*
“Này các Kalama, chớ có tin
vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền
thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì lý luận suy
diễn; chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ
kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy
quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. (Tác giả Nguyên Giác)
Phải
nghi trước, rồi gỡ được nỗi nghi xong, bấy giờ tin tưởng mới chắc thật. Đó là
chuyện của người tộc họ Kalama ở thành phố Kesaputta thời hơn 2,500 năm về
trước. Thực tế, thời nào cũng có người Kalama, chứ không phải chỉ trong thời xa
xưa. Có thể đoán rằng, những người mang dòng máu Kalama mạnh nhất, hẳn là các
nhà khoa học – thí dụ, như các nhà vật lý thiên tài Albert Einstein, Stephen
Hawking… Chớ hòng ai thuyết phục họ tin cái gì không thuận lý.
Đức
Phật cũng đã dạy người Kalama qua Kinh Kalama Sutta (AN 3.65), bản dịch của HT
Thích Minh Châu viết, trích:
“Này
các Kalama, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ
có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có
tin vì lý luận suy diễn; chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh
giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì
phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.
Nhưng
này các Kalama, khi nào tự mình biết như sau: “Các pháp này là thiện; Các pháp
này là không đáng chê; Các pháp này không bị các người có trí chỉ trích; Các
pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc”, thời này Kalama,
hãy tự đạt đến và an trú!”
Nhà
vật lý lý thuyết Albert Einstein (1879 — 1955) từ khi chưa nổi tiếng đã nghi
ngờ lý thuyết của Isaac Newton, và rồi khi Einstein tự tính toán ra các công
thức về lý thuyết tương đối, cũng tự nghi ngờ rằng có thể các bài toán của ông
tính sai. Nhưng rồi, thế giới khoa học công nhận lý thuyết tương đối, và trao
cho Einstein Giải Nobel Vật Lý 1921.
Điều
chúng ta muốn nói nơi đây rằng, Einstein sinh trong gia đình truyền thống Đạo
Do Thái Ashkenazi Jews, rồi cậu Einstein học ba năm bậc tiểu học ở một trường
Công Giáo tại Munich.
Nhưng
rồi, sau nhiều thập niên suy nghĩ với các lý thuyết khoa học, Einstein nói rằng
không hề có Thượng Đế sáng tạo nào cả.
Mới
tuần trước, có bản tin ghi rằng một lá thư viết tay của Albert Einstein sẽ bán
đấu giá ngày 4 tháng 12/2018 tại công ty đấu giá Christie’s ở New York
City. Thư này viết một năm trước khi Einstein từ trần năm 1955, dự kiến bán ra
được giá từ 1 triệu tới 1.5 triệu đôla.
Einstein
viết tay lá thư này, trong tháng 1/1954, gửi triết gia về tôn giáo học
Erik Gutkind sau khi đọc nhiều sách của Gutkind về Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo.
Thư viết bằng tiếng Đức, trước tiên là ca ngợi Gutkind đã có chung một nỗ lực
muốn làm tốt đẹp cho cõi nhân sinh, và rồi viết:
“Chữ
God (Thượng Đế) với tôi không có nghĩa là gì cả, chỉ duy là một bày tỏ và là
sản phẩm của sự yếu đuối của nhân loại, còn Bible (Kinh Thánh) là một tuyển tập
các huyền thoại đáng kính nhưng khá là sơ khai.”
Cũng
trong thư này, Einstein nói về huyết thống Do Thái của ông, chất vấn câu chuyện
[trong Kinh Thánh] rằng Do Thái là “dân tộc được chọn.”
Nơi
đây, chúng ta không có ý làm tổn thương những người có niềm tin như Gutkind,
cũng không bàn chuyện Einstein dựa vào công thức toán nào, đúng hay sai, để đưa
ra kết luận như thế — chỉ muốn nói rằng Einstein là một người Kalama tuyệt vời.
Một
người Kalama nổi tiếng khác: nhà khoa học Anh quốc Stephen Hawking (1942
–2018), từ thời thơ ấu đã được gọi là cậu bé Einstein. Thời trung học vào
trường St Albans School, nơi đây chơi với một nhóm bạn và rồi tình thân
này kéo dài trong đời, để rồi thường xuyên gặp nhau để chơi cờ, và có những
cuộc thảo luận dài về Thiên Chúa Giáo và lĩnh vực ngoại cảm.
Cả
Einstein và Hawking đều được gọi là những nhà vật lý lý thuyết thông minh nhất
trong thế hệ của riêng họ, và đều là những người khai sáng các chân trời mới
cho khoa học nhân loại.
Mới
hôm Thứ Ba 16/10/2018, báo chí loan tin rằng Hawking lên tiếng từ nấm mồ: tác
phẩm “Brief Answers to the Big Questions” gồm các bài ông viết trong vài
tháng cuối đời, mới phát hành, ghi rằng: “Không có Thượng Đế. Không ai chỉ
huy vũ trụ này hết.”
Hawking
cũng là một người Kalama tuyệt vời. Và rất là tế nhị, không nỡ làm nhiều người
bạn trong đời buồn: sau khi ông từ trần, mới cho in sách nói rằng chẳng có
Thượng Đế sáng tạo nào cả.
Xin
nhắc lại, bài viết này cũng không có ý tranh cãi gì khác, chỉ thuần thông tin
thôi.
Còn
một nhà khoa học khác hình như cũng có tiền thân là người Kalama: ông này tên
là Lal Ariyaratna Pinnaduwage, từng là Khoa học gia cao cấp ở phòng thí
nghiệm Oak Ridge National Laboratory và là giáo sư về nghiên cứu ở đại
học University of Tennessee. Ông tâm sự rằng, ông sinh ra đã là Phật Tử (vì là
người Sri Lanka) nhưng không tu tập gì, chỉ tới khi về hưu năm 2009 mới nghiên
cứu trở lại Phật giáo.
Nơi
đây, chúng ta không có ý nói rằng Pinnaduwage là một người Kalama tuyệt vời, vì
ông đụng chạm khá nhiều, ngay cả trong Phật giáo. Ông lập trang web có tên
là Pure Dhamma, nói rằng ông đọc hết các Tạng Kinh và kết luận rằng
Phật pháp thuần túy là phải trước tiên loại trừ Đại Thừa, Kim Cang Thừa (PG Tây
Tạng) và Thiền Tông.
Như
thế, ông giáo về hưu này đụng chạm quá nhiều. Trước tiên là với bản thân tôi,
người tu học cả ba truyền thống trên (theo học pháp từ Chùa Tây Tạng Bình
Dương, với pháp phái Lâm Tế). Cũng không tranh cãi nơi đây làm chi, chỉ ghi để
biết rằng, người Kalama trong cõi này rất nhiều, và chúng ta mỗi người đều phải
tự tìm kiếm.
Ông
giáo Pinnaduwage viết rằng ông đọc nhiều bản văn nhà Phật bằng tiếng Sinhala
(ngôn ngữ của Sri Lanka) nhưng các bản văn này chưa ai dịch ra tiếng Pali hay
Anh văn. Ông nói rằng, theo nghiên cứu của ông, nhiều luận thư cũng phải gạt bỏ
ra, vì không phải Phật pháp thuần túy (ý muốn nói là tinh ròng, không xen tạp)
– trong đó phải gạt bỏ cả Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga) của ngài
Buddhaghosa vì có pha tư tưởng Vệ Đà.
Tôi
cũng không có ý tranh cãi với ông giáo Sri Lanka đó làm chi, vì chắc chắn rằng
vị cư sĩ đó đọc quá nhiều (hiển nhiên, tôi không biết đọc các bản văn viết bằng
ngôn ngữ Sinhala). Nơi đây, chỉ muốn nói rằng có rất nhiều người Kalama
trong cõi này. Kể cả, trong số đó, cư sĩ Pinnaduwage không nổi tiếng như
Einstein và Hawking.
Tới
đây, xin nói sang chuyện mình. Bản thân tôi chỉ là người cư sĩ bình thường,
không phải nhà vật lý lý thuyết, cũng không phải luận sư hay pháp sư hay bất cứ
những gì đáng kính trong cõi này. Nhưng có bạn đọc chất vấn rằng sao tôi có vẻ
như người Kalama.
Câu
chuyện là như thế này: tôi không hoàn toàn tin vào luận thư, dù là tiếng Pali.
Tôi tin vào kinh hơn, tuy rằng cũng có kinh pha tạp. Lập trường này không xa lạ
gì, vì thời xa xưa đã có quý ngài Sautrantikas không tin các bộ A Tỳ Đàm
(Abhidhamma) vì cho là hậu tác. Sautrantikas còn gọi là Kinh lượng bộ, chỉ đặt
nền tảng trên Kinh tạng, và đưa ra các luận cứ phản bác Luận tạng.
Nhìn
lại, các luận thư vẫn có lợi, có nhiều chỗ phù hợp và làm sáng tỏ ý kinh, nhưng
cũng có nhiều chỗ đi quá đà, nói những điểm không hề có trong kinh, nghĩa là
đưa ra những ý Đức Phật không hề nói.
Nhiều
học giả nêu ra ý này: Đức Phật không hề nói gì về 17 khoảnh khắc của tâm (17
thought moments), trong khi Luận thư nói rằng một niệm (a single thought
process) gồm 17 khoảnh khắc của tâm trải dài qua ba giai đoạn sinh khởi, trụ và
diệt.
Một
số học giả cũng nêu nghi vấn về chuyện nói rằng nghiệp người phụ nữ xấu tệ hại
y hệt như người có nam căn bất toàn, người bị hoạn và người chuyển giới – trong
khi Đức Phật trong kinh lại nói về tất cả những ai mang thân người đều là đại
cơ duyên, đặc biệt nói về người phụ nữ rất đằm thắm, rất trân trọng, khi trả
lời ngài A Nan rằng khi gặp phụ nữ (nếu có khởi dị tâm) thì nên xem họ như mẹ,
như chị của mình…
Tôi
cũng ngờ vực (nhưng không chứng minh được) rằng Kinh Pháp Hoa phải do một vị
Thánh Ni viết, không phải chuyện nữ quyền đời thường, nhưng hẳn là để nói lại
cho đúng ý Đức Phật mà xã hội trọng nam thời kỳ đó đã làm biến dạng ý kinh.
Có
người nói rằng Luận thư là do các bậc đại tăng kết tập. Đúng vậy. Nên nghi vấn
rằng, thử giả thuyết, nếu để cho các đại tăng Thái Lan thời nay kết tập kinh
điển, hẳn là quý ngài sẽ cấm vĩnh viễn thành lập Ni đoàn. Chuyện này đã là một
nan đề trong Vesak 2014 tại Việt Nam, khi ngài Ajahn Brahm (một trưởng lão ở Úc
châu) được GHPGVN mời đọc bài diễn văn trong Vesak vào tháng 5/2014, nhưng rồi
vì áp lực các đại tăng Thái Lan, nên giờ chót không cho ngài Ajahn Brahm đọc bài
diễn văn. Bài diễn văn đó có chủ đề Bình Đẳng Tính Phái trong Theravada. Xem
bản tin và bài diễn văn ở đây:
http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=70,11880,0,0,1,0#.W8e4TntKi70
Như
thế, nếu Luận thư do các đại tăng Thái Lan soạn, sẽ khác với Luận thư do các
đại tăng từ Úc châu kết tập.
Thêm
nữa, cũng có nghi vấn: nếu đại tăng Thái Lan kết tập kinh điển, hẳn là có áp
lực từ vương triều Thái Lan (kiểu phong kiến là thế), trong khi đại tăng Úc
châu kết tập sẽ tự do hơn.
Đó
là chưa kể, nếu Luận thư do các đại tăng Việt Nam soạn, chắc gì quý ngài Tiến
sĩ nơi phố thị có trình độ giác ngộ như một số vị ẩn tăng nơi núi rừng? Đó là
chưa kể, Tiến sĩ Phật giáo học từ Miến Điện, sẽ khác với Tiến sĩ học từ Đài
Loan, và hẳn sẽ khác với học từ Đại học Mỹ.
Nhắc
lại, nơi đây không có ý làm cho chuyện mất vui, chỉ muốn nói rằng có khi nên
thực hiện lời Đức Phật dạy trong Kinh Kalama.
Thí
dụ như về Thiền Tông. Sách Vô Môn Quan nói rằng pháp này là cửa không cửa.
Không cửa thì sao mà vào? Thêm nữa, Thiền Tông lại nói rằng pháp này nằm ngoài
kinh điển (giáo ngoại biệt truyền)… Dĩ nhiên, quý Tổ sư tin thật như thế, và
tôi đã tin thật như thế (tôi từng nghĩ, Đức Phật tuyệt vời, pháp này là không
lời mà truyền dạy…).
Tôi
từng đọc trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông, Quyển I, bản dịch của Nhẫn Tế
Thiền Sư, có chỗ ghi lời một vị sư hỏi Tổ Bá Trượng: “Trước đến giờ, chư Tổ
đều có Mật Ngữ trao truyền cho nhau là thế nào?”
Tổ
Bá Trượng mới đáp: “Không có lời Mật. Như Lai không có Bí Mật Tạng. Chỉ như
bây giờ soi tỏ ý nghĩa cho rõ ràng, tìm kiếm hình tướng, rõ là bất khả đắc, đó
là Mật Ngữ… Chỉ có lời nói, tức chẳng được chấp nhận vậy. Liễu Nghĩa Giáo đều
chẳng phải là gì hết thảy (Phi), thì còn tìm kiếm Mật Ngữ nào?”
Trong
phần Tông Thông có lời bình (hiểu là luận thư của Thiền Tông), có ghi câu: “Theo
chỗ thấy của Tổ Bá Trượng, thì một chữ Mật cũng phải mửa ra luôn, Liễu Nghĩa
Giáo cũng chẳng lập, mới có thể gọi là hướng lên ngàn Phật Đảnh mà đi.” (https://thuvienhoasen.org/p17a1221/quyen-i)
Đó
là các lời của Tổ Bá Trượng thoạt nghe cứ tưởng như Đức Phật không hề nói trong
Kinh Tạng… Cho tới khi tôi (cũng là một người Kamala) đọc lại Tạng Pali, qua
các bản dịch Anh văn, và rồi khám phá… Không ngờ Đức Phật cũng đã nói lời như
thế. Từ rất xa xưa, và trở thành kinh nhật tụng xưa thật xưa. Tuyệt vời. Đâu có
phải là giáo ngoại biệt truyền.
*
Cư sĩ NGUYÊN GIÁC
(tên thật: Phan Tấn Hải)
Địa chỉ: California, Hoa Kỳ.
Emai: nguyengiac@gmail.com
...............................................................................................................
- Cập nhật từ email: thaiquocmuu1@aol.com ngày 23.10.2020
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại..
.
0 comments:
Đăng nhận xét