KHI
KHOA HỌC
NHÌN
THẤY ĐỨC PHẬT
*
Theo Nhụy Nguyên thì: Bầu trời chúng ta đang ngước nhìn,
khoa học ước đếm có hàng tỉ ngôi sao. Mà trái đất chưa thể lớn bằng một ngôi
sao. Phi thuyền của nhân loại mới chỉ bay đến một số ngôi sao trong hệ ngân hà.
Kinh Phật mô tả, một dải ngân hà được gọi là đơn vị thế giới. Cứ một ngàn dải
ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới là
một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế
giới. Trong vũ trụ lại có trùng trùng đại thiên thế giới như vậy. Người tu đạt
toàn giác (Phật) tức câu thông với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ
trụ, rồi đem sự thấy biết đó nói lại với các cõi nước thấp thua. Phật do vậy có
thể hiểu đồng nghĩa với vũ trụ. Để thấy rằng Phật không sáng tạo ra vũ trụ,
không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn thường hằng từ vô thỉ
dù cho Phật có ra đời hay không.
Những khám phá vĩ đại của ngành khoa học vật lý lượng tử
đem đối sánh với kinh điển nhà Phật đã phần nào hé lộ chân tướng vũ trụ trong
con mắt và sự hiểu biết của loài người. Khám phá về đời sống thực vật, cũng vui
ghét giận hờn trước thái độ đối xử của con người. Một kẻ cầm dao chặt cây, từ
trường đo được méo xệch chứng tỏ cây đang run sợ. Cũng cầm dao song người ấy chỉ
giả bộ, từ trường phẳng lặng cho thấy cây đi guốc trong bụng người. Rồi cùng
thể “vô tình” với cây là nước; khoa học phát hiện nước có biểu cảm, có “kiến,
văn, giác, tri”; nước hiểu sâu sắc ý nghĩ cũng như mọi ngôn ngữ trên hành tinh.
Thậm chí cốc nước đặt ở Nhật, nếu một người ở Việt Nam quán tưởng yêu thương
hay hờn giận một chiều, khi đem kết tinh, chụp lại sẽ cho ra hình ảnh đẹp như
kim cương hay xấu như trái thối ứng với niệm của người đã quán đó; có nghĩa
không gian bị xóa nhòa. Việc thu tần sóng giữa trời đất cũng phần nào biểu hiện
không gian đã bị thu hẹp đến mức nào. Nếu thật có khoảng cách không gian, thì
trong một giây sao cách đại dương có thể bắt được sóng của nhau? Và nếu thời
gian là thật tại sao những sự kiện xảy ra trong quá khứ, bằng phát minh khoa
học thu được nó vẫn vẹn nguyên tồn lưu trong không gian mênh mông này.
Người ta từng tách mẹ con nhà hươu ra nhốt ở hai quốc gia
xa lạ. Hễ mỗi lần đưa một hươu con ra bắn thì từ trường của hươu mẹ (ở quốc gia
khác) “rùng mình”! Trong nhà Phật tuyệt đối không ủng hộ thí nghiệm trái đạo
này, song qua đây cho thấy ý nghĩ/ý niệm của động vật nói chung đều trong một
sát na trùm phủ khắp hành tinh. Chúng ta sẽ rõ hơn qua “câu chuyện” sau: Nước
Mỹ từng có hai vệ tinh đặt ở bắc bán cầu và nam bán cầu để đo từ trường của
trái đất. Một ngày tháng 9 năm 2001 bỗng từ trường của trái đất cong vênh.
Những nhà khoa học trực tại đây chưa từng thấy hiện tượng đột biến này. Đến lúc
những chiếc boeing đâm vào tòa tháp đôi newyork gây ra đại họa thảm khốc, mới
vỡ lẽ. Trong nhà Phật cũng có câu chuyện về một kẻ, do chuyên khởi niệm quái ác
nên hễ đến trú ngụ nơi đâu thì vùng ấy gặp thiên tai. Nay một nhóm người ít ỏi
phát ý niệm cực xấu, nguy cơ làm hại nhiều người đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến
từ trường trái đất. Phật pháp từng nêu: sóng thần, động đất... cơ bản là do con
người chiêu cảm nghiệp lực từ lòng sân hận, đố kỵ, tham si, giết hại chúng sanh
quá tàn ác, gây nên “bão từ”... Hiển nhiên, và hết sức khoa học, nhưng khoa học
thì vẫn chưa dễ tin sâu và chưa dễ lấy đó làm kim chỉ nam cho tương lai của quả
địa cầu đang gồng mình trụ thế.
Khi một cái gì đó quá cao, vượt ngoài sức tưởng tượng của
con người thì thường bị quy là mê tín... Khoa học không chứng minh được điều:
kinh điển Phật giáo là "cổ tích"; mà sự thật đang tiến triển theo
chiều ngược lại khiến kinh điển càng ngời sáng dẫu những câu chữ ấy được nói
cách gần ba ngàn năm về trước. Cũng để thấy, tất thảy những gì Phật thuyết đều
tơ hào không sai, và dĩ nhiên con người trong Tam giới sẽ có nguy cơ sa vào
cảnh giới ác đạo một khi chấp chặt vào tri kiến thế gian.
Đạo Phật không hề có một chế định nào có tính ép buộc ai
quy y, cũng không cản trở người quy y hoàn tục. Kinh điển là phác họa một cách
chi tiết hình hài vũ trụ. “Tin thì tin không tin thì thôi” - đơn giản như một
câu thơ vậy. Công việc không mệt mỏi của Bồ tát chúng là len lỏi vào các giai
tầng xã hội thuyết giảng để làm hưng vượng giáo lý tối thượng, tiếp nối bổn
hoài và huệ mạng của chư Phật. Nếu nhất nhất pháp chỉ có trong kinh điển là “bé
cái nhầm”. Bồ tát cần thân gì để độ liền hóa hiện thân ấy. Một cao tăng từng
ví, nếu Phật pháp là ngôi nhà ba tầng thì tầng thứ nhất là Nho, tầng thứ hai là
Đạo, tầng trên hết là Phật. Ai chưa vào được Phật giáo Đại thừa hãy học kỹ Nho,
Đạo trước. Lão Tử gần Phật nhất; Đạo ở mức thấp hơn nên dễ đứng vững trong kiến
trúc thượng tầng xã hội. Cái "Không" (không là gọi cái bản thủy trời
đất) trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử xem ra còn hạn chế so với Tánh Không hay
“sắc tức thị không không tức thị sắc” trong Bát Nhã. Tuy xét đến cùng, Lão Tử
cũng là Bồ tát vô vi sanh tử rộng độ quần sanh. Một người tốt bình thường không
chừng cũng là Phật “cải trang” trở lại nhân gian huống hồ đến bậc cao siêu như
Lão Tử. Nghe “lời than”: Ta có mối lo là có thân này, đủ biết ông này đang thay
Phật biểu diễn. Thế mới thấm thía ý câu nói của một vị tổ sư trong Tịnh tông:
Chỉ ta là phàm phu lè tè sát đất, cần bao dung khiêm hòa đối đãi với tất cả vạn
sự vạn vật thì mới mong nhập vào dòng thánh. Nếu ai đó nghĩ ta tốt thì ta là
người tốt, nếu nghĩ xấu thì ngược lại... Trong mắt ta phải thật không có người
xấu. Nếu A tàn nhẫn với B, thì A mới là người đáng thương hơn, bởi A vô minh và
nghiệp A nhận sẽ nặng bội phần. Hãy thương lấy A, phát ý niệm thanh tịnh về A;
cho những ai tương đồng mê lầm sớm tiếp nhận Phật pháp nhiệm màu.
Dẫu rằng, điều nhiệm màu luôn khó tin. Ngay đến người học
Phật cũng còn tồn nghi; nghi Phật giáo Đại thừa, nghi pháp môn Tịnh độ. Học
Phật chưa thấm thì mặt mũi như mèo sáng sớm. Thấm rồi lúc nào cũng vui. Buồn,
người ta bảo học Phật khổ sở vậy theo làm gì (tội này ta phải gánh). Vui, mọi
người nhìn vào sẽ bảo: ờ, học Phật quả lợi ích, nên theo… Mọi pháp Phật thuyết
đều bình đẳng “vô hữu cao hạ”, tùy vào căn cơ từng người. Cùng bệnh cùng thuốc
song không phải ai cũng lành là vì vậy. Một trong những thông điệp căn cốt Phật
đưa ra là: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng, trí huệ Như Lai, chỉ vì vọng
tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc”. Hễ ai muốn thành Phật chỉ cần buông
vọng tưởng và chấp trước, mà quan trọng nhất là vọng tưởng. Khoa học chứng
minh, phần nhiều năng lượng con người tiêu hao bởi vọng tưởng. Một người nằm
trên giường nghỉ ngơi mà đầu óc chồng chéo cuồng loạn với bao ý nghĩ (chưa cần
nói đến ý nghĩ xấu) thì năng lượng tiêu hao chẳng thua người bửa củi ngoài sân.
Nhiều vọng tưởng cần phải ăn nhiều ăn bổ để bù lại sức, ít vọng tưởng thì cơ
thể cần chút cháo cũng khỏe mạnh minh mẫn; nhiều vị sư ăn ngày một muỗng cơm
hay hạt mè chính là từ nguyên lý này. Vọng tưởng ít, điều dễ nhận thấy là đêm
nằm vắng dần ác mộng, mơ mộng cái đẹp cũng thưa. Vọng tưởng có thể ví như bèo
tấm trên mặt hồ (tâm). Bớt vọng tưởng, bèo (tạp niệm, giấc mộng) liền dãn ra
tươi xanh, nước hồ nhờ vậy cũng bớt ô nhiễm.
Khoa học kiểm chứng vọng tưởng là kẻ thù tiêu hao năng
lượng trong cơ thể người, lại không cách gì trừ diệt. Tịnh độ tông khuyên người
niệm “A Di Đà Phật”. Bất kể lúc nào không vướng công việc buộc phải nghĩ suy,
trong tâm đều vang lên câu hồng danh, một thời gian vọng tưởng tự khắc thưa
bớt. Đây quả là điều kỳ diệu nhất trong những điều kỳ diệu. Tỉnh giác trong mọi
lúc mọi nơi. Giả như Phật tử phải tham gia vào một cuộc vui. Giữa ồn ào náo
nhiệt, Phật tử tùy duyên nâng ly “khai giới”, vẻ mặt cười nói hòa đồng mà trong
tâm thì niệm “A Di Đà Phật” (niệm câu nào tai nghe rõ câu đó), vậy là thiền
ngay trong cuộc thị phi nhơn ngã. Niệm Phật phải đến độ ví như nửa đêm tỉnh
giấc, câu Phật hiệu tự nhiên vang lên; hoặc sáng ra choàng tỉnh tự hỏi: ủa, ai
bật “máy niệm Phật” trong tâm mình rồi nhỉ. Đó là biểu hiện người tu đã có công
phu, toàn vọng đang dần quy chân, đạo lộ hướng về cõi màu nhiệm thật sự đã hé
mở trong mê lộ của tâm.
*
Đạo Phật không phải triết học, càng không phải là một tôn
giáo. Đạo Phật là tấm gương phản chiếu quy luật vận hành của vũ trụ nhân sinh
vô cùng tận nên trong nó sẵn chứa điều huyền nhiệm và tầng triết học siêu việt.
Nếu chẳng tính căn duyên những kiếp trước (như trường hợp người ngu dốt lại một
lòng theo Phật); nếu chỉ xét sở tri nhân thế, thì đến như Albert Einstein với
bộ óc thông tuệ tuyệt vời mới tin nổi lời Phật.
Nhiều bậc chân sư thời hiện đại đã rất bội phục việc khoa
học phát hiện ra ý niệm tạo nên cảnh giới. Người nào ngày đêm với một ý nghĩ
(ước muốn) thường trực, đến quay cuồng, quy luật hấp dẫn tự nhiên theo đó sẽ
tạo nên những điều kiện phù hợp để người ấy nắm lấy mà kiến tạo tương lai. Dĩ
nhiên điều này còn phụ thuộc vào phước đức, căn mạng từng người. Một nhà khoa
học từng vẽ ngôi nhà mơ ước, rồi ông xếp nó vào hộp, thời gian cứ trôi và gia
đình ông chuyển đến nơi khác sinh sống. Một ngày sực nhớ bức vẽ, ông lấy ra xem
bỗng giật mình: ông đang sống trong ngôi nhà với hình dáng kể cả những sắp đặt
nội thất giống y ngôi nhà mơ ước nhiều năm trước. Trong Phật pháp gọi là “duy
tâm sở hiện”, hay “Phật do tâm sanh”. Càng đúng với ai đó trong cuộc sống luôn
với ý nghĩ và hành động tham (nguy cơ tạo cho mình cảnh giới ngạ quỷ ở kiếp
sau), sân (nguy cơ tạo cảnh giới địa ngục), si (nguy cơ tạo cảnh giới súc
sanh), v.v. Đáng lưu tâm: nguyên lý trên dễ đưa con người lệch đạo. Những mơ
ước vật chất đa phần người đời mong đạt để phục vụ sự hưởng thụ, gần như là con
đường ngắn nhất đưa đến khổ đau và cũng là con đường ngắn nhất đưa họ càng dấn
thân càng lún sâu vào đất như ý một câu trong kinh Địa Tạng. Hôm nay nhà dột
vách xiêu liền sốt sắng kiếm tiền sửa sang; hôm mai xe trục trặc liền nảy ý đổi
cái mới, rồi tạm quên việc bố thí, trì giới... Những ước mong tầm thường nhiều
khi vô tình khiến cho nguyện vãng sanh lui xuống hàng thứ yếu mà người tu không
hay. Vậy là “giấc mơ con” đè nát nguyện lực vĩ đại trong tầm tay. Người tu là
người biết nương vào tự nhiên, hài hòa cùng tự nhiên mà sống, không cầu gì ghê
gớm ngoài nguyện chí thành vãng sanh ngay đời này. Đó là chánh kiến. Mọi nguyện
lực phải được gom/thay thế thành nguyện lực vãng sanh. Như Ngài Ngẫu Ích Đại sư
có dạy: “Được vãng sanh hay không là do Tín - Nguyện, phẩm vị cao hay thấp là
do công phu Trì Danh sâu hay cạn”. Ứớc muốn nào khiến nguyện vãng sanh Tây
phương Cực lạc thế giới phải xếp hàng đều là phá kiến, tàn hoại cái thân thể vô
ngần quý giá chẳng dám mơ sẽ có lại ở kiếp sau.
Một ý niệm phát xuất liền bao trùm, châu biến tận hư
không pháp giới. Một cá nhân với những ý niệm cực xấu hoặc cực tốt trong suốt
cuộc đời đều có ảnh hưởng đến cả cộng đồng. Mỗi cá thể không tách biệt mà có
tác động nhất định đến “tính nết” của trái đất. Thế nên việc ta đóng cửa tha hồ
làm việc xấu, tha hồ phát xuất ý nghĩ yêu ma quỷ quái, thật tai hại vì nó tiếp
thêm sức mạnh cho nghiệp chướng. Ngược lại, một người luôn với ý nghĩ thuần
thiện, cao hơn là không cả nghĩ thiện nghĩ ác mà tâm ý chỉ một câu “A Di Đà
Phật”, vậy đã góp công lớn cho sự an bình của trái đất; cá thể ấy dẫu quanh năm
suốt tháng không giúp đỡ ai song đó là của quý/hiếm giữa trời đất rồi. Thói
thường phân biệt người này tốt kẻ kia xấu, không hay nếu ta cứ nhìn sâu Phật
tính trong mọi chúng sanh chẳng những họ mà chính mình cũng mở lượng từ bi và
ánh sáng tâm linh vi diệu rọi vào. Đây chính là điều khoa học cảm nhận được và
khuyến cáo: Thay vì chống chiến tranh hãy ủng hộ hòa bình.
Trong các nghiệp, ý nghiệp nguy hiểm vô cùng. Ý nghĩ/ý niệm
như những con mọt nghiền trong thớ gỗ; nhìn ngoài bóng bẩy trơn tru song khi
phát hiện ra một chỗ hư, mới hay lòng cột đã rỗng. Thân tâm ta cũng sẽ mục
ruỗng bởi nghiệp ý. Tâm khởi những ý xấu là rơi vào trận đồ của ma. Giả như đến
cả ý nghĩ thiện mà ta cứ "nhấm nháp" mãi, thực ra đang bị nó xỏ mũi
lôi vào mù mịt; ấy là bộ mặt của vọng tưởng; rồi đến phân biệt (ngon - dở, xấu
- đẹp), chấp trước (nguy nhất là chấp ta (tâm) đồng nhất với thân). Pháp môn
niệm Phật thù thắng ở cả phương diện đời thường đến giải thoát bởi, hễ nghiệp ý
khởi lên thì thay ngay vào từng chuỗi “A Di Đà Phật” sẽ là thần dược số một đặc
trị phiền não, tâm sẽ tự hướng đến những giá trị thanh cao thuần khiết.
Chuyên tâm niệm Phật, tâm sở thiện và bất thiện được quân
bình, cao nữa thì tâm sở bất thiện triệt diệt. Công phu vượt thắng, niệm thiện
cũng vắng nốt; là thời điểm tâm bắt đầu trong lặng rồi phát huy công năng vi
diệu. Tâm sáng thân sẽ ít bệnh, hoặc như gặp bệnh hiểm nghèo vẫn có thể tự chữa
bằng sự việc “không biết” trong thân mình có căn bệnh. Người niệm Phật chữa
lành bệnh nan y kể không hết. Bác sĩ Ihaleakala Hewlen đã học được truyền thống
tâm linh cổ xưa của thổ dân Hawaii chữa cho hầu hết người bệnh tâm thần bằng
việc hướng vào nội tâm, đến nỗi bệnh viện nơi ông làm việc phải đóng cửa vì
không còn bệnh nhân. Nghĩa là bác sĩ không hề động chạm gì tới con bệnh mà chỉ
quán thấy trong tâm, trong ý nghĩ của mình người kia hoàn toàn không có bệnh...
Theo lý Phật, bệnh ấy (hay tính xấu ác của đối tượng) chỉ là tập tánh huân tụ
lâu dài chứ không phải bản tánh. “Tự tánh hằng thanh tịnh”. Chỉ cần trở lại
“không” thì dạng vọng tưởng kia biến mất. Bởi vậy một người có khối u, nếu lo
lắng, tâm lý nặng nề khối u phát triển càng nhanh. Tập “quên” nó đi, sống vì
niềm vui của người khác, và tốt nhất là chuyên niệm Phật, khối u ít nhất không
phát triển trong thời gian lâu hơn nhiều so với cách chữa trị theo Tây y lại
tốn nhiều tiền bạc. Sở dĩ người ta quên hẳn căn bệnh bởi tâm họ pháp hỉ sung
mãn, vắng bặt vọng tưởng. Bệnh chỉ là sự ghé thăm của nghiệp thức, họ làm chủ
được. Hòa thượng Quảng Khâm về già có lần đau nặng. Ngài bảo thân này như ngôi
nhà tranh đã ọp ẹp, muốn nhập Niết bàn rồi trở lại cõi nhân gian thay một cái
nhà bê tông cốt thép chắc chắn hơn. Các đệ tử quây lại ngày đêm tha thiết “thỉnh
Phật trụ thế”. Thương tình Hòa thượng gật đầu, và thế là những ngày sau ngài
khỏe khoắn như thường. Điều này chứng tỏ tâm tịnh sáng sẽ điều phục được thân.
Chẳng những vậy tâm ấy còn điều khiển được cả tinh cầu... (Vấn đề này xin không
đề cập thêm bởi dễ sa vào thần thông diệu dụng - điều thường khiến người tu có
chút quả vị lạc trong ấm ma như Phật từng nhắc trong kinh Thủ Lăng Nghiêm. Cũng
như một số nhà ngoại cảm nhìn thấu cảnh Thân trung ấm, bên cạnh cái tốt là để
biết chết không phải hết, lại dễ khiến người đời hiểu sai lục đạo luân hồi khi
thấy “họ” vẫn ở bên mồ chứ nào có đầu thai làm con gì. Thân trung ấm chỉ là một
chút xíu trong vô biên cảnh giới Phật truyền giảng. Hiểu một nhầm thành “chư
pháp thật tướng” thì khác gì vống lên trăm nghìn hỏi sao tam thế Phật không oan
cho được!).
Những gì mà người trần mắt thịt như tôi tại thế gian
chứng kiến là quá ư hạn hẹp; cho trên đầu ta không có gì lại càng thiển cận.
Trong lúc nếu không tụt hậu về tri kiến, ta sẽ biết thế giới đã có nhiều công
trình khoa học nghiêm túc khẳng định thuyết luân hồi là đầy đủ căn cứ. Ngày xưa
ai dám tin cả thư viện sách chứa gọn trong cái USB nhỏ hơn cả ngón tay. Vậy nên
dè chừng lời trong kinh điển; đừng tưởng con người to lớn sẽ không thể chui vào
thân kiến ở kiếp vị lai nếu lầm đường lạc lối. Và đừng tưởng con vi khuẩn nhỏ
vậy, thể tánh của nó không chứa tam thiên đại thiên thế giới. Hãy xem khám phá
khoa học sau: Tấm hình cắt đôi; đưa (một nửa) vào chiếc máy khoa học, vẫn thấy
nguyên vẹn bức hình đó. Cắt tấm hình ra chục mảnh, lạ thay, mỗi mảnh như vậy
vẫn đầy đủ hình tướng chụp ban đầu. Điều này làm sáng chói một câu trong kinh
Hoa Nghiêm: "Nhất tức nhất thiết" (một là tất cả). Cá thể chúng sanh
có Phật tính. Vậy cái toàn giác đã có trong mỗi phàm phu. Buông xuống vọng tưởng,
“vọng tận hoàn nguyên”, phàm phu thành Phật. Như vậy phàm phu trong tâm mình
vốn dĩ là cả vũ trụ. Ấy chính là “tự tánh vốn trọn đủ” như Lục tổ Huệ Năng lúc
chứng ngộ từng thốt lên.
Không học kinh điển nhà Phật nghiêm túc, nhất là không
chọn lấy một Pháp môn mà rốt ráo thực hành đã khởi tâm bài bác ấy là vừa lội
qua đầm lầy lại muốn dò lòng đại dương.
Khi nhà thiên văn chụp được những thiên hà “hình xa
luân”, “hình trụ”, “hình bầu dục”,… đúng như Phật tả về Hoa tạng thế giới thì
chính là kinh điển Phật giáo lấp lánh dưới ánh sáng khoa học. Khi những khám
phá làm rúng động nhận thức của loài người đơn giản chỉ là vô tình minh tường
một số lá cành trong rừng kinh điển vô giá, liệu có cần đặt ra vô vàn câu hỏi
trước lúc ta tin lời Đức Phật.
*
PHƯƠNG VIỆT KHÁNG giới thiệu
Địa chỉ: Lô nhà số 5, phường Trần Hưng Đạo,
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
Emai: datinh_1974@yahoo.com
...............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email
ngày 12.10.2020
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại..
.
0 comments:
Đăng nhận xét