VỀ CÁC QUY ĐỊNH TRONG
THỂ THƠ ĐƯỜNG LUẬT
*
Trải qua
thời gian dài hình thành và phát triển, thể thơ này coi là được “định hình”
tương đối hoàn thiện vào thời nhà Đường bên Trung Quốc (618 – 907) với một hệ
thống các quy định rất nghiêm ngặt về cấu trúc, thanh điệu, quan hệ giữa các
câu, các từ … trong bài thơ. Các quy định này không phải do một người hoặc một
“cấp thẩm quyền” nào đề ra mà nó hình thành trong quá trình, được đông dảo
người làm thơ xây dựng nên, chấp nhận và sáng tạo thêm. Thực ra không có
một tài liệu nào mang tính “pháp quy” ghi chép đầy đủ các quy định đó, nhưng nó
được định hình rõ rệt, trở thành nét đặc trưng riêng biệt của thể thơ này,
không lẫn lộn với các thể thơ khác, được mọi người tự giác tuân theo. Tiêu biểu
nhất của thể thơ này là loại “thất ngôn bát cú” (mỗi bài có 8 câu, mỗi câu 7
từ), còn nhiều loại thơ Đường luật khác đều suy từ thất ngôn bát cú mà ra như
thơ thất ngôn tứ tuyệt gồm 4 câu là nửa bài thất ngôn bát cú (2 câu đầu + 2 câu
cuối, 4 câu đầu, 4 câu giữa, 4 câu cuối), thơ ngũ ngôn bát cú là bài thất ngôn
bát cú bỏ đi mỗi câu 2 từ thứ nhất và thứ hai, thơ ngũ ngôn tứ tuyệt là bài
thất ngôn tứ tuyệt bỏ đi mỗi câu 2 từ thứ nhất và thứ hai v.v.... Vì vậy khi bàn
về thơ Đường luật, chỉ cần bàn kỹ về thơ thất ngôn bát cú là đủ.
1- NHỮNG
ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA THỂ THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Những
đặc trưng cơ bản của một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú đã được nhiều
người truyền cho nhau, có thể chưa đầy đủ nhưng cơ bản là thống nhất và những
ai làm thể thơ này đều biết, có thể nêu tóm tắt như sau:
Bài thơ
có 8 câu theo một trật tự nghiêm ngặt từ câu thứ 1 đến câu thứ 8, trong đó câu
thứ 1 và 2 gọi là cặp câu đề, câu thứ 3 và 4 gọi là cặp câu thực, câu thứ 5 và
6 gọi là cặp câu luận, câu thứ 7 và 8 gọi là cặp câu kết. Trong mỗi câu đều có
7 từ, cũng được ấn định theo vị trí từ thứ 1 đến từ thứ 7. Toàn bộ 56 từ đó
được ấn định theo mỗi vị trí phải mang một thanh bằng hoặc trắc nhất định, gọi
là “luật”. (Tác giả Phạm Văn Dương)
Người ta
thường vẽ ra các bảng “luật”, mỗi kiểu thơ 1 bảng ghi rõ thanh của 56 từ trong
bài theo từng vị trí, nhưng như thế quá dài dòng. Ở đây tôi nói vắt tắt các nét
chính.
Trước
hết là các từ thứ 2, thứ 4, thứ 6 trong mỗi câu phải nghiêm ngặt theo quy định:
Từ thứ 2 và thứ 6 cùng thanh (cùng bằng hoặc cùng trắc), còn từ thứ 4 phải mạng
thanh ngược lại (trắc hoặc bằng). Thanh của từ thứ 2 (do đó cả thanh của từ thứ
4, thứ 6) của câu thứ 1 và câu thứ 2 phải ngược nhau, của câu thứ 2 và 3 phải
giống nhau, của câu thứ 4 và 5 giống nhau và ngược với câu thứ 2 và 3, của câu
thứ 6 và 7 phải giống nhau và ngược với câu thứ 4 và 5, đến câu thứ 8 thì thanh
của 3 từ này lại giống câu thứ 1. Quy định này gọi là “niêm”. Từ thứ 2 (do đó
cả từ thứ 6) của câu thứ 1 mang thanh bằng thì gọi là bài thơ “luật bằng”, mang
thanh trắc thì gọi là bai thơ “luật trắc”. Những bài thơ nào để sai thanh các
từ thứ 2, thứ 4, thứ 6 trong câu nào đó đều là “thất luật”, để khác thanh 3 từ
này trong các cặp câu 2 và 3, 4 và 5, 6 và 7, 8 và 1 gọi là “thất niêm”.
Về các
từ thứ 1, thứ 3 trong mỗi câu, theo quy định chung, các từ thứ 1 mang thanh
giống từ thứ 2, các từ thứ 3 mang thanh giống từ thứ 4. Tuy nhiên điều này
không bắt buộc mà có thể linh hoạt, gọi là “luật bất luận”. Nhờ “luật bất luận
này mà thơ Đường luật đỡ bị gò bó hơn và người ta còn sáng tạo ra các lối chơi,
ví dụ lối chơi “nhất thủ thanh”, cả 8 từ thứ 1 trong 8 câu đều cùng 1 thanh
(cùng 1 từ), mặc dù thanh của các từ thứ 2 trong các câu phải khác nhau. Cũng
có kiểu chơi các từ thứ 3 của các câu đều giống nhau và một số lối chơi khác
như thuận nghịch độc (đọc xuôi, đọc ngược)…. Nhiều người nói “luật bất luận” áp
dụng cho cả từ thứ 5 (thanh của từ thứ 5 trong mỗi câu không bắt buộc) nhưng
điều này không đúng! Thanh của từ thứ 5 trong mỗi câu rất quan trọng, Không
được để 3 từ thứ 5, thứ 6, thứ 7 cùng thanh, nếu sai thì khi đọc sẽ thấy ngang
tai.
Từ thứ 7
là từ đặc biệt liên quan tới vần. Loại thơ 5 vần có các từ thứ 7 trong các câu
thứ 1,2,4,6,8 cùng thanh và vần với nhau, gọi là các từ vần. Loại thơ 4 vần có
các từ thứ 7 trong các câu thứ 2,4,6,8 cùng thanh và vần với nhau. Các từ thứ 7
trong các câu còn lại mang thanh ngược với các từ vần và nói chung không cần
vần với nhau. Riêng kiều chơi “bát vận đồng âm” thì các từ thứ 7 trong các câu
này tuy vẫn ngược thanh với các từ vần nhưng “đồng âm” với các từ vần. Nếu các
từ vần mang thanh bằng thì bài thơ gọi là “vần bằng”, thông thường người ta làm
thơ theo kiểu vần bằng này, đọc lên nghe êm tai. Nếu các từ vần mang thanh trắc
thì bài thơ gọi là “vần trắc”. Kiểu thơ này ít người làm hơn, đọc lên nghe “gai
góc” nhưng lại thích hợp với các bài thơ mang nội dung châm biếm hay đả kích…
Các từ vần phải cùng một âm thật giống nhau, gọi là “chính vận”. Trường hợp vần
gần giống nhau nghe vẫn ổn, gọi là “thông vận”. Có bài thơ các vần xa nhau quá
hoặc ép vận, mất hay. Thậm chí có bài, có chữ vần không vần với các chữ vần
khác, gọi là “lạc vận”
Tóm lại,
có các kiểu thơ luật bằng vần bằng, luật bằng vần trắc, luật trắc vần bằng,
luật trắc vầ trắc. Trong mỗi kiểu thơ đó lại có loại 5 vần, loại 4 vần. Như
vậy, không nói các lối chơi khác thì đã có 8 kiểu thơ khác nhau, phải vẽ 8 bảng
niêm luật quy định thanh bằng trắc cho 56 từ trong bài thơ theo 8 kiểu trên.
Một đặc
trưng nổi bật nữa của thơ Đường luật là “đối”. Bắt buộc các cặp câu thực,
cặp câu luận phải là những đôi câu đối. Nếu làm bài thơ loại 4 vần thì câu thứ
1 và thứ 2 cũng phải là một đôi câu đối. Có người còn thích chơi, làm cặp câu
kết cũng đối, thành bài thơ có 4 cặp đối. Đôi câu đối phải bảo đảm 3 tiêu chí theo
thứ tự quan trọng là đối ý, đối từ và đối thanh. Đối ý là quan trọng nhất, thể
hiện sự thâm thúy, cao siêu của đôi câu đối. Đối từ là bản chất của câu đối,
phải bảo đảm các từ cùng loại đối với nhau (danh từ đói với danh từ, động từ
đói với động từ…). Đối thanh là đặc điểm dễ nhận biết nhất, phải bảo đảm thanh
bằng đối với thanh trắc và ngược lại. Nếu bài thơ là đúng “luật”, đúng “niêm”
thì đương nhiên là bảo đảm được đối thanh, nhưng để làm được đối từ và đối ý
thì phải gia công rất nhiều. Bài thơ không đảm bảo các vế đối chuẩn xác gọi là
“thất đối”.
Như vậy,
các đặc trưng cơ bản nhất của thơ Đường luật là “luật”, “niêm”, ‘đối”, “vận”.
Người làm thơ luật Đường NHẤT THIẾT phải đạt được các đặc trưng ấy, nếu không
thì thành bài thơ theo thể khác, không còn là thể thơ luật Đường nữa.
VỀ CÁC
LỖI, CÁC BỆNH TRONG BÀI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Ngoài 4
lỗi không được phép vi phạm là thất luật, thất niêm, thất đối, lạc vận (vì nếu
vi phạm thì bài thơ không còn là đường luật nữa), người ta còn chỉ ra nhiều lỗi
khác rất khắt khe mà người làm thơ chỉ sơ ý chút là mắc phải. Người ta thường
nói đến 12 lỗi, ngoài 4 lỗi “chính” nêu trên, còn các lỗi sau:
Lỗi 5: Điệp từ (hay Trùng từ): Bài thơ chỉ có 56 từ, cần cố tận dụng để 56 từ đó khác
nhau, không nên dùng 1 từ nhiều lần, trừ khi muốn cố tình nhấn mạnh hoặc dùng
từ kép điệp ngữ. Nếu từ dùng trùng là chữ vần thì gọi là điệp vận. Trường hợp 2
từ cùng âm khác nghĩa không coi là điệp từ, điệp vận, nhưng không nên để gần
nhau, khó đọc.
Lỗi
6: Điệp ý: Ý dùng rồi mà còn dùng lại ở chỗ khác, dù đã dùng từ khác đi.
Nếu lỗi trùng ý nằm trong cặp câu thực, hoặc cặp câu luận thì gọi là hiệp
chưởng (câu trên câu dưới đối nhau mà nghĩa giống nhau như hai bàn tay úp
lại).
Lỗi 7: Điệp thanh: Trong thơ thất ngôn, một câu có 4 từ thanh bằng và 3 từ thanh trắc
hoặc bốn từ thanh trắc và ba từ thanh bằng. Những từ thanh bằng hay trắc đó
phải có thanh độ khác nhau thì câu thơ mới giàu âm điệu. Ví dụ câu thơ có 4 từ
thanh bằng thì chỉ nên dùng 2 từ có dấu huyền (trầm bình thanh), dùng 3 hoặc cả
4 từ có dấu huyền làm câu thơ yếu ớt, giọng trầm trầm khó nghe. Ngược lại nếu
dùng nhiều từ không dấu (phù bình thanh) sẽ làm câu thơ nghe ngang ngang không
êm dịu.
Lỗi 8: Điệp điệu : Nhiều câu liên tiếp ngắt nhịp cùng một cách. Lỗi này thường hay xảy
ra ở các câu giữa của bài thơ.
Lỗi
9: Điệp âm: Những chữ có cùng âm đứng gần nhau trong một câu (trừ khi dùng
từ kép láy), hoặc cùng vị trí trong hai câu.
Lỗi
10: Khổ độc: Trong một bài thất ngôn, từ thứ ba, thứ năm các câu đáng là
từ thanh bằng mà làm ra từ thanh trắc. Theo “luật bất luận” thì việc này không
“thất luật”, nhưng đặc biệt từ thứ 5 nếu sai thanh (kể cả đáng là thanh trắc mà
làm ra thanh bằng) đọc lên nghe rất chối tai.
Lỗi 11: Lạc đề: Trong bài có những câu, những ý không ăn nhập với chủ đề của toàn bài,
không ăn nhập với nhan đề.
Lỗi 12: Mạ đề (hay phạm đề): Có những từ trong các cập câu thực, cặp câu luận trùng với
nhan đề.
Cùng với
12 lỗi, người ta còn chỉ ra 8 bệnh trong bài thơ Đường luật. Đó là các quy định
rất rắm rối, khắt khe mà người làm thơ rất dễ mác phải:
1. Bệnh
phong yêu: Từ thứ hai và chữ thứ bảy trong cùng một câu thơ có cùng dấu thanh.
“Phong yêu” là cái lưng con ong, nếu mắc bện này thì cảm giác câu thơ bị thắt
lại ngang lưng.
2. Bệnh
Hạc Tất: Từ thứ bốn và từ thứ bảy trong cùng một câu thơ có cùng dấu thanh.
“Hạc tất” là cái gối con hạc, nếu mắc bệnh này thì cảm giác câu thơ bị gập ở
giữa, đọc lên thiếu êm tai.
3. Bệnh
Đại Vận: Từ thứ 4 và từ thứ 7 trong cùng 1 câu trùng vận với nhau:
4. Bệnh
Tiểu Vận: Tương tự như bệnh Đại Vận nhưng bệnh Tiểu Vận xét ở từ thứ 2 và thứ
7
5. Bệnh
Bình Đầu: Trong 3 từ đầu của các câu thơ, nếu các từ cùng vị trí ở bốn câu liên
tiếp có cùng từ loại
6. Bệnh
Thượng Vỹ: Trong 3 từ cuối của các câu thơ, nếu từ cùng vị trí ở bốn câu liên
tiếp có cùng từ loại.
7. Bệnh
Chánh Nữu: Trong cùng một câu có nhiều từ cùng phụ âm đầu.
8. Bệnh
Bàng Nữu: Trong 2 câu liên tiếp có nhiều từ cùng một phụ âm đầu.
Một số
quy định về lỗi, bệnh đều có LÝ của nó, nếu tránh được thì bài thơ có giá trị
hơn, uyển chuyển hơn, nhịp điệu thanh thoát êm tai hơn... Tuy nhiên, cái gì QUÁ
cũng có mặt trái không hay, GÒ BÓ QUÁ mất hết thi hứng, thậm chí phải bỏ qua
các ý đẹp, lời hay, tứ đắt... thì thực phí. Bài thơ hay cốt nhất ở ý tứ
sâu xa, gửi gắm cái gì đó có ý nghĩa vào những con chữ (tất nhiên phải mang
đúng đặc trưng thơ Đường luật), KHÔNG NÊN QUÁ KHẮT KHE, CỐ THEO CHO ĐƯỢC CÁC
QUI ĐỊNH RẮC RỐI BẰNG MỌI GIÁ.
Có một
số “lỗi”, “bệnh” gắn liền với tiễng Việt la tinh hóa chứ nguyên gốc chữ Hán
tượng hình và thanh âm tiếng Bắc Kinh làm gì có. Ví dụ “bệnh phong yêu”,
“bệnh hạc tất”, “lỗi điệp thanh”… do dấu thanh (6 dấu thanh trong tiếng
Việt). Âm Bắc Kinh chỉ có 4 thanh, 3 trắc, 1 bằng, thế thì các câu có chữ thứ 7
thanh bằng mà chữ thứ 2 (hoặc thứ 4) cũng bắt buộc thanh bằng thì lấy đâu ra để
mà đảm bảo khác nhau (do tiếng Việt có 2 thanh bằng là không dấu và dấu huyền
thì mới tránh trùng dấu thanh được). Nói thế không có nghĩa là ta bỏ qua các
“lỗi”, “bệnh” đó. Ta cần có nhiều lựa chọn để bài thơ hoàn hảo nhất có thể.
Vì vậy,
những người làm thơ Đường luật cần CỐ GẮNG TỐI ĐA KHÔNG PHẠM CÁC QUY ĐỊNH CƠ
BẢN NHẤT (cấu trúc, luật, niêm, đối, vận ...), nhưng KHÔNG NHẤT THIẾT PHẢI
TUÂN THEO HẾT CÁC QUI ĐỊNH GÒ BÓ NGƯỜI TA GÁN CHO THƠ ĐƯỜNG LUẬT.
Hiện
nay có một phần mềm Mộc gia trang kiểm tra các bài thơ Đường luật, chỉ ra
các “lỗi”, “bệnh” bài thơ mắc phải. Người làm ra phần mềm này vừa có hiểu biết
về thơ Đường luật, vừa có trình độ lập trình. Tuy nhiên, đã là máy móc thì có
những chỗ cứng nhắc và không phân biệt được các cách sử dụng từ phong phú của
con người.
Người
làm thơ Đường luật hoặc người biên tập dùng phần mềm kiểm tra bài thơ sẽ phát
hiện được các “lỗi”, “bệnh” do sơ ý mắc phải, kịp thời chỉnh sửa cho hoàn thiện
hơn. Tuy nhiên, có những “lỗi”, “bệnh” phần mềm chỉ ra không đúng hoặc không
nhất thiết phải sửa bằng mọi giá, đừng khiên cưỡng quá. Xin đưa ra đây một số
ví dụ các bài thơ sau khi kiểm tra bằng phần mềm này, người ta chỉnh sửa bằng
mọi giá và kiểm tra lại “không còn lỗi nào”, nhưng bài thơ sau khi sửa có câu,
có chữ hay hơn cũ, cũng có câu, có chữ quá gò bó khiên cưỡng, làm mất ý hay của
tác giả… Thà cứ để như cũ lại tốt hơn.
Ví dụ
1. Bài thơ ban đầu của tác giả A:
THƠ BÁC
TRÊN SÔNG
Sáng ngời khuôn nguyệt giữa trời không
Bóng
núi hình mây thấp thoáng lồng
Vỗ
mạn dập dềnh từng đợt sóng
Khua
chèo sóng sánh cả lòng sông
Thơ
rằm Bác đọc sâu tình nghĩa
Trăng
sáng trời soi rực sắc hồng
Thuyền
chở trí nhân đầy ánh sáng
Con
đường cách mạng mở mênh mông
Bài thơ
cơ bản là đạt yêu cầu, có ý, tứ , cảm xúc, từ ngữ sáng sủa, đúng luật, niêm,
vận, đối… Khiếm khuyết là dùng lặp lại các từ “sáng”, “trời”, “sóng “… (do sơ ý
chứ không phải có dụng ý để nhấn mạnh). Bài chỉ có 56 chữ, dùng được càng nhiều
chữ khác nhau càng phong phú
Một
người biên tập sử sụng phần mềm Mộc gia trang kiểm tra, máy chỉ ra các lỗi,
bệnh sau:
- Trùng
từ: sáng, trời, song
- Điệp
thanh: câu 2
- Tiểu
vận: câu 1
- Chánh
nữu: câu 4,6,8
- Bàng
nữu: câu 3,4,5,6,8
Người
biên tập đã sửa lại bài thơ đó (thay vào các chữ mới nét đậm):
“THƠ BÁC
TRÊN SÔNG
Sáng ngời khuôn nguyệt giữa thinh không
Bóng núi hình mây ẩn hiện lồng
Vỗ mạn dập dềnh từng đợt sóng
Khua chèo lóng
lánh cả dòng sông
Thơ rằm Bác đọc sâu tình nghĩa
Trăng rạng trời
soi rực sắc hồng
Thuyền chở trí nhân đầy ánh bạc
Con đường cứu
quốc rộng mênh mông”.
Kiểm tra
lại, máy thông báo bài thơ sau khi sửa không còn một lỗi nào
Nhận
xét:
- Sửa từ
“thinh”, từ “lóng lánh” là tốt, khăc phục được luôn mấy từ trùng.
- Từ “ẩn
hiện” sửa đúng luật, tránh “lỗi điệp thanh”, nhưng đọc lên lại thấy gợn, thà cứ
để “thấp thoáng”, câu có 4 dấu sắc mà đọc lại thấy êm tai hơn, chưa kể từ “thấp
thoáng” có vẻ “thơ” hơn từ “ẩn hiện”
- Câu 6
để “trăng sáng” mắc “bệnh chánh nữu” (cả câu 5 nữa thành 4 từ cùng phụ âm
S đứng đầu) nhưng vẫn hay hơn là “trăng rạng” (còn nếu tránh dùng lại từ “sáng”
thì thay chữ “rạng” vào câu 1). Cũng vậy, câu 8, “con đường cách mạng”
rộng nghĩa hơn “con đường cứu quốc”, đừng vì “bệnh chính nữu” mà thay đổi.
Qua ví
dụ này, thấy cái gọi là “lỗi Điệp thanh”, “bệnh Chánh nữu” do máy chỉ ra không
cần phải sửa tất cả. Để như cũ lại hay hơn!
Ví dụ
2. Bài thơ ban đầu của tác giả B:
ĐẸP
CHO ĐỜI
Trời ban khéo léo ở đôi tay
Uốn tỉa, tạo hình nên dáng cây
Kìa thế long thăng thân uốn khúc
Đây hình phượng vũ cánh dang bay
Bốn mùa hoa lá khoe hương sắc
Một dãy núi non phô nước mây
Ý tưởng hữu tình Chân-Thiện-Mỹ
Hiến đời cảnh đẹp sống mê say!
Bài thơ
cơ bản là đạt yêu cầu, có ý, tứ , cảm xúc, sử dụng các từ ngữ chuyên dùng của
người chơi sinh vật cảnh, đúng luật, niêm, đối, vận… Khiếm khuyết là dùng lặp
lại các từ “uốn”, “hình”, (do sơ ý chứ không phải có dụng ý để nhấn mạnh) và
một vài câu khổ độc.
Một
người biên tập sử sụng phần mềm Mộc gia trang kiểm tra, máy chỉ ra các lỗi sau:
- Trùng
từ: uốn,
hình
- Phong
yêu: câu1, 3
- Hạc
tất: câu 5, 6
- Tiểu
vận: câu 6
- Chánh
nữu: câu 3, 6
Người
biên tập đã sửa lại bài thơ đó (thay vào các chữ mới nét đậm):
ĐẸP
CHO ĐỜI
Duyên trời khéo léo ở đôi tay
Uốn tỉa, vin
cành tạo dáng cây
Kìa thế rồng
vươn thân khúc cuộn
Đây hình phượng
múa cánh dang bay
Bốn mùa hoa nụ khoe hương sắc
Một rặng núi đồi khỏa nước mây
Ý tưởng hữu tình Chân-Thiện-Mỹ
Hiến đời cảnh đẹp sống mê say!
Kiểm tra
lại, máy thông báo bài thơ sau khi sửa không còn một lỗi nào
Nhận xét:
- Sửa
câu 2 tránh được trùng từ “hình”, lại tránh được khổ độc là tốt.
- Sửa
câu 6 tránh được hạc tất, chánh nữu, khổ độc, cũng tốt.
- Câu
1,5 sửa để tránh “ phong yêu, hạc tất” nhưng không hay. “Trời ban” có ý hay,
không thể thay là “duyên trời”. Từ “hoa nụ” hơi ép, thà cứ để “hoa lá” hay hơn.
- Câu
3,4 không nên sửa các từ “long thăng, phượng vũ” là từ quen dùng của người chơi
sinh vật cảnh, đừng ngại chính nữu. Còn tránh điệp từ “uốn” thì thay bằng
“cuộn” là tốt, vừa tránh được phong yêu.
Ở đây
các “lỗi”, “bệnh” do máy đưa ra máy móc quá, không nhất thiết phải sửa tất cả,
mất đi ý của tác giả, để như cũ hay hơn.
Còn rất,
rất nhiều ví dụ về việc sửa các “lỗi”, “bệnh”, nhưng đưa ra quá rườm rà. Hai ví
dụ trên đã nói về các “lỗi”, “bệnh” phong yêu, hạc tất, điệp thanh, chánh nữu…
rồi. Về “lỗi tiểu vận”, có câu thơ về anh bộ đội về hưu, ban đầu của tác
giả C là:
Thời trẻ mài gươm
gìn đất nước
Tuổi già luyện bút họa thi ca
Người
biên tập theo máy, đã sửa thành;
Thời trẻ mài gươm gìn đất nước
Tuổi nhiều luyện
bút họa thi ca
Đúng là
sửa được “lỗi tiểu vận”, nhưng lại kém đi, “nhiều” sao đối được với “trẻ”?
Tất
nhiên còn phụ thuộc vào trình độ người biên tập sửa “lỗi” “bệnh”, nhưng thực tế
là có bằng ấy từ, muốn tránh “lỗi”, “bệnh” thì phải tìm từ tương đương phù hợp
thanh, âm… để thay thế mà không phải bao giờ cũng tìm được từ đạt yêu
cầu. Người làm thơ Đường luật cứ bị ám ảnh phải tránh cho hết các “lỗi”, “bệnh”
rất rắc rối đó thì có khi không dám làm thơ Đường luật nữa. Người biên tập cũng
theo máy móc đó mà chỉnh sửa thơ của người khác thì “lợn lành hóa lợn què”. Vì
vậy, người viết bài này chỉ muốn gửi một thông điệp là không nên quá câu nệ,
không nên cố theo các quy định rối rắm người ta gán cho thơ Đường luật bằng mọi
giá. Các bậc danh sĩ như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến,
Trần Tế Xương… đâu có tránh cho hết các “lỗi”, “bệnh” này mà sao
*.
PHẠM VĂN DƯƠNG
Địa chỉ: huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Nội.
E.mail: phamvanduong7@gmail.com
Điện thoại: 091.351.0543
.
.
.............................................................................................................
- Cập
nhật từ email: quanboyman1992@yahoo.com.vn ngày 28.09.2020.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét