn anh nói tiếp cho nghe chuyện con
Thiên Nga.
Đã đoán hiểu phần nào, nên anh ta nói cộc lốc:
- Không biết. Quán đóng cửa nghỉ rồi.
- Nhưng... tại sao đóng cửa vậy?
Lần này tới phiên anh xích lô trợn mắt, lớn tiếng:
- Quán đóng cửa làm sao tui biết được.
Hai Thảnh thấy tình hình căng thẳng, liền nhoẻn
miệng cười tươi, lấy lòng, nhỏ nhẹ hỏi:
- Cho em hỏi, sao quán lại đóng cửa vậy anh Hai?
Nụ cười và lời nói lịch sự đã có hiệu quả ngay:
- Chủ quán và cả Thiên Nga đều bị mất tích nên còn
ai đâu thu hút khách, phải đóng cửa thôi!
Nghe điều đó mụ Tiền hỏi tới:
- Sao bị bắt, mà ai bắt?
Anh chàng xích lô thấy ghét mụ ta nên không thèm
trả lời, chỉ nói riêng với Hai Thảnh:
- Có tay anh chị nào đó giành cô Thiên Nga với ông
Tây Rôbe, cuối cùng anh chàng kia thắng, bắt cô nàng đi rồi, lại còn mang luôn
bà chủ đi nữa. Thiệt là gan cùng mình!
Lắng nghe một hồi, biết là ở đó cũng chẳng ích lợi
gì, mụ Tiền ra lệnh:
- Về nhà!
Trước khi lên xe theo chủ, Hai Thảnh còn kịp nói
lại với anh xích lô Ba Thời:
- Bà ta là vợ lão Rôbe đó, bả đi đánh ghen... hụt!
Chiếc xe hơi của mụ Tiền là xe tốt, loại mới toanh,
nhưng khi khởi động máy thì lại không nổ. Mụ cằn nhằn tài xế:
- Xe cộ sao không chăm sóc cẩn thận. Để thế này...
Tài xế Năm là người chu đáo, chưa từng gặp trục
trặc với chiếc xe này, nên cũng lấy làm lạ:
- Xe mới mà, đâu kỳ như vầy. Hết hơi bình!
Anh ta loay hoay mãi vẫn chẳng làm sao nổ máy được,
đành phải nhờ tay xích lô:
- Anh có thể giúp đẩy giùm được không?
Tay xích lô Ba Thời nhún vai:
- Được, nhưng chỉ đẩy khi nào trên xe chỉ có mình
anh thôi.
Mụ Ba Tiền nghe vậy quay sang đẩy tài xế Năm xuống:
- Nhảy xuống đẩy đi, tôi giữ tay lái cho!
Biết bà ta lái xe được, Năm nhảy xuống xe, kéo theo
Hai Thảnh.
- Phụ đẩy với tui chút.
Thảnh vốn có cảm tình với tay xích lô này, nên mau
mắn lo xuống, cùng tiếp nhau đẩy. Phải mất hai lần đẩy, chiếc xe mới chịu nổ
máy. Nhưng bất thần xe lao lên với tốc độ rất nhanh! Tài xế Năm hốt hoảng:
- Bớt ga đi bà chủ! Đạp thắng lại!
Trên xe mụ Tiền cũng đã làm điều đó rồi, nhưng sao
lạ quá, chiếc xe cứ đạp thắng thì nó lại tăng ga, còn nhả ga thì nó lại... tăng
tốc còn điên cuồng hơn. Mọi người đứng chung quanh hoảng hốt la lên:
- Chắc bà ta không biết lái xe hay sao mà chạy
như...
Mấy tiếng coi chừng chưa dứt thì đã nghe một âm
thanh va đập kinh hoàng vang lên!
- Chết rồi, bà chủ!
Xe của mụ Tiền đâm ầm vào một chiếc xe chở gà vịt,
xe bị lạc tay lái đâm luôn vào cột điện rồi mới chịu ngừng lại. Mụ Tiền bị đập
đầu vào tay lái, gục luôn trên vô lăng.
Trong khi đó thì chiếc xe tải nhỏ chở hàng sau khi
bị đụng đã lật ngang, khiến cho lồng gà vịt bị vỡ. Cả trăm con gà, vịt xổng
chuồng chạy tứ tung ngoài đường phố đông người, gây ra một cảnh huyên náo chưa
từng thấy.
Hai Thảnh và tài xế Năm đứng nhìn từ đầu đến cuối
vụ tai nạn, khi thấy chiếc xe bà chủ đâm vào cột điện họ mới tức tốc chạy lại.
Hai Thảnh hốt hoảng khi thấy chủ mình gục đầu trên tay lái, nó gọi to:
- Bà chủ ơi!
Mụ Ba Tiền bất động, một bên mặt mụ ta đầy máu. Một
số người khác cũng chạy đến xem. Thật bất ngờ bỗng chiếc xe rồ máy, lùi lại và
phóng như bay, trong lúc người lái xe vẫn gục đầu bất động!
Tài xế Năm thét lên:
- Cứu! Cứu!
Chiếc xe như điên cuồng phóng đi giữa lúc xe cộ khá
đông đang vô tư chạy mà không ngờ là tử thần đang ở phía sau họ! Nhưng cũng lạ,
dẫu không ai lái, chiếc xe vẫn lạng lách và phóng mà không va chạm với ai. Đến
một ngã tư, như có người điều khiển, chiếc xe tự động dừng lại, như chẳng có
việc gì xảy ra. Lúc ấy mụ Tiền tỉnh lại. Mụ ngẩng lên và ngỡ là Năm tài xế ngồi
bên cạnh, mụ vừa rên vừa càu nhàu:
- Sao mày để tao... lái cho bị...
Nhưng người đàn ông đang ngồi ghế cạnh mụ ta đã lên
tiếng, giọng khác lạ:
- Cho bà chừa thói đanh ác.
Lúc ấy mụ mới tỉnh hẳn, giương mắt nhìn và kêu lên:
- Anh... anh là ai?
Người ngồi đó chẳng biết từ lúc nào, chính là...
Một, tên côn đồ đã bắt bà chủ quán và Thiên Nga đi bữa trước. Anh ta phanh ngực
áo ra như giới thiệu hình xăm cá sấu:
- Hãy nhớ lấy tao. Đừng bao giờ đụng tới Thiên Nga
nữa, nghe không?
Rồi anh ta biến mất lúc nào mụ Tiền không hay. Mụ
như bị thôi miên...
II.
Thiên Nga và mụ chủ Mỹ Lệ cùng ra về một lượt.
Nhưng tình trạng của hai người thì khác hẳn. Trong khi Thiên Nga vẫn tươi tỉnh
như bình thường, thì trái lại, mụ Mỹ Lệ eo xéo như gà mắc tóc.
Người trong quán quá đỗi ngạc nhiên, ai cũng hỏi:
- Có chuyện gì với hai người vậy? Tên cướp đó...
Người vừa hỏi câu đó chưa kịp dứt lời đã bị ngay
mấy cái tát nảy lửa. Họ tưởng bị bà chủ đánh, nhưng không phải, bởi lúc đó bà
Mỹ Lệ đang nằm vùi trên giường, còn Thiên Nga thì đang ngồi ở bàn cách xa họ.
Từ lúc đó hầu như chẳng người nào trong họ còn dám hỏi han lôi thôi nữa. Thiên
Nga bỗng cũng khác thường hơn, cô nàng lúc trước thụ động, ít nói, miễn cưỡng
tuân theo lệnh của bà chủ khi tiếp khách, thì nay lại có thái độ như chủ quán!
Điều đó thể hiện qua cách cô xử sự. Để mặc cho mụ Mỹ Lệ nằm vùi trên giường,
Thiên Nga một mình điều hành quán còn đâu ra đó hơn. Cô bảo tên quản lý Tám:
- Từ nay mọi việc đều phải hỏi tôi. Tôi nhắc lại,
mọi việc, chớ không phải riêng việc nào. Tôi là chủ!
Quản lý Tám vốn là người tâm phúc lâu đời của mụ Mỹ
Lệ, nên tuy nghe dặn vậy thì dạ dạ, nhưng trong lòng không khỏi thắc mắc, bất
phục. Hắn gọi riêng mấy tên đàn em:
- Con này bữa nay nổi chứng, còn xưng là chủ nữa!
Lời hắn vừa dứt thì cũng giống như những người
trước đó, bị ngay một cú đấm thẳng vào mặt, lảo đảo... Hắn quát lên:
- Thằng nào đánh tao?
Đáp lời hắn ta, lại một cái tát nữa, mà lần này tát
còn mạnh hơn, chẳng khác lần hắn bị tên côn đồ hạ gục hôm trước. Bắt đầu nao
núng, hắn nói khẽ với tên đàn em:
- Giống như có ma vậy, mau chuồn đi thôi!
Tuy nói vậy nhưng vì miếng cơm manh áo, bọn quản lý
Tám cuối cùng vẫn tiếp tục làm việc. Bọn hắn thật sự ngạc nhiên, bởi từ đó mụ
chủ Mỹ Lệ hoàn toàn mất hết quyền lực. Tệ hơn nữa, mụ ta còn tỏ ra sợ sệt Thiên
Nga, nhất nhất những gì cô nàng nói ra mụ ta đều tuân theo.
Rồi mọi sinh hoạt của quán bar Địa Đàng cũng trở
lại bình thường. Khách sau một thời gian ngắn bị tác động bởi chuyện xảy ra, đã
kéo nhau trở lại. Nhất là sau khi nghe tin cô hoa khôi Thiên Nga giờ đã không
còn là độc quyền của những tên quan chức có máu mặt nữa, những khách bình
thường lại thích tới Địa Đàng hơn, bởi họ có thể được Thiên Nga tiếp bất cứ lúc
nào.
Một buổi tối...
Thiên Nga vừa ra khỏi phòng, chưa kịp bước xuống
cầu thang thì đã nghe huyên náo ở ngay đầu thang lầu. Lão Tây Rôbe xuất hiện
thật đột ngột và đang xông thẳng lên trước sự bất lực của đám bảo vệ. Lão ta
hình như đang say, vừa bước lên vừa to tiếng:
- Đứa nào dám ngăn cản tao thì hãy chờ ăn đạn!
Lão ta bất ngờ rút từ trong áo ra một khẩu súng,
khiến mấy tên bảo vệ bỏ chạy hoảng loạn. Cả quản lý Tám cũng sợ hãi, núp trốn
vào gầm cầu thang. Lúc đó Thiên Nga và lão Tây chạm mặt nhau. Hắn bớt hùng hổ,
nhưng cũng còn to tiếng:
- Em xúi tụi nó đuổi anh ra phải không? Vừa rồi tụi
nó nói em đi vắng và đẩy anh ra ngoài, trong lúc anh biết chắc là em có mặt ở
đây! Em nói xem, chính em không muốn tiếp anh phải không?
Hắn hỏi và chờ một câu xoa dịu của người đẹp, nhưng
Thiên Nga lại nghiêm giọng:
- Nếu đúng vậy thì sao?
Không ngờ, lão Tây trố mắt nhìn người đẹp:
- Em vừa nói gì?
- Tôi nói là ông không nên tới đây nữa. Bởi những
gì mà ông gây ra đã quá đủ làm cho rắc rối ở quán này rồi. Giờ mời ông về cho.
Rôbe xưa nay chỉ quen ra lệnh cho người khác, nên
vừa nghe Thiên Nga nói vậy, lão ta gầm lên:
- Lũ khốn này đúng là hết muốn sống.
Lão ta vung cây súng trong tay, hướng nòng súng lên
trời, nổ liền hai phát. Đúng là hắn chỉ bắn dọa thôi, nhưng hắn bỗng thét lên
một tiếng, ôm lấy chân, đau đớn. Máu từ chân lão chảy ra ướt đẫm cả cầu thang.
Thì ra hai viên đạn thay vì bay lên trần, đã xuyên thẳng vào bắp chân lão ta!
Không một chút nao núng, Thiên Nga hất hàm bảo một
tên bảo vệ:
- Lôi lão ta ra xe, bảo họ chở lão về và từ nay
không được léo hánh tới đây nữa.
Lão Rôbe còn quay lại định la lối tiếp, nhưng chợt
lão trố mắt kinh ngạc, khi thấy bà vợ chằn tinh gấu ngựa của mình vừa xuất hiện
sau lưng Thiên Nga!
- Bà... bà sao lại...
Mụ Ba Tiền đứng nép phía sau người đẹp, chẳng khác
một đàn em! Giọng mụ ta cũng theo giọng điệu của Thiên Nga:
- Lôi lão ta ra ngoài đi!
Tên cận vệ lâu năm của lão Rôbe cũng vô cùng sửng
sốt:
- Bà... sao bà lại như thế? Ông chủ đang ra máu
nhiều.
Mụ Tiền quát lớn:
- Cút đi ngay!
Lão Rôbe ra xe rồi mà vẫn chưa thể hiểu tại sao có
chuyện này. Từ hơn tuần nay bà vợ lão bỗng nổi cơn, thường la hét mỗi khi thấy
mặt lão. Nhưng chưa bao giờ mụ ta lại có thái độ như hôm nay. Lão quay sang hỏi
tên cận vệ:
- Mấy bữa tao đi vắng, ở nhà đã có chuyện gì với bả
vậy?
Tên này thuật lại chuyện xảy ra hôm mụ Tiền đụng xe
và kết luận:
- Có vẻ như bà chủ đã bị chấn động não, nên tánh
tình có nhiều thay đổi. Nhưng thay đổi đến như hôm nay thì quả là hơi lạ.
Lão Rôbe quay sang hỏi tên Cai Xạo:
- Nghe nói bữa đó mày có mặt trong vụ tai nạn?
Cai Xạo lúng túng thấy rõ:
- Dạ... bẩm bữa đó...
Tên tài xế Năm không nhịn được, phải lên tiếng:
- Bẩm ngài, hôm đó chính hắn đã tâu với bà chủ
chuyện của ông với cô Thiên Nga. Sở dĩ bà chủ tới quán hôm đó cũng là do hắn ta
mà ra.
Lão Rôbe tánh nóng như lửa, vừa nghe nói vậy lão đã
quên cả cơn đau do vết thương, đã quay sang tát liền cho tên đàn em mấy cái
liền:
- Đồ phản phúc!
Lão ta thuận tay xô một cái mạnh, khiến cho Cai Xạo
té bổ nhào ra khỏi xe. Xong, lão bảo tên cận vệ khác:
- Mày ở đó trị cho một trận rồi kêu xe về sau, khỏi
theo tao!
Lão ra lệnh cho tài xế Năm vọt xe đi.
- Thưa ngài, có cần đi bệnh viện không?
- Ờ... ờ.
Lão ta định ra lệnh tiếp, nhưng chẳng hiểu sao
miệng mở ra khó khăn, còn hai mắt thì như bị ai đó kéo xuống, nặng trịch! Lão
cố cưỡng Iại, nhưng cơn buồn ngủ lạ thường đột ngột kéo đến, khiến lão ta ngả
đầu ra sau rồi chẳng biết gì nữa...
- Có cần đi bệnh viện nữa không, ông chủ?
Mở mắt ra, thấy mình không còn ở trong xe, mà đang
nằm ở một nơi nào đó rất Iạ, lão Rôbe hỏi liền:
- Tôi đang ở đâu?
- Ở đây, ông nhìn không ra hay sao?
Nghe giọng người lạ, lão cố nhìn lên thì quá đỗi
ngạc nhiên, bởi đang đứng trước mặt lão ta lúc này là một người đàn ông cao
lớn. Anh ta để mình trần, do đó vừa nhìn vào ngực là thấy ngay có hình xăm một
con cá sấu cực to.
- Mày... mày là...
- Nhớ ra rồi phải không! Kể ra đầu óc sát nhân của
ông cò Tây cũng không tồi chút nào. Ha ha! Gặp lại cố nhân sao không mừng vậy
ngài?
Giọng anh ta đầy mỉa mai, châm chọc, lại hàm chứa
sự đe dọa mà riêng lão Tây già này hiểu hơn ai hết. Lão bắt đầu run thật sự.
Nhất là cái hình xăm kia, nó gợi cho lão nhớ tới một chuyện cách đó gần năm
năm.
- Con cá sấu hai đuôi ở Vàm Sát, giờ đây nó vẫn còn
đủ hai cái đuôi và lại thêm hai cái răng nanh mới mọc nữa!
Câu nói của hắn càng như vẽ ra cảnh tượng ngày xưa!
Khi ấy chính lão ta đã vừa dìm một tội nhân trẻ tuổi xuống dòng sông có con cá
sấu đang chực sẵn vừa lên tiếng đe dọa như vậy. Con cá sấu hai đuôi cực kỳ hung
ác, là trợ thủ đắc lực cho cò Rôbe mỗi khi muốn tra tấn và thủ tiêu tội nhân!
- Một! Tôi nhớ ra anh rồi. Ngày ấy... đúng là tôi
có... có tra tấn anh, nhưng chỉ dọa thôi, chớ nào có ý giết anh thật đâu. Xin
anh...
Lão ta giở giọng năn nỉ một cách gượng gạo, lại
càng khiến cho Một điên tiết lên, hắn gầm to:
- Câm ngay cái miệng mày lại! Mày biết tao phải mất
bao nhiêu công sức để có được ngày hôm nay không? Hãy nhìn đây.
Anh ta bất thần tuột luôn cả chiếc quần đang mặc
xuống, để lộ hai vết thẹo cực lớn hầu như lấy đi gần hết phần mông! Giọng anh
ta đầy bi phẫn:
- Hai nhát cắn của con cá sấu hai đuôi đó! Mày nói
chỉ dọa thôi, mà kết quả như thế phải không?
Lão Rôbe linh tính biết điều tệ hại nhất sắp xảy
ra, cho nên một cách nham hiểm, lão ta thừa lúc Một đang nói chuyện, đã nhanh
tay rút khẩu súng trong lưng ra và bấm cò...
Nhưng súng không nổ. Chỉ có tiếng cười của Một vang
lên thôi:
- Bản chất sát nhân của mày vẫn y nguyên!
Lời vừa dứt thì cây súng trên tay lão ta đã bị văng
ra xa, kèm theo một tiếng thét lớn từ mệng lão Tây già. Lão ta ôm hai tay vào
hạ bộ của mình, máu từ nơi ấy chảy ra ướt cả sàn nhà:
- Đừng! Đừng làm vậy! Hãy để cho tôi...
Một lại cười nghe ghê rợn:
- Sợ mất cái chuyên gieo rắc đau khổ cho người khác
phải không! Vậy mày hãy nhớ lại xem, trong cơ thể này còn có những thứ gì từng
là công cụ để hại người nữa không? Nếu không nhớ ra hết thì để tao nhớ giùm. Hễ
nhớ tới đâu thì vật đó sẽ bị cắt rời như cái vừa rồi!
Phụp!
Kèm theo lời nói là một cú chặt mạnh, nguyên cả bàn
tay của lão Rôbe đã bị văng ra rất xa. Lão chưa kịp thét Iên thì đã thấy từ
miệng lão máu tuôn ra, đồng thời một vật nhỏ bằng ba lóng tay đang rơi nằm ngay
trước mắt lão. Không nói được, nhưng lão hiểu, đó chính là cái lưỡi của mình vừa
bị cắt ra. Lão Rôbe đau đớn tột cùng, sắp ngã chúi về phía trước thì như có bàn
tay vô hình giữ lão lại. Giọng nói như lời tuyên án của Một:
- Tao đã đợi gần năm năm một ngày này! Nhưng mày
chưa chết được lúc này, khi chưa nghe chính người mà mày muốn chiếm đoạt lên
tiếng!
Lời nói đó vừa dứt thì Thiên Nga xuất hiện cùng với
hai người phụ nữ khác: mụ Tiền và Mỹ Lệ! Họ cùng ngồi xuống trước mặt Rôbe.
Thiên Nga là người lên tiếng trước:
- Lão có nhớ hôm đó mấy tên bộ hạ của lão dụ tôi
vào phòng riêng của lão không?
Lão Rôbe đã mất lưỡi, lại đang trong trạng thái hấp
hối thì làm sao trả lời được. Tuy nhiên những gì người khác nói thì lão nghe rõ
hết. Lão không còn cách nào khác hơn là gật đầu trước các câu hỏi đúng và lắc
đầu khi bị nói sai. Nhưng hầu như lão chỉ có gật đầu, bởi mỗi lời nói ra của
Thiên Nga như là những thước phim quay chậm lại, trung thực đến từng chi tiết.
- Lão không làm nhục tôi ngay, mà dã man hơn cho
lột hết áo quần của tôi ra rồi bắt thủ hạ lôi một người đã bị tra tấn đến máu
me đầy người ra đặt nằm ngay trước mặt tôi, để người ấy chứng kiến cảnh người
yêu mình bị làm nhục! Người đó chính là anh Một đây.
Một bị kích động mạnh hơn, anh ta chỉ vào mặt mụ Mỹ
Lệ, quát lớn:
- Còn mụ đã làm gì, đóng vai trò gì trong vụ đó,
hãy nói mau!
Mụ Mỹ Lệ riu ríu:
- Dạ, tui không dám giấu. Ngày đó lão Rôbe cho tui
tiền, biểu phải vu oan cho cậu là gian đảng, cướp của giết ngườí, để lão ta có
cớ bắt giam. Chỉ vì lão ta muốn chiếm đoạt cô Thiên Nga đây.
Mụ Tiền nãy giờ im lặng, bỗng lên tiếng:
- Tôi cũng có tội trong vụ này! Chính tôi đã ngầm
giàn xếp để cho chị Mỹ Lệ đây dễ bề thực hiện âm mưu. Bởi tôi biết, nếu cô
Thiên Nga mà chiếm được trái tim của Rôbe thì tôi sẽ bị ra rìa, không mong gì
lấy được ông ấy!
Một đưa mắt nhìn sang Thiên Nga, cô mặt lạnh như băng,
rít lên một tiếng:
- Giết!
Ngoại trừ lão Rôbe đã hầu như hết sức lực, còn lại
hai mụ đàn bà. Sau tiếng rít của Thiên Nga, họ sợ hết vía:
- Đừng giết tôi! Xin tha cho cái mạng giun dế này.
Họ quỳ xuống lạy như tế sao, khiến Thiên Nga không
nhịn được cười:
- Tôi bảo giết là giết hai con gà, mua một con heo
quay, để bữa nay ăn mừng. Các người có biết tôi mừng điều gì không?
Không chờ họ đáp, Thiên Nga đã quay sang, ra lệnh:
- Đem hết những thứ đó vào đây!
Chẳng thấy một ai đứng gần đó, nhưng sau tiếng ra
lệnh của Thiên Nga, đã có hai người đàn ông lực lưỡng khiêng vật gì đó đem đặt
ngay trước mặt rồi quay đi ngay.
Vừa nhìn thấy những vật kia bỗng lão Rôbe đang sắp
chết cũng phải ú ớ kêu lên, rồi đến phiên mụ Ba Tiền cũng thất thần:
- Thằng Minh, con Lý!
Thì ra hai đứa bé tuổi trên dưới khoảng mười một
mười hai. Một đứa trai một đứa gái, là con của Rôbe và mụ Ba Tiền. Chúng không
bị trói, nhưng dường như đang ngủ ngon lành, Thiên Nga dịu giọng:
- Chẳng ai làm hại chúng, mặc dù với tội lỗi mà cha
mẹ chúng gây ra thì chúng cũng phải liên đới đền trả. Tôi tha cho và mang chúng
đến đây, để cho cả nhà đoàn tụ cùng nhau. Bởi vậy hôm nay phải ăn mừng là vì
thế.
Mụ Ba Tiền mừng rơn, quên thân phận mình lúc này,
đã nhào tới ôm hai con vào lòng. Lát sau khi mụ ngẩng lên thì chẳng còn ai cạnh
mình, kể cả lão Rôbe đang bị thương tích đầy người. Hai đứa trẻ vẫn vô tư ngủ
vùi. Lúc này mụ Tiền mới có thời gian quan sát ngôi nhà. Đây là gian nhà nhỏ,
nhưng sạch sẽ và trông có hơi quen.
Lúc nãy khi bị đưa vào đây trong tâm trạng sợ hãi,
rồi bị tra vấn liên tục, nên mụ ta chưa kịp để ý. Lúc này mới đưa mắt nhìn khắp
xung quanh, mụ chợt kêu lên:
- Nhà... nhà của mình đây mà!
Mụ ta đã nhận ra, đây chính là ngôi nhà mà trước
khi lấy lão Rôbe, mụ đã ở. Mà lạ hơn nữa, khi đứng lên xem kỹ thì mụ nhận ra cả
những đồ đạc trong ngôi nhà hiện tại, tức cái biệt thự đồ sộ của mụ với lão
Rôbe. Tất cả đều đang ở đây! Nói tất thì chưa thật chính xác, nhưng hầu như
những thứ cần thiết đều có. Có nghĩa là ai đó đã dọn giúp mụ sang đây, như một
vụ chuyển nhà.
Hơn nửa giờ sau thì hai đứa trẻ thức dậy. Chúng
không chút ngạc nhiên, mà trái lại còn tỏ ra thích thú với khung cảnh mới. Con
Lý nói với mẹ:
- Cái ông gì đó dữ dằn lắm, ngực ổng có xăm hình
con cá sấu, con sợ lắm, nhưng ổng không làm gì con, chỉ biểu con và Minh phải
chuẩn bị để chuyển qua nhà mới. Đây là nhà mới phải không mẹ? Con khoái nhà này
hơn!
Bé Minh cũng nói:
- Ở đây sướng hơn nhà cũ của mình, ở nhà cũ ngày
nào con ngủ cũng thấy ma. Có con ma hung dữ cứ nhe nanh đòi ăn thịt con! Nó nói
ba con làm ác, giết hại người lương thiện, nên có ngày nó sẽ trả thù! Mà làm gì
vậy mẹ? Ờ mà con quên, con ma còn nói mẹ cũng có làm ác nữa.
Mụ Tiền bụm miệng con không cho nói tiếp:
- Con có muốn mẹ con mình chết hết không? Nín và ở
đây rồi sẽ không còn gặp ma nữa.
Ba mẹ con linh cảm thấy điều gì đó đang rình rập
họ, cho nên cả hai đứa bé cũng tỏ ra ngoan ngoãn.
Chuyện đời quay ngoắc 180 độ ở quán bar Địa Đàng.
Lúc đầu có làm cho thiên hạ bàn tán, nhưng lâu dần họ cũng quen. Cô gái phục vụ
Thiên Nga nghiễm nhiên trở thành chủ, trong khi mụ chủ cũ Mỹ Lệ thì thành cai
gà, làm công ăn lương, hầu như cũng không làm cho những nhân viên trong quán
thắc mắc gì. Trái lại, họ răm rắp nghe lời và còn luôn sợ hãi, không dám hó hé
lời ra tiếng vào như trước kia. Đặc biệt là vai trò của ông chủ quán Văn Một.
Người ta chỉ biết đến người này qua lời thiệu của Thiên Nga có một lần, rồi sau
đó hầu như chẳng một ai nhìn thấy mặt ông ta nữa. Dẫu vậy, hầu như mỗi lần nhớ
tới ông ta thì mọi nhân viên đều lạnh người. Họ mường tượng ông ta không phải
là người, nhưng không dám nghĩ đó là một oan hồn.
Chỉ chắc chắn một điều là kể từ khi lên làm chủ
quán, ngoài nhan sắc trời phú, ngoài sự hấp dẫn quyến rũ vốn có, bây giờ Thiên
Nga còn có sức thu hút khác thường hơn. Cô ta nhìn người đàn ông nào, dẫu người
đó không có lòng đam mê, tức thì cũng phải xao xuyến và ngoan ngoãn như con cừu
non.
Có người đồn rằng Thiên Nga có được sức quyến rũ mê
hồn đó là được ma ám. Người bị ma ám hành động theo sự điều khiển của hồn ma.
Tuy nhiên, ngoài việc hớp hồn đàn ông ra Thiên Nga hầu như không làm gì cả...
Phải chăng anh chàng Một đã ngầm hỗ trợ, giúp cho
người yêu đổi đời? Không ai dám đoán chắc điều đó, nhưng nếu dám để ý, thì ắt
sẽ thấy, cứ hằng đêm, sau giờ quán đóng cửa, Thiên Nga không hề đi chơi với
khách nào, mà chỉ rút lên lầu, vào phòng riêng khóa chặt cửa lại.
Mụ Mỹ Lệ biết hết. Biết rằng giờ đây Thiên Nga dành
cả phần đời xuân sắc của mình để cống hiến cho người yêu chỉ hiện về ban đêm!
Tuy nhiên mụ ta không bao giờ dám tiết lộ với ai về hiểu biết của mình. Bởi mụ
còn muốn sống...
HOA NƯƠNG
(Tác giả: Người Khăn Trắng)
Tối hôm đó trời oi bức, Thanh Tuấn mở cửa bước ra
ngoài cho thoáng.
Nhưng khi đứng ngoài sân rồi anh lại cụt hứng, bởi
trăng chưa lên, nhìn bầu trời tối đen Tuấn hết muốn tiếp tục ngắm cảnh đêm như
thường khi, vội quay vào và tiếp tục ngồi bên giá vẽ.
Vẽ là niềm đam mê của Tuấn, mặc dù anh không là họa
sĩ, bởi vậy từ khi về nghỉ hè ở đây chỉ trong một thời gian ngắn mà Tuấn đã vẽ
được bốn năm bức tranh phong cảnh. Bữa nay cũng vậy, từ chiều anh đã vẽ và sắp
hoàn thành bức tranh Hoa và Bướm.
Mà hôm nay cũng lạ, nguồn cảm hứng chừng như không
dồi dào như mấy hôm trước, do đó sau khi vẽ gần xong bông hoa thì Tuấn không
thể vẽ tiếp được. Cuối cùng anh bỏ cọ, leo lên giường nằm. Định đọc sách, nhưng
cũng không thể được. Đến lúc quay trở lại định vẽ tiếp thì Tuấn vô cùng ngạc
nhiên khi phát hiện có một con bướm màu đỏ thắm y như con bướm thật sắp đậu lên
đóa hoa sen mà anh vừa vẽ dở chừng chưa xong.
- Ủa, mình đâu có vẽ con bướm?
Đưa tay sờ thì rõ ràng con bướm do ai đó vẽ còn ướt
sơn.
- Ai vậy? Ai vào đây phá tôi?
Anh hỏi đến mấy lần mà vẫn không có người đáp. Tuấn
bực bội càu nhàu:
- Ai mà vô ý thức quá, người ta đang vẽ mà lại...
Bỗng phía sau có hơi thở của ai đó, Tuấn quay lại
và sững sờ khi nhìn thấy một cô gái tuổi đôi mươi đang nhoẻn miệng cười với
anh!
- Cô là...
Cô gái cúi đầu chào Tuấn rất lịch sự và hình như có
điều chi đó bối rối. Tuấn chợt hiểu:
- Cô vừa mới vẽ lên tranh của tôi?
Cô gái lúng túng:
- Dạ, chẳng qua quá ham vẽ nên mới mạo phạm, mong
được tha tội!
Tuấn không tài nào giận nổi trước nụ cười như hớp
hồn người đó, nhất là lời nói như mật rót vào tai, anh cũng lắp bắp:
- Cô... cô... Không sao cả... thật ra tôi cũng...
Nàng trở nên tự tin hơn:
- Từ lâu em mê vẽ mà chưa có dịp cầm được cây cọ,
nên vừa rồi tình cờ bước vào đây em đã không kiềm chế được. Đã phá hư bức tranh
của anh, em xin chịu lỗi.
Tuấn thật lòng:
- Không ngờ cô cũng có hoa tay lắm, con bướm vẽ lên
tranh thật đúng ý đồ của tôi. Thú thật, nếu là tôi vẽ thì cũng chưa chắc đã đẹp
bằng!
Cô nàng e thẹn thật dễ thương:
- Anh đừng làm em xấu hổ phải độn thổ bây giờ.
- Tôi nói thật đó. Chắc hẳn là cô đã từng biết vẽ
rồi. Hay là...
Anh muốn mời cô nàng hằng ngày tới làm bạn vẽ cho
vui, nhưng chưa dám ngỏ lời thì cô nàng bạo dạn hơn đã chỉ tay ra sau nhà, phê
bình:
- Nhà không đóng cửa như vậy, ai lẻn vào mà chẳng
được. Thảo nào ngườí ta bước vào cả buổi vẫn không hay.
Tuấn định cãi là lúc chiều anh đóng cửa cẩn thận
nhưng chẳng hiểu sao anh lại chỉ cười rồi cứ đứng ngây người ra không nói được.
- Kìa, nhà họa sĩ quên cả việc mời khách ngồi sao?
Tuấn lúng túng:
- À quên. Mời, mời cô ngồi.
Nhưng anh quên là nhà chỉ có mỗì chiếc ghế duy nhất
dùng để ngồi vẽ, nên vội kéo ra, mời lần nữa:
- Mời cô ngồi tạm. Nhà của người độc thân có khác.
Tôi chỉ mới dọn về đây có mấy hôm.
Cô nàng lại cười rất tươi, chỉ vào chiếc ghế.
- Dính đầy màu thế kia, mời khách ngồi được sao!
Bấy giờ Tuấn mới để ý, lúc nãy do cẩu thả nên anh
để màu vương vãi. Quýnh quá, Tuấn lấy vạt áo của mình lau vội, cô nàng còn
nhanh hơn, đã chụp lấy tay chủ nhà, vừa cằn nhằn:
- Sao lại làm vậy...
Tuấn chợt giật mình bởi hơi lạnh từ tay của nàng
truyền sang.
- Tay cô...
Nàng rút tay về rất nhanh, hơi lúng túng:
- Em... em mới đi ngoài sương...
- Cô cần sưởi không, tôi có lò than...
Nàng đáp nhanh:
- Dạ không sao, chỉ chút xíu là hết ngay thôi.
Rồi nàng rất khéo tay, dùng một mảnh vải lau của
Tuấn để trên sàn, lau thật sạch chỗ màu dính.
- Mời chủ nhân!
Tuấn xua tay:
- Cô là khách, người ngồi phải là cô.
Nàng không khách sáo nữa, kéo vạt áo và ngồi xuống.
Dáng ngồi rất đẹp, khiến Tuấn phải kêu lên:
- Ồ, hay là ngày mai cô ngồi mẫu cho tôi vẽ nhé!
Nàng thẹn đỏ mặt:
- Quê như em mà làm mẫu cho thiên hạ cười cho!
Nói xong, nàng đứng vụt dậy rồi chạy nhanh ra cửa
sau. Quá bất ngờ nên một lúc sau Tuấn mới gọi với theo:
- Cô! Cô ở lại đã. Tôi nói thật lòng mà.
Nhưng nàng không quay lại. Tuấn hốt hoảng gọi theo:
- Tôi chưa biết tên cô mà! Cô ơi!
Không hề nghe đáp. Mãi sau đó khi Tuấn chạy theo
được vài chục mét thì mới nghe văng vẳng:
- Hồng Liên!
- Sen Hồng...
Tuấn lẩm bẩm và tiếc nuối. Anh thắc mắc mãi về cô
nàng. Tại sao ở một vùng quê hẻo lánh như thế này lại có thể có một cô gái đẹp
như thế này? Mà cô ta kể cũng lạ, lúc thì bạo dạn, dám xông vào nhà lạ, lại
nghịch phá, lúc lại e thẹn.
Với sự tò mò, khiến Tuấn quyết định men theo lối cô
ta vừa đi. Lúc nãy không kịp hỏi nhà cửa ở đâu, bây giờ làm sao tìm? Nhưng khi
nhớ lại trong mấy ngày qua, Tuấn đã quan sát, gần đây chỉ có một xóm nhà duy
nhất cách chỗ trọ của anh không xa, chắc chắn cô nàng đến từ đó. Nghĩ vậy nên
Tuấn mạnh dạn bước nhanh về hướng có ánh đèn, là xóm nhà khoảng mười nóc. Anh
chỉ mất gần mười phút đã tới nơi. Chưa vội hỏi ai, Tuấn chậm rãi bước qua từng
nhà, mà nhà nào anh cũng lén nhìn vào, hy vọng bắt gặp bóng dáng cô nàng. Qua
hết tám nóc nhà rồi mà vẫn chưa thấy gì, đến ngôi nhà thứ chín thì chợt nhìn
thấy cánh cổng tre chưa kịp đóng, Tuấn mừng thầm:
- Có thể là đây!
Anh vừa cố nhìn vào trong thì đã nghe có tiếng quát
từ bên trong nhà:
- Con gái hư, mày đi đâu giờ này!
Một tiếng kêu đau, rồi giọng nghe quen quen:
- Con... con đi sang nhà bạn!
- Đồ con hư. Tao nói cho mà biết, nếu lần sau mà
còn đang đêm lẻn đi nữa thì đừng trách sao không nương tay!
Rõ ràng vừa rồi là giọng của cô nàng! Thì ra nàng
ta chỉ vì ghé qua nhà mình mà về bị đòn, Tuấn nóng mũi định lên tiếng gọi để
chặn đòn roi kia, nhưng kịp dừng lại. Bởi anh biết, anh mà lên tiếng lúc này
thì khác nào lửa cháy đổ thêm dầu! Bên trong lại những tiếng roi vụt mạnh,
nhưng lần này nàng lại không khóc, không kêu. Hình như đang cố chịu đòn.
Sốt ruột quá, nhưng Tuấn cũng chẳng biết làm sao.
Cuối cùng nghĩ ra được một kế, anh tìm một hòn đá lớn, ráng hết sức ném nó
thẳng vào cửa, gây ra một tiếng động thật lớn. Sau đó chạy đi khá xa, đứng đợi
nghe động tĩnh.
Quả nhiên có tác dụng. Có bóng một bà già bước ra
cửa ngơ ngác tìm. Như vậy cô nàng đã không bị đòn roi nữa. Trời dần khuya. Thấy
đứng lâu cũng không làm được gì, Tuấn cất bước về nhà, định bụng là sớm mai sẽ
trở lại.
Nhưng lạ thay, khi anh bước vào phòng mình thì đã
thấy nàng ở đó! Nàng không ngại khi ôm chặt lấy Tuấn vừa khóc nức nở. Để như
vậy một lúc, Tuấn từ từ gỡ tay nàng ta ra, an ủi:
- Có chuyện gì thì bình tĩnh rồi giải quyết...
Nàng đỡ khóc, nhưng vẫn còn xúc động, chưa nói được
gì. Phải một lúc sau, chợt nàng trở lại giọng nũng nịu của mình:
- Em suýt mất mạng rồi, đền cho em đi!
Tuấn phải bật cười:
- Ra giá đi, đền gì nào?
Anh bất thần bẹo tay vào má, nàng để yên. Tuấn hỏi:
- Sao lúc nãy nàng bị...
Đưa tay chỉ một bên má còn sưng, nàng lại sụt sùi:
- Lần này bị như vầy còn nhẹ. Những lần trước em
còn bị bầm tím cả người...
- Sao có chuyện ghê gớm như vậy? Ai là người gây
ra?
Một lần nữa nàng lại chụp lấy Tuấn, cầu cứu:
- Giúp em với! Em không dám trở về nhà nữa, bà ấy
sẽ giết em mất!
- Bà nào?
- Mẹ kế của em.
Dỗ mãi nàng mới chịu nói ra:
- Số là em có một kế mẫu, hiện em đang ở với bà ấy.
Từ khi cha mất đến nay thì lúc nào bà ấy cũng đánh mắng em mỗi khi có dịp. Em
hầu như bị nhốt suốt trong nhà, có lúc suốt cả tháng không nhìn thấy bóng mặt
trời. Vừa rồi, lợi dụng lúc bà ấy đi vắng, em đã lẻn đi ra, ghé vào nhà anh
chơi, định về trước khi bà ấy có mặt, nào ngờ chậm chân hơn, nên bà ta lôi em
ra đánh không thương tiếc!
Tuấn nổi máu nóng:
- Sao lại có người ác như thế! Để sáng mai anh sẽ ghé
nhà nói cho bà ta và nếu cần thì đi báo quan.
Nàng hốt hoảng:
- Đừng làm thế!
- Vậy chẳng lẽ nàng chịu suốt đời cảnh này sao?
Nàng lại sụt sùi một hồi nữa rồi mới nói rõ hơn:
- Số là mới đây bà ấy ép em lấy một ông bá hộ đáng
tuổi cha mình. Em phản đối thì bà ta nổi điên, càng đánh đập em nhiều hơn!
Bất ngờ nàng hỏi:
- Anh có thể giúp em trốn khỏi đây chăng?
Tuấn ấp úng:
- Được, nhưng mà...
- Không nhưng gì cả, bây giờ em chỉ có hai con
đường là bỏ đi khỏi nhà hay là chịu chết với sự tra tấn của bà ta.
Nói dứt lời nàng vùng đứng dậy như sắp bỏ đi. Tuấn
hốt hoảng kéo tay nàng ta lại. Vô tình nàng ngã hẳn vào lòng Tuấn, ngực áp vào
ngực anh, còn môi thì lại áp đúng vào nhau!
Chuyện gì giữa đôi trai gái đang độ xuân thì chỉ có
hai người biết. Căn phòng trọ của Tuấn từ lúc đó cho đến gần sáng không hề có
ánh đèn. Trong khi hai con người kia vẫn quấn lấy nhau, không hề ngủ.
Mỏi mệt sau cuộc mây mưa, Tuấn ngủ vùi một giấc.
Đến khi bị ánh mặt trời chiếu vào mặt từ khe hở ở cửa sổ thì anh chàng mới giật
mình bật dậy. Cô nàng của anh không còn ở bên cạnh.
- Hồng Liên!
Gọi mãi chẳng nghe lên tiếng, Tuấn nhảy xuống đi
tìm, cũng chẳng thấy bóng dáng đâu.
- Đi đâu được nhỉ?
Chờ đến trưa không thấy gì, Tuấn đành phải cuốc bộ
trở lại xóm nhà đêm qua. Lần này Tuấn sững sờ khi nhìn thấy hơn mười nóc nhà
chỉ còn trơ lại mái, các vách phiến đã tơi tả, gió lùa.
- Là một khu nhà bỏ hoang từ lâu!
Không thể tin vào điều này, Tuấn đi nhanh hơn,
quanh khắp xóm từ đầu đến cuối cả chục lần, nó vẫn vậy!
- Rõ ràng tối qua mình nhớ là ngôi nhà ở khoảng này
mà!
Tuấn dừng lại trước ngôi nhà hoang có vẻ bề thế hơn
cả và giật mình khi thấy ngay giữa sân có một cái giếng, giữa giếng có một đóa
hoa sen mọc thẳng từ dưới lên. Đóa sen hồng thật đẹp! Nhìn đóa sen anh chợt
liên tưởng đến nàng Hồng Liên của mình, nên bất chợt thốt lên:
- Hồng Liên!
Tiếng anh vừa phát ra thì lạ thay đóa sen hồng bỗng
vụt bay lên, tan tác trong gió. Từng cánh, từng cánh hoa tơi nằm rải rác trên
mặt sân.
Cũng vừa lúc Tuấn cảm giác như bị trúng gió, anh
lảo đảo, rồi ngã quỵ xuống tại chỗ, hôn mê...
Khi tỉnh lại, Tuấn vô cùng ngạc nhiên khi đứng
trước mặt mình là một ông lão có gương mặt phúc hậu. Ông reo lên khi thấy Tuấn
tỉnh lại:
- Vậy là không sao rồi!
Tuấn ngơ ngác:
- Cháu bị sao vậy bác? Ở đây là... là...
Chợt nhớ lại mọi chuyện, anh vụt hỏi:
- Ngôi nhà kia...
Anh khựng lại khi chỉ thấy trước mặt mình là xóm
nhà hoang sơ, tiêu điều. Hình như hiểu ý, ông lão lên tiếng:
- Cậu tìm người con gái có tên là Sen Hồng?
Tuấn đáp ngay:
- Đúng rồi! Nàng ấy...
Ông lão thở dài:
- Trong số gần chục đàn ông bị như cậu, chỉ có cậu
là sống sót. Âu cũng là cái số...
Ông kéo tay Tuấn đi về phía sau dãy nhà, chỉ gần
chục ngôi mộ thấp lè tè:
- Đó, kết cuộc của những người như cậu. Là những
người đã biết cô Hồng Liên!
Tuấn không tin điều anh vừa nghe, anh lớn tiếng
biện bạch:
- Nàng ấy là cô gái...
- Một oan hồn chớ đâu phải người!
Câu nói đó khác nào cú roi quất vào mặt, Tuấn chới
với nói:
- Sao lại thế! Nàng là...
Ông lão kéo Tuấn ngồi xuống trước dãy mộ:
- Chính ta đã chôn những ngôi mộ này. Tuổi họ đều
trạc như cậu. Họ cũng qua đây, cũng gặp nàng ấy, rồi chỉ qua một đêm trăng gió
cùng nhau, sáng ra thì nằm chết với cơ thể hầu như không còn chút thịt da nào.
Cậu là người duy nhất như ta vừa nói, có được cái may mắn. Có lẽ do cậu số lớn,
hoặc cơ địa lạ thường hơn. Chớ còn bất cứ ai dính tới nàng ta thì đều mạng
vong!
Ngừng lại một chút, ông kể tiếp:
- Nguyên cả xóm này trước kia là của riêng một dòng
tộc. Họ sống cùng nhau cho đến một ngày, khi người đứng đầu dòng tộc là ông bá
hộ Vương Sùng bị bệnh qua đời đột ngột. Sau hiểu ra thì ra chính bà vợ kế đầu
độc chồng, để hòng chiếm đoạt sản nghiệp. Bà ta đã thành công, truớc sự phản
đối quyết liệt của những người trong thân tộc họ Vương. Chỉ trong một đêm, do
uống nước từ cái giếng giữa sân nhà mà cả vài chục mạng đều ngã lăn ra chết cả!
Chỉ duy nhất một cô con gái út của ông Vương là thoát được do ngủ quên trong
phòng riêng suốt buổi chiều cho đến nửa khuya nên không uống nước có thuốc độc.
Cô gái sống sót, chỉ lúc đó thôi. Bởi sau cùng cô ta cũng bị bà mẹ ghẻ phát
hiện được và thật dã man, để trừ hậu họa, bà đã nhẫn tâm bắt cô con gái đáng
thương đó đem bán cho một kỹ viện. Để rồi chỉ một đêm, do không chịu tiếp
khách, nàng ta đã bị bọn ma cô gồm cả chục tên hãm hiếp. Quá nhục nhã, nàng ấy
đã gieo mình xuống giếng tự tử!
Tuấn thảng thốt kêu lên:
- Hồng Liên!
Ông lão thở dài:
- Đúng, nàng ấy là Hồng Liên. Do bị chết oan ức như
thế nên từ ấy nàng tìm cách trả thù, hễ gặp đàn ông là quyết không tha.
Tuấn phẫn nộ:
- Đáng lý nàng chỉ nên giết bà mẹ ghẻ thôi chớ!
- Tất nhiên là bà quá phụ đó không thể thoát chết.
Chỉ tiếc là do hận thù quá to lớn, nên Hồng Liên đã lạm sát. Tuy nhiên, xem ra
khi gặp cậu thì nàng ta đã thay đổi. Hình như nàng ta đã yêu cậu thật sự rồi.
Ông lão nói đến đó thì đứng dậy bỏ đi. Đi một quãng
khá xa mới quay lại nói lớn:
- Tốt hơn hết là cậu nên tránh xa nơi này. Nếu có
duyên thì có ngày cậu sẽ gặp lại nàng ấy!
Tuấn đứng thẫn thờ khá lâu...
LÀM RỂ THẦN NHÂN
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Phác lậu y quan ngạnh giới thân
Xa trung úy tặng diệc tiền nhân
Vị khanh túc dạ mông sương lộ
Bất tich châu hoa trì dữ nhân
Huyện Tấn Giang, tỉnh Phúc Kiến có hai anh em họ
Mễ. Người anh tên Ðại Thành, là một nhà buôn, tính tình rất mực hiền lành chất
phác, đã có vợ. Người em tên Ðộ Tân, là một nho sinh, văn chương cũng chỉ
thường thường bậc trung, còn độc thân. Người nào cũng được cha mẹ để lại cho
một ngôi nhà và mươi mẫu ruộng. Hai anh em thương yêu nhau lắm.
Một hôm, Ðộ Tân từ làng lên huyện có việc. Xong
việc, ghé vào quán ăn uống rồi mới ra về. Vì quá chén, Ðộ Tân say lảo đảo, áo
quần xốc xếch. Lát sau, qua cổng một ngôi nhà, thấy có tiếng nhạc inh ỏi từ
trong nhà vọng ra, Ðộ Tân thích lắm, bèn đứng lại nghe. Nhìn vào sân, thấy vắng
hoe, chẳng một bóng người, Ðộ Tân bèn chạy sang nhà hàng xóm phía đông, làm
quen với chủ nhà là Minh ông, rồi hỏi:"Hàng xóm phía tây nhà túc hạ là gia
đình ai thế?" Minh ông đáp:"Gia đình một ông lão!" Hỏi:"Họ
từ đâu tới đây cư ngụ?" Ðáp:"Bỉ nhân không biết!" Hỏi:"Họ
tới đây cư ngụ đã lâu chưa?" Ðáp:"Cũng mới được chừng ba tháng
nay!" Hỏi:"Họ đang làm gì mà trỗi nhạc inh ỏi như thế?"
Ðáp:"Các con trong nhà đang làm lễ thượng thọ cho cha!" Nảy tính hiếu
kỳ, muốn được vào coi, Ðộ Tân liền cáo biệt Minh ông, chạy ra tiệm tạp hóa đầu
đường mua lễ vật, đính kèm danh thiếp của mình, đem vào đặt ở hành lang trước
cửa phòng khách, gõ cửa báo cho người trong nhà biết, rồi ra ngoài cổng đứng
chờ. Minh ông nhìn thấy Ðộ Tân trở lại, đem lễ vật vào nhà hàng xóm thì lấy làm
lạ, bèn chạy ra hỏi:"Túc hạ quen biết với ông lão trong nhà như thế
nào?" Ðáp:"Bỉ nhân có quen biết chi đâu!" Nói:"Nếu chẳng
quen biết chi thì tại sao lại đi làm cái chuyện điên rồ như thế? Vả lại, áo
quần đang xốc xếch như thế này mà lại xin vào dự lễ thượng thọ nhà người ta thì
kỳ cục lắm!" Nghe thấy thế, Ðộ Tân đâm ra hối hận, toan chạy vào lấy lại
lễ vật thì bỗng thấy có người từ trong nhà mở cửa bước ra hành lang, bưng lễ
vật vào. Ðộ Tân đành đứng ở ngoài cổng để chờ xem sao.
Lát sau, có hai thiếu niên ăn mặc sang trọng, phong
thái thanh nhã, từ trong nhà mở cửa bước ra cổng, vái chào Ðộ Tân, mời vào
phòng khách. Ðộ Tân liền theo vào. Tới hành lang, hai thiếu niên mở cửa phòng
khách, mời Ðộ Tân vào, rồi khép cửa lại, đứng ở bên ngoài.
Vào trong, Ðộ Tân thấy một bức bình phong bằng ngọc
lưu ly ngăn đôi phòng khách. Ở phần ngoài, trên bệ cao, có một ông lão cùng tám
vị khách, dáng vẻ quý phái, ngồi trên ba chiếc chiếu hoa, quay mặt về hướng
nam. Dưới bệ thấp, có chừng hai chục khách khác ngồi trên năm chiếc chiếu lớn.
Ðộ Tân thầm nghĩ chắc phần trong được dành cho nội quyến của ông lão ngồi nghe
nhạc. Ðộ Tân vừa bước vào phòng thì bỗng tiếng nhạc ngưng hẳn rồi mọi người
cùng đứng dậy thi lễ. Ông lão cũng chống gậy đứng dậy. Ðộ Tân cúi đầu đáp lễ
thì mọi người lại ngồi xuống rồi tiếng nhạc lại trỗi lên. Ðộ Tân thầm nghĩ chắc
sắp có người tới mời mình đến chiếu ngồi, song chờ mãi cũng chẳng thấy ai. Ðộ
Tân ngạc nhiên lắm, đành đứng tại chỗ mà nghe nhạc. Bỗng hai thiếu niên mở cửa
bước vào phòng rồi tiếng nhạc lại ngưng. Một thiếu niên tiến tới chỗ Ðộ Tân,
nói:"Vì gia nghiêm già yếu, chẳng thể xuống đây mời cao hiền lên bệ được,
vậy xin cao hiền thứ lỗi cho. Bỉ nhân xin thay mặt gia nghiêm mà cảm tạ cao
hiền đã cho quà và tới dự lễ!" Rồi chắp tay vái Ðộ Tân. Ðộ Tân kinh hãi
quá, nghiêng mình tránh né, chẳng dám nhận vái. Thiếu niên kia bèn đi lấy thêm
chiếu, trải nối vào chiếc chiếu bên trái ông lão, mời Ðộ Tân lên ngồi. Rồi cả
hai thiếu niên cùng tới ngồi ở một chiếc chiếu trải dưới bệ thấp. Tiếng nhạc
lại trỗi lên. Ðộ Tân lên tiếng hỏi chuyện mấy vị khách ngồi cạnh song chẳng vị
nào nghe thấy gì vì tiếng nhạc inh ỏi.
Khi tiếng nhạc vừa dứt, hai thiếu niên liền đứng
dậy, lấy hai chồng chén và hai bình rượu đi mời khắp lượt. Thấy mình còn say,
Ðộ Tân không muốn uống song vì thấy khách nào cũng nhận chén nên Ðộ Tân chẳng
dám chối từ. Trong khoảnh khắc, mọi người đều cạn chén. Bất đắc dĩ, Ðộ Tân cũng
phải cạn chén theo. Hai thiếu niên lại lấy hai bình rượu mới, đi mời lượt nữa.
Vì say quá, Ðộ Tân chối từ rồi xin cáo biệt.
Ðộ Tân vừa quay người, toan bước ra cửa thì bị một
thiếu niên nắm vạt áo kéo lại. Ðột nhiên, Ðộ Tân ngã lăn xuống chiếu, nằm ngủ
li bì. Khi bị nước lạnh dội vào mặt, Ðộ Tân mới tỉnh. Vùng dậy, nhìn quanh,
thấy ông lão cùng khách khứa đều đã biến hết, chỉ còn một thiếu niên đang đứng
cạnh mình, tay cầm chiếc bình không, Ðộ Tân ngượng quá, chẳng biết phải hành
động thế nào. Chợt thấy thiếu niên tới khoác tay mình dìu ra cổng, Ðộ Tân bèn
cúi đầu chào cáo biệt.
Ba tháng sau, một hôm Ðộ Tân lại có việc phải lên
huyện. Xong việc, tới thăm ngôi nhà cũ, thấy cổng ngõ im lìm, Ðộ Tân bèn sang
nhà Minh ông hỏi thăm thì được biết gia đình ông lão đã dọn đi được hơn hai
tháng.
Trên đường về, qua chợ huyện, bỗng Ðộ Tân thấy một
khách lạ từ trong chợ chạy ra, gọi:"Mễ huynh! Ði đâu đấy? Hãy vào đây ngồi
uống với chúng đệ mấy chén đã!" Thấy mình chưa hề quen biết khách, Ðộ Tân
lấy làm lạ, hỏi:"Sao túc hạ lại biết đệ?" Khách hỏi lại:"Thế túc
hạ không nhận ra đệ hay sao?" Ðộ Tân đáp:"Thưa không!" Khách
hỏi:"Túc hạ còn nhớ cách đây ba tháng, chúng ta cùng vào nhà Phó lão tiên
sinh dự lễ thượng thọ hay không?" Vỡ lẽ, Ðộ Tân gật đầu, hỏi lại:"Hôm
ấy túc hạ ngồi ở đâu?" Khách đáp:"Ðệ ngồi ở chiếu dưới! Khi hai công
tử mở cửa phòng khách mời túc hạ vào thì đệ thấy mọi người đều đứng dậy nên đệ
nhớ mặt túc hạ, rồi hỏi thăm được quý danh!" Ðộ Tân bèn hỏi:"Thế quý
danh túc hạ là gì?" Khách đáp:"Ðệ họ Chư, tên Yến!"
Hỏi:"Túc hạ làm nghề chi?" Ðáp:"Ðệ làm nghề mài gương mài kính ở
trong chợ!" Ðộ Tân bèn theo Chư Yến vào chợ. Tới bàn rượu, Ðộ Tân mới biết
rằng Chư Yến đang ngồi với một người làng mình, họ Bảo, tên Trang. Ba người bèn
cùng yến ẩm. Gần tối, Ðộ Tân xin cáo biệt.
Ðêm ấy, Bảo Trang bị giết chết ở dọc đường. Vì
chiều hôm trước, có kẻ nhìn thấy Bảo Trang ngồi uống rượu với Ðộ Tân cùng một
khách lạ ở trong chợ nên tới mách cho cha Bảo Trang biết. Cha Bảo Trang chẳng
biết khách lạ là ai nên chỉ làm đơn kiện Ðộ Tân đã giết con mình. Quan tể cho
khám nghiệm thi thể Bảo Trang thì thấy có nhiều vết dao đâm. Quan liền sai lính
đi bắt Ðộ Tân về huyện đường tra khảo. Ðộ Tân trình bày việc Chư Yến mời mình
vào quán uống rượu tay ba và khai rằng mình chẳng hề giết người. Quan không
tin, cứ kết tội Ðộ Tân giết Bảo Trang. Ðộ Tân một mực kêu oan. Quan chẳng nghe,
cứ lột mũ áo nho sinh, tịch thu gia sản đem bán cho dân làng, rồi khép án tử
hình. Tuy nhiên, vì luật pháp triều đình ấn định rằng các quan tể phải chờ các
quan tuần phương tới phúc thẩm, y án, rồi mới được đem tử tù ra hành hình, nên
Ðộ Tân chỉ bị tống giam.
Năm sau, triều đình cử một quan tuần phương tới
Phúc Kiến phúc thẩm các án tử hình. Khi xét tới vụ án Bảo Trang, quan tuần
phương phán là Ðộ Tân bị hàm oan rồi ra lệnh phóng thích. Ðộ Tân về làng, thấy
nhà cửa ruộng vườn của mình đã thuộc về người khác, bèn tới nhà người anh, xin
ở nhờ. Ðại Thành thương em lắm, bảo vợ dọn riêng một phòng cho em ở. Thấy quan
tuần phương đã phán là mình vô tội, Ðộ Tân bèn quyết định lên dinh học sứ xin
lại mũ áo nho sinh.
Tháng sau, Ðộ Tân khăn gói lên huyện. Ðường xa,
trời tối, mỏi mệt, Ðộ Tân ngồi bệt xuống vệ đường nghỉ chân. Chợt thấy một cỗ
xe ngựa chạy qua chỗ mình ngồi rồi đột nhiên dừng lại, Ðộ Tân chú mục nhìn thì
thấy một tì nữ từ trên xe tụt xuống, đứng thò đầu vào xe như để nghe lệnh, rồi
chạy tới chỗ mình, hỏi:"Có phải tú tài họ Mễ không?" Ðộ Tân kinh
ngạc, chẳng hiểu tại sao tì nữ lại biết lai lịch mình, song cũng
đáp:"Phải" Hỏi:"Sao tú tài lại nghèo khổ thế này?"
Ðáp:"Vì năm ngoái bỉ nhân bị quan tể kết tội oan, lột mũ áo nho sinh, tịch
thu hết gia sản. Tháng trước, quan tuần phương tới phúc thẩm, phán là vô tội
rồi thả cho về!" Hỏi:"Bây giờ tú tài định đi đâu?" Ðáp:"Bỉ
nhân định lên dinh học sứ xin lại mũ áo nho sinh!" Tì nữ bèn chạy về xe,
trình lại. Lát sau, tì nữ lại chạy tới chỗ Ðộ Tân, nói:"Nương tử tiểu tì
mời tú tài tới cạnh xe nói chuyện!" Hiếu kỳ, Ðộ Tân bèn bước theo tì nữ.
Tới xe, tì nữ đưa tay vén rèm lên thì Ðộ Tân sững sờ kinh ngạc vì thấy trong xe
có một nữ lang tuyệt sắc. Nữ lang nói:"Hiền lang chẳng may bị tai họa bất
ngờ, thiếp nghe chuyện cũng thấy ngậm ngùi. Nay hiền lang muốn vào dinh học sứ
xin lại mũ áo nho sinh, mà đi với hai bàn tay trắng, chẳng có tiền hối lộ cho
lính canh thì làm sao mà vào? Thiếp muốn biếu hiền lang chút tiền song dọc
đường chẳng đem theo nên cũng đành chịu!" Rồi như chợt nghĩ ra điều gì, nữ
lang nói tiếp:"À thôi! Ðể thiếp biếu đỡ hiền lang vật này vậy! Cứ đem lên
huyện bán cũng được trăm đồng, đủ tiền hối lộ đó! Cất kỹ đi!" Nói xong, nữ
lang đưa tay lên đầu, rút đóa hoa ngọc cài trên mái tóc, trao cho Ðộ Tân. Ðược
người đẹp trao tặng đóa hoa trang sức, Ðộ Tân vội đón nhận rồi nói:"Tiểu
sinh xin đa tạ nương tử!" Ðộ Tân toan lên tiếng hỏi về tính danh và thân
thế của nữ lang thì cỗ xe đã vụt chạy như bay. Ðộ Tân đành đứng tần ngần nhìn
theo cho tới khi cỗ xe mất hút. Thấy đóa hoa có gắn nhiều hạt minh châu, Ðộ Tân
biết là bảo vật nên cất kỹ vào túi rồi tiếp tục lên đường.
Sáng sau, Ðộ Tân tới dinh học sứ, xin lính canh cho
vào. Lính đòi tiền hối lộ, Ðộ Tân không có, lính không cho vào. Chợt nhớ tới
đóa hoa trang sức của người đẹp cho mình, Ðộ Tân vội ra chợ tìm tiệm kim hoàn
để bán. Sau khi ngã giá, Ðộ Tân rút đóa hoa ra trao cho chủ tiệm thì bỗng thấy
tiếc rẻ nên lại thôi không bán nữa, cất vào túi. Biết rằng không nạp tiền hối
lộ thì chẳng sao vào được dinh học sứ nên Ðộ Tân quyết về nhà anh, ôn lại bài
vở để đi thi khoa đồng tử hầu lấy lại mũ áo nho sinh.
Năm sau, ở huyện Tấn Giang có mở khoa thi đồng tử
vào ngày rằm tháng ba. Ðộ Tân lên huyện sớm ít bữa để chờ ngày ứng thí. Gặp
tiết thanh minh, thấy thiên hạ đua nhau đi ngoạn cảnh, Ðộ Tân cũng đi theo rồi
lạc vào một dãy núi vì không thuộc đường. Chợt thấy một đám tì nữ áo xanh cưỡi
ngựa theo hầu một cỗ xe, Ðộ Tân chú mục nhìn thì nhận ra người ngồi trong xe
chính là nữ lang năm ngoái. Nữ lang nhìn thấy Ðộ Tân thì vội ra lệnh cho tì nữ
dừng xe, rồi hỏi Ðộ Tân:"Hiền lang đi đâu thế?" Ðộ Tân đáp:"Tiểu
sinh đi dự khoa thi đồng tử!" Nữ lang kinh ngạc, hỏi:"Thế ra hiền
lang vẫn chưa xin lại được mũ áo nho sinh hay sao?" Ðộ Tân ngượng ngùng,
thò tay vào túi, rút đóa hoa trang sức ra, nói:"Vì tiểu sinh chẳng nỡ bán
kỷ vật này nên bây giờ phải đi thi lại khoa thi đồng tử" Nữ lang chợt ửng
hồng đôi má, nói:"Hiền lang đừng đi đâu cả, cứ ngồi đây mà chờ một
lát!" Rồi ra lệnh cho tì nữ phóng xe đi. Ðộ Tân theo lời dặn, ngồi chờ ở
bên đường. Lát sau, một tì nữ phóng ngựa trở lại, trao cho Ðộ Tân một túi lớn,
nói:"Nương tử tiểu tì nói vì bây giờ dinh học sứ loạn như cái chợ bán chữ
nên nương tử tiểu tì tặng tú tài hai trăm lạng vàng, dặn tú tài hãy dùng vàng
này mà tiến thân!" Ðộ Tân không nhận, nói:"Nương tử đã cho bỉ nhân
đóa hoa ngọc rồi! Bây giờ nương tử lại cho vàng thì bỉ nhân chẳng dám nhận nữa!
Sở dĩ bỉ nhân chẳng chịu bán đóa hoa ngọc là vì bỉ nhân tự lượng sức mình có
thể đi thi để lấy lại mũ áo nho sinh! Chỉ xin tiểu nương cho bỉ nhân biết danh
tánh nương tử là chi để bỉ nhân về vẽ tranh mà thờ, thắp hương mà khấn cũng đã
là mãn nguyện lắm rồi!" Tì nữ chẳng thèm nói chi thêm, cứ quẳng túi vàng
xuống cạnh Ðộ Tân rồi quất ngựa phóng đi. Ðộ Tân đành nhặt túi vàng đem về.
Tới nhà, Ðộ Tân chia túi vàng làm hai, biếu người
anh một nửa, còn nửa kia thì đem đi chuộc lại nhà cửa ruộng vườn và mua gia
nhân. Sau đó, Ðộ Tân lên huyện dự khoa thi đồng tử, lấy lại được mũ áo nho
sinh. Ba tháng sau, Ðộ Tân lại trúng tuyển khoa thi nhập học trường huyện. Ðại
Thành giỏi buôn bán, dùng vàng em cho để đi buôn, kiếm được rất nhiều lời. Ba
năm sau, Ðại Thành chuộc lại được hết các sản nghiệp của ông cha. Vì thế, hai
anh em cùng trở thành cự phú ở trong làng.
Năm ấy, triều đình cử người anh thúc bá của Ðại
Thành và Ðộ Tân, là Mễ công, về làm tuần vũ tỉnh Phúc Kiến, thay tuần vũ cũ hồi
hưu. Mễ công sai lính đem quà về làng tặng hai anh em. Hai anh em bèn nhờ lính
chuyển lời cám ơn tới Mễ công. Hôm sau, Ðại Thành rủ vợ và em cùng mình lên
dinh tuần vũ để xin vào chào mừng và thăm hỏi Mễ công. Ðộ Tân vốn không ưa việc
tới lui nơi quyền quý nên từ chối. Vì thế chỉ có hai vợ chồng Ðại Thành lên
dinh tuần vũ mà thôi.
Nửa năm sau. Một hôm, có khách mặc áo cừu, cưỡi
ngựa bạch, tới gõ cổng nhà Ðộ Tân. Gia nhân ra coi, thấy là khách lạ, vội chạy
vào báo. Ðộ Tân ra coi thì nhận ra là một trong hai công tử mà mình đã gặp
trong buổi lễ thượng thọ ở nhà Phó lão tiên sinh. Ðộ Tân bèn mở cổng mời khách
vào nhà. Hai người tay bắt mặt mừng, ngồi hàn huyên đủ chuyện. Ðộ Tân sai gia
nhân bày tiệc thì khách từ chối, nói thác là mình có việc bận, cần phải đi ngay,
nhưng rồi lại cứ ngồi hàn huyên với Ðộ Tân chứ chẳng chịu xin cáo biệt. Gia
nhân bày tiệc xong, chạy ra trình báo. Ðộ Tân đứng dậy, mời khách vào nhập
tiệc. Ðột nhiên, khách quỳ xuống trước mặt Ðộ Tân mà lạy. Ðộ Tân kinh ngạc,
nghiêng mình tránh né, rồi hỏi:"Công tử có chuyện chi nghiêm trọng
thế?" Khách buồn rầu, đáp:"Gia nghiêm vừa mắc một đại họa, chỉ có cao
hiền mới cứu được thôi!" Nói:"Xin công tử nói rõ cho nghe!"
Ðáp:"Vì gia nghiêm sắp bị lâm vào vòng lao lý mà chỉ có quan tuần vũ mới
cứu được nên hôm nay bỉ nhân tới đây để xin cao hiền lên nói với quan tuần vũ
giùm cho!" Nghe thấy thế, Ðộ Tân liền từ chối, nói:"Tuy quan tuần vũ
với tiểu sinh là chỗ anh em thúc bá song tiểu sinh đã quyết tâm là chẳng khi
nào lên nhờ vả quan tuần vũ một việc gì cả!" Khách cứ nằm lăn ra đất mà
khóc lóc van xin. Ðộ Tân giận quá, nghiêm sắc mặt, nói:"Công tử với tiểu
sinh chẳng qua chỉ là chỗ sơ giao! Thế thì tại sao công tử lại đi táng thất
danh tiết để ép tiểu sinh phải làm một việc mà tiểu sinh chẳng thể nào làm được?"
Nghe thấy thế, khách ngượng quá, vội vùng dậy, chắp tay vái chào Ðộ Tân, rồi
chạy ra sân, tháo ngựa phóng đi.
Tối sau, Ðộ Tân đang ngồi trong phòng đọc sách thì
chợt thấy bóng dáng lờ mờ của một cô gái lui cui buộc ngựa ở góc sân. Ðộ Tân
chú mục nhìn theo thì thấy cô gái bước lên thềm, tới gõ cửa phòng. Ðộ Tân vội
chạy ra mở thì nhận ra là tì nữ hầu cận của nữ lang đã cho mình đóa hoa trang
sức. Chỉ lo tì nữ tới báo cho mình một hung tin về nữ lang, Ðộ Tân toan cất
tiếng hỏi thì tì nữ đã hỏi trước:"Tú tài đã quên đóa hoa ngọc của nương tử
tiểu tì trao tặng rồi sao?" Ðộ Tân đáp:"Bỉ nhân đâu có dám
quên!" Tì nữ nói:"Nếu thế thì tiểu tì báo cho tú tài một tin!"
Ðộ Tân kinh hãi, dồn dập hỏi:"Tin gì? Tin gì?" Tì nữ đáp:"Phó
công tử hôm qua tới đây chính là bào huynh của nương tử tiểu tì đó!" Nghe
thấy thế, Ðộ Tân mới hoàn hồn, thở phào nhẹ nhõm, chuyển lo thành mừng. Tuy
nhiên, Ðộ Tân vẫn làm ra vẻ chẳng tin, nói:"Tiểu nương nói vậy thì bỉ nhân
cũng biết vậy chứ bỉ nhân thấy khó tin quá! Nếu nương tử đích thân tới đây xác
nhận điều đó thì bỉ nhân sẽ tin ngay! Lúc ấy nương tử có bảo bỉ nhân nhảy vào
đống lửa, bỉ nhân cũng xin tuân hành. Còn nếu nương tử không tới thì bỉ nhân
nghĩ rằng chắc là tiểu nương đặt chuyện!" Tì nữ tức giận, chẳng nói một
lời, quay phắt xuống sân, tháo ngựa phóng đi.
Chừng một giờ sau, Ðộ Tân lại nghe có tiếng gõ cửa.
Ra mở thì thấy tì nữ trở lại, nói:"Nương tử tiểu tì đã tới đây này!"
Ðộ Tân mừng quá, còn đang luýnh quýnh chưa biết phải hành động ra sao thì chợt
thấy nữ lang bước vào phòng, quay mặt vào tường mà khóc, chẳng nói một lời. Ðộ
Tân chắp tay vái chào nữ lang rồi lắp bắp: "Nếu chẳng được nương tử giúp
đỡ thì tiểu sinh đâu có ngày nay? Bây giờ nương tử sai bảo điều chi, tiểu sinh
cũng xin tuân hành ngay lập tức, chẳng dám chối từ!" Nữ lang nói:"Kẻ
phải đi cầu cạnh người thì hay sợ hãi người. Kẻ được người tới cầu cạnh thì hay
làm cao với người. Bình sinh thiếp chưa hề phải đi cầu cạnh ai bao giờ! Bây giờ
nửa đêm phải đi cầu cạnh người thì còn biết nói năng chi?" Ðộ Tân nói:"Khi
tiểu sinh được biết Phó công tử là lệnh huynh thì tiểu sinh đã tin ngay, song
vì nghĩ mình khó có dịp được diện kiến nương tử nên mới lập kế để mong nương tử
cho gặp mặt. Bây giờ nghĩ lại mới thấy là mình đã đắc tội với nương tử vì đã
làm cho nương tử phải nửa đêm lặn lội sương tuyết mà tới đây!" Nói xong,
Ðộ Tân bước tới nắm lấy ống tay áo nữ lang để mời ngồi. Thừa cơ, Ðộ Tân ngầm
gãi vào lòng bàn tay nữ lang. Nữ lang liền biến sắc mặt, nói:"Thấy người
khác bị lâm nguy, đã chẳng sốt sắng giúp đỡ, lại còn manh tâm lợi dụng, thì quả
là kẻ tồi bại!" Nói xong, nữ lang quay phắt người qua phía tì nữ, ra
lệnh:"Ði!" rồi chạy lên xe. Tì nữ vội chạy theo, nhảy lên ngồi cầm
cương. Ðộ Tân kinh hãi quá, cũng vội chạy ra sân, quỳ xuống đất mà van
lạy:"Tiểu sinh đã trót dại, xin nương tử tha cho!" Tì nữ cũng nhỏ nhẹ
khuyên:"Xin nương tử hãy nghĩ tới lão công mà bớt giận, tha tội cho tú
tài!" Lúc đó, nữ lang mới hơi nguôi. Ðộ Tân cứ quỳ ở giữa sân mà lên
tiếng:"Xin nương tử sai bảo!" Nữ lang ngồi trong xe, nói vọng
ra:"Nói thực cho hiền lang biết thiếp chẳng phải là người mà là con gái vị
thần nhân mà hiền lang đã tới dự lễ thượng thọ. Gia nghiêm được Thượng Ðế đặc
cử giữ chức vụ Nam Nhạc Ðô Lý Ty. Vì gia nghiêm có chuyện xích mích với vị thổ
thần địa phương nên bị vị này vu tấu lên Thượng Ðế. Gia nghiêm đã trần tình
song Thượng Ðế chẳng tin, bắt phải có lá sớ vàng với dấu ấn của quan tuần vũ
địa phương để làm bằng, nếu không thì sẽ mắc vòng lao lý. Nếu hiền lang chưa
quên ân nghĩa cũ thì hãy lấy một lá sớ vàng, lên thỉnh cầu quan tuần vũ đóng
dấu ấn cho rồi đem về trao cho thiếp để thiếp đem đi cứu gia nghiêm!" Nói
xong, nữ lang chẳng chờ cho Ðộ Tân nói chi thêm, vội ra lệnh cho tì nữ quất
ngựa, phóng xe đi. Ðộ Tân vô cùng lo sợ, bèn đứng dậy, vào nhà nằm. Suốt đêm
ấy, Ðộ Tân trằn trọc, chẳng sao ngủ được.
Sáng sớm hôm sau, Ðộ Tân sửa soạn hành trang, đem
theo nhiều tiền bạc, cưỡi ngựa lên tỉnh, tới dinh tuần vũ, xin vào thăm Mễ
công. Sau khi chào hỏi, Ðộ Tân nói:"Kính thưa đại ca, ở vùng núi quê nhà
có nhiều tà ma quấy nhiễu dân lành. Hôm nay tiểu đệ lên đây xin đại ca một lá
sớ vàng có đóng dấu ấn để đem về vùng núi quê nhà mà làm phép trừ tà ma cho dân
chúng!" Mễ công cười, nói:"Chuyện tà ma là chuyện hoang đường! Hiền
đệ chớ nên mê tín mà làm như vậy!" Ðộ Tân kinh hãi quá, vội vàng vâng vâng
dạ dạ rồi xin phép ra về.
Ra ngoài, Ðộ Tân chạy đi dò hỏi xem ai là kẻ tâm
phúc của Mễ công để mình có thể lo hối lộ, nhờ xin một lá sớ vàng có dấu ấn
tuần vũ. Khi được biết kẻ tâm phúc của Mễ công là người họ Kế, tên Phục, Ðộ Tân
liền chạy đi tìm Kế Phục, đem tiền bạc ra biếu rồi năn nỉ xin Kế Phục giúp
mình. Kế Phục nhận lời rồi bảo Ðộ Tân cứ ra quán trọ Mai Hoa mà chờ. Ðộ Tân bèn
ra quán trọ nằm chờ, song chờ suốt ngày mà chẳng thấy Kế Phục tới.
Sáng sau, chẳng được tin tức gì, Ðộ Tân chán nản,
bèn trả phòng trọ, lên ngựa về làng. Vừa về tới nhà, Ðộ Tân đã thấy tì nữ đang
đứng ở cổng, tay cầm cương. Thấy Ðộ Tân về, tì nữ hỏi:"Có được việc gì
không?" Ðộ Tân lắc đầu buồn bã, đáp:"Không!" rồi thuật lại đầu
đuôi câu chuyện. Nghe xong, tì nữ lạnh lùng, chẳng nói một lời, nhảy lên lưng
ngựa, phóng đi. Ðộ Tân hốt hoảng, vội nói với theo:"Nhờ tiểu nương về thưa
giùm với nương tử rằng nếu tối mai mà bỉ nhân chẳng làm xong công việc nương tử
giao phó thì bỉ nhân sẽ xin tự vẫn!" Tì nữ chẳng thèm ngoái cổ lại, cứ
phóng ngựa như bay. Ðộ Tân cho ngựa vào chuồng rồi lên nhà nằm. Suốt ngày hôm
ấy, Ðộ Tân chỉ thở dài. Suốt đêm hôm ấy, Ðộ Tân cứ trằn trọc.
Tờ mờ sáng hôm sau, Ðộ Tân đem đóa hoa ngọc cùng
tiền bạc lên lưng ngựa, phóng lên tỉnh. Vừa tới dinh tuần vũ, gặp Kế Phục ở
cổng dinh, Ðộ Tân vội hỏi:"Có tin tức gì cho bỉ nhân không?" Kế Phục
đáp:"Có! Ðang đi tìm túc hạ đây!" Ðộ Tân mừng quá, vội hỏi:"Tin
gì thế?" Kế Phục đáp:"Quan tuần vũ có người ái thiếp là Bối cơ. Bối
cơ rất mê bảo ngọc, hiện đang tìm mua. Nếu túc hạ có bảo ngọc mà đem biếu thì
thế nào Bối cơ cũng lén lấy ấn của quan tuần vũ mà đóng dấu vào lá sớ vàng
cho!" Ðộ Tân mừng quá, vội móc túi lấy đóa hoa ngọc ra trao cho Kế Phục,
nhờ đem vào biếu Bối cơ giùm. Kế Phục cầm đóa hoa rồi bảo Ðộ Tân cứ ra quán trọ
Mai Hoa mà chờ.
Bối cơ được đóa hoa ngọc thì mừng lắm, vội vào
phòng ngủ của Mễ công, lén lấy ấn tuần vũ đóng dấu vào một lá sớ vàng rồi trao
cho Kế Phục. Ðộ Tân nằm ở quán trọ mà trong lòng cứ bồn chồn, hồi hộp. Bỗng
nghe có tiếng gõ cửa, Ðộ Tân vội nhỏm dậy, chạy ra mở. Thấy Kế Phục, Ðộ Tân
mừng quá, trống ngực đánh thình thình. Kế Phục mỉm cười, nói:"Ðã làm xong
việc cho túc hạ rồi!" Nói xong, Kế Phục móc túi, lấy lá sớ vàng ra trao
cho Ðộ Tân. Ðộ Tân mừng quá, chỉ thốt được hai tiếng cám ơn rồi giơ tay đón
nhận lá sớ, gấp làm tư, cất vào túi. Ðộ Tân ra trả tiền phòng, rồi nhảy ngay
lên ngựa phóng về làng.
Vừa về tới cổng nhà thì thấy tì nữ cũng vừa phóng
ngựa tới. Ðộ Tân vội lên tiếng:"May mà hôm nay bỉ nhân chẳng làm nhục mệnh
của nương tử! Mấy năm trước đây, bỉ nhân nghèo túng, phải đi ăn nhờ ở đậu mà
vẫn chẳng chịu bán đóa hoa ngọc của nương tử ban cho. Hôm nay, vì nương tử mà
bỉ nhân phải đem nó tặng lại người khác. Ném vàng đi, bỉ nhân chẳng tiếc, song
mất đóa hoa ngọc thì bỉ nhân tiếc lắm. Nhờ tiểu nương về xin với nương tử
thưởng cho bỉ nhân một đóa hoa khác, giống như thế!" Sau đó, Ðộ Tân thuật
lại việc mình trao đóa hoa ngọc cho Kế Phục, nhờ đem đi tặng Bối cơ để xin lá
sớ vàng. Thuật xong, Ðộ Tân móc túi lấy lá sớ ra trao. Tì nữ nhận lá sớ, cám ơn
Ðộ Tân rồi quay ngựa, phóng như bay.
Ba hôm sau, Ðộ Tân đang ngồi trong nhà thì thấy Phó
công tử cưỡi ngựa bạch tới thăm. Sau khi chào hỏi, công tử đưa biếu Ðộ Tân một
túi vàng lớn, gồm trăm lạng. Ðộ Tân nghiêm nét mặt, nói:"Sở dĩ tiểu sinh
giúp được lệnh tôn là vì lệnh muội đã ban cho tiểu sinh một ân huệ. Nếu chẳng
vì ân huệ ấy thì dù công tử có cho tiểu sinh vạn lạng vàng, tiểu sinh cũng
chẳng thể đem danh tiết của mình ra mà đánh đổi được!" Công tử cứ năn nỉ
mãi để Ðộ Tân nhận cho. Ðộ Tân càng nghiêm sắc mặt, cương quyết chối từ. Công
tử ngượng quá, đành phải đem túi vàng lên ngựa mà cáo biệt. Trước khi về, công
tử nói:"Ân nghĩa của cao hiền, gia đình bỉ nhân chưa trả xong đâu!"
rồi vái chào Ðộ Tân, phóng ngựa đi.
Hôm sau, tì nữ lại cưỡi ngựa tới. Vào nhà, tì nữ
lấy ra một túi minh châu gồm trăm hạt, đặt lên bàn, nói: "Nương tử sai
tiểu tì đem túi minh châu này tới để đền ơn tú tài. Tú tài nghĩ trăm hạt minh
châu này đã đủ để đền bù lại đóa hoa ngọc chưa?" Ðộ Tân đáp:"Ðóa hoa
ngọc là đóa hoa ngọc chứ chẳng phải là trăm hạt minh châu. Dù nương tử có ban
cho bỉ nhân trăm vạn lạng vàng thì bỉ nhân cũng chỉ trở thành một phú nhân thôi
chứ chẳng thể trở thành kẻ có cái diễm phúc được giữ đóa hoa ngọc làm kỷ vật!
Bỉ nhân cam phận nghèo chỉ vì muốn được làm kẻ có cái diễm phúc ấy. Nương tử là
người thần, bỉ nhân đâu dám ước mơ chuyện phu thê mà chỉ muốn được giữ đóa hoa
ngọc làm kỷ vật thôi! Bây giờ, tuy đã mất đóa hoa ngọc nhưng lại báo được hồng
ân của nương tử thì bỉ nhân cũng chẳng tiếc. Thực tình mà nói, nếu phải mất
mạng để báo đáp được hồng ân của nương tử thì bỉ nhân cũng chẳng tiếc, huống hồ
là chỉ mất có đóa hoa ngọc? Xin tiểu nương đem túi minh châu này về trình lại
với nương tử như thế cho!" Tì nữ cứ để túi minh châu trên bàn rồi chào từ
biệt. Ðộ Tân gọi giật lại, nói:"Xin tiểu nương làm ơn đem túi minh châu
này về để cho tâm hồn bỉ nhân được thanh thản!" Bất đắc dĩ, tì nữ phải đem
túi minh châu lên ngựa, ra về.
Ba hôm sau, Phó công tử lại cưỡi ngựa tới thăm, lần
này có dắt theo một đầu bếp giỏi. Ðộ Tân sai gia nhân bày tiệc. Công tử
nói:"Hôm nay bỉ nhân có dắt theo một đầu bếp tới để nấu nướng cho chúng ta
say sưa một bữa!" rồi sai đầu bếp xuống bếp làm tiệc với gia nhân nhà Ðộ
Tân. Tiệc bày xong, Ðộ Tân mời công tử nhập tiệc. Ðộ Tân có một vò rượu quý của
người bạn thân biếu đã từ lâu, song còn để dành, chưa mở. Hôm ấy, Ðộ Tân sai
gia nhân khui vò rượu ra để cùng công tử yến ẩm.
Hai người yến ẩm, đàm luận, thân mật như anh em một
nhà. Công tử uống rất hào, uống hết trăm chén mà vẫn chưa say, mặt chỉ hơi đỏ.
Thấy rượu quá ngon, công tử khen: "Thực tình, bình sinh bỉ nhân chưa từng
được uống thứ rượu nào ngon như thế này bao giờ!" Tiệc gần tan, đột nhiên
công tử nói:"Cao hiền là một kẻ sĩ trinh giới. Huynh đệ bỉ nhân chẳng hiểu
được cao hiền sớm hơn nên thẹn mình chẳng bằng giới quần thoa. Gia nghiêm cảm
cái công ơn của cao hiền đã tận tình giúp đỡ, chẳng biết lấy chi báo đáp, nên
hôm nay sai bỉ nhân tới đây để đề nghị với cao hiền một chuyện!" Ðộ Tân
vội hỏi: "Lệnh tôn muốn sai bảo tiểu sinh chuyện chi?" Công tử đáp:
"Gia nghiêm muốn đem gia muội gả cho cao hiền làm chính thất song lại sợ
cao hiền e ngại việc phối ngẫu giữa người trần thế với người u minh nên phải
sai bỉ nhân tới đây dò ý cao hiền trước!" Ðộ Tân sung sướng quá, lặng
người đi hồi lâu, chẳng nói được lời nào. Lát sau Ðộ Tân mới lên tiếng:
"Nếu quả vậy thì dù tiểu sinh có phải chết ngay bây giờ tiểu sinh cũng đã
mãn nguyện lắm rồi!" Công tử cười, nói: "Nếu vậy thì đêm mai, mồng
chín tháng bảy, đúng lúc trăng mọc, là ngày lành giờ tốt, xin cao hiền chuẩn bị
sẵn sàng cho!" Ðộ Tân hỏi: "Tại sao lệnh tôn lại chọn ngày giờ
đó?" Ðáp: "Vì đó là ngày giờ mà xưa kia một điệt nữ của Thượng Ðế đã
xuống trần gian, kết nghĩa phu thê với người trần thế!" Ðáp xong, công tử
kêu đầu bếp sửa soạn yên cương, rồi xin cáo biệt.
Tối sau, Ðộ Tân sửa soạn đủ mọi nghi thức hôn lễ.
Ðúng vào lúc trăng mọc, quả nhiên có một đoàn xe hộ tống nữ lang tới. Ðộ Tân
bèn cùng nữ lang làm lễ giao bái, thành thân.
Về nhà chồng, nữ lang hành xử chẳng khác chi một
nàng dâu trần thế. Nữ lang rất hiền thục, ai thấy cũng phải kính yêu. Ba ngày
sau, nữ lang ban thưởng tiền bạc cho tất cả mọi gia nhân lớn nhỏ trong nhà, ai
cũng có phần. Hôm sau nữa, nữ lang theo chồng tới chào người anh và chị dâu
chồng, biếu toàn những phẩm vật quý giá. Vì mẹ chồng đã mất, nữ lang đối xử với
chị dâu chồng, kính cẩn lễ độ như đối xử với mẹ chồng vậy. Tuy chung sống với
Ðộ Tân song tuyệt nhiên nữ lang chẳng sanh nở.
Ba năm sau. Một hôm nữ lang khuyên Ðộ Tân nên lấy
vợ lẽ để có con nối dõi tông đường. Ðộ Tân cương quyết từ chối. Nữ lang cũng
đành thôi. Ba năm sau nữa, một hôm nữ lang lại khuyên Ðộ Tân nên lấy vợ lẽ. Ðộ
Tân lại từ chối. Nữ lang tỏ vẻ buồn. Thấy thế, Ðộ Tân đành thuận lấy vợ lẽ để
chiều lòng vợ cả. Nữ lang mừng lắm, bèn nhờ người anh và chị dâu chồng để ý tìm
kiếm vợ lẽ cho chồng.
Năm sau, Ðại Thành đi buôn ở Giang Hoài. Thấy một
người rao bán một tiểu cơ, họ Cố, tên Bác Sĩ, tướng mạo đẹp đẽ, tính tình hiền
thục, Ðại Thành liền bỏ tiền ra mua, đem về cho em làm vợ lẽ. Nữ lang mừng lắm.
Ðộ Tân cũng hòa hợp với Cố thị.
Năm sau nữa, vào dịp Tết nguyên đán, Ðộ Tân tới
phòng Cố thị ngồi nói chuyện. Cố thị đem hộp nữ trang ra ngồi trước gương, chọn
vật cài tóc. Thấy Cố thị chọn một đóa hoa ngọc, giống hệt đóa hoa mà nữ lang đã
tặng mình ngày trước, Ðộ Tân lấy làm lạ, bèn bảo Cố thị đưa cho mình coi. Thấy
đúng là vật cũ của nữ lang, Ðộ Tân vô cùng kinh ngạc, hỏi:"Nàng lấy đóa
hoa này ở đâu ra?" Cố thị đáp:"Nguyên đóa hoa này là của ái thiếp Bối
cơ của quan tuần vũ Mễ công. Cách đây hơn ba năm, khi Bối cơ mất, tì nữ thân
tín đánh cắp đóa hoa này đem ra chợ bán. Gia nghiêm thấy giá rẻ thì mua đem về.
Thiếp thấy đẹp thì thích, cứ đòi coi suốt ngày. Gia nghiêm thấy thế bèn cho hẳn
thiếp vì gia nghiêm chỉ có một mình thiếp là con. Ít lâu sau, khi gia nghiêm
mất, di mẫu thiếp đem thiếp về nuôi. Thấy đóa hoa quý, di mẫu thiếp thích lắm,
muốn bán đi để lấy tiền tiêu. Thiếp uất ức nhảy xuống giếng tự tử song chẳng
chết. Lúc đó di mẫu thiếp mới chịu trả lại đóa hoa cho thiếp nên đóa hoa mới
còn tới ngày nay!" Ðộ Tân bèn đem đóa hoa về phòng nữ lang, thuật lại câu
chuyện. Nghe xong, nữ lang nói:"Vật cũ lưu lạc đã mười năm, nay lại hoàn
cố chủ, âu cũng là số mệnh!" Nói xong, nữ lang mở hộp nữ trang, lấy ra một
đóa hoa ngọc giống hệt như thế, nói:"Mỗi đóa hoa này đã phải xa vật phối
ngẫu của nó lâu ngày, nay mới được đoàn tụ!" Rồi nữ lang cho gọi Cố thị
lên phòng, tặng luôn cả đóa hoa của mình cho Cố thị, tự tay cài cả hai đóa lên
mái tóc cho Cố thị. Cố thị cảm tạ nữ lang mà lui. Cố thị xuống nhà, thì thầm hỏi
thăm gia nhân về lai lịch của nữ lang song ai cũng lắc đầu, chẳng ai dám nói
điều chi.
Tối ấy, Cố thị mời Ðộ Tân ra chỗ vắng người, nói:
"Thiếp thấy nương tử nhà ta là người thần chứ chẳng phải là người phàm
trần!" Ðộ Tân hỏi:"Sao nàng biết?" Cố thị đáp:"Vì thiếp
thấy vẻ mặt của nương tử có thần khí! Lúc nương tử cài hai đóa hoa lên mái tóc
cho thiếp, thiếp được đứng gần nương tử, thấy vẻ đẹp của nương tử toát ra cả
làn da. Người phàm trần làm sao có được vẻ đẹp ấy?" Ðộ Tân chẳng nói chi,
chỉ mỉm cười. Cố thị lại nói:"Thiếp có cách thử xem nương tử có phải là
người thần hay không?" Ðộ Tân hỏi:"Cách nào?" Cố thị đáp:
"Thiếp nói với lang quân song xin lang quân chớ thuật lại với nương
tử!" Ðộ Tân gật đầu. Cố thị nói:"Nương tử có tài thêu bít tất thực
khéo. Thiếp thích những đôi bít tất ấy lắm, song chẳng dám xin. Ðể khuya nay,
thiếp thắp hương trong phòng riêng, cầu khấn nương tử cho thiếp một đôi. Nếu
nương tử là người thần thì thế nào nương tử cũng biết việc thiếp thắp hương cầu
khấn, xin bít tất!" Ðộ Tân lại cười, rồi về phòng nữ lang mà nghỉ.
Sáng sau, khi ngủ dậy, đột nhiên Ðộ Tân thấy nữ
lang gọi tì nữ vào phòng, đưa cho một đôi bít tất mới thêu, nói:"Hãy đem
tới phòng Cố thị, nói rằng của ta cho!" Tì nữ vừa cầm đôi bít tất ra khỏi
phòng thì Ðộ Tân phá lên cười. Nữ lang hỏi:"Tại sao lại cười?" Ðộ Tân
bèn thuật chuyện Cố thị nói với mình. Nghe xong, nữ lang cũng cười,
nói:"Con nhỏ này thông minh lắm!" Từ đó, nữ lang lại càng thương mến
Cố thị hơn. Tuy được nữ lang thương mến song lúc nào Cố thị cũng giữ mực cung
kính. Sáng nào, Cố thị cũng tự tay nấu nước thơm bưng lên phòng để nữ lang gội
đầu.
Năm sau, Cố thị sanh đôi, được hai trai. Nữ lang
chăm sóc hai hài nhi, coi như hai đứa con do chính mình sanh ra vậy. Ba vợ
chồng chung sống trong cảnh tương đắc, đầm ấm, dưới cùng một mái nhà.
Năm mươi năm sau.
Vào dịp sinh nhật của Ðộ Tân, nữ lang ra lệnh cho
gia nhân sửa soạn lễ thượng thọ tám mươi cho Ðộ Tân. Trong buổi lễ, ai cũng
phải lấy làm lạ rằng nữ lang trông vẫn còn trẻ như một thiếu nữ chưa xuất giá.
Cuối năm ấy, Ðộ Tân lâm trọng bệnh. Nữ lang cho gọi
thợ mộc tới nhà đóng một cỗ quan tài rộng gấp đôi cỗ quan tài bình thường.
Mấy hôm sau, Ðộ Tân mất. Nữ lang chẳng hề than khóc
một tiếng, chỉ ra lệnh cho gia nhân làm lễ tẩm liệm. Rồi nữ lang cho gọi đông đủ
con cháu và gia nhân lên phòng quàn làm lễ phát tang. Lễ xong, nữ lang ra lệnh
cho tất cả mọi người dời khỏi phòng. Rồi nữ lang bước vào linh cữu, nằm xuống
cạnh Ðộ Tân, nhắm mắt mà mất.
Lát sau, con cháu lén lên phòng quàn coi. Thấy nữ
lang nằm cạnh Ðộ Tân mà mất, con cháu cùng kinh ngạc. Thế rồi toàn gia bèn làm
lễ phát tang chung cho cả Ðộ Tân và nữ lang, mai táng hai người trong cùng một
linh cữu.
Tới nay, dân chúng trong vùng vẫn gọi ngôi mộ chung
của Ðộ Tân và nữ lang là Ðại Tài Trủng, nghĩa là ngôi mộ có quan tài lớn.
VỢ CHỒNG TIÊN
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Huyệt viên tằng thám tú phòng xuân
Tạc thạch trùng liên động phủ nhân
Ðạo sĩ tặng sàm như hữu ý
Ðộ tha hiếu tử tác tiên nhân
Huyện Tấn Dương, tỉnh Sơn Tây, có quan bình sự họ
Vũ, rất mộ đạo Lão, trong nhà có rất nhiều sách Lão Trang. Ông bà bình sự có
một gái, tên Thanh Nga, rất mực kiều diễm, thường lén đọc sách của cha và rất
hâm mộ Hà Tiên Cô. Năm Thanh Nga 14 tuổi, Vũ ông bỏ nhà sang ở huyện Thuận
Thiên tỉnh Hà Bắc, rồi vào núi Thuận Sơn tu tiên. Thanh Nga ở lại Tấn Dương với
mẹ, cũng bắt chước cha, lập chí tu tiên. Vì thế, Thanh Nga quyết chẳng lấy
chồng. Có đám nào tới hỏi, Thanh Nga cũng từ chối. Vũ bà chiều ý con, chẳng ép
duyên.
Ở Tấn Dương lại có quan huyện úy họ Hoắc, quán tại
huyện Sơn Hữu. Ông bà huyện úy có một trai, tên Hoàn, tên chữ Khuông Cửu, kém
Thanh Nga một tuổi. Năm Khuông Cửu lên 5, Hoắc ông qua đời, để lại cho Hoắc bà
một ngôi nhà ở Tấn Dương và một dinh cơ ở Sơn Hữu. Khuông Cửu học giỏi, nổi
tiếng thần đồng, năm 11 tuổi đã đậu thủ khoa khóa thi nhập học trường huyện. Vì
thương yêu con quá, Hoắc bà chỉ cho con tới trường rồi lại bắt về nhà chứ chẳng
cho đi đâu. Vì thế, năm 13 tuổi, Khuông Cửu vẫn chưa biết mặt chú cô cậu dì nội
ngoại. Khuông Cửu rất có hiếu với mẹ, song cũng rất hiếu sắc. Tuy còn ít tuổi,
song hễ thấy gái đẹp là đã si mê.
Một hôm đi học về, gặp Thanh Nga ở dọc đường,
Khuông Cửu bỗng cảm thấy lòng xao xuyến. Dò hỏi mọi người, biết Thanh Nga là
con Vũ bà, Khuông Cửu bèn nói với mẹ:"Mẹ nhờ bà mối tới nhà Vũ bà hỏi
Thanh Nga cho con đi!" Hoắc bà đáp:"Mẹ nghe nói Thanh Nga đã lập chí
tu tiên, quyết chẳng lấy chồng, hỏi làm chi cho phí công vô ích!" Bị phật
ý, Khuông Cửu hậm hực, cứ buồn rầu mãi. Thấy con buồn, Hoắc bà bèn nhờ bà mối
tới hỏi Thanh Nga cho con. Quả nhiên Thanh Nga từ chối. Khuông Cửu cố nghĩ ra
phương kế để gặp Thanh Nga, song nghĩ mãi mà vẫn chưa ra phương kế gì.
Một hôm, Khuông Cửu ra cổng đứng chơi. Thấy một đạo
sĩ đi qua, tay cầm chiếc dầm nhỏ, chỉ dài chừng gang tay, Khuông Cửu lấy làm
lạ, bèn chạy tới mượn để coi, rồi hỏi:"Dầm này dùng để làm chi?" Ðạo
sĩ cười, đáp: "Ðể khoét đá cứng" Hỏi:"Nhỏ thế này thì làm sao mà
khoét?" Cười, đáp:"Tuy nhỏ song cứng và sắc lắm!" Khuông Cửu lắc
đầu, tỏ vẻ chẳng tin. Ðạo sĩ bèn lấy lại dầm, khoét vào tảng đá ở ngoài cổng.
Thấy tảng đá bị lõm vào một lỗ, Khuông Cửu kinh ngạc, lại mượn dầm để ngắm
nghía. Ðạo sĩ cười, nói:"Thích thì cho đó!" Khuông Cửu mừng quá,
đáp:"Xin chờ một lát!" rồi cầm dầm chạy vào nhà, lấy một mớ tiền, đem
ra trả đạo sĩ. Ðạo sĩ lắc đầu cười, nói:"Cho chứ đâu có bán!" rồi
lững thững bỏ đi. Khuông Cửu bèn đem dầm vào nhà, khoét vào góc tường ở cuối
sân thì thấy góc tường cũng bị thủng. Khuông Cửu mừng lắm, định bụng sẽ đem dầm
tới nhà Vũ bà, khoét tường để vào gặp Thanh Nga, chẳng biết rằng làm như thế là
phạm pháp.
Ðêm ấy, Khuông Cửu giắt dầm vào thắt lưng, lén mẹ
trèo tường ra khỏi nhà. Tới nhà Vũ bà, thấy một vòng tường vây kín, Khuông Cửu
bèn rút dầm, khoét một lỗ hổng dưới chân tường rồi chui vào. Thấy một vòng
tường nữa, Khuông Cửu lại khoét rồi lại chui vào. Thấy ở bên trong có một sân
rộng và ở cuối sân có một căn phòng còn đèn sáng, Khuông Cửu bèn chạy tới, áp
mắt vào lỗ khóa mà dòm. Thấy Thanh Nga đang cởi bỏ nữ trang rồi tắt đèn đi
nghỉ, Khuông Cửu chưa dám có hành động gì, chỉ nép mình ở ngoài hành lang để
nghe ngóng.
Lát sau, thấy cảnh vật đã im, Khuông Cửu mới rút
dầm khoét tường rồi chui vào. Dón dén bước tới cạnh giường, thấy Thanh Nga đang
thở đều đều, Khuông Cửu khẽ cởi giầy, leo lên giường, nằm nép cạnh chiếc chăn
gấm, nhắm mắt hưởng hương thơm. Mệt mỏi từ tối, nay thấy thoải mái, Khuông Cửu
ngủ thiếp đi.
Lát sau, Thanh Nga thức giấc. Thấy ánh trăng tỏa
sáng đầy phòng, Thanh Nga lấy làm lạ, bèn đảo mắt nhìn quanh. Thấy trên tường
có một lỗ hổng mới khoét, Thanh Nga kinh hãi quá, vội dón dén ngồi dậy, tới
giường tì nữ, lấy tay bịt miệng, nói thầm vào tai:"Khẽ chứ, hãy ra khỏi
phòng này ngay!" Hai người cùng dón dén, mở cửa lẻn ra sân, chạy tới phòng
bà vú, gõ cửa gọi bà dậy, thuật lại chuyện cho nghe. Bà vú vội thắp đèn, lấy
cho mỗi người một cây gậy, bảo theo mình trở lại phòng Thanh Nga. Tới giường,
bà vú soi đèn. Thấy một chú bé, mặt mũi non choẹt, tóc kết trái đào, đang nằm
ngủ say, bà bèn lay dậy. Chú bé nhỏm dậy, mắt sáng như sao, chẳng sợ hãi chi.
Tì nữ nhận ra chú bé là Khuông Cửu, con trai Hoắc bà, thì thấy yên tâm, bèn vờ
doạ nạt:"Chắc chú bé này là đạo tặc. Mình hãy bắt trói, đem lên nạp
quan" Nghe thấy thế, Khuông Cửu bật khóc, nói:"Chỉ vì thương yêu
nương tử đây nên muốn được gần gũi chứ đâu có phải là đạo tặc!" Tì nữ hỏi:"Làm
thế nào mà khoét được ba lần tường?" Khuông Cửu liền rút chiếc dầm ở lưng
ra, nói:"Dầm này sắc lắm, khoét tường rất dễ!" Tì nữ liền giằng lấy,
đem khoét thử vào tảng đá ở đầu hè, thì thấy đúng như lời. Tì nữ kinh hãi, nghĩ
chắc chiếc dầm là thần vật của thần ban cho Khuông Cửu. Tì nữ vào phòng, ướm
hỏi tiểu chủ: "Tiểu thư ơi! Bây giờ tiện tì đem chiếc dầm này lên trình
phu nhân nhé?" Thanh Nga cúi đầu suy nghĩ. Hiểu ý tiểu chủ, tì nữ
nói:"Chú bé này nổi tiếng thần đồng, tiểu thư có kết duyên cũng chẳng nhục
nhã chi! Bây giờ ta hãy thả cho chú ấy về, bảo nói với mẹ nhờ bà mối tới hỏi
lần nữa. Rồi sáng mai tiện tì sẽ trình dối với phu nhân rằng đêm qua nhà mình
bị trộm tới khoét tường. Tiểu thư nghĩ sao?" Thanh Nga vẫn lặng im chẳng
đáp. Hiểu ý tiểu chủ, tì nữ bèn giục Khuông Cửu:"Thôi, về đi!" Khuông
Cửu nói:"Trả lại chiếc dầm đã!" Tì nữ cười, nói:"Ðâu có được!
Ngốc nghếch mà cũng biết đòi lại cái vật tội lỗi ấy ư?" Khuông Cửu liền
đảo mắt nhìn quanh, cố tìm một vật gì để lấy bù lại chiếc dầm. Chợt thấy một
cành thoa vàng nằm bên gối, Khuông Cửu liền lấy cho vào túi áo. Tì nữ nhìn
thấy, mách:"Tiểu thư ơi! Chú ấy lấy trộm cành thoa của tiểu thư kìa!"
Thanh Nga chẳng nói mà cũng chẳng tỏ vẻ tức giận. Tì nữ cười, nói:"Hãy còn
ngốc lắm!" Thấy tì nữ cứ chê chú bé là ngốc, bà vú bèn lên tiếng:"Úi
chao! Chẳng ngốc đâu! Khôn lắm đó!" Rồi tới nắm lấy cánh tay Khuông Cửu
kéo ra sân, lôi tới lỗ hổng ở chân tường, bảo: "Lúc nãy vào bằng lối nào
thì bây giờ phải ra bằng lối ấy!" Khuông Cửu bèn chui qua lỗ hổng mà về. Tới
nhà, Khuông Cửu trèo tường vào phòng ngủ.
Sáng sau, Khuông Cửu chẳng dám thuật lại việc lén
tới nhà Vũ bà cho mẹ nghe mà chỉ giục:"Mẹ hãy nhờ bà mối tới hỏi Thanh Nga
cho con lần nữa đi!" Thấy con si tình, Hoắc bà gật đầu, rồi tới nhà bà
mối, nói:"Con tôi nó muốn nhờ bà tới hỏi Thanh Nga cho nó lần nữa! Tôi
biết Thanh Nga đã quyết chí tu tiên, chẳng muốn lấy chồng thì có tới hỏi cũng
vô ích! Thế nhưng vì tôi chẳng nỡ chối từ con nên phải giả vờ tới đây để nhờ
bà. Vậy xin bà làm ơn để ý giùm xem có đám nào đăng đối thì làm mai cho nó một
đám!" Bà mối gật đầu, nói:"Xin vâng!"
Hoắc bà về rồi, bà mối liền sang nhà hàng xóm nói
chuyện mình sắp làm mai một đám khác cho Khuông Cửu. Chuyện đồn tới tai Thanh
Nga. Thanh Nga bèn sai tì nữ tâm phúc tới thưa với Hoắc bà:"Tiểu thư nhà
tiện tì đã đổi ý, bằng lòng kết duyên với lệnh công tử, sai tiện tì tới đây
trình phu nhân!" Hoắc bà mừng lắm, lại tới nhà bà mối, nói:"Thanh Nga
vừa cho tì nữ tới nói với tôi là cô ấy đã đổi ý, bằng lòng kết duyên với con
tôi. Vậy nhờ bà cứ tới làm mai giùm cho nó lần nữa!" Bà mối lại gật đầu,
nói:"Xin vâng!"
Ở nhà Vũ bà, tì nữ của Thanh Nga bép xép chuyện
Khuông Cửu khoét tường cho lũ gia nhân nghe. Có kẻ đem chuyện ấy mách Vũ bà.
Nghe chuyện, Vũ bà giận lắm, cho là Khuông Cửu đã làm nhục gia đình mình.
Hôm ấy, bà mối lại tới nhà Vũ bà, nói:"Hoắc bà
nhờ tôi tới đây để xin hỏi lệnh tiểu thư cho Hoắc công tử lần nữa!" Nghe
thấy thế, Vũ bà nổi giận, cầm một cây gậy chạy ra giữa sân, chỉ trời vạch đất
mà thề:"Tôi thề là chẳng bao giờ gả con gái cho cái thằng mất dạy Khuông
Cửu ấy! Ðào tường khoét vách, leo lên giường con gái nhà người ta mà nằm, đúng
là đồ đạo tặc dâm bôn! Làm mẹ mà chẳng biết dạy con, đúng là mẹ thằng mất
dạy!"
Bà mối kinh hãi, chạy về thuật lại cho Hoắc bà
nghe. Nghe xong, Hoắc bà cũng nổi giận, nói:"Sao bà ấy lại được ăn nói hỗn
hào với tôi như thế! Chuyện thằng con tôi nó làm, tôi đâu có biết mà ngăn? Sao
bà ấy chẳng biết dạy gia nhân rằng nếu gặp chúng nó ăn nằm với nhau như thế thì
cứ việc bắt cả hai đứa, đem ra mà giết?" Rồi Hoắc bà đi rêu rao khắp chốn.
Thanh Nga nghe chuyện, xấu hổ vô cùng, ý muốn tự tử. Vũ bà nghe chuyện, cũng
đâm hối hận, sai tì nữ canh chừng con rất sát. Thanh Nga bèn viết một lá thư
gửi Hoắc bà, lời lẽ rất bi thiết, thề chẳng lấy ai ngoài Khuông Cửu, rồi sai tì
nữ đưa sang. Hoắc bà mở thư ra đọc thì cũng cảm động, nên thôi không đi rêu rao
nữa. Tuy nhiên, Hoắc bà vẫn nhất định không chịu hỏi Thanh Nga cho con.
Năm sau, triều đình bổ nhậm tiến sĩ họ Âu, người
tỉnh Thiểm Tây, tới làm quan tể huyện Tấn Dương. Âu công vốn ưa thích văn
chương, thường hay đọc văn bài của các nho sinh trong huyện. Khi đọc tới văn
bài của Khuông Cửu, Âu công thích lắm, sai lính đi gọi Khuông Cửu vào tư dinh
đàm luận.
Tháng sau. Một hôm Khuông Cửu đang ngồi đàm luận
với Âu công thì bỗng Âu công hỏi:"Ðã hỏi vợ chưa?" Khuông Cửu
đáp:"Thưa chưa!" Hỏi:"Mười bốn tuổi rồi, sao chưa hỏi vợ?"
Ðáp:"Thực ra, năm ngoái gia mẫu có hỏi con gái quan bình sự họ Vũ trong
huyện cho tiểu sinh. Nhưng rồi gia mẫu có chuyện xích mích với Vũ bà nên bỏ
luôn việc cầu hôn!" Hỏi:"Thế bây giờ có còn muốn cầu hôn đám đó nữa
hay không?" Khuông Cửu đỏ mặt bẽn lẽn. Âu công bèn cười, nói:"Thôi!
Ðể ta tác thành cho!"
Hôm sau, Âu công sai quan huyện úy cùng quan giáo
dụ đem sính lễ tới nhà Vũ bà, xin hỏi cưới Thanh Nga cho Khuông Cửu. Thấy gia
đình mình được Âu công chiếu cố, Vũ bà lấy làm vinh dự, bèn nhận lời ngay. Còn
Hoắc bà thì vì nể uy thế của Âu công nên cũng phải vâng lời. Hai bên bèn thỏa
thuận gặp nhau để bàn tính chuyện hôn nhân.
Tháng tám năm sau, Hoắc bà đón dâu về cho con. Chú
rể 15, cô dâu 16. Tối hôm động phòng hoa chúc, Thanh Nga cầm chiếc dầm ném
xuống đất, nói:"Hãy quẳng cái vật đào tường khoét vách này đi!"
Khuông Cửu cúi xuống nhặt chiếc dầm, giắt vào thắt lưng, rồi cười, nói:"Ta
chẳng thể nào quên được bà mối này!" Từ đó, Khuông Cửu đi đâu cũng giắt
theo chiếc dầm ở thắt lưng.
Thanh Nga hiền hậu, ít nói, thờ mẹ chồng rất phải
đạo, ngày nào cũng tới thăm hỏi ba lần. Thế nhưng, ngoài việc thăm hỏi ra,
Thanh Nga chỉ ngồi trong thư phòng đọc sách, chứ chẳng hề phụ giúp mẹ chồng cai
quản gia vụ. Chỉ khi nào Hoắc bà bận việc giao tế, phải đi dự đám tang, đám
cưới, Thanh Nga mới chịu đứng ra trông nom. Thế nhưng, khi đã trông nom thì đâu
vào đấy, thứ tự, ngăn nắp, khiến gia nhân đều phải kính phục.
Hai năm sau, Thanh Nga sanh trai, đặt tên là Mạnh
Tiên. Thanh Nga chẳng hề chăm sóc cho con mà giao cho bà vú chăm sóc thay mình.
Tám năm sau. Một hôm Thanh Nga nói với chồng:
"Cái duyên hoan ái của chúng mình đã hết. Nay đã tới lúc phải ly
biệt!" Khuông Cửu kinh hãi quá, hỏi: "Sao lại phải ly biệt?"
Thanh Nga chỉ im lặng, chẳng đáp. Sáng sau, Thanh Nga ngủ dậy sớm, tắm rửa,
trang điểm, lên lạy mẹ chồng ba lạy rồi vào phòng riêng. Khuông Cửu thấy lạ,
bèn theo vào thì thấy Thanh Nga lên giường nằm, ngửa mặt nhìn trần nhà. Khuông
Cửu hỏi:"Làm chi kỳ thế?" Thanh Nga chẳng đáp. Lát sau, Thanh Nga tắt
thở. Khuông Cửu và Hoắc bà cùng khóc lóc thảm thiết. Thế rồi hai mẹ con làm
tang lễ rất trọng thể cho Thanh Nga.
Từ đó, ngày nào Hoắc bà cũng bế cháu nội, khóc con
dâu. Buồn rầu rồi thành bệnh, Hoắc bà nằm liệt giường. Khuông Cửu bèn rước
lương y về trị bệnh cho mẹ. Hoắc bà đỡ dần song vẫn biếng ăn.
Một hôm, Khuông Cửu vào thăm mẹ, hỏi:"Sao mẹ
chẳng chịu ăn uống chi cả? Mẹ có thèm ăn món gì đặc biệt không?" Hoắc bà
đáp: "Mẹ chỉ thèm ăn canh cá rô thôi!" Ở Tấn Dương, muốn mua cá rô
ngon, phải sang Thuận Thiên, xa trên trăm dặm. Gia nhân đều bận việc phải đi
xa, Khuông Cửu chẳng chịu chờ chúng về, tự mình sang Thuận Thiên mua cá. Sáng
sau, mua được cá ngon, Khuông Cửu ra về. Dọc đường, tới Thuận Sơn, Khuông Cửu
thấm mệt, hai chân sưng nhức, cất bước nặng nề. Bỗng có một ông lão, vai đeo
bọc, từ phía sau vượt lên, quay đầu hỏi:"Sưng chân đấy ư?" Khuông Cửu
đáp: "Thưa vâng!" Ông lão bèn tới kéo Khuông Cửu ngồi xuống vệ đường,
mở bọc lấy đá quẹt lửa, đốt thuốc xông cho, rồi nói:"Thử đứng dậy, bước đi
coi!" Khuông Cửu làm theo lời thì bỗng thấy chân mình chẳng những đã hết
sưng nhức mà còn cứng mạnh hơn trước. Vừa kinh ngạc, vừa cảm động, Khuông Cửu
bèn vái tạ ông lão rồi xin cáo biệt. Ông lão hỏi: "Ði đâu mà vội
thế?" Khuông Cửu đáp: "Gia mẫu bị bệnh, chẳng thèm ăn chi ngoài canh
cá rô. Ở Tấn Dương không có cá rô ngon nên tiểu sinh phải sang Thuận Thiên tìm
mua! Bây giờ đã mua được nên phải vội đem về!" Hỏi: "Có vợ
chưa?" Ðáp: "Tiểu sinh góa vợ" Hỏi: "Sao chưa lấy vợ
kế?" Ðáp: "Vì chưa kiếm được người vừa ý!" Ông lão liền giơ tay
chỉ về phía sơn thôn ẩn hiện đằng xa, nói: "Ở sơn thôn đằng kia có một
thiếu nữ đẹp lắm. Nếu chịu khó theo lão phu tới đó, lão phu sẽ làm mai
cho!" Khuông Cửu từ chối, đáp: "Tiểu sinh chẳng thể đi theo lão
trượng được vì gia mẫu đang chờ ở nhà!" Ông lão nói: "Thế thì thôi!
Tuy nhiên, nếu mai mốt muốn nhờ lão phu làm mai cho thì cứ việc tới đó, hỏi
thăm thôn dân xem nhà lão Vương ở đâu là họ sẽ chỉ cho!" Khuông Cửu đáp:
"Xin vâng!" rồi xin cáo biệt.
Tới nhà, Khuông Cửu tự tay nấu canh cá rô dâng mẹ.
Hoắc bà ăn xong, khen ngon rối rít. Tuần sau, Hoắc bà khỏi bệnh. Khuông Cửu bèn
thuật lại chuyện mình gặp Vương lão ở Thuận Sơn cho mẹ nghe, rồi nói
:"Sang năm, hết tang vợ, con sẽ xin phép mẹ được trở lại Thuận Sơn tìm
Vương lão!" Hoắc bà đáp: "Việc ấy tùy con!"
Năm sau. Vào ngày rằm tháng tám, Khuông Cửu sai một
gia nhân cưỡi ngựa theo mình đi Thuận Sơn. Tới nơi, hai thày trò cho ngựa chạy
vòng quanh chân núi để tìm sơn thôn, song từ sáng tới trưa chỉ thấy toàn động
núi. Khuông Cửu bèn bảo gia nhân: "Ta với ngươi, mỗi người đi một ngả để
tìm cho nhanh. Hẹn đầu giờ dậu, gặp nhau ở chỗ này!" Gia nhân đáp:
"Xin vâng!" rồi quất ngựa phóng đi. Gia nhân đi tìm từ trưa tới tối
cũng chẳng thấy sơn thôn nào, bèn trở lại chỗ hẹn để gặp tiểu chủ. Chờ tới
khuya cũng chẳng thấy tiểu chủ đâu, gia nhân kinh hãi quá, đành phóng ngựa ra
về.
Tới nhà, gia nhân vội trình việc Khuông Cửu mất
tích lên Hoắc bà. Nghe tin, Hoắc bà lo sợ, bật khóc thất thanh. Sáng sau, Hoắc
bà sai một toán mười gia nhân cưỡi ngựa đi Thuận Sơn tìm Khuông Cửu. Toán gia
nhân sục sạo tìm kiếm suốt hai ngày song cũng chẳng thấy chi, đành quay về
trình báo. Hoắc bà càng lo sợ, khóc lóc suốt ngày đêm.
Từ lúc chia tay với gia nhân, Khuông Cửu cưỡi ngựa
leo núi. Vì đường dốc, ngựa khó đi, Khuông Cửu bèn thả cho ngựa tìm cỏ ăn, rồi
leo núi một mình. Lên tới đỉnh núi, đưa mắt nhìn quanh, chẳng thấy sơn thôn
nào, Khuông Cửu bèn quay xuống núi tìm ngựa để trở lại chỗ hẹn. Xuống đến lưng
chừng núi thì trời vừa tối. Thấy phong cảnh khác lạ, Khuông Cửu biết là mình bị
lạc. Ðột nhiên, Khuông Cửu thấy mình bước tới một bờ vực thẳm. Bàng hoàng hốt
hoảng, Khuông Cửu trượt chân, rồi té xuống vực. Ðang thầm nghĩ chắc mình sắp chết
thì thấy thân mình rơi trúng một giải đất từ sườn núi nhô ra. Nhờ ánh trăng,
nhìn xuống dưới, thấy đen ngòm, Khuông Cửu kinh hãi quá, cứ nằm im, chẳng nhúc
nhích. Chợt thấy một hàng cây nhỏ mọc quanh giải đất như một lan can, Khuông
Cửu mới đỡ lo. Lát sau hoàn hồn, quay nhìn sau lưng, thấy một cửa động, có một
tảng đá chắn ngang, Khuông Cửu mừng quá, vội lấy lưng ẩy tảng đá sang một bên
rồi nằm ngửa mà lết lùi vào động. Nằm trong động, Khuông Cửu thấy vững dạ hơn,
mong rằng sáng sau sẽ có người qua lại để cho mình tri hô cầu cứu. Ngoài động
tuy có ánh trăng song trong động vẫn tối đen như mực. Lát sau, thấy ở phía sâu
trong động có một đốm sáng lấp lánh, Khuông Cửu vội đứng dậy, nhắm đốm sáng
tiến vào. Ði mãi mà thấy đốm sáng vẫn còn xa, Khuông Cửu bắt đầu nản chí. Vừa
toan quay trở lại thì chợt thấy ở bên đường có một khuôn viên với bốn dãy nhà
đông tây nam bắc. Khuông Cửu bèn đánh bạo, mở cổng bước vào. Tuy thấy trong sân
chẳng có đèn đuốc chi song Khuông Cửu thấy mắt mình vẫn nhìn rõ được mọi vật.
Còn đang bỡ ngỡ, bỗng Khuông Cửu thấy một giai nhân từ dãy nhà phía đông bước
ra. Giương mắt nhìn, Khuông Cửu thấy chính là vợ mình. Kinh ngạc quá, Khuông
Cửu chẳng thốt được lời nào. Thanh Nga cũng kinh ngạc chẳng kém, hỏi: "Làm
thế nào mà tới được chốn này?" Khuông Cửu đáp: "Chuyện dài lắm, chẳng
thể kể vắn tắt được!" rồi chạy tới nắm chặt lấy cánh tay vợ mà sụt sùi.
Thanh Nga nói: "Ðừng có sụt sùi nữa! Hãy nín đi mà trả lời! Mẹ có khỏe
không?" Ðáp: "Khỏe" Hỏi:" Con có khỏe không?" Ðáp:
"Khỏe!" Rồi nói tiếp: "Nàng chết đi, ta khổ lắm, mẹ khổ lắm, con
khổ lắm!" Thanh Nga thở dài, tỏ vẻ buồn bã. Khuông Cửu hỏi:"Nàng chết
đã được hơn một năm nay rồi thì nơi đây có phải là âm phủ không?" Ðáp:
"Không!" Hỏi: "Sao vậy?" Ðáp: "Vì thiếp đâu có
chết!" Hỏi: "Thế xác chôn trong quan tài là xác của ai?" Ðáp:
"Làm gì có xác nào chôn trong quan tài?" Hỏi: "Thế vật chôn
trong quan tài là vật gì?" Ðáp:"Là một cây gậy trúc!" Hỏi:
"Thế chốn này là chốn nào?" Ðáp:"Là tiên phủ! Chàng đã tới được
chốn này tức là đã có duyên với tiên cảnh!" Hỏi: "Bây giờ ta phải làm
chi?" Ðáp: "Chẳng phải làm chi cả, chỉ cần lên sảnh đường ra mắt cha
thôi!" Khuông Cửu gật đầu.
Thanh Nga bèn dắt chồng lên dãy nhà hướng bắc. Vào
sảnh đường, Khuông Cửu thấy một ông lão quắc thước, râu dài tới rốn, đang ngồi
trên bục cao, có một tì nữ khoanh tay đứng hầu. Thấy con dắt khách lạ vào sảnh
đường, ông lão tỏ vẻ kinh ngạc. Thanh Nga lên tiếng giới thiệu: "Thưa cha,
đây là Hoắc lang, chồng con!" Khuông Cửu bèn quỳ xuống đất, lạy ông lão
hai lạy. Ông lão đứng dậy, bước xuống khỏi bục, cầm tay Khuông Cửu kéo dậy, nói
:"Ðã tới được chốn này thì nên ở lại, đừng về nữa!" Khuông Cửu từ
chối, đáp: "Con chẳng thể ở lại đây được vì mẹ con đang mong con về!"
Ông lão cười, nói: "Ðúng là chưa dứt được tục lụy trần thế! Muốn về thì cứ
việc về, nhưng hãy ở lại đây chơi vài ba ngày đã!" Rồi ông lão quay qua tì
nữ, nói: "Hãy đi lấy rượu và thức ăn đem tới dãy nhà hướng tây cho khách
rồi dọn cho khách một phòng riêng!" Tì nữ cúi đầu đáp: "Xin tuân
lệnh!"
Hai vợ chồng cùng ra khỏi sảnh đường. Tì nữ dẫn
Khuông Cửu đi về hướng tây còn Thanh Nga thì đi về hướng đông. Chợt Khuông Cửu
vụt chạy ngược lại, níu lấy tay vợ, kéo đi theo mình. Thanh Nga vùng vằng chống
cự. Tì nữ bưng miệng cười khúc khích. Ðột nhiên ông lão từ trong sảnh đường, chống
gậy bước ra sân, quát:"Tục cốt làm bẩn tiên phủ, hãy cút đi ngay!" Bị
bắt quả tang đang níu kéo vợ, Khuông Cửu thẹn quá hóa giận, nói: "Làm
người, ai mà tránh khỏi chuyện nam nữ? Tại sao người trên lại đi rình mò chuyện
riêng tư của kẻ dưới? Tiểu sinh sẽ ra khỏi chốn này ngay, song lệnh nữ đã là
tiện nội thì phải đi theo tiểu sinh!" Ông lão chẳng biết đối đáp ra sao,
chỉ giơ tay vẫy con gái đi theo mình. Thanh Nga bèn bước theo cha. Khuông Cửu
vội chạy theo vợ. Tới một cửa động, ông lão lấy tay rẽ hai cánh cửa đá sang hai
bên rồi quát: "Cút!" Khuông Cửu khẳng khái bước ra ngoài. Ðột nhiên,
hai cánh cửa đá lại tự động khép kín.
Quay đầu nhìn quanh, Khuông Cửu chỉ thấy núi non
chót vót, lởm chởm như dao, chẳng kẽ len chân. Ngửng đầu nhìn lên, chỉ thấy trăng
xế, sao thưa. Bơ vơ giữa rừng núi âm u, chẳng biết lối về mà cũng chẳng biết
phải làm gì, Khuông Cửu kinh hãi quá, cứ đứng ủ rũ, vừa thở dài vừa oán hận ông
lão. Khuông Cửu bèn quay mặt vào cửa động, lấy hết sức bình sinh mà hét:
"Thanh Nga! Thanh Nga!" song chỉ nghe thấy âm thanh vang vọng của
chính mình chứ tuyệt nhiên chẳng thấy có tiếng trả lời. Khuông Cửu càng oán hận
ông lão. Chợt nhớ tới chiếc dầm, Khuông Cửu bèn rút ra khoét cánh cửa đá bên
phải, vừa khoét vừa la. Trong khoảnh khắc, cánh cửa đá đã bị khoét sâu tới hai
tấc. Chợt có tiếng ông lão từ trong động nói vọng ra: "Nghiệt chướng thay!
Nghiệt chướng thay!" Khuông Cửu càng ra sức khoét nhanh. Bỗng thấy hai
cánh cửa đá mở toang rồi thấy ông lão đẩy Thanh Nga ra ngoài. Hai cánh cửa đá
lại tự động khép kín.
Ra ngoài, Thanh Nga nói giọng oán hận: "Vẫn
nói là thương yêu vợ mà sao lại đối xử với cha vợ tệ bạc như thế? Chẳng biết
cái lão đạo sĩ quỷ quái nào lại đi cho chàng chiếc dầm tội lỗi này?"
Khuông Cửu được vợ, thấy toại nguyện rồi, chẳng muốn đôi co, nên cứ lờ đi, quay
qua hỏi vợ: "Có biết đường xuống núi không?" Thanh Nga đáp:
"Có!" Nói: "Thế thì dẫn đường đi!" Ðáp: "Ði chân thế
nào được! Phải cưỡi ngựa!" Hỏi: "Ngựa đâu mà cưỡi?" Thanh Nga chẳng
đáp, chỉ lấy tay bẻ hai cành cây cạnh mình, đưa cho chồng một cành, nói:
"Cưỡi lên đi!" Khuông Cửu bèn cưỡi. Thanh Nga cũng cưỡi lên cành kia.
Ðột nhiên, hai cành biến thành hai ngựa. Thanh Nga phóng trước, Khuông Cửu theo
sau.
Ở nhà, Hoắc bà đang lo chẳng biết con mình lạc đi
đâu thì bỗng thấy gia nhân chạy vào báo: "Thưa phu nhân, công tử đã
về!" Hoắc bà mừng quá, vội chạy ra cổng đón con. Thấy có cả Thanh Nga cùng
theo về, Hoắc bà cực kỳ kinh hãi. Khuông Cửu vội chạy tới thì thầm với mẹ,
thuật sơ lại chuyện gặp vợ trong núi để mẹ an tâm. Hoắc bà vừa hết sợ lại thêm
mừng. Vào nhà, Thanh Nga thưa ngay với Hoắc bà: "Ở Tấn Dương này ai cũng
nghĩ rằng con đã chết. Nay thấy con về, họ sẽ dị nghị, cho rằng con là yêu
quái. Nhà ta vẫn còn một dinh cơ khác ở Sơn Hữu. Vậy xin mẹ hãy ra lệnh cho cả
nhà di cư về quê ngay!" Hoắc bà gật đầu. Ngay đêm ấy, Hoắc bà ra lệnh cho
toàn thể gia nhân khuân vác đồ đạc, chất chứa lên xe, dọn về Sơn Hữu. Ở Tấn
Dương, chẳng ai hay biết gì về việc Thanh Nga đã trở về.
Hai năm sau, Thanh Nga sanh thêm một gái, đặt tên
là Thanh Vân. Lúc đó, Mạnh Tiên đã lên chín.
Mười bốn năm sau. Có nho sinh họ Lý, người cùng
huyện, tới hỏi cưới Thanh Vân. Khuông Cửu và Thanh Nga cùng bằng lòng gả. Rồi
cho cưới ngay.
Tháng sau, Hoắc bà bị bệnh nặng. Tuần sau, Hoắc bà
qua đời. Khuông Cửu làm lễ phát tang cho mẹ. Khi chọn đất mai táng, Thanh Nga
nói: "Trong khu ruộng nhà mình có một miếng đất rất đẹp, hình chim trĩ ấp
tám trứng, nên an táng mẹ ở đó! Mạnh Tiên đã hăm ba, chàng bảo nó ở lại mà
trông coi phần mộ thay chàng!" Khuông Cửu nghe lời, bèn sai gia nhân tới
cất một chòi canh cạnh huyệt mộ. Tang lễ xong xuôi, Khuông Cửu bảo Mạnh Tiên:
"Con đã lớn, có thể báo hiếu bà nội thay cha. Vậy con hãy ở lại chòi này,
trông coi phần mộ của bà, đúng một tháng mới được về thăm nhà" Mạnh Tiên
đáp: "Con xin tuân lệnh! Xin song thân cứ hồi gia!"
Trên đường về, Thanh Nga bảo chồng: "Bây giờ
đừng về nhà nữa, hãy sang Thuận Thiên cư ngụ!" Khuông Cửu ngạc nhiên, hỏi:
"Sao lại sang Thuận Thiên?" Ðáp: "Vì ở gần tiên phủ của
cha!" Khuông Cửu gật đầu ưng thuận rồi cùng vợ sang Thuận Thiên. Cuối năm,
Thanh Nga lại sanh thêm một trai, đặt tên là Trọng Tiên.
An táng bà nội xong, Mạnh Tiên ở lại trông coi phần
mộ đúng một tháng rồi mới về thăm nhà. Không thấy cha mẹ ở nhà, Mạnh Tiên hỏi
người lão bộc: "Song thân tôi đâu?" Người lão bộc đáp: "Từ hôm
an táng cụ tới giờ, ông bà đã về nhà đâu?" Mạnh Tiên kinh hãi quá, chẳng
hiểu là cha mẹ mình đi đâu. Từ hôm đó, Mạnh Tiên chỉ quanh quẩn ở trong nhà đọc
sách chứ ít khi đi ra ngoài. Ít lâu sau, Mạnh Tiên nổi tiếng là danh sĩ trong
huyện. Văn hay chữ tốt song hễ cứ đi thi là hỏng.
Mười bảy năm sau, Mạnh Tiên bốn mươi tuổi, khăn gói
vào kinh đô ứng thí song lại hỏng. Mùa thu năm sau, lại vào kinh đô ứng thí.
Thi xong ra về, gặp một nho sinh hào hoa phong nhã trông giống mình như đúc,
song trẻ hơn mình nhiều, Mạnh Tiên lấy làm lạ, bèn nảy ý làm quen. Khi tới gần,
thấy nho sinh cầm một quyển tập đề mấy chữ: "Hoắc Trọng Tiên, lẫm sinh
Thuận Thiên" Mạnh Tiên bèn hỏi: "Xin lỗi túc hạ! Có phải túc hạ họ
Hoắc không?" Nho sinh đáp: "Thưa phải! Ðệ họ Hoắc, tên Trọng Tiên, 18
tuổi!" rồi hỏi lại: "Thế quý tính là chi?" Ðáp: "Bỉ nhân
cũng họ Hoắc, tên Mạnh Tiên, 41 tuổi!" Trọng Tiên kinh ngạc, hỏi:
"Quý quán ở đâu?" Ðáp:"Ở huyện Sơn Hữu, tỉnh Sơn Tây" Trọng
Tiên mừng lắm, nói:"Lúc đệ về đây ứng thí, gia nghiêm có dặn nếu vào
trường thi mà gặp ai họ Hoắc ở Sơn Hữu thì đều là bà con bên nội, phải đối xử
cho có lễ độ, tôn ti. Nay gặp huynh cũng họ Hoắc ở Sơn Hữu, chẳng biết đệ phải
xưng hô với huynh như thế nào?" Mạnh Tiên không đáp mà hỏi lại: "Túc
hạ có thể cho biết danh tính của lệnh tôn, lệnh đường chăng?" Ðáp:
"Gia nghiêm họ Hoắc, tên Hoàn, tên chữ Khuông Cửu. Gia từ họ Vũ, tên Thanh
Nga!" Mạnh Tiên sửng sốt, nói: "Song thân bỉ nhân cũng tên họ như
thế!" Trọng Tiên cũng sửng sốt song vẫn còn chút nghi ngờ, nói: "Ðệ
mới 18, song thân đệ còn trẻ lắm. Huynh đã 41, lệnh tôn lệnh đường chắc đã cao
tuổi hạc! Vì thế, đệ nghĩ huynh với đệ chẳng thể là anh em ruột được!"
Mạnh Tiên nói: "Năm nay, gia nghiêm 58, gia từ 59, song vì các người đều là
tiên nên trông còn trẻ lắm! Chẳng thể lấy tuổi tác mà suy ra diện mạo
được!" Nghe thấy thế, Trọng Tiên càng sửng sốt, nói:"Gia nghiêm cũng
58, gia từ cũng 59!" Hai người bèn thuật lại cho nhau nghe mọi chuyện về
cha mẹ mình, rồi nhận ra nhau là anh em ruột.
Mạnh Tiên hỏi: "Song thân vẫn ở với hiền đệ
đấy chứ?" Trọng Tiên đáp: "Thưa không! Cách đây hai năm, sau khi cưới
vợ cho tiểu đệ, song thân bỏ nhà ra đi, chẳng biết là đi đâu. Các người có dặn
tiểu đệ cứ để nguyên phòng của các người để thỉnh thoảng các người ghé về nhà
thăm con cháu! Mời đại ca tới Thuận Thiên chơi cho biết nhà tiểu đệ!" Mạnh
Tiên nói:"Ngu huynh cũng vừa nảy ý tới thăm đệ tức và coi xem song thân có
ghé về nhà thăm con cháu hay không?"
Ngay hôm đó, Trọng Tiên sai gia nhân sắm sửa ngựa
xe rồi cùng Mạnh Tiên khởi hành về Thuận Thiên. Tới nhà, Trọng Tiên thấy một
đám gia nhân đứng lố nhố ở ngoài cổng, rồi thấy có kẻ chạy tới gần mình, thưa:
"Tối qua thái công và phu nhân vừa ghé về thăm nhà!" Trọng Tiên vội
hỏi: "Các người còn ở nhà không?" Kẻ gia nhân đáp: "Thưa không!
Thái công và phu nhân đã đi rồi!" Nghe thấy thế, cả hai anh em Mạnh Tiên
cùng tỏ vẻ buồn bã.
Trọng Tiên vào nhà gọi vợ ra chào anh. Trọng Tiên
hỏi vợ: "Song thân về lúc nào, đi lúc nào?" Vợ Trọng Tiên đáp:
"Các người về tối qua. Thiếp sửa soạn cơm nước bưng lên mời các người thì
các người bảo thiếp cùng ngồi. Mẫu thân nói rằng người vẫn lo cho vợ chồng mình
còn trẻ quá, chưa từng trải việc đời, chẳng có ai chỉ bảo. Song người lại nói
rằng hôm nay thế nào đại ca cũng về đây nhận anh em với vợ chồng mình và sẽ chỉ
bảo cho vợ chồng mình, nên người cũng đỡ lo. Sáng nay, thiếp vào vấn an các
người thì thấy căn phòng đã trống vắng. Các người ra đi lúc nào thiếp cũng
chẳng hay!" Hai anh em cứ dậm chân tiếc rẻ.
Trọng Tiên nói: "Xin đại ca cho tiểu đệ được
đi tìm song thân!" Mạnh Tiên gạt đi, nói: "Song thân chúng ta là tiên
chứ có phải là người thường đâu mà hiền đệ đòi đi tìm? Có đi thì cũng chỉ phí
công vô ích mà thôi!" Nghe thấy thế, Trọng Tiên bèn nói: "Nếu thế thì
thôi! Tuy nhiên, xin đại ca hãy lưu lại đây chơi với vợ chồng tiểu đệ để chờ
kết quả thi cử. Dù đậu hay hỏng, tiểu đệ cũng sẽ xin dọn nhà, theo đại ca về
quê cư ngụ!" Mạnh Tiên đáp: "Thế cũng được!" Rồi lưu lại nhà em.
Tháng sau, trường thi yết bảng, Mạnh Tiên lại hỏng,
còn Trọng Tiên thì đậu cử nhân. Trọng Tiên bèn bán nhà, theo anh về Sơn Hữu,
mua nhà ở cạnh nhà anh.
Mạnh Tiên nghĩ song thân đã ở nơi tiên cảnh nhưng
Trọng Tiên lại nghĩ song thân vẫn còn ở chốn nhân gian. Vì thế, Trọng Tiên
thường lén anh đi thăm dò tin tức song thân, nhưng tuyệt nhiên chẳng thăm dò
được tin tức gì.
LẤY VỢ MA
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Ðệ huynh ác thủ tụ tuyền đài
Ðẩu tửu bôi canh dạ quỷ lai
Tư thí huyết ngân lưu ngọc uyển
Tảo tri hữu ý hướng cao tài
Huyện Diên An, tỉnh Thiểm Tây, có hai anh em nho
sinh họ Yến, thương yêu nhau lắm. Người anh tên Bá, gầy gò ốm yếu, người em tên
Trọng, rắn chắc khoẻ mạnh. Mỗi người đều được cha mẹ để lại cho một ngôi nhà
rộng lớn và khá nhiều của cải.
Yến Bá đã có vợ, người họ Loan. Yến Trọng thì còn
độc thân. Năm Yến Bá 31 tuổi, đột nhiên bị bạo bệnh mà mất. Loan thị buồn quá
nên mấy tháng sau cũng mất theo chồng. Vì vợ chồng Yến Bá không có con nên Yến
Trọng phải đứng ra quản lý tài sản của anh chị. Yến Trọng thương anh chị lắm,
định bụng sau này nếu mình có vợ, sanh được hai trai, thì sẽ bắt đứa lớn làm
con anh chị để khói hương cho người quá cố. Yến Trọng có hai người bạn học
thân, một người họ Ðổng, một người họ Lương. Năm ấy, Lương sinh cũng bị bạo
bệnh mà mất.
Tám năm sau, Yến Trọng lấy vợ, người họ Bộc. Năm
sau, Bộc thị sanh trai, đặt tên là A Ngạc. Ít lâu sau, Bộc thị bị bạo bệnh mà
mất, Yến Trọng phải gà trống nuôi con. Hết tang vợ, Yến Trọng toan tục huyền
nhưng rồi sợ vợ kế đối xử tệ bạc với con nên lại đổi ý, chỉ muốn mua nàng hầu.
Một hôm đầu xuân, nghe nói ở làng bên có một gia
đình muốn bán con gái, Yến Trọng bèn đi coi mắt. Tới nơi, thấy cô gái chẳng vừa
ý, Yến Trọng không mua. Lúc về, gặp Ðổng sinh mời về nhà uống rượu, Yến Trọng
liền nhận lời. Tới nơi, uống say rồi xin cáo biệt.
Trên đường về, lại gặp Lương sinh mời về nhà uống
rượu. Vì đang say, Yến Trọng quên bẵng việc Lương sinh đã chết từ lâu nên lại
nhận lời. Tới nơi, thấy nhà cửa khác lạ, Yến Trọng hỏi:"Sao nhà cửa của
huynh lại khác lạ thế?" Lương sinh đáp:"Ðây là ngôi nhà mới của đệ
chứ có phải là ngôi nhà cũ mà huynh vẫn thường tới chơi đâu?" Rồi nói
tiếp:"Nhà đệ vừa hết rượu! Phiền huynh ngồi chơi để đệ đi mua!" Yến
Trọng gật đầu.
Chờ mãi chẳng thấy Lương sinh về, Yến Trọng bèn ra
cổng đứng ngóng. Chợt thấy một thiếu phụ cưỡi lừa đi qua, có một thằng bé chừng
bảy tám tuổi lẽo đẽo theo sau, Yến Trọng đưa mắt nhìn. Thấy đứa bé giống anh
mình như đúc, Yến Trọng giật mình kinh hãi, chạy ra hỏi: "Cháu họ
gì?" Ðứa bé vừa đi vừa đáp: "Cháu họ Yến" Yến Trọng càng lấy làm
lạ, bèn đi theo đứa bé, hỏi: "Cháu tên gì?" Ðáp: "Cháu tên A
Tiểu!" Hỏi:"Bố tên gì?" A Tiểu đáp: "Cháu không biết!"
Thuận chân, Yến Trọng cứ đi theo A Tiểu mà hỏi chuyện. Có chuyện nó trả lời
rành rẽ, có chuyện nó đáp không biết.
Ði được chừng ba dặm, tới cổng một ngôi nhà bên
đường, bỗng Yến Trọng thấy thiếu phụ xuống lừa, dắt vào nhà. Yến Trọng hỏi A
Tiểu: "Có phải đây là nhà của Bố không?" A Tiểu gật đầu. Hỏi:
"Bố có nhà không?" A Tiểu cũng gật đầu. Yến Trọng nói: "Vào thưa
với Bố là có khách xin vào thăm!" A Tiểu lại gật đầu rồi ù té chạy vào nhà.
Lát sau, có một người đàn bà từ trong nhà đi ra
cổng. Vừa nhìn thấy Yến Trọng, người đàn bà kinh ngạc, thốt lên: "Trời ơi!
Chú Trọng! Ði đâu mà lại lạc tới đây?" Nhận ra người đàn bà là chị dâu
mình, Yến Trọng mừng quá, đáp: "Em tới thăm người bạn ở gần đây! Em đang
đứng ở cổng ngóng bạn đi mua rượu về thì gặp cháu A Tiểu đi qua. Thấy nó giống
anh quá nên em theo nó tới đây!" Loan thị nói:"Mời chú vào nhà!"
Yến Trọng bèn theo chị dâu vào phòng khách. Ðưa mắt nhìn quanh, Yến Trọng thấy ngôi
nhà đúng là ngôi nhà của anh chị mình song đã được sửa sang lại. Loan thị chỉ
chiếc sập, nói: "Chú ngồi xuống sập này mà nói chuyện!" Yến Trọng bèn
ngồi xuống sập, rồi hỏi: "Anh đâu?" Loan thị đáp: "Anh chú đi
đòi nợ!" Hỏi: "Ở đâu?" Ðáp :"Ở nhà hai anh em họ Lý!"
Hỏi: "Có xa đây không?" Ðáp: "Cũng gần đây thôi!" Hỏi:
"Thiếu phụ vừa dắt lừa vào nhà là ai thế?" Ðáp: "Là nàng hầu của
anh chú đấy!" Hỏi: "Chị ấy họ gì?" Ðáp:"Họ Cam!" Hỏi:
"Chị ấy về đây đã lâu chưa?" Ðáp: "Cũng được hơn mười năm
rồi!" Hỏi: "Thế còn cháu A Tiểu là ai?" Ðáp: "Là con của
anh chú với cô Cam!" Hỏi: "Chị Cam với anh được mấy cháu?" Ðáp:
"Ðược hai đứa!" Hỏi: "Cháu kia tên gì?" Ðáp: "Tên A
Ðại, anh thằng A Tiểu!" Hỏi: "Cháu A Ðại đâu?" Ðáp: "Nó đi
chơi, chưa về!" Hỏi: "Thế anh chị không có con gái ư?" Ðáp:
"Không!" Chuyện trò tới đây, bỗng Yến Trọng tỉnh rượu. Sực nhớ Lương
sinh cũng như anh chị mình đều đã chết từ lâu, Yến Trọng biết rằng mình đang ở
âm phủ. Tuy nhiên, vì thấy mình đang ở nhà anh chị nên Yến Trọng cũng chẳng sợ
hãi chi. Loan thị nói: "Chú cứ ngồi đây chơi, để tôi xuống bếp làm
cơm!" Nói xong, bước ra khỏi phòng. Lát sau, A Tiểu bưng lên một mâm cơm,
nói: "Mẹ cháu bảo cháu mời chú sơi cơm!" Yến Trọng nói: "Chú
chưa muốn ăn! Chú chỉ muốn gặp Bố thôi! Hãy đi tìm Bố về đây ngay cho chú! Cứ
nói có chú Trọng đang chờ Bố ở nhà là Bố hiểu!" A Tiểu đáp:
"Vâng" rồi vụt chạy đi. Lát sau, A Tiểu chạy về, nói: "Hai anh
em họ Lý đã chẳng chịu trả nợ lại còn đánh bố cháu, nên cháu chưa nói được lời
nào!" Yến Trọng liền bảo :"Hãy dắt chú tới đó ngay!" A Tiểu gật
đầu rồi vụt chạy ra khỏi cổng. Yến Trọng vội chạy theo.
Vừa tới sân nhà họ Lý, Yến Trọng thấy anh mình đang
bị hai người xúm lại vật ngã xuống đất thì nổi giận, nhảy tới đấm đá hai người.
Một người ngã lăn xuống đất, còn người kia bỏ chạy vào nhà, khoá cửa lại. Yến
Trọng tới nâng anh dậy. Thấy em mình tới chốn này, Yến Bá kinh ngạc lắm, hỏi:
"Chú đi đâu mà lại lạc tới đây?" Yến Trọng xua tay, đáp:" Ðể về
nhà, em sẽ xin nói rõ!" Yến Bá bèn cùng Yến Trọng và A Tiểu ra về.
Tới nhà, Yến Bá chỉ chiếc sập, nói: "Chú ngồi
xuống sập này mà nói chuyện!" Loan thị vội gạt đi, nói: "Sao ông
không mời chú Trọng ngồi vào bàn, vừa ăn vừa nói có hơn không?" Yến Bá
nghe lời, bèn bảo cả nhà ngồi vào bàn ăn uống. Ðang lúc nói chuyện, bỗng Yến
Trọng thấy một thiếu niên chừng chín mười tuổi mở cửa bước vào phòng. Yến Bá
liền gọi thiếu niên tới bàn, giới thiệu: "Ðây là cháu A Ðại, anh cháu A
Tiểu! Còn đây là chú Trọng, em ruột bố! Chào chú đi con!" A Ðại liền cúi
đầu chào. Yến Trọng bèn đứng dậy, tới dắt tay A Ðại đến chiếc ghế cạnh mình,
bảo ngồi xuống, ăn uống với gia đình. Thấy A Ðại và A Tiểu cùng sáng sủa, khoẻ
mạnh, Yến Trọng chợt nảy ý, nói: "Trên dương thế, em bị góa vợ, phải chăm
sóc con nhỏ, chẳng có thì giờ trông nom phần mộ cho anh chị được, thực là buồn
quá! Bây giờ, dưới âm phủ, anh chị có hai đứa con trai thì xin anh chị cho một
đứa theo em về dương thế để nó trông nom phần mộ cho anh chị!" Loan thị
bèn nói với chồng: "Chú Trọng nói thế, tôi nghĩ cũng phải! Ông nên cho
thằng A Tiểu theo chú ấy về dương thế, để nó trông nom phần mộ cho vợ chồng
mình!" Yến Bá gật đầu, tỏ vẻ ưng thuận.
A Tiểu tuy chẳng hiểu dương thế là gì song khi nghe
nói được về dương thế thì cũng thích lắm, cứ tới chỗ Yến Trọng, gục đầu vào
khuỷu tay, tỏ vẻ quyến luyến. Yến Trọng bèn đưa tay xoa đầu A Tiểu, hỏi:
"Cháu có thích theo chú về dương thế không?" A Tiểu đáp:
"Thích!" Yến Bá nói: "Nếu chú cho nó theo về thì đừng chiều nó.
Ngày nào chú cũng phải bắt nó ăn thịt cá và hôm nào nắng ráo cũng phải bắt nó
ra đứng phơi nắng ngoài trời từ sáng tới quá trưa. Làm như thế trải đủ bốn mùa
xuân hạ thu đông thì nó mới cứng cáp như người sống được! Sau này, khi nó lớn,
nó có thể lấy vợ sanh con, song tôi nghĩ nó cũng chẳng thọ được lâu đâu!"
Trong khi ăn uống, Yến Trọng chợt thấy một thiếu nữ
rất đẹp, dáng điệu ôn uyển, đứng lấp ló ở ngoài cửa phòng khách. Yến Trọng bèn
hỏi: "Anh chị không có con gái thì thiếu nữ đứng lấp ló ở ngoài kia là ai
thế?" Yến Bá đáp: "Cô ấy là em ruột nàng hầu của tôi!" Hỏi:
"Cô ấy tên chi?" Ðáp: "Tên Sương Quần!" Hỏi: "Tại sao
cô ấy lại ở đây?" Ðáp: "Hai chị em cô ấy mồ côi từ hồi còn nhỏ. Khi
tôi mua cô chị về làm nàng hầu thì cô chị xin cho cô em được về theo. Vì thế,
cô em theo cô chị tới đây cư ngụ cũng được hơn mười năm rồi!" Yến Trọng im
lặng. Lát sau, Yến Trọng chợt hỏi: "Cô ấy đã đính hôn với ai chưa?"
Yến Bá đáp: "Chưa. Gần đây có bà mai tới hỏi cho con trai nhà họ Ðiền ở
xóm đông, nhưng cô ấy không chịu" Chợt Yến Trọng nghe thấy tiếng thiếu nữ
lẩm bẩm ở ngoài cửa: "Tôi chẳng chịu lấy cái anh chăn trâu nhà họ Ðiền ấy
đâu!" Thấy thế, Yến Trọng bỗng cảm thấy lòng mình xao xuyến song chưa dám
thổ lộ cho anh chị biết.
Lát sau, Yến Bá nói: "Tối nay, chú ở lại đây
mà ngủ!" Trước lúc thấy Sương Quần, Yến Trọng định bụng sau khi cơm nước,
sẽ xin cáo biệt, song từ lúc thấy Sương Quần, Yến Trọng đâm ra quyến luyến, nên
lại đổi ý. Vì thế khi nghe anh mời ở lại, Yến Trọng vội đáp: "Vâng!"
Ăn uống xong, Loan thị bảo A Ðại và A Tiểu dẹp mâm
cơm xuống bếp, còn Yến Bá thì đi lấy chiếc giường nhỏ và chăn gối đem ra phòng
khách cho Yến Trọng ngủ.
Ðêm ấy, vào tiết đầu xuân, khí trời còn lạnh, mà
trong phòng khách lại không có lò sưởi nên tuy Yến Trọng đã đắp chăn mà vẫn còn
thấy lạnh, chẳng sao ngủ được. Yến Trọng bèn vùng dậy, tới ngồi co ro ở cạnh
ngọn đèn mà suy nghĩ miên man. Ðang ước ao có rượu thịt để nhâm nhi thì bỗng
thấy A Tiểu đẩy cửa, bưng vào một khay rượu thịt. Yến Trọng vừa mừng vừa lạ,
hỏi:"Ai nướng thịt rồi bảo cháu bưng lên đây thế?" A Tiểu đáp:
"Cô Sương Quần!" rồi đặt khay lên bàn, lui ra. Yến Trọng bèn rót
rượu, nhâm nhi với thịt nướng. Lát sau, lại thấy A Tiểu đẩy cửa, bưng vào một
lò sưởi than hồng. Yến Trọng hỏi: "Ai đốt lò sưởi rồi bảo cháu bưng lên
đây thế?" A Tiểu đáp: "Cô Sương Quần!" Hỏi: "Bố Mẹ đã ngủ
chưa?" Ðáp: "Ngủ từ lâu rồi!" Hỏi: "Thế cháu ngủ với
ai?" Ðáp: "Với cô Sương Quần!" rồi đặt lò sưởi dưới gầm giường,
dẹp khay rượu xuống bếp, khép cửa lại.
Yến Trọng đi nằm. Tuy thấy giường đã được sưởi ấm,
song vì đầu óc cứ mơ tưởng tới khuôn mặt xinh đẹp, dáng vẻ thông minh của Sương
Quần nên Yến Trọng trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ được. Yến Trọng chỉ ước ao
sao cho mình lấy được Sương Quần làm kế thất, đem về dương thế để chăm sóc cho
A Tiểu.
Sáng sau, vợ chồng Yến Bá tới phòng khách thăm em.
Yến Trọng nói ướm: "Nay em đã góa vợ, xin anh chị để ý giùm xem có đám nào
đăng đối thì làm mai cho!" Yến Bá đáp: "Nhà ta đâu có phải là nhà
nghèo. Khi về dương thế, sớm muộn gì mà chú chẳng tìm được một kế thất vừa ý.
Dưới âm phủ này cũng có người đẹp song tôi sợ chẳng có ích gì cho chú cả!"
Yến Trọng nói: "Ngày trước, các cụ ta vẫn thường thuật chuyện người xưa
hay lấy vợ ma, anh còn nhớ không?" Chợt hiểu ý em, Yến Bá nói: "Cô
Sương Quần cũng đẹp song chẳng biết có làm vợ chú được hay không?" Yến
Trọng hỏi :"Tại sao?" Yến Bá đáp: "Vì muốn làm vợ người dương
thế thì phải có máu trong cơ thể!" Hỏi: "Làm thế nào để biết được là
có máu trong cơ thể?" Ðáp: "Phải lấy kim, thử chích vào cổ tay. Nếu
thấy có máu ứa ra thì được, còn nếu không thấy có máu thì vô ích!" Yến
Trọng nói: "Em chỉ cần lấy cô ấy về để chăm sóc cho A Tiểu thôi chứ em
chẳng cần cô ấy phải sanh nở chi cả!" Nghe thấy thế, Yến Bá chỉ lắc đầu,
chẳng đáp. Yến Trọng năn nỉ: "Thì anh cứ thử làm mai cho em xem sao!"
Yến Bá còn đang suy nghĩ thì bỗng Loan thị lên tiếng: "Chú ấy đã muốn thế
thì ông cứ để tôi đi lấy kim, thử chích vào cổ tay cô ấy xem sao?" Nói
xong, Loan thị xăm xăm chạy vào phòng lấy kim. Khi đem kim ra phòng khách, tình
cờ thấy Sương Quần đi qua cửa, Loan thị bèn gọi: "Sương Quần! Hãy đứng lại
cho chị hỏi chuyện này!" Sương Quần tưởng thực, vội dừng chân. Loan thị
liền chạy tới nắm lấy tay Sương Quần, ghé vào tai, giả vờ thì thầm. Sương Quần
chẳng nghe rõ, toan lên tiếng hỏi lại, thì bất thần bị Loan thị cầm kim chích
vào cổ tay, máu ứa ra. Loan thị liền buông tay Sương Quần, đứng cười ha hả.
Sương Quần còn đang kinh hãi, chẳng hiểu tại sao Loan thị lại làm như thế thì
đột nhiên Cam thị ở đâu chạy tới, hầm hầm tức giận, giơ ngón tay dí vào trán
Sương Quần mà mắng: "Mi là con gái mà chẳng biết xấu hổ là gì! Mi mê trai,
rồi bây giờ định bỏ nhà trốn đi theo trai, có phải không? Ta quyết chẳng để cho
mi làm như thế!" Cả nhà cùng ngơ ngác. Sương Quần vừa thẹn vừa tức, khóc
oà lên. Yến Trọng ngượng quá, vội quay nhìn anh chị, nói: "Thôi, bây giờ
em xin phép anh chị cho em được dắt cháu A Tiểu về dương thế!" Loan thị
gật đầu. Yến Bá cũng nói: "Ừ thôi! Chú cứ dắt cháu về dương thế trước đi!
Nếu nó có nhớ nhà đòi về, chú cũng đừng cho nó về, kẻo nó bị tiêu hao dương
khí, chẳng tốt!" Yến Trọng đáp: "Vâng" rồi nắm tay A Tiểu, dắt
ra khỏi cổng.
Yến Trọng bảo A Tiểu dắt mình trở lại nhà Lương
sinh. Tới nơi, Yến Trọng nhận ra đường cũ, bèn cứ ngược đường mà dắt A Tiểu về
dương thế.
Tới nhà, Yến Trọng bịa chuyện, loan tin rằng cách
đây hơn mười năm, khi anh mình còn sống, có mua một nàng hầu, giấu ở làng bên.
Khi anh mình chết, nàng hầu đang hoài thai A Tiểu. Nay A Tiểu đã lên mười, mình
sang làng bên, bắt về nuôi. Người làng thấy A Tiểu giống hệt Yến Bá thì tin
ngay, chẳng ai thắc mắc.
Yến Trọng dạy A Tiểu tập đọc và học thuộc lòng
nhiều đoạn thơ văn. Sáu tháng đầu, bị bắt học cả ngày, A Tiểu rất oán hận chú.
Thấy thế, Yến Trọng bèn đổi cách dạy, cho A Tiểu vừa học vừa chơi. A Tiểu liền
hết oán hận chú. Ban ngày, A Tiểu học bài. Tối đến, lên giường ngủ, đọc bài cho
chú nghe. Vì A Tiểu khá thông minh, tối nào cũng thuộc bài, nên Yến Trọng mừng
lắm. Vì vẫn nhớ Sương Quần, Yến Trọng bỏ ý định mua nàng hầu.
Năm sau. Một hôm Yến Trọng đang tiếp khách, bỗng
nghe có tiếng gọi cổng, bèn xin phép khách chạy ra mở thì thấy Cam thị cùng
Sương Quần đứng ở bên ngoài. Mừng quá, Yến Trọng vồn vã mời hai người vào phòng
thờ. Vào phòng, Cam thị nói: "Xin lỗi chú! Năm ngoái, khi chú xuống chơi,
tôi thấy em gái tôi đã lớn mà vẫn còn ngây ngô, chưa biết xấu hổ là gì nên tôi
cố tình làm nhục nó để cho nó biết xấu hổ đấy thôi. Năm nay, tôi muốn gả chồng
cho nó. Thấy chú là nơi xứng đáng nhất nên tôi đã bàn tính với anh chú cho tôi
đưa nó lên đây, xin chú làm lễ thành hôn với nó!" Yến Trọng đáp: "Cám
ơn chị! Em xin lãnh ý!" rồi mời Cam thị và Sương Quần ngồi chơi, xin phép
trở ra tiếp khách.
Lát sau, Yến Trọng lại xin phép khách trở vào phòng
thờ thì thấy Cam thị đã biến mất. Yến Trọng hỏi: "Chị Cam đâu?" Sương
Quần đáp: "Chị ấy về rồi!" Hỏi: "Thế bây giờ chúng mình cần sửa
soạn những gì để làm lễ thành hôn?" Ðáp: "Chỉ cần sửa soạn một mâm cỗ
để làm lễ giao bái là đủ!" Nói: "Nếu thế thì nàng cứ ngồi đây mà
nghỉ, để ta xuống bếp bảo gia nhân sửa soạn!" Sương Quần lắc đầu, nói:
"Mâm cỗ này phải do chính tay thiếp sửa soạn mới được! Chàng cứ ra tiếp
khách đi!"
Yến Trọng vừa theo lời, ra khỏi phòng thì Sương
Quần đã đứng dậy, vào phòng trong cởi bỏ nữ trang, thay quần áo nội trợ, rồi
xuống bếp sửa soạn mâm cỗ. Yến Trọng ngồi trên phòng khách, cứ nghe thấy tiếng
dao thớt lách cách ở dưới bếp.
Lát sau, Yến Trọng tiễn khách ra về. Lúc trở vào
phòng thờ thì thấy cỗ bàn đã được bày la liệt trên bàn thờ, còn Sương Quần thì
đã ăn mặc sang trọng, điểm trang lộng lẫy, đang ngồi chờ mình. Yến Trọng bèn đi
tắm gội, ăn mặc sạch sẽ rồi trở ra phòng thờ cùng Sương Quần làm lễ giao bái.
Tối ấy, Sương Quần nói: "Tuy đã là vợ chồng,
song vì bản thể âm dương bất hợp nên chúng mình phải ngủ riêng! Thiếp muốn được
ngủ chung với A Tiểu!" Yến Trọng nói: "Nàng muốn ngủ riêng thì được
song muốn ngủ chung với A Tiểu thì không!" Sương Quần hỏi: "Tại sao?"
Yến Trọng đáp: "Vì ta đã truyền dương khí vào cơ thể cho nó được hơn một
năm nay rồi! Bây giờ cơ thể nó đã ấm lại. Nếu để cho nó ngủ chung với nàng thì
dương khí ấy sẽ bị tiêu hao hết!" Sương Quần nghe ra, liền gật đầu. Yến
Trọng bèn sai gia nhân dọn riêng cho Sương Quần một phòng. Vì thế, tuy là vợ
chồng song Yến Trọng với Sương Quần chỉ gặp nhau vào lúc ban ngày để chuyện
trò, ăn uống mà thôi. Sương Quần chăm sóc A Ngạc tựa con mình. Vì thế, Yến
Trọng càng quý mến Sương Quần.
Bốn năm sau. Một tối, hai vợ chồng đang ngồi nói
chuyện trong phòng khách, bỗng Yến Trọng lên tiếng hỏi: "Ở âm phủ, nàng có
quen với người đẹp nào không?" Sương Quần đáp: "Có! Thiếp có quen với
một người đẹp, dung mạo giống đàn bà dương thế lắm, mà lại khéo trang điểm
nữa!" Hỏi:"Ai thế?" Ðáp:"Cô hàng xóm phía đông!" Hỏi:
"Tên chi?" Ðáp: "Tên Linh Tiên!" Hỏi: "Họ chi?"
Ðáp: "Họ Uy!"Hỏi: "Nàng có hay giao thiệp với cô ấy không?"
Sương Quần lắc đầu, đáp:"Không! Thiếp chỉ quen thôi chứ không hay giao thiệp!"
Hỏi: "Sao thế?" Ðáp: "Vì cô ấy lẳng lơ, dâm đãng lắm!" Hỏi:
"Bây giờ nàng có thể mời cô ấy lên đây chơi, ngồi nói chuyện với vợ chồng
mình được không?" Ðáp: "Nếu chàng thích thì để thiếp mời lên! Song
theo thiếp nghĩ, chàng chẳng nên kết thân với loại đàn bà ấy!" Yến Trọng
nói: "Thì nàng cứ thử mời lên đây chơi cho ta gặp mặt một lần xem
sao!" Sương Quần bèn đứng dậy đi lấy giấy bút đem ra bàn ngồi suy nghĩ,
tựa hồ như để tìm lời viết thư. Bỗng Sương Quần khựng lại, quẳng bút đi, nói:
"Không được!" Yến Trọng hỏi: "Tại sao?" Sương Quần đáp:
"Vì thiếp sợ chàng sẽ bị tổn hại!" Yến Trọng nói: "Mời lên chơi,
ngồi nói chuyện thì có chi mà bị tổn hại?Ợ Sương Quần ngần ngừ hồi lâu rồi nói:
"Thế nhưng chàng phải hứa với thiếp rằng chàng sẽ không dụ dỗ cô ấy làm
chuyện bậy bạ cơ!" Yến Trọng cười, nói: "Xin hứa!" Sương Quần
bèn nhặt bút, vẽ loằng ngoằng lên giấy vài nét, làm một đạo bùa, rồi đem ra đốt
ở ngoài cổng. Chờ cho đạo bùa cháy hết, Sương Quần mới vào nhà.
Lát sau, rèm động, móc kêu, rồi có tiếng cười khúc
khích. Sương Quần nghi là Linh Tiên nên đứng dậy chạy ra đón thì thấy quả là
Linh Tiên. Sương Quần bèn dắt vào phòng, mời ngồi xuống sập hàn huyên. Linh
Tiên cười nói oang oang, song khi nhìn thấy Yến Trọng thì vội giơ tay áo lên
che miệng mà nói cười nhỏ lại. Yến Trọng thấy Linh Tiên quả là một người đàn bà
đẹp, dung nhan kiều diễm, mái tóc búi cao, dáng vẻ yểu điệu như người trong
tranh. Sương Quần rót rượu mời khách. Linh Tiên đỡ lấy chén, vừa uống vừa nói
chuyện. Vì có mặt Yến Trọng nên Linh Tiên giữ ý, nói cười nhỏ nhẹ. Tuy nhiên,
chỉ sau vài tuần rượu, khi đã ngà ngà say, Linh Tiên chẳng còn kiêng kị gì nữa,
cứ cười nói oang oang, thuật lại cho Sương Quần nghe đủ mọi thứ chuyện bậy bạ.
Thế rồi, Linh Tiên nhìn Yến Trọng mà mỉm cười, liếc mắt đưa tình. Yến Trọng bấn
loạn tâm thần, chẳng sao tự chủ được. Tuy nhiên, vì có mặt Sương Quần nên Yến
Trọng cũng chưa dám có ngôn ngữ hay cử chỉ chi sàm sỡ. Sương Quần thấy thế thì
theo sát Linh Tiên, chẳng dời một bước.
Lát sau, đột nhiên Linh Tiên đứng dậy, bước tới
cửa, vén rèm, chạy ra sân. Sương Quần vội chạy ra theo. Yến Trọng cũng vội chạy
ra theo vợ. Thấy Yến Trọng chạy ra sân, Linh Tiên bèn quay lại nắm lấy tay Yến
Trọng mà kéo đi. Sương Quần còn đang ngơ ngác thì Linh Tiên đã kéo Yến Trọng
vào một căn phòng bỏ ngỏ gần đó, đóng sập cửa lại. Sương Quần tức tối lắm song
chẳng biết phải làm thế nào, đành phẫn uất mà quay về phòng.
Hồi lâu, Linh Tiên mới ra về. Yến Trọng vào phòng
vợ nói chuyện. Sương Quần trách: "Chàng đã hứa như thế nào mà bây giờ
chàng lại hành động như thế? Thiếp chỉ sợ rồi đây chàng sẽ chẳng thể dứt nổi
Linh Tiên nữa thôi! Lúc đó thì dù chàng có muốn đuổi cô ấy đi cũng chẳng còn
được nữa!" Yến Trọng cho là Sương Quần ghen nên chẳng được vui. Bèn từ
biệt vợ mà về phòng mình.
Tối sau, Linh Tiên tự ý tới nhà Yến Trọng. Sương
Quần gặp mặt song cứ lờ đi, chẳng thèm chào hỏi. Linh Tiên cũng chẳng buồn để
ý, cứ đi thẳng vào phòng Yến Trọng. Hồi lâu, Linh Tiên mới ra về. Sương Quần
tức tối lắm song cố dằn cơn giận.
Nửa tháng sau. Một tối, khi Linh Tiên tới, Sương
Quần chẳng sao nhịn được nữa, nói: "Cô là một người đàn bà vô liêm sỉ,
chẳng biết ngượng ngập là gì! Tôi yêu cầu cô hãy cút về ngay! Từ giờ trở đi,
tôi cấm cô không được bén mảng tới ngôi nhà này nữa!" Linh Tiên chẳng thèm
đáp, cứ sồng sộc đi thẳng vào phòng Yến Trọng.
Tháng sau. Yến Trọng ngã bệnh. Sương Quần mời thày
lang tới coi mạch, hốt thuốc song bệnh tình cứ dai dẳng, chẳng thuyên giảm. Tuy
Yến Trọng đã ngã bệnh song tối nào Linh Tiên cũng tới. Lúc đó Yến Trọng mới hối
hận, muốn đuổi Linh Tiên đi. Yến Trọng bèn bảo Sương Quần kê giường vào phòng mình
mà ngủ, để cho Linh Tiên sợ, không dám tới nữa. Sương Quần làm theo lời. Thế
nhưng, Linh Tiên vẫn tới, ẩn núp quanh quất ở trong nhà. Cứ lúc nào Sương Quần
có việc phải ra khỏi phòng là Linh Tiên lại lẻn vào, lên giường ép Yến Trọng
giao hoan. Một tối, Sương Quần bắt gặp Linh Tiên trên giường chồng mình, bèn
lấy gậy đập vào lưng. Linh Tiên khỏe hơn, giằng được gậy, đập lại Sương Quần
cho tới lúc bị thương mới thôi.
Bệnh tình của Yến Trọng mỗi ngày một thêm trầm
khốn. Thấy thế, Sương Quần khóc, nói: "Thiếp còn mặt mũi nào mà nhìn thấy
chị Cam dưới âm phủ nữa!" Yến Trọng ngượng quá song cũng chẳng biết đối
đáp ra sao.
Tuần sau, bệnh tình của Yến Trọng trở nặng. Tối ấy,
Yến Trọng chết. Ðang nằm trên giường, bỗng thấy có hai lính cầm trát tới bắt
mình, Yến Trọng liền đứng dậy, đi theo. Lát sau, thấy đường đi có vẻ quen
thuộc, Yến Trọng chợt nhận ra chính là đoạn đường từ nhà Lương sinh tới nhà anh
mình khi trước. Lúc đó Yến Trọng mới biết là mình đã chết. Sờ vào túi chẳng có
một đồng, Yến Trọng bèn xin lính cho mình ghé vào nhà anh để xin tiền đi đường.
Lính thuận cho.
Tối ấy, Yến Bá đang ngồi trong phòng khách thì chợt
thấy em bước vào, hai bên có lính âm phủ đi kèm. Yến Bá kinh hoàng tột độ, hỏi:
"Sao chú lại bị bắt xuống đây?" Yến Trọng đáp: "Vì em bị bệnh ma
làm!" rồi đem chuyện Linh Tiên ra thuật lại. Nghe xong, Yến Bá vào nhà
trong lấy ra hai túi tiền nhỏ, đưa cho hai lính, nói: "Xin hai chú nhận
cho chút quà này. Em tôi bị gái âm phủ làm tiêu hao sinh khí mà thác chứ thực
ra thì mệnh số chưa hết. Vậy xin hai chú hãy thả cho em tôi được trở về dương
thế. Hai chú đừng sợ bị tào quan bắt tội vì tôi sẽ cho con tôi đi thay
thế!" Hai lính được tiền hối lộ, nhìn nhau hồi lâu rồi cùng gật đầu. Yến
Bá liền sai A Ðại rót rượu mời lính rồi sai vào nhà sửa soạn hành trang để đi
theo lính. Hai lính uống rượu xong, cầm hai túi tiền, chào Yến Bá rồi dắt A Ðại
đi.
Yến Bá vào phòng thuật lại cho Loan thị nghe, rồi
gọi Cam thị lên, bảo: "Nàng hãy sang hàng xóm mời cô Linh Tiên sang đây
chơi, nhưng đừng nói cho cô ấy biết là vì chuyện gì!" Cam thị liền sang
nhà Linh Tiên, rồi về nói: "Cô ấy sắp sang đó!" Lát sau, quả nhiên
Linh Tiên sang. Thấy Yến Trọng đang ngồi ở trong nhà, Linh Tiên kinh hãi quá,
dợm quay mình bỏ chạy thì đã bị Yến Bá nhanh tay túm được mái tóc, xoắn lại mà
mắng: "Mi là một con dâm tì vô liêm sỉ! Khi sống trên dương thế, mi đã làm
đãng phụ, nay chết xuống âm phủ, mi lại làm tặc quỷ. Mi vừa làm cho em tao bị
tiêu hao sinh khí mà chết nên bây giờ tao phải đánh cho mi một trận nhừ
đòn!" Nói xong, Yến Bá giơ tay tát túi bụi vào mặt Linh Tiên. Bị tát, tóc
tai rối bù, mặt mũi phờ phạc, Linh Tiên chắp tay van lạy, khóc lóc xin tha. Mẹ
Linh Tiên là U bà, nghe tiếng con khóc, cũng vội chạy sang năn nỉ: "Tôi
biết con tôi có tội rồi! Xin ông tha cho nó!" Yến Bá nói: "Bà đã biết
là con bà dâm đãng, sao chẳng chịu can ngăn, lại cứ để mặc cho nó đi làm hại
người khác?" U bà cứng họng, chẳng biết trả lời ra sao. Yến Bá bèn nói:
"Thôi! bà dắt nó về đi" U bà bèn chào Yến Bá rồi dắt Linh Tiên về.
Yến Bá quay qua nói với Yến Trọng: "Chú chờ
tôi sửa soạn một lát rồi tôi sẽ đưa chú về dương thế!" Nói xong, Yến Bá
vào phòng trong. Lát sau, Yến Bá ra bảo Yến Trọng: "Ta đi thôi!" Hai
anh em bèn lên đường. Yến Trọng thấy anh mình dắt mình đi theo đúng con đường mà
năm năm về trước mình đã dắt A Tiểu về dương thế.
Tới nhà, Yến Trọng vội chạy vào phòng xem sao. Thấy
xác mình còn nằm trên giường, Yến Trọng vội nhập vào rồi mở mắt ra coi thì thấy
có một cảm giác bàng hoàng như người vừa tỉnh mộng. Yến Bá cũng theo em vào
phòng. Sương Quần đang ở dưới bếp, nghe có tiếng động trên phòng chồng, cũng
vội chạy lên coi. Thấy Yến Bá ở trong phòng, Sương Quần kinh hãi quá, song khi
thấy chồng đã hồi sinh, Sương Quần lại mừng rỡ vô tả. Thấy Sương Quần vào, Yến
Bá trách: "Ta với chị cô thấy cô hiền năng nên mới bàn tính với nhau đưa
cô lên đây làm vợ em ta. Sao cô lại đi gọi con Linh Tiên lên đây để cho nó mê
hoặc em ta tới chết? Nếu cô chẳng phải là em vợ ta thì hôm nay ta quyết phải
đánh cho cô một trận nhừ đòn!" Sương Quần vừa thẹn vừa sợ, bèn sụp xuống
đất lạy Yến Bá, nói: "Thiếp biết tội đã nhiều, xin đại ca tha cho!"
Yến Bá nói: "Thôi, đứng dậy!" Sương Quần bèn khép nép đứng dậy, rồi
thưa: "Bây giờ thiếp xin phép đại ca cho thiếp xuống bếp làm cơm để mời
đại ca ở lại dùng bữa với vợ chồng thiếp và các cháu!" Yến Bá lắc đầu,
đáp: "Ta bận nhiều việc lắm, phải về ngay, chẳng thể ở lại được! Hãy gọi
lũ trẻ lên đây cho ta gặp mặt!" Sương Quần đáp: "Xin vâng!" rồi
lui ra khỏi phòng.
Lát sau, Sương Quần dắt A Tiểu và A Ngạc vào chào
Yến Bá. Năm ấy, A Tiểu đã mười ba. Thấy A Tiểu cứng cáp khoẻ mạnh, Yến Bá mừng
lắm, nói: "Mi đã trở thành người dương thế rồi!" Nhận ra cha, A Tiểu
cũng mừng lắm, cứ quấn quýt bên chân. Trò chuyện hồi lâu, Yến Bá nói:
"Thôi, ta phải về đây!" A Tiểu đòi: "Cho con về với!" Yến Bá
gạt đi, nói: "Mi ở lại đây với chú mi là sướng nhất rồi, còn đòi về làm
chi?" Nói xong, xăm xăm bước ra khỏi cổng. Từ đó, Yến Bá không trở về
dương thế nữa.
Mười bốn năm sau, A Tiểu hai mươi bảy, Sương Quần
cưới vợ cho nó rồi cho hai vợ chồng ra ở ngôi nhà cũ của Yến Bá. Năm sau, vợ A
Tiểu sanh trai, đặt tên là A Tôn. Ba năm sau, A Tiểu 31 tuổi, cũng bị bạo bệnh
mà mất như cha. Khi hết tang chồng, vợ A Tiểu tái giá. Sương Quần chẳng có con,
lại chăm sóc A Tôn như đã chăm sóc A Ngạc và A Tiểu khi trước.
Hai chục năm sau, A Tôn hai mươi tư. Sương Quần bèn
cưới vợ cho nó rồi lại cho hai vợ chồng ra ở ngôi nhà cũ của Yến Bá. Năm ấy,
Yến Trọng đã tám mươi. Một hôm, Sương Quần nói với chồng: "Ðã tới lúc
chúng mình phải trở về âm phủ! Bây giờ thiếp xuống trước, sửa soạn nhà cửa để
sáu tháng nữa, sẽ đón chàng xuống!" Yến Trọng gật đầu. Sương Quần bèn đi
tắm gội, trang điểm đẹp đẽ rồi lên giường nằm mà mất. Yến Trọng chẳng than khóc
chi, vui vẻ mà làm tang lễ cho vợ. Sáu tháng sau. Quả nhiên Yến Trọng cũng mất
theo.
ĐƯA
DÂU VỀ ÂM PHỦ
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI
CAO TIÊU
Biên tập:
NGUYỄN CẨM HƯƠNG
Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG
Trình bày bìa: SONG THÀNH
In 1.200
cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT
Số trích
ngang xuất bản: 377-2009/CXB/27-53/ThaH,
In xong
và nộp lưu chiểu Quý III năm 2010
.............................................................................................................
- Cập
nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét