NGHIỆP
VÀ LUÂN HỒI
*
Lời tác
giả:
Việc biên soạn chắc chắn không tránh
khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong được
sự lượng thứ của các bậc cao minh. Những sự sửa
sai và bổ khuyết của quý vị độc giả sẽ giúp
bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó
quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi.
Nguyễn Vĩnh Thượng
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã
có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và
Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
Trong bài này, chúng tôi sẽ tìm
hiểu quan niệm về Nghiệp và Luân hồi của Phật giáo. Có
hai phần chính:
Phần thứ nhất: Nghiệp
Phần thứ hai: Luân hồi
Phần thứ nhất: Nghiệp
Trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày:
I.- Quan niệm về Nghiệp của Phật
giáo.
II.- Những hiểu lầm và thắc mắc
về quan niệm Nghiệp
III.- Nghiệp là nền tảng “Đạo
đức học” của Phật giáo.
I.-Quan niệm về “Nghiệp”
của Phật giáo: (Tác giả Nguyễn Vĩnh Thượng)
Nghiệp (Srt. Karma, Pa. Kamma, Tàu phiên
âm: Yết-ma 羯磨, dịch là Nghiệp 業, Av. Action/ Doing) là hành động
chịu ảnh hưởng của “Luật Nhân Quả” (the Law of Cause and Effect).
Mỗi một hành động (action) làm ra, gọi là nguyên
nhân, đều có một hậu quả (re-action) tương ứng; và hậu
quả sẽ trở thành nguyên nhân cho một hậu quả kế
tiếp. Nghiệp có liên hệ với luật duyên khởi. Chúng
ta đã tìm hiểu về “Luật Nhân Quả” trong bài viết
về học thuyết duyên khởi của Đức Phật. Chúng
ta gây nhân nào thì gặt quả nấy, tục ngữ có câu: Trồng cây
nào thì gặt quả nấy. Trong Kinh Thánh (Bible) cũng có quan niệm tương
tự về nhân quả: “We reap what we sow” / chúng ta gặt hái
những gì mà chúng ta đã gieo trồng.
Theo đạo Phật, không phải hành động nào cũng là
nghiệp. Nghiệp chỉ được tạo ra nếu có một sự chủ ý/ tác
ý/ ý chí ( Srt. Cetana, Av. volition/ intention/ will). Một hành
động có chủ ý được tạo bởi thân (body), khẩu (speech)
và ý (mind); hành động này sẽ gây nên một hậu quả trong
tương lai. Sự chủ ý/ ý hướng đạo đức có đặc
tính đạo đức như sau: sự chủ ý có thể là thiện/tốt (good),
hoặc có thể là ác/ xấu (bad) hoặc có thể là trung tính/ không thiện và không ác
(neutral).
Nghiệp ảnh hưởng đến tái
sanh (rebirth) trong vòng luân hồi (the cycle of
rebirth): tư tưởng và hành động trong dòng sinh mệnh quá
khứ sẽ ảnh hưởng đến dòng sinh mệnh hiện tại, tư
tưởng và hành động trong dòng sinh mệnh hiện
tại sẽ ảnh hưởng đến dòng sinh mệnh trong tương lai.
Theo đạo Phật, nghiệp không do Thượng đế tạo ra, nghiệp chính là
do cá nhân của một người tạo ra.
Nghiệp có thể chia ra làm bốn loại:
Nặng tội nghiệp (Weighty Karma): đây là nghiệp
gây ra các tội ác nặng nề như giết người, hãm hại người khác một cách
tàn nhẫn . . .
Tập quán nghiệp (Habitual Karma): đây là nghiệp gây
ra do các thói quen tạo thành.
Tích lũy nghiệp (Stored up Karma): đây là các
nghiệp được tích lũy, được chứa đựng từ các hành động trong cuộc
sống hằng ngày.
Cận tử nghiệp (Post death Karma/ Intermediate state
Karma/ Death proximate Karma): đây là nghiệp tạo ra lúc sắp chết, nghiệp ở giữa
sự sống và sự chết, nghiệp di chuyển từ đời sống này
qua đời sống khác.
Cận tử nghiệp rất quan trọng vì nó là
dòng nghiệp thức mạnh nhất có ảnh hưởng đến sự “tái sanh”.
Theo Duy Thức Học, một trường phái trong phong trào Phật
giáo Phát triển/ Phật giáo Đại thừa thì các hành động
có ý thức gây ra bởi thân, khẩu và ý có tính thiện, hoặc ác,
hoặc vô ký/không thiện không ác đều được chứa đựng trong Alaya thức/ Tạng
thức (Srt. Alaya-Vijnana, Av. Storehouse consciousness). Alaya
thức tương đồng với vô thức tập hợp (L’inconscient
collectif/ the collective unconciuos) trong môn Phân Tâm
Học (psycho-analysis/ analytical psychology) của tâm
lý học Tây phương, Carl Gustav Jung (Đức, 1875 – 1961) là người khai
sáng ra môn Tâm phân học. Dòng nghiệp thức / thần
thức (karmic consciousness) này sẽ chuyển vào đời sống mới ở
trong 6 cõi luân hồi.
(xem thêm, tiểu luận: “Từ A-lại-gia thức trong Duy
thức học của Thế-Thân (Vasubandhu) và Vô-trước (Asanga) [hậu bán thế kỷ
thứ V sau Tây lịch] đến Vô-thức tập hợp (the collective unconscious) của Carl
Gustav Jung (1875 – 1961, Sài-gòn, 1966).
Theo Phật giáo Phát triển, ý
nghĩ cuối cùng trước khi chết thường liên quan đến trải
nghiệm nổi bật nhất trong kiếp sống này. Giác quan cuối
cùng ra đi là thính giác. Phần lớn các tôn giáo đều có
những bài kinh, bài tụng niệm do các Đạo sư hay
các Tu sĩ đọc để giúp cho người sắp ra đi có những ý
nghĩ cuối cùng hướng thiện. Ý tưởng cuối cùng trước
khi lâm chung vô cùng quan trọng, nó có ảnh
hưởng đến tái sanh.
“Sự chết” cũng là một phần quan trọng trong cuộc sống.
Nhiều bệnh viện ở Tây phương có phòng dành riêng cho các bệnh nhân
đang chờ chết hay sắp chết để giúp giúp bệnh nhân giảm
bớt sự sợ hãi về “cái chết”.
Rev. Dr. Walpola Rahula đã giảng
giải sự chủ ý / ý hướng đạo đức/ ý chí trong
một nghiệp như sau:
“Ý hướng đạo đức có thể có giá
trị đạo đức tương đối tốt/ thiện hay xấu/ác cũng giống như lòng
ước muốn có thể tương đối tốt hoặc xấu. Bởi thế, nghiệp (karma) có
thể tốt hay xấu một cách tương đối. Nghiệp tốt/ thiện thì sanh ra quả tốt,
còn nghiệp xấu/ác thì sanh ra quả xấu. Lòng tham muốn, ý
hướng đạo đức, nghiệp dù tốt hay xấu đều có một năng lực đưa
đến hậu quả của nó: năng lực cứ tiếp
tục - tiếp tục trong chiều hướng tốt hay xấu. Dầu tốt hay xấu nó
đều là tương đối, và đều ở trong vòng luân hồi, lẩn quẩn. Một vị
A-la-hán (Arahant), mặc dầu có hành động, nhưng không tích luỹ trong
nghiệp, bởi vì Ngài đã giải thoát khỏi ý tưởng sai
lầm về ngã, đã giải thoát khỏi lòng tham muốn tiếp
tục và sanh thành, đã giải thoát khỏi tất cả phiền
não không trong sạch. Đối với Ngài, không còn tái sanh.
Không nên lầm lẫn thuyết nghiệp báo với
cái gọi là “công bằng đạo đức” (moral justice) hay “sự thưởng và phạt”
(reward and punishment). Ý tưởng về công bằng đạo đức, hay
sự thưởng phạt phát sanh từ một hữu thể tối cao (a supreme
being), tức là Thượng đế (God), ngồi phán xét, tức là vị
ban luật lệ để quyết định điều gì là phải, điều gì là
trái. Từ ngữ “công bằng” (justice) thì có ý nghĩa mơ
hồ (ambiguous) và nguy hiểm, việc nhân danh công
bằng đã gây ra nhiều hãm hại hơn là có lợi ích cho nhân loại.
Thuyết nghiệp báo là thuyết về nhân và quả, về
hành động và phản ứng lại; nó là một luật tự nhiên,
không dính dáng gì đến ý tưởng về “công bằng” hay về
“thưởng phạt”. Mọi hành động có chủ ý đều sanh ra hậu
quả hay kết quả của nó. Nếu một hành vi tốt thì sanh ra quả tốt,
đây không phải là sự công bằng hay sự thưởng phạt do một người nào
hay một quyền lực nào ngồi phán xét hành vi của bạn, nhưng
đó chỉ là vì bản chất của riêng nó, vì luật lệ của
riêng nó.
Điều này không khó hiểu. Nhưng điều khó hiểu là,
theo thuyết nghiệp báo, những hậu quả của một hành
vi có chủ ý có thể tiếp tục ngay cả trong một đời sống sau
khi chết.
(Walpola Rahula, What the Buddha taught, New York:
Grove Press, 1962, p. 32)
Nguyên văn:
“ Volition may relatively be good or bad, just as
desire may relatively be good or bad. So karma may be good or bad relatively.
Good karma produces good effects and bad karma bad effects. “Thirst”, volition,
karma, whether good or bad, has one force as its effect:force to continue – to
continue in a good or bad direction.Whether good or bad it is relative, and is
within the cycle of continuity (samsara). An Arahant, though he acts, does not
accumulate karma, because he is free from the false idea of self, free from the
“thirst” for continuity and becoming, free from all other defilements and
impurities. For him there is no rebirth.
The theory of karma should not be confused with so-called
“moral justice” or “reward and punishment”. The idea of moral justice, or
reward and punishment, arises out of the conception of supreme being, a God,
who sits in judgement, who is a law-giver and who decides what is right and
wrong. The term “justice” is ambiguous and dangerous, and in its name more harm
than good is done to humanity.
The theory of karma is the theory of cause
and effect, of action and reaction; it is a natural law, which has nothing to
do with the idea of justice or reward and punishment. Every volitional action
produces its effects or results. If a good action produces good effects, it is
not justice, or reward, meted out by anybody or any power sitting in judgement
of your action, but this is in virtue of its own nature, its own law.
This is not difficult to understand. But what is
difficult is that, according to karma theory, the effects of a volitional
action may continue to manifest themselves even in a life after death.
(Walpola Rahula, What the Buddha Taught, New york:
Grove Press, 1962, p. 32)
II.- Những sự hiểu lầm và
thắc mắc về quan niệm nghiệp:
Nhiều người quan niệm rằng “nghiệp” là định
mệnh/ số phận ( destiny/ fate). Nhiều người quan niệm “nghiệp” như là
một hệ thống ngân hàng đạo đức (a moral banking system) ghi
chép những hành vi tốt và những hành vi xấu: một cột ghi điều
tốt, một cột ghi điều xấu (a credit and debit of good and bad). Rồi có vị dùng
“nghiệp” để lý giải về chủng tộc (racism), đẳng cấp
(caste), bẩm sinh tật nguyền (birth handicap), chịu cảnh nghèo khổ v…v…Nhiều
người khi gặp sự thất bại trong cuộc đời thường nghĩ rằng đó là do
số phận đã định sẳn, vì đó là do nghiệp của họ nên họ không thể nào làm gì khác
hơn được, nên đành chấp nhận số phận bất hạnh. Nguyễn Du đã hiểu
lầm quan niệm về nghiệp của Phật giáo:
“Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ Tài chữ Mệnh dồi dào cả hai.
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ Tài liền với chữ Tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa.”
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Như đã trình bày ở trên,
trong đạo Phật, nghiệp
không phải là định mệnh,
không phải do Thượng đế/ Đấng tối cao ban thưởng hoặc trừng
phạt. Phật giáo không thuyết giảng nghiệp như là một quy luật để biện minh cho người giàu có, đang nắm quyền uy, và để an ủi người nghèo khó bằng những lời hứa hẹn về một niềm hạnh phúc, an vui ở kiếp sau.
Có những thắc mắc về quan niệm nghiệp: Nhìn vào thực tế xã hội ở
chung quanh, nhiều người nêu lên
sự nghịch lý của cuộc
đời: có nhiều người tu
nhân tích đức, ăn ở hiền
lành mà lại chịu cảnh nghèo túng,
gặp nhiều điều bất hạnh,
thường gặp hoạn nạn, còn
có kẻ thì lười biếng, gian ác,
mà vẫn giàu có, vẫn sống
trong cảnh bình an và hạnh
phúc.
Theo Phật giáo Phát triển/ Đại thừa thì Nghiệp hay luật nhân quả tạo ra nghiệp nhân (action) và nghiệp quả (
re-action), có thể chia ra làm 2 hình thức:
1.Nhân quả đồng thời: có nghĩa là nhân sinh ra quả ngay lập tức, hoặc có một khoảng cách thời
gian ngắn mà người đời có thể
thấy ngay được: “Quả báo nhãn
tiền”. Thí dụ: đưa tay vào lửa thì thấy nóng ngay, đang
đói ăn liền thì sẽ thấy no ngay.
2.Nhân quả khác thời: Nhân có thể tạo nên quả cần có một khoảng thời
gian dài hơn. Hình
thức này có thể chia làm 3 loại :
Hiện báo: tạo nghiệp nhân đời này thì lãnh quả báo ngay trong đời này. Thí
dụ: cờ bạc đưa đến nghèo
khó, rượu chè trác táng đưa đến bịnh hoạn. Chính trị
gia đang có quyền lực hãm hại, giết kẻ đối lập; có ngày sẽ bị kẻ khác lật ngược thế cờ thì
cũng bị đối xử tàn ác như vậy.
Sinh báo”: tạo nghiệp nhân đời này thì đến đời sau mới lãnh nghiệp quả. Thí dụ: đời
này tu nhân tích đức thì đời
sau được hưởng cảnh bình
an.
Hậu báo:
tạo nghiệp nhân trong
đời này thì đến nhiều đời
sau mới lãnh nghiệp
quả.
III.- Nghiệp là nền tảng
của đạo đức học Phật giáo:
Những nghiệp đã được tạo ra trong quá khứ,
trong kiếp trước thì không thể sửa đổi được. Phật
giáo quan niệm “nghiệp” là do chủ ý/ ý chí/ ý
hướng đạo đức nên nghiệp trong đời sống hiện
tại có thể hướng đến điều thiện tức là con người có
thể chuyển đổi nghiệp để thay đổi hoàn cảnh sống của
mình. Thí dụ: nếu chúng ta đang gặp hoạn
nạn thì cố gắng tìm phương cách để vượt
qua những khó khăn, hoặc đang sống trong cảnh nghèo thì phải tìm
cách làm việc để kiếm tiền để tạo một đời sống vật
chất khá hơn.
Giáo lý nhân quả của Phật
giáo dạy con người xa lánh các “nghiệp ác” và làm các “nghiệp
thiện”. Con người vừa là chủ nhân của nghiệp, vừa là “kẻ
thừa kế” của nghiệp mà mình đã tạo ra. Theo Phật giáo, thiện được
hiểu như là những gì đem lại lợi ích cho mình và cho người khác ở
trong hiện tại và tương lai, thiện nghiệp không
gây tổn hại cho người khác và cho chính mình.
Con người không những chịu trách nhiệm về
nghiệp do chính mình tạo ra cho mình mà còn chịu trách nhiệm về
nghiệp mà mình tạo ra cho người khác. Ở đây chúng ta thấy học
thuyết về “nghiệp” của Phật giáo là một học thuyết đạo
đức rất lạc quan.
Con người/ chúng sanh quyết định số phận
của chính mình và rộng ra là số phận cho người khác nữa. Chúng sanh có
thể “chuyển đổi nghiệp” tức là chuyển đổi hoàn cảnh hiện
tại để có một hoàn cảnh tốt lành hơn trong tương lai.
Duy thức học còn đưa ra ý niệm về “cộng
nghiệp” khi nhìn vào nghiệp quả giống nhau của nhiều người, của cả
một dân tộc trong cùng một lúc. Thí dụ: tai nạn phi cơ gây ra
cho nhiều hành khách; thuyền nhân trên tàu vượt biển gặp nhiều hậu
quả giống nhau trên cùng một chiếc thuyền; cả một dân tộc cùng chịu
cảnh lầm than, chiến tranh tàn phá quê hương.
Sau khi Thuý Kiều đã trải qua hết
thời gian đoạn trường, nhận định về cuộc đời, Nguyễn
Du viết:
“Có trời mà cũng có ta,
Tu là cõi phúc, tình là dây oan”
(Nguyễn Du, Truyện
Kiều)
Phần thứ hai: Luân Hồi.
Trong phần này, chúng tôi sẽ bày:
I.- Định Nghĩa: Luân Hồi.
II.-Quan niệm luân hồi của Phật giáo:
1.-Đầu thai
2.-Tái sanh.
Bài đọc thêm: Câu chuyện về thần đồng Ramses
Sanguino,
5 tuổi, ở Los Angeles, California, USA
I.-Định nghĩa: Luân Hồi.
Luân Hồi (Srt, Pa. Samsara; Hv. 輪迴 ), theo tiếng
Sanskrit thì Samsara có nghĩa là lang thang (wandering) với ý
nghĩa của vòng lẩn quẩn luôn thay đổi. Trong thời
đại Veda đã được giải thích trong các cuốn Kinh Veda và
được triển khai trong Kinh Upanishad vào khoảng 1500 trước
CN. Theo Ấn độ giáo và Phật giáo thì luân
hồi (samsara) là một vòng bất tận của sanh, tử và tái sanh; và
bị chi phối bởi luật nhân quả.
II.-Quan niệm “luân hồi”
của Phật giáo:
Luân hồi trong tư tưởng tôn
giáo ở Ấn độ có thể hiểu theo hai nghĩa:
1.- Đầu thai (Re-incarnation): Ấn độ giáo,
theo truyền thống tôn giáo Ấn độ, tin
tưởng rằng con người có linh hồn / ngã (Srt. Atma, Av. Soul, Self)
thì bất biến, vĩnh cữu. Linh hồn không thể bị huỷ diệt
cũng như không thể được tạo ra. Thân xác con
người là nơi nương tựa của linh hồn. Khi con
người chết thì linh hồn / bản ngã rời khỏi thân
xác cũ và nhập vào thân xác mới, và một sự sanh sản mới xảy ra, tiến trình này
cứ tiếp tục diễn ra. Ấn độ giáo tin tưởng rằng một
người phải trả lời tất cả những gì mình đã làm sai lầm cũng
như được thưởng bởi những gì mình làm tốt.
Những hành động để lại gồm có: những hành động thấy
được qua việc làm bên ngoài, còn có những hành vi không
thấy được là tư tưởng, niềm tin, quan niệm, trí thông minh,
sự vô minh. Do đó, người đó sẽ đầu thai (re-incarnate) không
những chịu sự hình phạt vì những hành vi sai lầm mà còn được
tưởng thưởng một đời sống hạnh phúc nhờ những việc làm tốt.
Chí-tôn ca (Bhagavad –Gita) trong các kinh Véda
của tư tưởng tôn giáo Ấn độ đã diễn
tả “sự đầu thai” (re-incarnation) như sau: những ý thức do
một người có được đều được chuyển y nguyên trong đời sống
mới một khi người ấy rời khỏi thân xác hiện tại.
2.-Tái sanh (re-birth): Đức Phật đã
dạy mọi vật đều vô ngã (anatman, Av. no soul/ no
self). Phật giáo không tin vào bất cứ linh
hồn nào vĩnh cữu và không bị tiêu diệt. Vào thời đại của Đức
Phật lịch sử, ở Ấn độ chỉ có Ấn độ giáo hiện
hữu chứ không có một tôn giáo khác. Đức Phật lịch
sử được gợi ý từ những quan niệm của Ấn độ giáo, nên
triết lý Phật giáo cũng nhấn mạnh đến vòng sanh
tử (cycle of birth and death). Nhưng Ngài đã nhận
thức được ý tưởng về tái sanh (the idea of re-birth).
Như vừa trình bày tái sanh là căn cứ vào vô
ngã của chúng sanh. Do đó không có một bản ngã thường
hằng hiện hữu, không có linh hồn/ bản ngã di chuyển từ thân
xác người vừa chết qua một thân xác mới. Phật giáo tin
tưởng sự hiện hữu của chúng sanh thì liên tục,
và tái sanh được tiếp diễn theo sự liên
hệ đến luật nhân quả.
Theo truyền thống Phật giáo, thì tái
sanh (re-birth) là biến đổi liên tục của sanh và tử trong 6
cõi luân hồi (Trời, Atula, Người, Súc sanh, Địa ngục, Ngạ quỹ)
ở trong thế giới của dục vọng/ dục giới là do 3 độc
hại (three root evils): tham (Srt. loha,
Av.greed), sân (Srt. Dosa, Av.hate) và si (Srt. Moha,
Av.delusion). Vòng lẩn quẩn sanh tử này gọi là luân hồi.
Để giải thoát khỏi luân hồi, con người phải diệt tham,
sân và si, một khi đã diệt được tam độc này thì sự tái
sanh cũng được chấm dứt. Nói khác, tái sanh là sự trở
lại đời sống mới hoặc cao hơn hoặc thấp hoặc như cũ trong 6
cõi luân hồi (six realms).
Trong sự phát triển của học thuyết Phật
giáo (within the development of Buddhist doctrine), Phật
giáo Phát triển/ Đại thừa cho rằng chúng sanh đi
vào vòng sanh tử luân hồi là do hai động cơ chính:
a.-Tái sanh (re-birth): nghiệp lực bị đưa
vào vòng luân hồi một cách bị động, bị bắt buộc; đó
là trường hợp ở chúng sanh bình thường.
b.-Đầu thai (re-incarnation): nghiệp
lực được điều động bởi chư Bồ-tát, vào thời Phật giáo Phát
triển, với hạnh nguyện đại từ đại bi muốn đầu
thai lại cõi người để giáo hoá và giúp đở chúng
sanh.
Trong tông phái Phật giáo Tịnh độ ở Trung
Hoa, Nhật, Việt Nam , nhiều hạnh nguyện muốn được vãng
sanh vào cõi tịnh độ (pure land) của Đức Phật A-di-đà
(Amitabha Buddha).
Trong Phật giáo Tây Tạng, chúng ta cũng
thấy nói đến sự “đầu thai”. Thí dụ: Đức Dalai Lama thứ 14 được khám
phá từ sự đầu thai của Đức Dalai Lama thứ 13 nhập vào một đứa
trẻ nhỏ.
Giáo lý của Phật giáo về “sự chết” (death)
và tái sanh (re-birth) thì không giản dị để thấu hiểu, bởi vì như
trên đã nói Đức Phật lịch sử đã dạy mọi hữu
thể đều vô ngã. Tỳ-kheo Rev. Dr. Walpola Rahula đã giảng về “sự chết”
và “tái sanh” như sau:
“Cái mà chúng ta gọi là sự chết là
sự chấm dứt hoàn toàn những hoạt động của thân
xác vật lý. Nhưng sức mạnh, năng lực này có cùng chấm đứt
với hoạt động của thân xác hay không? Phật giáo trả
lời là “không”. Ý chí, sự ham muốn, dục vọng, long khao
khát tồn tại, tiếp tục tăng trưởng, là một sức
mạnh ghê gớm dời đổi toàn thể những đời sống, ngay
cả dời đổi toàn thể vũ trụ, thế giới. Đây là sức
mạnh lớn lao nhất, năng lực vĩ đại nhất trong vũ
trụ vạn hữu. Theo Phật giáo, sức mạnh này không dừng nghỉ
lại cùng với sự chết của thân xác, mà lại tiếp tục biểu hiện trong
một hình thức khác, phát khởi sự tái sinh mà ta
gọi là “luân hồi”.
[. . .]
Khi thân xác vật lý này không còn hoạt
động được, khi ấy những nghiệp lực không chết theo với nó,
mà tiếp tục nhận một hình đạng khác, mà người ta gọi là một
đời khác. Trong một đứa trẻ, mọi khả năng vật lý, tâm
linh và trí thức đều yếu ớt, nhưng chúng có sẵn tiềm năng
để trở nên một người lớn đầy đủ.
[. . .]
Vì không có bản thể trường cửu bất
biến nên không có gì đi từ giây phút này đến giây phút kế tiếp.Bởi
thế nên, một cách hiển nhiên không có cái gì trường
cửu hay bất biến có thể đi hay chuyển đổi từ đời này
đến đời sau. Đây là một chuổi liên tục không gián đoạn,
nhưng biến chuyển từng giây từng phút. Chuổi ấy thật ra không là gì ở
ngoài sự chuyển dịch.Nó giống như một ngọn lửa cháy thâu đêm: nó không phải
cùng là một ngọn lửa, cũng không phải khác. Một đứa trẻ lớn lên thành một ông
già sáu mươi tuổi; dĩ nhiên ông già 60 tuổi không phải là đứa trẻ vào
60 năm trước nhưng cũng không phải khác nhau.Cũng như vậy, một người chết ở đây
và tái sanh ở một nơi khác không phải cùng là người đó,
cũng không phải là người khác. Đây là sự liện tục của cùng một chuỗi. Sự khác
nhau giữa sự chết và sự sống chỉ là khoảng thời gian rất ngắn cho một
niệm khởi lên: niệm cuối cùng trong đời này định
đoạt niệm đầu tiên trong đời sau, nhưng kỳ thực chỉ là
sự tiếp nối của cùng một chuỗi liên tục”.
(Walpola Rahula, What the Buddha taught, New york:
Grove Press, 1962, p. 33-34)
( [. . .]. What we call death is the total
non-functioning of the physical body. Do all these forces and energies stop
altogether with the non-functioning of the body? Buddhism says “No”.
Will, volition, desire, thirst to exist, to continue, to become more and more,
is a tremendous force that moves “whole lives, whole existences, that
even moves the world. According to Buddhism, this force does not stop with the
non-functioning of the body, which is death; but it continues manifesting
itself in another form, producing re-existence which is
called rebirth.
[. . .]
When this physical body is no more capable of
functioning, energies do not die with it, but continue to take some other shape
or form, which we call another life.
[. . .]
As there is no permanent, unchanging substance, nothing
passes from one moment to the next. So quite obviously, nothing permanent or
unchanging can pass or transmigrate from one life to the next. It is a series
that continues unbroken, but changes every moment. The series is, really
speaking, nothing but movement. It is like a flame that burns throught the
night: it is not the same flame nor is it another. A child grows up to be man
of sixty; certainly the man of sixty is not the same as the child of sixty years
ago, nor is he another person. Similarly, a person who dies here and is reborn
elsewhere is neither the same person, nor another. It is the continuity of the
same series. The difference between death and birth is only a thought-moment:
the last thought-moment in this life conditions the first thought-moment in the
so-called next life, which in fact, is the continuity of the same series.”
(Walpola Rahula, What the Buddha taught, New york:
Grove Press, 1962, p. 33-34)
Thật là không dễ dàng để kiểm nghiệm các đời
sống tiền kiếp của mình. Tâm thức của chúng
sanh không cho phép tất cả mọi người có thể hồi
tưởng lại được các cuộc đời tiền kiếp của mình. Tâm
thức con người thường gặp 5 điều trở ngại/ chướng
ngại (Srt. Panca-Nivaranani, Av. Five Hindrsnces) như sau:
1.-Ái dục (Srt. Kamachauda, Av. Sensual desire).
2.-Sân hận (Srt.Vyapada, Av. ill will). 3.- Lười
biếng (Srt.Thinan middha, Av. Sloth). 4.-Sự bồn chồn, lo lắng (
Srt. Uddhacca, Av. Restlessness). 5.- Sự hoài nghi (Srt.
Vicikiccha, Av. Doulbt).
Do các trở ngại này mà con mắt trần gian
của chúng ta không thể thấy được các lần tái
sanh (re-births). Thí dụ 1 như tấm gương không
thể phản chiếu lại hình ảnh chúng ta khi tấm gương đó
bị bao phủ bởi bụi bậm, cũng như vậy tâm thức chúng
ta không cho phép hầu hết nhiều người góp nhặt được
các cuộc đời tiền kiếp của mình. Thí
dụ 2 như chúng ta không thể nhìn thấy các ngôi sao trên bầu
trời vào lúc ban ngày, nhưng những “vì sao” ấy vẫn hiện hữu trên bầu
trời, ánh sáng của các vì sao bị ánh sáng mặt trời chiếu quá sáng vào
các vì sao ấy. Tương tự như vậy, chúng ta không thể nhớ lại
các tiền kiếp của chúng ta bởi vì tâm
thức của chúng ta trong hiện tại bị che mờ
trong cuộc sống thế tục này.
Tuy nhiên, đối với một số người đặc biệt hoặc
đối với các vĩ nhân, họ có thể thấy tiền kiếp của mình. Đức
Phật Thích-ca Mâu-ni đã biết rõ các tiền kiếp của
Ngài. Đại triết gia Pythagoras (Hy-lạp, khoảng 570 – 495 trước CN) đã
có thể nhớ lại tiền kiếp của mình. Đại triết gia Plato
(Hy-lạp, khoảng 428 – 348 tr. CN) cho rằng một người có thể tái
sanh được 10 lần. Trong các truyền thuyết xa xưa ở Hy-lạp và
Trung Hoa, cổ nhân đã có niềm tin rằng chỉ có những
vị nổi tiếng như Đại đế, vua chúa là đã đi đầu thai.
Nhà thần học Cơ -đốc giáo Origen of Alexandria ( Hy-lạp, Khoảng 184 –
253 sau CN) tin rằng có sự đầu thai. Đại triết gia nỗi tiếng
Immanuel Kant (Đức, 1724 – 1804 CN) đã tin rằng có sự đầu thai và ông
đã phê bình về sự trừng phạt đời đời. Triết
gia Arthur Schopenhauer (Đức, 1788 – 1860 CN) nghĩ rằng ở đâu mà ý
muốn của con người hiện hữu thì ở đó có thể có đời
sống để người đó sống.
Trong vòng 50 năm trở lại đây, có
nhiều công trình tìm hiểu về đời sống bên kia cái
chết. Có nhiều trường hợp, bệnh nhân đã chết, nhưng nhờ các phương
tiện y tế tối tân đã cứu sống họ, và họ đã kể lại
cho Bác Sĩ của họ về những trải nghiệm trong lúc chết của họ.
Thí dụ 1: BS Raymond A. Moody đã viết lời kể lại của
một bệnh nhân về những trải nghiệm trong lúc chết tạm thời (Near-Death
Experience) trong quyển quyển sách “Life After Life” (Đời sống tiếp
nối đời sống hiện tại). Cuốn sách này được xuất bản vào năm 1975, đây
là cuốn sách có số lượng tiêu thụ lên đến 13 triệu cuốn.
Thí dụ 2: Cuốn sách “Saved by The Light” (Được cứu
rổi bởi Ánh sáng) do Dannion Brinkley và Paul Perry viết, xuất bản năm
1994, trong vòng 2 tuần đã bán được 10 ngàn quyển. Đây là
một câu chuyện có thật được một người đàn ông đã hai lần chết
đi sống lại tiết lộ những gì mà anh ta thấy. Ông ấy là Dannion
Brinley, vào năm 1975, ông bị sét đánh và chết, sau đó xác của ông được đưa vào
nhà xác. Trong vòng 28 phút thì ông tỉnh dậy. Ông kể lại trong
lúc đi qua đời sống bên kia, ông thấy 13 Thiên thần và ông
được cho biết 117 điều tiết lộ về tương lai.
Hiện nay, trên “YouTube” có nhiều Video thâu lời tường
thuật của nhiều người đã chết đi và sống lại.
*
Toronto, ngày 08 tháng 08.2018.
NGUYỄN VĨNH THƯỢNG
Địa chỉ: định cư tại tỉnh Alberta, Canada.
......................................................................................................
- Cập nhật từ email: quanboyman1992@yahoo.com.vn
ngày 23.10.2020
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét