BÀI THƠ NAM
QUỐC SƠN HÀ
KHÔNG PHẢI
CỦA LÍ THƯỜNG KIỆT
và vấn đề nói dối nói thật của người Việt ta
*
Quả thật chúng ta đã nói
dối quá nhiều, viết dối quá nhiều. Bản thân tôi cũngđã từng nói dối, đã từng
viết dối. Cứ nhớ đến là lại xấu hổ. Đã đến lúc phải nói thật, viết thật. Nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sựthật, là khẩu hiệu của đại
hội VI đảng Cộng sản Việt Nam và cũng là phương châm hành động của những người
Cộng sản chân chính Việt Nam.
Chính tôi đã trực tiếp
nghe từ Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu khuyến khích các
nhà văn nói thật, viết thật, và yêu cầu các nhà văn lấy đó làm tiêu chuẩn đạo
đức nghề nghiệp
của mình.(Nhà thơ Trần Nhuận Minh)
Có một thời kì khá dài,
chúng ta nghĩ rằng: cái gì có lợi cho cách mạng, dù cái đó không diễn ra, vẫn
là sự thật. Còn cái gì không
có lợi cho cách mạng, dù cái đó có diễn ra ngay trước mắt, cũng không phải là
sự thật. Quan niệm này, theo tôi, xuất phát từ câu nói nổi tiếng của Mao Trạch
Đông: “Cái gì có lợi cho cách mạng thì cái đó là chân lí”, mà Nguyễn
Đình Thi thuật lại, trong ghi chép của Hà Minh Đức. Cũng theo Nguyễn Đình Thi,
trong bài nói chuyện về văn nghệ ở Diên An năm 1942, “Mao Trạch Đông phủ
nhận tính người, đề cao tính giai cấp và thực dụng của văn học”. (Nguyễn
Đình Thi – Chim phượng bay từ núi, của Hà Minh Đức, nhà xuất bản Văn học,
2010).
Chúng ta lại phải đánh
giặc, hai lần kháng chiến trường kì, vô cùng gian khổ và ác liệt, cần phải
chiến thắng bằng mọi giá, để giải phóng đất nước, giành độc lập tự do cho dân
tộc, kể cả đốt cháy giải Trường Sơn, nếu cần, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói.
Trong binh pháp cuả mọi thời, mọi quốc gia, ai cũng biết có thuật nghi binh.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, chúng ta cũng dùng thuật nghi binh, làm lạc hướng
chú ý của đối phương để tạo ra chiến thắng áp đảo ngay từ trận đầu… Nhưng áp
dụng nó trong văn chương và học thuật lại là vấn đề khác, có khi tạo ra những
sai lầm vài thế kỉ…
Ví như bài thơ Phóng cuồng ca rất nổi tiếng của Trần Tung, Bồi
tụng Bùi Huy Bích thời Lê ghi là của Trần Quốc Tảng, 200 năm sau, cho đến tận
bây giờ, sai lầm này của ông Bùi vẫn không sửa hết được.
Gần đây là bài thơ Nam
quốc sơn hà… không
phải của Lí Thường Kiệt. Giáo sư Bùi Duy Tân, người thày dạy tôi ở trườngđại
học Tổng hợp Hà Nội, đang điều trị ung thư giai đoạn cuối ở bệnh viện Hữu Nghị,
nhờ con chở đến và xin đăng kí phát biểu trong hội thảo thơ tại nhà Thái Miếu trong
Ngày thơ Việt Nam, chiều Rằm tháng Giêng năm Kỉ Sửu (2009), do nhà thơ Vũ Quần Phương, chủ
tịch hội đồng Thơ chủ trì và tôi là ủy viên hội đồng, được phân công cùng với
nhà thơ Vũ Quần Phương, thực hiện cuộc hội thảo này.
Bài thơ Nam quốc sơn hà
của Lí Thường Kiệt thường được biểu diễn trong màn múa hát dàn dựng theo phong
cách sử thi
rất hoàng tráng với giáo mác oai hùng tại sân khấu chính của Ngày thơ Việt Nam.
Giáo sư nói với chúng tôi rằng: đây là lời phát biểu cuối cùng của ông, vì ông
không biết sẽ “đi” ngày nào. Chúng tôi đã dành cho ông 45 phút, trong khi những
người khác, chỉ có 15 phút. Tại đây, trong không khí linh thiêng của nhà Thái
Miếu, có đốt hương trầm khi hội thảo khai mạc, giáo sư đã chính thức báo cáo
rằng, bài thơ ấy khuyết danh, giáo sư là người đầu tiên gán cho Lí Thường Kiệt
và sau đó, ông cùng những cộng sự của ông và những học trò của ông nữa, đã viết
vào tất cả các loại sách giáo khoa, từ cấp tiểu học đến trên đại học. Và bây
giờ, trong hương khói linh thiêng của Thái Miếu – Quốc Tử giám Thăng Long –Hà
Nội 1000 năm văn hiến, ông chính thức xin lỗi các thế hệ thày giáo và các thế
hệ học trò…
Nghĩ cũng tiếc, bởi bài
thơ mấy chục năm nay, đã được coi là Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc
do Lí Thường Kiệt soạn thảo. Và tên ông, Lí Thường Kiệt, sánh ngang với Nguyễn
Trãi và Hồ Chí
Minh. Bây giờ không phải của Lí Thường Kiệt thì ứng xử ra sao… Thực ra, không
có ý kiến chính thức của giáo sư, bất cứ ai có chút am hiểu về lịch sử và thơ
văn thời Lí, cũng đều biết bài thơ ấy khuyết danh, chỉ là tục truyền, mà ngay
tục truyền cũng không ghi: “tục truyền rằng bài thơ ấy là của Lí Thường Kiệt”,
như sau này ghi tục truyền rằng: những bài thơ Nôm ấy (ám chỉ âm vật và chuyện
buồng the) là của Hồ Xuân Hương (mà không phải của Hồ Xuân Hương).
Tôi tra trong Đại
Việt sử kí toàn thư (1479) tập I, chương Nhân Tông hoàng đế nhà Lí, năm
Bính Thân (1076), vua sai Lí Thường Kiệt đánh Tống trên sông Như Nguyệt. Sau
khi ghi xong cuộc chiến, với thắng lợi lớn rồi, sử gia mới ghi thêm trong ngoặc
đơn (…), nguyên văn như sau
(“Tục truyền rằng, Thường Kiệt đắp luỹ làm rào ở dọc sông để cố giữ. Một đêm các quân sĩ chợt nghe ở
trong đền Trương tướng quân, có tiếng ngâm to rằng: Nam quốc sơn hà nam đế cư…)
Sử gia ghi hết bài thơ 4 câu rồi viết sang việc khác ngay, không ghi bài thơ đó
tục truyền là của ai và kết quả bài thơ ấy trong trận đánh là như thế nào.
Bây giờ, trên các diễn
đàn và trên các sách báo, vẫn có người nói và viết về bài thơ này của Lí Thường
Kiệt… Dù vài năm nay, sách giáo khoa dạy cho học sinh phổ thông trong nhà
trường, bài thơ ấy đã đề khuyết danh rồi. Và một bạn tôi cho hay, bài thơ NAM
QUỐC SƠN HÀ thiếp chữ vàng đề tên Lí Thường Kiệt trong bảo tàng lịch sử nay
cũng không đề tên tác giả nữa. Như thế là sự thật đã được khôi phục theo đúng
tinh thần đại hội VI của Đảng.
Ví như Thơ Nôm truyền
tụng của Hồ Xuân
Hương, một Hồ Xuân Hương dân gian, cũng như một Đoàn Thị Điểm dân gian trong
truyện Trạng Quỳnh, mà tôi đã trình bày lại khá căn kẽ trong các bài đã đăng báo trước đây… Tôi nhớ giáo sư Hoàng
Xuân Hãn hoặc giáo sư Trần Thanh Mại, một trong hai ông, đã kêu to lên rằng: “mồ
cha không khóc đi khóc đám mối”. “Mồ cha”
là Lưu Hương kí, tác phẩm do Hồ Xuân Hương thật sáng tác. “Đám mối” là Thơ
truyền tụng…, sáng tác dân gian gán cho Hồ Xuân Hương. Nó vẫn nguyên giá trị
nếu xét trong phạm trù văn học dân gian, chứ không phải văn chương thành văn,
văn chương bác học của một tác giả có thật. Vậy mà “đám mối” ấy, có trong tất
cả các sách giáo khoa dạy sự trung thực văn hóa cho học trò ở mọi cấp học trong
nước, chưa kể ở nước ngoài…
Được biết có thời kì,
chúng ta còn định
làm hồ sơ để UNESCO công nhận Hồ Xuân Hương (nhân vật dân gian) là thi hào dân
tộc như Hội đồng hòa bình thế giới đã từng công nhận thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Xuân Diệu đã có tập sách Ba thi hào dân tộc: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ
Xuân Hương…Hãy chỉ nói hai vấn đề rất lớn và rất nhỡn tiền trong văn
chương, chưa kể trong các loại khoa học đòi hỏi sự chính xác khác. Ví như
nguyên nhân cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan, sách giáo khoa sử học, ở tất cả các
cấp, hàng vài chục năm, đã viết, do Mai Thúc Loan cùng nông dân Nghệ Tĩnh phải
gánh vải cống sang Trung Hoa cho Dương Quí Phi ăn… mà nổi dậy chống quân nhà
Đường. Khi tra vào tiểu sử Dương Quí Phi thì Mai Thúc Loan khởi nghĩa năm 713,
năm ấy, bố mẹ
Dương Quí Phi còn chưa lấy nhau.
Năm 719, nghĩa là 6 năm
sau, Dương Ngọc Hoàn mới sinh ra, năm 736 mới vào cung, năm 739 mới làm phi cho
vua Đường Minh Hoàng và được gọi là Dương Quí Phi… (chưa kể việc gánh vải vài
chục năm sau ấy, ở Quảng Châu, Trung Hoa, chứ không phải ở Việt Nam). Rồi em bé
Đuốc sống Lê Văn Tám. Tôi đã có 7 năm dạy học (1962 – 1969) và 22 năm làm bí
thư chi đoàn và bí thư
đoàn, (1962 – 1974), thường nêu cao tấm gương anh hùng hiếm có của anh.
Nhưng chỉ một lần, đến
thăm kho xăng ở Hà
Khẩu, thị xã Hồng Gai, một kho xăng loại nhỏ, sau khi nghe thuyết trình về hệ thống cấu trúc, bảo
ôn, và nguyên tắc bảo vệ của các kho xăng, tôi đã nghi ngờ chuyện Lê Văn Tám là
bịa rồi… Biết
bao trường học, con đường,
công viên… hiện
vẫn còn mang tên Lê Văn Tám… Gần đây, giáo sư Phan Huy Lê, một nhà sử học đầu ngành và là chủ
tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã công bố công khai trên báo chí và trên
Đài Truyền hình Việt Nam, ý kiến của giáo sư Trần Huy Liệu, trước khi mất (cũng
giống như giáo sư Bùi Duy Tân) về việc ông, khi làm Bộ trưởng tuyên truyền, đã
tạo ra hình tượng anh hùng này, chỉ để tuyên truyền trong kháng chiến chống
Pháp, thì tôi tin ngay và càng thêm kính trọng nhân cách hai vị giáo sư.
Rồi cành đào Thăng Long
mà vua Quang Trung gửi tặng Ngọc Hân công chuá đang ở Phú Xuân (Huế) là do một
nhà viết chèo bịa ra, sau này được sử dụng trong nhiều cuốn sách như một tư
liệu chính thức về mối tình cao đẹp của vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.
Gần đây, tôi được biết
tại nhà thờ danh
nhân văn hóa Chu Văn An (Chu An) tại Chí Linh, Hải Dương có dòng chữ sơn son
thiếp vàng lớn để thờ: “Ta chưa thấy nước nào coi thường sự học mà khá lên được”. Dưới câu đại tự
đó đề CHU VĂN AN, như một câu danh ngôn “Hiền tài là nguyên khí quốc gia…”
của Thân Nhân Trung vậy. Ai cũng ngạc nhiên vì chưa từng thấy Chu An nói thế,
viết thế bao giờ. Sau hỏi ra mới biết đó là lời thoại trên sân khấu của nhân
vật Chu An trong một vở kịch chèo. Vậy đó là lời của nhà viết chèo hôm nay đấy
chứ. Chao ôi, cái nước mình nó thế (lời nhà văn Hoàng Ngọc Hiến) các nhà sử học
chân chính, các nhà văn hoá thứ thiệt đi đâu cả rồi…
Ấy là chưa kể “phát minh
khoa học” lạ
lùng: “ăn ngô bổ hơn ăn gạo” … vân
vân và vân vân…
Tôi có câu thơ: Ngày
vĩ đại là ngày không nói dối… Bởi tôi biết “không nói dối” là một điều rất khó
tránh và không ít trường hợp, ta dùng nó như một phương tiện hành xử. Vì những
lời nói dối, dễ được nghe hơn những lời nói thật, nhất là với đàn bà, trẻ con
và các cấp trên.
Ví như tôi thường kể cho
các cháu ngoại nghe về lòng tốt đến không thể nào có, của các bà tiên, ông bụt,
trong các chuyện cổ, mà đương nhiên là tôi vẫn biết đó là những điều bịa tạc
giả dối.
Ngay từ lúc lọt lòng,
mình đã dạy thế hệ sau sự giả dối rồi…Vậy thì còn biết trách ai đây ?…
*.
TRẦN NHUẬN MINH
Địa chỉ: số nhà 47, Lê Thánh
Tông, Hồng Gai,
thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh.
Email: trannhuanminh44@gmai.com
Điện thoại: 091.326.81.28
.
.
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác
giả gửi qua email ngày 15.04.2020.
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét