ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ TRUNG HOA - Chuyển ngữ: Trần Đình Hiến (Hà Nội)

Leave a Comment

 

ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ TRUNG HOA

Chuyển ngữ: Trần Đình Hiến - Sách do Nhà xuất bản Văn hóa

Thông tin và Nhà sách Bảo Thắng liên kết xuất bản.

*

LỜI GIỚI THIỆU

 

ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ là tập V của bộ sách "CHUYỆN CÁC VỊ VUA TRUNG QUỐC" do Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin - Nhà sách Bảo Thắng liên kết xuất bản, giới thiệu các gương mặt hôn quân vô đạo trong gần một trăm quân chủ phản diện mà bộ sách đề cập. Nếu các tập trước bạn đọc đã làm quen với những vị hoàng đế hoặc ít hoặc nhiều có những cống hiến nhất định trong lịch sử Trung Quốc nhưng vì một vài lý do nào đó: Hoặc kiêu căng ưa xiểm nịnh, hoặc không thể vượt quá phạm vi mà điều kiện lịch sử cho phép nên buộc phải rời khỏi vũ đài chính trị, thì ở tập sách này bạn đọc sẽ gặp những vị hôn quân ngu muội, bạc nhược, với những việc làm xằng bậy, quái đản dẫn đến sự diệt vong của một vương triều mà trước đó tổ tiên của họ đã cống hiến nhiều cho lịch sử Trung Quốc. 

Trước hết phải nhắc đến Lưu Sưởng, vị hoàng đế cuối cùng của vương triều Nam Hán, đã tự phế truất cơ nghiệp của ông cha bằng những việc làm xằng bậy, những điều luật quái gở, những hành vi hoang dâm vô đạo trong quãng đời xưng "trẫm" của mình.

Lịch sử phong kiến Trung Quốc nói riêng, lịch sử phong kiến thế giới nói chung hẳn không có vị đế vương thứ hai ra điều kiện tuyển dụng làm quan trong triều thì trước hết phải tự thiến, nếu không tự thiến được thì triều đình sẽ thiến hộ như hôn quân Lưu Sưởng. Và cũng không có vị đế vương nào lại tuyển dụng những ai thật đẹp trai, thật giỏi chuyện ái ân vào cung "hầu hạ chuyện gối chăn" với những phi tần được vua sủng ái. Vậy mà hôn quân Lưu Sưởng lại làm cái chuyện quái đản ấy. Tệ hơn nữa, đốn mạt hơn nữa, tên hôn quân vô đạo này lại thích thú những trò quái vật: Chung chăn gối với thần dân trăm họ bất kể thân phận sang hèn ra sao, miễn là y đạt được khoái cảm; hành lạc tập thể để y ngó nhìn  bình phẩm, tùy theo sự điêu luyện mà phạt roi hay ban thưởng...

Ngán ngẩm thay cho vương triều Hán với "thâm cung bí sử" đã ẩn giấu biết bao chuyện xằng bậy của Hán Thành Đế Lưu Ngao không chỉ đắm chìm trong nhục dục với các phi tần mỹ nữ như: Hứa thị, Phi Yến, Hợp Đức... mà còn “bắt” những thanh niên đẹp trai như Trương Phóng, Thuần Vu Trường... vào hậu cung làm "thiếp yêu", khiến cả triều đình dở mếu dở cười khi chứng kiến những mối tình chàng - chàng chướng tai gai mắt, giờ lại thêm những "thú vui quái đản" của hôn quân Lưu Sưởng khiến người đọc lắc đầu khi ngẫm về lịch sử vương triều Hán.

Hầu như suốt chiều dài lịch sử vương triều Hán, suốt từ thủa Lưu Bang chém rắn phất cờ đến ngày Lưu Thiện nhục nhã quỳ gối dâng giang sơn xã tắc cho dòng họ Tư Mã, không hiếm những hôn quân vô đạo kiểu như Lưu Sưởng với đời sống tình dục quái đản, loạn luân, coi thường đạo lý nhưng có lẽ, chỉ có Lưu Sưởng mới "nổi đình đám" với đạo luật quái gở và những thú vui mất hết tính người như thế. Cuộc đời của y là cuộc đời độc nhất vô nhị của kẻ hoang dâm vô đạo mà cổ kim chưa hề từng có.

Cao Vĩ, Hậu chủ Bắc Tề lại nghiện những việc làm xằng bậy dẫn đến nước Bắc Tề vốn đang cường thịnh chỉ trong khoảng thời gian Cao Vĩ chấp chính phải lâm vào cảnh đói nghèo tang tóc, dân chúng oán thán, triều đình rệu rạo, để rồi triều chính phải "bàn giao cho người khác, chịu chết thê thảm trong tay Vũ Văn Ấp". Vị hôn quân trẻ con này đã không từ một việc làm bần tiện, vô học nào để đạt được những khoái cảm rồ dại, những nhục dục thấp hèn. Đường đường là một đấng quân vương, vậy mà Cao Vĩ lại bày trò chơi ngu muội: Vua đóng giả đầy tớ, ăn xin, bề tôi đóng giả chúa thượng, người bố thí. Trong suy nghĩ của Cao Vĩ, Tư Mã Trung thời Tây Tấn là kẻ ngu xuẩn vì đã hỏi cận thần câu hỏi quá ngớ ngẩn: "Tiếng ếch kêu là của công hay của tư?". Hắn biện rằng: "Có lẽ Tư Mã Trung chưa bao giờ trông thấy con ếch? Thằng cha thật đáng thương! Như Cô gia đây vừa có khả năng làm vua, lại vừa có khả năng làm thằng ăn mày, thử hỏi xưa nay mấy ai làm nổi?" Hắn thật khoan khoái với suy nghĩ của mình nên càng hăng hái trổ tài ăn xin làm cho quần thần phải dở khóc dở cười. 

Đứng trước ba quân để uý lạo tướng sĩ. Cao Vĩ không làm được như ông tổ của y là Cao Hoan cao giọng ngâm bài ca trước quân lính, để khích lệ ba quân xông pha nơi chiến trận, mà y lại cười phá lên khi ba quân im phăng phắc đang cúi đầu chờ hiểu dụ. Tiếng cười ngu xuẩn của Cao Vĩ đã thức tỉnh những tướng sĩ đang mông muội trung thành với Bắc Tề: Không thể bỏ vợ, bỏ con xông pha nơi chiến trận để giữ ngai vàng cho tên hôn quân vô lại! Lòng quân tan rã, chỉ sau hai tháng (tháng 12 năm 577), hôn quân Cao Vĩ trở thành tù binh của Bắc Chu, đưa vương triều Tề đi vào dĩ vãng.

Có người cho rằng, nếu Cao Vĩ nghe lời Hũ Luật Hiếu Khanh nhìn nhận đúng mực đề nghị của trung thần: Thuộc lòng bài từ do Hũ Luật Hiếu Khanh soạn rồi ngâm, lại thêm vài giọt nước mắt trước ba quân tướng sĩ thì làm gì mà không giữ được tông miếu tổ tiên. Chúng tôi thì cho rằng, điều đó không bao giờ có được, bởi một kẻ lấy thoả mãn nhục dục làm lẽ sống như Cao Vĩ thì làm sao chú tâm tới việc quốc gia đại sự. Đứng trước nguy cơ nước mất, bất chấp lời khẩn cầu thống thiết của Hũ Luật Hiếu Khanh: Hãy học thuộc bài Từ rồi uý lạo tướng sĩ giữ vững cõi bờ, y vẫn đùa bỡn với Phùng Thục phi thì làm sao mà nước không mất. Hơn nữa, bộ óc đần độn đến xơ cứng của y, một bài Từ thật ngắn mà không nhớ nổi (Dưới chân thành, địch đánh dữ. Nguy nan lắm, trông vào các ngươi. Tầng mây thấp, tầng sương dầy, phá được giặc rồi, ta cùng vui) thì y làm sao giải quyết được việc quốc gia đại sự. Một hôn quân như vậy thì nhà Tề sớm bị diệt vong là điều dễ hiểu.

Còn Bắc Tề Văn Tuyên Đế Cao Dương lại là kẻ tâm thần, hành động ngang ngược, cuộc đời của vị hôn quân này chỉ mải mê với hai thú vui đó là uống rượu và giết người. Thời gian tiếm quyền ngồi trên ngôi báu, mỗi khi uống rượu vào là Cao Dương thẳng tay chém giết. Để bảo toàn tính mạng cho những cung nữ, hoạn quan hầu hạ Cao Dương và cũng nhằm để thoả mãn nhu cầu chém giết của vị đế vương tàn bạo, Bộ Tư pháp buộc phải đưa những "tử tù", thậm chí cả những kẻ phạm pháp nhưng chưa xét xử vào cung theo hầu Cao Dương đế để mỗi khi tên hôn quân nổi "máu điên" sẽ có thú để “giải sầu”. Thời gian đó "Bộ Tư pháp" Bắc Tề đưa ra một quy định: Những phạm nhân đi theo nhà vua (một ngày) mà không bị giết thì coi như vô tội và được tha. Thật là một điều luật nực cười, báo hiệu một thể chế chính trị thối nát, đang rệu rạo chờ ngày sụp đổ.

Cao Dương không chỉ giết những cung ngự tù (phạm nhân cung cấp cho nhà vua) những hoạn quan, cung nữ để mua vui mà với tất cả mọi người đều bị y khinh rẻ "dù đó là mẹ đẻ, mẹ vợ, gươm trong tay, đầu thiên hạ, oán hận có kể gì".

 Tháng 10 năm 533, một hôm Cao Dương đột ngột đến nhà mẹ vợ (thân sinh ra Hoàng hậu Lý Tố Nga - người được Cao Dương sủng ái), không hiểu Lý phu nhân đã động đến dây thần kinh nào của Cao Dương mà y giật lấy cung tên từ tay vệ sĩ bắn một phát trúng mặt Lý phu nhân, rồi quát: - "Trẫm mà say thì bất chấp cả mẹ đẻ, mụ là cái thá gì?". Trước đó ít ngày, mẹ đẻ của Cao Dương là Lâu Thái hậu vì thấy y suốt ngày uống rượu, say sưa chém giết, bỏ bê triều chính nên cho gọi đến để nghĩ cách răn đe, vừa giơ gậy doạ đánh thì tên hôn quân nghịch tử lớn tiếng mắng chửi: - "Đồ chết dẫm! Định đánh trẫm hả? Ít hôm nữa sẽ gả ngươi cho bọn rợ Hồ, xem ngươi có còn hung hăng nữa thôi". Thật là một tên hôn quân vô đạo, ngay cả người đẻ ra y mà y còn ngang ngược xúc phạm thì thử hỏi xã hội có còn kỷ cương, phép tắc?.

Lưu Dục, ông vua Lưu Tống thời Nam Triều cũng là một vị vua hôn quân tàn bạo. Thời gian chấp chính của ông ta thật ngắn ngủi nhưng với quãng thời gian ấy, Lưu Dục đã "kịp" làm những việc kinh thiên động địa mà hậu thế sau này phải lè lưỡi lắc đầu. Trước khi chết, Lưu Bị dặn con trai của mình là Lưu Thiện: - "Việc thiện dù nhỏ, đừng nghĩ nhỏ mà không làm, việc ác dù nhỏ, đừng thấy nhỏ mà làm". Hai trăm năm sau, Lưu Dục vị đế vương của triều Lưu Tống lại ngang nhiên bài trừ việc thiện, chạy theo việc ác dẫn đến cái chết thê thảm, kết thúc cuộc đời chuyên làm điều xằng bậy của y vào ngày 8 tháng 7 âm lịch năm 477.

Có thể nói, tính ngông ngênh, ngang ngược của Lưu Dục so với Cao Dương có phần nào dễ chịu hơn, nhưng công bằng mà nói thì "kẻ tám lạng người nửa cân" thật khó mà phân định.

Lưu Dục rất thích thú trong việc chém giết người, với hắn niềm khoái cảm chỉ đạt tới cực điểm khi chứng kiến sự chết chóc, bị hành hạ thân xác của người khác. Hắn ngang nhiên như Đôngkixốt dưới ngòi bút Xen Văngtéc điên cuồng chém giết người dân vô tội trên đường hắn gặp. Hắn ngang ngược biến điện Kim Loan thành nơi nuôi lừa, biến Long Sàng thành nơi buộc ngựa. Chốn tôn nghiêm của triều đình, đã bị Lưu Dục biến thành nơi chăn nuôi súc vật: Cùng ở với người, cùng thiết triều với Thiên Tử. Thật khó bắt gặp một vị đế vương khác lại có thú chơi ngông cuồng và thất học như hôn quân Lưu Dục.

Hắn không chỉ thích chém giết người, thích nuôi lừa, nuôi ngựa ở nội điện mà hắn còn thích ăn trộm con gái, ăn trộm súc vật của dân lành. Vụ trộm nổi "đình đám" trong cuộc đời làm vua càn quấy của y đã được sử sách ghi lại tiếng nhơ cho muôn thuở, đó là vụ trộm chó ở chùa Tân An vào ngày 7 tháng 7 năm 477, ngày mà âm lịch gọi là Khất Xảo. Hôm đó, sau cuộc mây mưa tình ái với ái nữ của Hữu vệ Dực Liễn Doanh, hắn lặng lẽ cùng bọn du côn vào chùa Tân An bắt trộm chó về làm thịt, rồi sai người đến chùa bắt vị sư trụ trì chùa Tân An đến cùng ngồi uống rượu thịt chó. Vị cao tăng kia vì sợ oai Lưu Dục đã không giữ được giới luật tối thiểu và ngay trong đêm ấy, vị "hỗn thế ma vương" Lưu Dục đột nhiên bạo bệnh mà chết.

Cái chết của Lưu Dục đến giờ vẫn còn nhiều giả thiết được đặt ra, nhưng cho dù thế nào thì vị "hỗn thế ma vương" chấm dứt sự hiện diện ở cõi đời cũng là điều đáng mừng cho thần dân Lưu Tống, mở ra một trang sử mới với vị đế vương mới, để rồi lại xuất hiện kẻ hôn quân mới. Nhưng dù thế nào đi nữa, thì đó vẫn là điều tất yếu phải xảy ra trong trong dòng chảy của lịch sử phong kiến Trung Quốc.

Đọc ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ hẳn bạn đọc sẽ phì cười khi "gặp mặt" mẹ con hôn quân Lưu Hồng - ông vua thứ 12 đời Đông Hán, được người đời phong danh hiệu “Tổ sư của ngành keo kiệt” - thi nhau mua quan bán tước. Chuyện tưởng chỉ có trong văn học dân gian nhưng thật trớ trêu đó lại là sự thật được ghi chép rõ ràng, đầy đủ trong chính sử Trung Hoa làm hậu thế (Trung Hoa) sau này phải gục đầu tủi nhục.

Làm Hoàng đế thì hết thảy tài sản trong xã tắc là của vua thì Lưu Hồng cần gì tiền mà phải cho bán quan bán tước? Vậy mà Linh đế Lưu Hồng lại làm cái việc mà từ thủa Bàn cổ khai thiên lập địa đến bấy giờ chưa ai dám nghĩ đến chứ đừng nói dám làm. Với lối sống bản năng của những kẻ “đầu đường xó chợ”, Linh đế Lưu Hồng không từ bất kỳ thủ đoạn nào để vơ vét tiền của của muôn dân cho vào hầu bao, nhằm thoả mãn dục vọng bẩn thỉu, ti tiện của y. So đo tính toán từng ly từng tý trong chuyện giành lợi lộc chưa hẳn đã là "biệt tài" duy nhất của hôn quân thất học này mà Lưu Hồng còn nổi danh biến Ngự hoa viên rộng mấy dặm trở thành kẻ chợ tấp nập chuyện mua bán, đổi chác từ thượng vàng hạ cám tới nhân phẩm của con người. Nếu Lưu Dục, ông vua Lưu Tống thời Nam Triều nổi danh với chiến tích biến điện Kim Loan thành nơi nuôi lừa, biến Long Sàng thành nơi chăn ngựa thì với Lưu Hồng, Ngự hoa viên trở thành kẻ chợ với thập cẩm trò nhố nhăng chối tai, nhức mắt, và đều tạo thành tiếng nhơ muôn thủa trong lịch sử Trung Hoa về dòng họ Lưu lố lăng và đốn mạt.

ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ đề cập đến mười lăm quân chủ phản diện, đặc trưng cho đời sống sa đoạ và tàn bạo của những kẻ thường tự vỗ ngực, xưng danh "thiên tử", thay trời hành đạo, chăn dắt con dân". Thấp thoáng trong chốn thâm cung hào nhoáng mà sặc mùi son phấn là những con quỷ đội lốt người, đắm chìm trong nhục dục, ra sức tác oai tác quái, mất hết luân thường đạo lý, như: U Vương Cơ Cung Niết vì đắm say sắc đẹp của Bao Tự mà thả hổ hại con, hay như Hán Hậu chủ Lưu Thiện ở ngôi mấy chục năm chẳng làm nổi trò trống gì ngoài việc quỳ gối xưng thần, dâng nộp cơ đồ tông miếu tổ tiên để kéo dài kiếp sống. Hoặc như Tấn Huệ đế Tư mã Trung là một ông vua bù nhìn, đần độn ngu xuẩn đến lạ lùng. Mười mấy năm trời ngồi trên ngôi báu chỉ để làm con rối cho thiên hạ giật dây. Chính lệnh ban ra đều do người khác ban bố, khắp nơi đói rét, lại hỏi một câu kỳ quặc: - "Sao không ăn cháo thịt?". Những ông vua như vậy thử hỏi làm sao mà sinh linh không điêu đứng, loạn lạc không xảy ra, lòng người không ly tán!

ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ là tập V của bộ sách CHUYỆN CÁC VỊ VUA TRUNG QUỐC giới thiệu mười lăm quân chủ phản diện kiểu như vậy. Có thể trong số mười lăm vị quân chủ đó, có vị đế vương ban đầu chưa phải là hôn quân, đứng ở một góc độ nào đó họ có những đóng góp nhất định cho lịch sử Trung Quốc, như Vương Mãng giành lấy chính quyền không phải để thoả mãn dục vọng cá nhân mà để tái tạo "nền văn minh thượng cổ". Sau khi nắm quyền thống trị, ông ta thực thi một loạt chính sách mới đi trước thời đại, mang hình thái của chủ nghĩa xã hội (không tưởng)... Nhưng rất tiếc, những vị đế vương có tài tề gia trị quốc như vậy không nhiều và những biểu hiện đó, nếu có cũng không nhiều trong cuộc đời xưng đế của họ, để cuối cùng, họ trở thành những kẻ hôn quân, hậu thế ngàn đời sau còn nguyền rủa.

Chúng tôi hy vọng với tập sách này, đặc biệt là qua thân phận và những việc làm xằng bậy của những tên hôn quân trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, bạn đọc sẽ tìm ra được nguyên tắc sống cho mình, sao cho cuộc đời hữu ích. Và chúng tôi cũng tin rằng bạn đọc sẽ tâm niệm cùng chúng tôi: Việc thiện dù nhỏ đến mấy cũng cố mà làm, việc ác dù nhỏ thế nào cũng quyết không làm, để cuộc đời này không có những kẻ hôn quân, hôn thần bất nhân bất nghĩa.

Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc tập ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ do Trần Đình Hiến dịch thuật.

*.

Hà nội, ngày 12 tháng 02 năm 1997

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

BẮC TỀ VĂN TUYÊN ĐẾ CAO DƯƠNG:

Mắc bệnh tâm thần, một kẻ “hippi”

*

Lời ca:

Người đẹp gieo mình Ô Giang,

Lửa thiêu Xích Bích

Tướng quân vật vờ ải Ngọc Môn.

Cảm thương Tần Hán, lê dân điêu tàn,

Kẻ đọc sách cất một tiếng than!

Trên đây là bài “Hoài cổ” của Trương Khả Cửu đời Nguyên.

Thực ra, quạ ở đâu cũng đen, đảy lê dân vào cảnh lầm than không chỉ triều Tần, triều Hán, chẳng  qua họ Trương cũng muốn mượn chén rượu người xưa để tưới nấm mồ trong lòng mình.

Những chuyện khiến co “kẻ đọc sách cất một tiếng than” có nhiều lắm!

Thí dụ như trên kia ta đã kể ra rất nhiều hôn quân bạo chúa, hay như trong bài này nói về Bắc Tề Văn Tuyên Đế Cao Dương. Hành trang của họ đáng để người đời chỉ tên vạch mặt.

Bắc Tề vốn là một đế quốc do người Hán dựng nên, nhưng trên thực tế, người sáng lập là Cao Hoan, người Hán có gốc tộc Tiên Ty trăm phần trăm. Cao Dương là con trai Cao Hoan, nhưng về mặt tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, thì không bằng cha.

 

1. CHA NHƯ RỒNG, ANH NHƯ HỔ, BẢN THÂN KHÔNG BẰNG CON KHUYỂN. VỢ CŨNG GIẾT, EM CŨNG GIẾT, NGÀY NÀO CŨNG PHẢI GIẾT NGƯỜI.

Giống như vương triều Tây Tấn giành lấy chính quyền  từ vương triều Tào Nguỵ. Vương triều Bắc Tề của Cao Dương là do cố gắng của hai đời gồm ba người, cuối cùng bằng phương thức nhường ngôi mà đoạt lấy chính quyền từ tay Nguyên Nguỵ. Mọi người có lời bình như sau về người sáng lập vương triều Tây Tấn Tư Mã Viêm: Thờ tổ họ xa. Còn Cao Dương thì kém xa Tư Mã Viêm.

Tháng ba năm 550, Cao Dương vừa mới được phong là Thừa tướng, Đô Đốc Trung Ngoại Chư Quân Sự, đã được đằng chân lân đằng đầu, cùng các thủ hạ là Cao Đức Chính, Từ Chi Tài, Tống Cảnh Nghiệp bàn nhau cướp ngôi Nguỵ. Chuyện đến tai mẹ đẻ Cao Dương là Lâu Thái Phi. Lâu Thái Phi gọi Cao Dương đến mà răn rằng: “Cha ngươi (Cao Hoàn) như rồng, anh người (Cao Trừng) như hổ, bởi ngôi trời không thể  tuỳ tiện ngồi lên, nên suốt đời ngoảnh mặt về phương Bắc. Ngươi là người như thế nào mà dám làm công việc của vua Nghiêu, vua Vũ? Cao Dương khi đó vẫn chưa đến nỗi cao ngạo, bị mắng như tát nước vào mặt mà vẫn phải chịu.

Lâu Thái Phi mắng như vậy có đúng không/

Về sau, sự thực đã chứng minh là đúng. Cao Dương đã không được như rồng, lại không được như hổ, thậm chí ngay con khuyển cũng không bằng.

Một nhà sử học khi nghiên cứu về lịch sử Bắc Tề cho rằng: Cao Dương có hai cách thích đủ để dẫn đến toi mạng: một là thích rượu, hai là thích giết người.

Cao Dương thích rượu, đã uống là uống thật say, đã say là giết người.

Liên tục có những cung nữ, hoạn quan, thủ hạ thân tín chết dưới lưỡi gươm của Cao Dương. Để thoả mãn sở thích giết người của nhà vua, bộ môn Tư Pháp bèn đưa những kẻ kết án tử hình vào cung, cung cấp cho nhà vua những khi cần. Về sau, Cao Dương ngày ngày uống nhiều lên, tử tù không đủ, phải lấy những kẻ phạm pháp chưa xét để bù vào, loại phạm này có tên là “cung ngự từ” (phạm nhân cung cấp cho nhà vua). Với những kẻ “cung ngự tù”, quy định như sau: Vua đi đến đâu thì theo đến đó, nếu quá ba tháng mà không bị chết, thì coi như vô tội, được tha.

Cao Dương giết người là để đạt tới cái khoái giết người. Lý do và phương thức giết người cũng ly kỳ, không lần nào giống lần nào.

Bộc Xạ Thôi Xiêm là trọng thần của ba triều, từng là tâm phúc của cha Cao Dương là Cao Hoan. Khi ông này chết, Cao Dương đến phúng viếng.

Thấy nhà vua ngự giá giáng lâm, vợ Thôi Xiêm là Lý Thị cố nén đau xót trong lòng, miệng kêu “nghênh giá” rồi quỳ xụp xuống. Lý Thị có nhan sắc, Cao Dương trông thấy bèn nổi lòng dục, bất chấp mọi người đang có mặt ở đấy, ôm lấy Lý Thị mà ve vuốt, trông rất là ố. Lý Thị kiên quyết không chịu, Cao Dương thẹn quá hoá hận, sai bê một chiếc ghế đến, ngồi vắt vẻo trên ghế, rồi như biến thành một người khác hẳn, nghiêm giọng hỏi Lý Thị:

- Vậy là nhà ngươi rất nhớ người chồng đã qúa cố phải không?

- Tâu Bệ hạ - Lý thị sửa lại xống áo cho chỉnh tề, đáp – Ai mà không nhớ! Tục ngữ có câu “vợ chồng một ngày nên nghĩa...”

Không đợi Lý Thị nói hết câu, Cao Dương tiếp lời:

- Được, nhà ngươi đã  trung trinh đến như vậy, Trẫm rất phục. Nay Trẫm cử người làm sứ giả xuống đại phủ, thay mặt Trẫm hỏi chồng ngươi - ái khanh Thôi Xiêm, có anh lành không? – Nói xong, không đợi Lý Thị kịp suy ngẫm về câu nói, lệnh cho thủ hạ ra tay giết chết Lý Thị, một phụ nữ như hoa như ngọc, rồi nhà vua tự tay xách đầu Lý Thị quẳng ra ngoài tường.

Ái phi của Cao Dương là Tiết Quý Tần, vốn xuất thân ca kỹ, Cao Dương yêu Tiết thị. Một hôm, Cao Dương đến nhà chị uống rượu, vì không bằng lòng về việc chị này xin cho cha làm quan, giết luôn chị ta. Giận cá chém thớt, Cao Dương lại nhớ đến một chuyện. Đó là khi Tiết Quý Tần chưa trở thành Quý Tần. Thanh Hà  Vương Cao Nhạc khoe rằng ông ta gian díu với một kỹ nữ, cô này đẹp từ trong ra ngoài, thuật trên giường thì không chê vào đâu được. Chính do Cao Nhạc giới thiệu mà Cao Dương vì ái mộ mà tuyển Tiết Thị. Nay nhớ lại mà lợm giọng về con giặc cái này, đường đường là một bậc chí tôn mà lại sài ‘sái nhị’ của Thanh Hà Vương! Thế là, Cao Dương ra lệnh giết chết Tiết Quý Tần.

Giết Tiết Quý Tần, Cao Dương sai chặt chân tay thân xác, dóc hết thịt, lấy xương đùi làm cây đàn tì bà, và trong một buổi yến hội, vừa gảy “cây đàn tự chế thân yêu, vừa hát khúc ca ai oán “Giai nhân khó mà gặp lại!”

Về những hành động ngang ngược của Cao Dương, có rất nhiều người dâng thư, can gián vì đại cục của nền thống trị Bắc Tề.

Hai em trai Cao Dương; Vĩnh An Giản Bình Vương Cao Tuấn, Thượng Đảng Cương Túc Vương Cao Hoán, nghĩ tình anh em trong nhà nên không sợ búa rìu, nhiều lần dâng thư khuyên can. Trong cơn giận, Cao Dương sai người bắt Cao Tuấn, Cao Hoán nhốt vào cũi sắt rồi giam dưới hầm ngầm, “ăn ỉa tại chỗ”. Thời gian sau, Cao Dương đến thăm hai người, nhưng chỉ đứng ngoài mà hát, và ra lệnh cho hai người hát theo. Hai người vừa giận vừa uất (Cao Tuấn là em trai thứ ba, Cao Hoán là em trai thứ bẩy của Cao Dương) nên tiếng hát run rẩy. Cao Dương bỗng oà khóc, hai người lầm tưởng  anh hai rủ lòng thương mà xá tội cho mình. Ai ngờ tiếng khóc vừa dứt, Cao Dương giật lấy cây xà mâu dài trong tay vệ sĩ, nhằm vào hai người mà đâm. Về vũ công, Cao Dương kém hai em, nên lệnh cho tên gia nô đâm tiếp. Cao  Tuấn và Cao Hoán vẫn chưa chết. Thú tính nổi lên, Cao Dương lệnh đem củi đến thiêu sống Cao Tuấn và Cao Hoán.

 

2. KHINH RẺ MẠNG NGƯỜI, DÙ ĐÓ LÀ MẸ ĐẺ, MẸ VỢ GƯƠNG TRONG TAY, ĐẦU THIÊN HẠ, OÁN HẬN CÓ KỂ GÌ!

Cao Dương là con người nhỏ nhen, bình thường thì tỏ ra nhu nhược, nhưng khi nắm đại quyền trong tay thì bắt đầu trả thù, mà về khoản trả thù thì Cao Dương là vô địch trên đời.

Trên kia ta đã kể chuyện Cao Dương thiêu chết hai em trai. Nguyên nhân trực tiếp là hai người dâng thư can gián, gây trở ngại cho Cao Dương hoành hành ngang ngược. Nhưng đằng sau còn có một nguyên nhân khác. Một nguyên nhân mà nói ra thật tức cười.

Thì ra, hồi nhỏ Cao Dương rất bẩn, mặt bé choắt lúc nào cũng nhem nhuốc, mũi thì lòng thòng, thường thì ‘mũi dài hơn người”. Cao Tuấn ít tuổi hơn Cao Dương thường nửa trách, nửa giễu Cao Dương bằng câu: “Các anh sao lười quá, không chùi mũi cho anh hai?” Chỉ là câu nói đùa, nhưng Cao Dương thì ghi xương khắc cốt, dẫn đến chuyện giết em sau này.

Về sau, khi làm vua, với tư tưởng “Ta đây nhất thiên hạ’, Cao Dương không từ một ai, kể cả mẹ đẻ, khi nổi máu là Cao Dương giở trò du côn.

Vợ Cao Dương, Hoàng hậu Lý Tố Nga là con gái Lý Hy Tông ở Triệu quận. Sử chép rằng, nàng “dung đức thậm mỹ” (được người được nết). Cao Dương thường tỏ ra bằng lòng về Hoàng hậu. Tháng 10 nưm 553, một hôm Cao Dương đột nhiên đến nhà mẹ vợ – Lý Phủ. Mọi người trong phủ lý hành lễ xong lần lượt rút lui, chỉ còn lại Lý phu nhân, mẹ đẻ của Hoàng hậu. Không hiểu Lý phu nhân đã xúc phạm đến dây thần kinh nào của Cao Dương, mà Cao Dương giật lấy cung tên từ  tay một vệ sĩ, bắn một phát trúng mặt Lý phu nhân, rồi quát tháo ầm ĩ; “Trẫm  mà say thì bất kể cả mẹ đẻ, mụ là cái thá gì? Tiếp đó, tiếp đó lệnh cho thủ hạ đánh Lý phu nhân một trăm roi da ngay trước mặt Hoàng hậu.

Khi Cao Dương nổi cơn điên thì tả hữu đều câm như hến, không ai dám can ngăn, vì Trẫm mà say thì bất kể cả mẹ đẻ, đâu phải câu nói suông!

Trước đó ít lâu, mẹ đẻ Cao Dương là Lâu Thái hậu thấy Cao Dương uống rượu như hũ chìm, đã từng nghĩ cách răn dạy, bèn gọi Cao Dương đến, vừa giơ gâỵ doạ đánh thì Cao Dương buột miệng chửi:

- Đồ chết dẫm! Định đánh Trẫm hả? Ít hôm nữa sẽ gả ngươi cho bọn rợ Hồ, xem ngươi còn hung hăng nữa thôi!

Thái hậu uất quá, hôn mê bất tỉnh.

 

3. ĂN MẶC HỞ HANG, LÊ LA ĐẦU ĐƯỜNG XÓ CHỢ, ĐÁNG MẶT MỘT “HIPPI” CỔ ĐẠI. GỬI TRỨNG ÁC “XIN ĐỪNG GIẾT CON TA”, KHI CHẾT VẪN KHÙNG ĐIÊN.

Tháng 7 năm 556, một buổi sáng, gia đình  họ Lý ở kế cận Hoàng cung, ngủ dậy đã thấy rất nhiều người lố nhố ngoài hiên. Bọn người này ăn mặc hở hang, thậm chí có tên gần như không mặc quần áo. Chúng là ai vậy? Họ Lý vội đi báo quan. Khi quan địa phương tới nơi, bọn chúng vẫn ở đấy. Viên huyện lệnh từ xa đã thấy bọn này có vẻ đồi phong bại tục thì cả giận định ra lệnh bắt nhưng khi đến gần thì hoảng hốt vội quỳ xuống lạy van “thần tội đáng chết!”

Té ra, tên cầm đầu  bọn người không phải ai khác, mà chính là Cao Dương, đương kim Hoàng đế.

Đây là một chuyện có thực ghi trong lịch sử Bắc Tề:

Theo “Bắc Tề thư. Văn Tuyên Đế kỷ: “Sau sáu bảy năm làm vua, Cao Dương trở lên kiêu ngạo và bắt đầu xa đoạ, gian dâm bạo ngược, hoặc ca hát thâu đêm suốt sáng, hoặc ăn mặc hở hang, trang điểm loè loẹt, đầu bù tóc rối, tay đao tay cung, ngông nghênh kẻ chợ”. Đúng là một “Hippi” thời cổ đại, nếu như thời ấy đã có hippi!

Ông vua “Hippi” này, ngoài việc uống rượu và giết người, còn nhiều tiết mục khác như cưỡi lừa, cưỡi ngựa không dùng roi, ở chuồng không mảnh vải che thân, nằm ườn dưới nắng, rồi thì phân thối một số kỹ nữ  cho tả hữu, để rồi sau dó “sớm tối đến chơi”. Những trò như vậy không kể xiết.

Do một thời gian dài hoang dâm vô độ, Cao Dương bị bệnh đau dạ dày. Một năm trước khi chết đã không ăn được cơm, nhưng rượu thì ngày nào cũng uống.

Ngày Giáp Ngọ tháng 10 năm 559, biết mình không thể sống, Cao Dương cho gọi Hoàng hậu Lý Tố Nga và em trai thứ sáu là Trung Đơn Vương Cao Diễn và ngoạ thất.

Ông vua tâm thần này, trước khi chết còn lên cơn. Ông ta thờ dài, nói:

- Người ta ai cũng chết, Trẫm chết cũng không có gi phải tiếc, chỉ e Thái tử còn nhỏ quá, sợ rằng không giữ được ngôi báu – Nói đến đây nhà vua quay sang nói với Cao Diễn – Trẫm biết nhà ngươi có tài và có ý cướp ngôi. Trẫm sắp đi rồi, chuyện ấy tuỳ nhà ngươi, chỉ đề nghị sau khi cướp ngôi, đừng giết đứa con đáng thương của Trẫm!

Giả dụ có người không hiểu câu: “Gửi trứng cho ác”, thì chỉ cần nghe lời nói của Cao Dương trước khi chết và hành động của Cao Diễn sau đó, thì sẽ hiểu. Khi Cao Dương còn sống, mỗi khi nổi cơn điên, duy chỉ có Cao Diễn là có mặt, những người khác lẩn đi cả. Khi đó, Cao Dương đã có ý nghi ngờ Cao Diễn. Sau khi Cao Dương chết, nhân dịp yến hội, Cao Diễn giết phăng các cố mệnh đại thần Dương Âm, Yên Từ Hiếm, Khả Chu Hỗn Thiên Hòa. Chu Khánh Đạo,  tiếp đó phế truất con trai Cao Dương là Cao An rồi tự lập làm vua, ít lâu sau, giết chết Cao An.

Đó là vào tháng 9 năm 561, sau cái chết của Cao Dương hơn một năm.

 

BẮC TRIỀU NGUỴ ĐẠO VŨ ĐẾ

THÁC BẠT KHUÊ:

Tru diệt Thanh Hà giết vạn người thì nhà vua sẽ thoát chết

*

Lại nói nước Nguyên Nguỵ thời Năm Bắc triều, tổ tiên của họ sáng lập ra nước Đại. Vua phù Kiên (Tiền Tần) dịt Đại, chia Đại làm hai, đưa bộ hạ là Đại Tướng Lưu Bệ Thần, Lưu Khố Nhân nhận chức Tổng Đốc, chia nhau nắm giữ. Anh em họ Lưu là hào kiệt đương thời, nhất là Lưu Khố Nhân thì tiếng tăm lừng lẫy. Trong đời, Lưu Khố Nhân chỉ phục có một người, từng chỉ vào người đó mà răn dậy các con trai, rằng: “Đứa trẻ này chí cao hơn đời, sẽ khôi phục được cơ nghiệp của tổ tiên, các con phải đối xử cho tử tế”.

Về sau, đứa trẻ mà Lưu Khố Nhân gọi là “chí cao hơn đời” dựng lên một đế quốc rộng lớn, làm chúa tể thiên hạ.

Vậy người đó là ai?

Đó là Hoàng đế thứ nhất triều Bắc Nguỵ, Thái Tổ Vũ Đế Thác Bạt Khuê. Thác Bạt  Khuê là một ông vua mà về tất cả các mọi mặt cực kỳ trái khoáy.

 

TRỌNG VĂN NHÂN, MẶC ÁO TRÁI RA ĐÓN KHÁCH.

Trong các vua của 16 nước Ngũ Hồ, Thác Bạt Khuê nổi tiếng về tôn trọng trí thức, coi trọng và sử dụng những người có học.

Năm 402, Đại Tướng Đông Tấn là Lưu Quĩ, Tư Mã Hữu Chi, Lưu Kính Tuyên chiếm cứ SƠn Dương (nay là Hoài An, Giang Tô) mở cuộc tấn công vào Hoàn Huyền, người cướp ngôi nhà Đông Tấn. Do quân ít bị thua, bọn  Lưu Quĩ, Tư Mã Hưu Chi chuẩn bị vượt sông Hoài sang đầu hàng Bắc Nguỵ. Nhưng khi hành quân đến Trần Lưu (nay thuộc Trần Lưu, Hà Nam) thì đổi hướng: Lưu Quĩ, Tư Mã Hưu Chi, Lưu Kính Tuyên dẫn quan sáng hàng Nam Yên, một đại tướng khác, một Đại Tướng khác của Đông Tần là Quách Cung thì chạy sang Hậu Tần.

Thác Bạt Khuê không hiểu vì sao lại như vậy, cho người đi hỏi những nhân viên tuỳ tùng của Lưu Quĩ, Tư  Mã Hưu Chi. Tìm được một người, cho gọi đến hỏi:

- Nghe nói các ông Tư Mã Hưu Chi ấp ủ đại nghĩa, vốn định đến Bắc Nguỵ ta, nay sao lại về với Nam Yên, Hậu Tần?

Viên tuỳ tướng của Tư Mã Hưu Chi là con người bộc trực nói với Bạt Thác Khuê:

- Đúng là lúc đầu có định đến với Đại Vương để phụng sự Bắc Triều, nhưng họ nghe nói danh sĩ nổi tiếng Thôi Trình cũng chết dưới lưỡi gươm của Đại Vương. Vì vậy, họ không muốn làm quỉ không đầu, chuyển hướng đi với người khác.

Tả hữu khi nghe những lời thẳng thắn như vậy, đều đứng ngây ra vì sợ. Thác Bạt Khuê thì lại tỏ ra độ lượng, thở dài, nói: “Đó là ý trời, đó là ý trời”.

Ít lâu sau, Thác Bạt Khuê đích thân ra lệnh: “Các sĩ nhân có lỗi có thể được khoan dung”, và khi tổ chức Đài Tỉnh, bố trí quan lại, phong chức tước, đều “dùng những người có học vào các chức Thứ Sử Thái Thú, Thượng Thư Lang”.

Tại đất cũ của Bắc Nguỵ có lưu truyền cầu nguyện “mặc trái áo da” như  sau:

Đó là vào năm 399, Thác Bạt Khuê vừa lên ngôi chưa được bao lâu. Một trận, sau khi bãi chầu. Thác Bạt Khuê cho gọi  Quốc Tử Bác sĩ Lý Tiên đến nhà mà than rằng:

- Trẫm từ khi dựng nghiệp đến nay, thức khuy dậy sớm, ngựa khoẻ quân mạnh, đầu tiên là đánh bại Mộ Dung Bảo Vu Tham Hợp Ba, tiếp đó đuổi Mộ Dung chạy khỏi Hoa Bắc, tiếng tăm lừng lẫy, vậy  vì sao các sĩ tử văn nhân không chịu theo, cùng góp sức với Trẫm?

Lý Tiên trả lời:

- Có thể bắt sống tướng giữa ba quân, nhưng không thể đoạt chí ở kẻ thất phu. Các sĩ tử văn nhân ưa mềm mỏng chứ không ưa thô bạo, họ không giống những vũ sĩ hiên ngang oai vệ, sùng bái những anh hùng lấy máu đổ làm đầu, mà trong lòng họ thường ấp ủ hình ảnh Khương Thái Công gặp Chu Văn Vương.

- Ông nói vậy có nghĩ là Trẫm phải một phen gây giống ươm mầm chăng? – Thác Bạt Khuê hiểu rất sâu văn hoá Trung Nguyên hỏi lại.

- Thánh thượng thật anh minh – Vì bản thân cùng là kẻ sĩ, nên Lý Tiên chỉ trả lời vẻn vẹn có bốn chữ.

Mấy hôm sau, Thác Bạt Khuê đi săn ở ngoài thành, trời   sắp tối mới ăn  qua loa mấy miếng, rồi nằm nghỉ trong hành cung tạm thời do tả hữu dựng cho nhà vua, vì quả thực nhà vua đã rất mệt. Trước khi ngủ, nhà vua dặn tả hữukhông cho bất cứ ai vào quấy rầy. Vừa chợp mắt còn đang mơ màng, Thác Bạt Khuê chợt nghe có tiếng ồn ào bên ngoài thì cả giận, quát to:’’ Kẻ nào ầm ĩ ở ngoài đó?.

Các thủ hạ vội chạy vào, bẩm:

- Bẩm Đại Vương, một ông già ạ.

- Ông già? Ông già nào mà to gan thế? Dám phá rối giấc ngủ của ta.

- Ông ta có một vật báu có thể khơi gợi sự hiểu biết như thần, nên đến dâng vật quí này, hơn nữa, hơn nữa...Nói đến đây, viên thị vệ vốn rất lanh lợi bỗng ấp úng.

Hơn nữa làm sao?

Hơn nữa ông gì còn nói những lời rồ dại, nào là “ngọc này quí vô giá, chỉ để  tặng Đế vương gia’’, chỉ đợi một tuần hương, quá thời gian đó là đi, không đợi nữa.- Nói đến đây, viên thị vệ hơi tỏ vẻ công phẫn, nói - ý hắn Thánh Thượng phải ra đón lão chắc?

Của vô giá, khơi gợi hiểu biết như thần? - Thác Bạt Khuê trầm ngâm nói một mình, chợt trong đầu nhà vua hiện rõ cuộc đối thoại giữa nhà vua với Lý Tiên:

Hôm ấy nhà vua hỏi Lý Tiên: “Làm sao để trở nên thông minh?’’ Lý Tiên trả lời: ‘’Không ngoài chuyện đọc sách. Vì rằng sự vật khắp trong thiên hạ, duy chỉ có sách là gợi mở cho ta sự hiểu biết như thần’’. Tiếp đó, Lý Tiên kể cho nhà vua nghe chuyện nhiều người vốn rất đần, nhưng nhờ đọc sách mà trở nên uyên bác nổi tiếng chuyện về những ông hoàng đế trẻ tuổi sử dụng những người có học mà cai trị được đất nước có hiệu quả...

Viên thị vệ thấy sắc mặt nhà vua bất định không kịp nghĩ ngợi gì nữa, vội tâu:

- Tiểu nhân cho người chém đầu lão?

- Khoan, ra hỏi xem lão có phải là người có học không?

Viên thị vệ quay ra rồi lập tức trở vào báo cáo: “Tâu Bệ hạ, lão ấy nói là” Đúng

Lời chưa dứt, chỉ nghe thấy soạt một tiếng Thác Bạt Khuê nhổm dậy, xỏ chân vào dầy rồi chạy ra ngoài.

Tâu Bệ hạ áo da của Bệ hạ -Viên thị vệ thấy trời lạnh như vậy mà nhà vua mặc áo trái thì bất giác kêu lên vì thấy chẳng nhã quan tí nào.

Sử chép rằng: Thác Bạt Khuê bắt đầu khai thác Trung nguyên, lưu tâm uý nạp.

Không kể già trẻ, các sĩ đại phu đều được gặp nhà vua hỏi han cặn kẽ. Người nào tài mọn cũng vẫn được dùng (Nguy thư). Đây là đoạn ghi chép về Thác Bạt Khuê tôn trọng trí thức, kính nể người có học.

 

2. TRU DIỆT THANH HÀ GIẾT VẠN NGƯỜI, VÌ MẠNG SỐNG CỦA MÌNH BẤT KỂ NHÂN DÂN SỐNG CHẾT.

Tháng 4 năm 404, Thác Bạt Khuê trong lòng lo lắng không vui. Nhà vua rất tin vào quỷ thần.

Trước đó không lâu một thầy đồng “biết trước và sau 500 năm’’bói cho nhà vua một quẻ, nói rằng nhà vua sắp có hoạ, chỉ có cách chu diệt Thanh Hà giết vạn người, thì mới thoát.

Thác Bạt Khuê không thể không tin những lời nói của thầy đồng, cứ nghĩ đến chuyện lên ngôi chưa được bao lâu mà đã gặp hoạ, nhà vua bất giác thấy trong lòng buồn bã. Để bảo vệ tính mạng của mình, sau khi cân nhắc kỹ, nhà vua quyết định làm theo lời thầy đồng.

Khi đó thuộc lãnh địa Bắc Ngụy có quận Thanh Hà, nhưng đâu phải tất cả những người trong quận đều là phản tặc? Điều này Thác Bạt Khuê không giám chắc’’ Vì đại sự phải bỏ qua tiểu tiết, vì đại lễ mà không từ những nhượng bộ nhỏ’’, trong đầu nhà vua chợt loé lên hai câu trong “Thái sử công phu’’ mơí đọc được cách đó không lâu.

- Đúng cứ làm như vậy. - Thác Bạt Khuê đích thân ra lệnh san quận Thanh Hà thành bình đại. Không biết ai để lộ chuyện, khi Thác Bạt Khuê đích thân dẫn quân đến địa giới Thanh Hà, ngoài một số ốm đau già yếu đi không nổi, toàn quận đã vườn không nhà trống, khiến Thác Bạt Khuê tức tối gầm thét điên cuồng.

Sau khi giết sạch những người ốm yếu không kịp chạy, con số vẫn chưa đạt tới ’’một vạn’’ như lời thầy đồng, Thác Bạt Khuê hiểu vạn người là một vạn người.

Thế là, Thác Bạt Khuê lệnh cho một đại sư về rèn kiếm, rèn cho nhà vua một thanh trường kiếm sắc như nước. Tiếp đó, nhà vua ra lệnh trưng tập thanh niên và người đứng tuổi đến kinh đô, nhà vua ngồi trên ngự xà chạy vòng quanh cái biến người ngơ ngác đó, trông thấy ai không thuận mắt là chém. Chém, chém lia lịa mà vẫn không đủ con số một vạn - ở bất cứ thơi nào, ngay cả bây giờ, giết một vạn người đâu có dễ? Vậy mà Thác Bạt Khuê cứ chém không ngừng, không mệt mỏi

Cả một thời gian dài giết người vô tội vạ, nên về cuối đời, Thác Bạt Khuê mắc chứng tâm thần hoảng loạn.

 Lúc này, nhà vua có những thói quen xấu uống những chất độc. Chất độc ở đay không như chất độc mà ngày nay ta thường nói. Chúng không  phải  là thuốc phiện, hêrôin, càng không phải bạch phiến. Những thứ này từ sau thế kỷ 19 phương Tây mới đưa vào Trung Quốc. Thuốc độc mà ta nói ở đây là đan thạch.

Đan  thạch là thuật ngữ của Đạo gia dùng để gọi chua sa, thạch là dược thạch. Chính trị thời Nguỵ Tấn Nam Bắc chiều hủ bại, kẻ thống trị thi hành chính sách “cây gậy và củ cà rốt” đối với trí thức. Những người có tài mà không được dùng, liền dùng tinh lực của mình vào việc luyện đan làm thuốc. Nhất là do Đào Hồng Cảnh, người được mệnh danh là “Tể tướng rừng xanh” đề xướng, về mặt nào đó chuyện uống đan mạch có ý nghĩa thời thượng. Thác Bạc Khuê chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hoá Hán tộc nhưng ông ta hấp thu phần tinh tuý kho tạc văn hoá ấy mà lại nhặt lấy phần cặn bã để dùng có lẽ đây là một sự khôi hài .

Từ khi nghiện đan thạch, Thác Bạc Khuê tính khí bất thường. Nhà vua và các đại thần nội giám trong cung và các đại thân tệ hại.

Một bận, viên nội giám đứng hầu vua ngủ, người này tiếng thở hơi nặng khiến Thác Bạc Khuê nổi giận, vung gươm chém chết.

Lần khác, một đại thần vốn được coi là đại thần của nhà vua, vào ngoạ thất để tâu nên vua truyện gì đó, và bước chân hơi nặng nên lập tức bị xử trảm.

Cứ như vậy, không kể gì dân thường, mà ngay cả tay chân tâm phúc của nhà vua có gần 100 người trở thành quỷ không đầu.

Năm 409, Thác Bạt Khuê định lập con cả Thác Bạt làm Hoàng Thái Tử.

Theo lệ cũ của Bắc Triều, muốn lập người làm Thái Tử, trước hết phải giết mẹ người đó, mục đích là ngăn trặn phụ nữ can thiệp vào công việc triều chính. Tác Bạt Tự là con người hiếu thuận, không muốn vào Đông cung mà mẹ lại bị giết, do vậy ngày đêm gào khóc. Thác Bạt Khuê nghe tin nổi giận, cho tuyên triệu Thác Bạt Tự lần thứ hai. Theo lời khuên của một người, Thác Bạt Tự cùng người đánh xe là Vương Lạc Nhi bỏ trốn.

Sau khi Thác Bạt Tự bỏ trốn, đã xảy ra một chuyện ngoài dự kiến nhưng vì mặt tình ý thì lại là lẽ đương nhiên.

Tháng 10 năm 409, Thác Bạt Khuê trong cơn giận dữ, cho triệu một con trai khác là thác Bạt Thiệu để hỏi tin tức về Thác Bạt Tự. Thác bạt Thiệu trả lời là không biết. Thác Bạt Khuê hả giận, định chém chết Thác Bạt Thiệu tại chỗ, may có Vạn Nhân là thiếp yêu cảu nhà vua có mặt ở đáy ra sức can ngăn, Thác bạc Thiệu mới thoát chết.

Sau khi đánh Thác Bạc Thiệu một trận rồi đuổi ra, Thác bạt Khuê càng thấy khó chịu, bèn sai triệu Hạ Hoàng Hậu - mẹ đẻ của Thác Bạc Thiệu đến, tuyên bố sẽ chọn ngày đem giết Hạ Hoàng hậu để giải sầu.

Hạ Hoàng hậu sợ đến nỗi đứng không vững, vì bản năng muốn sống, liền cho gọi Thác Bạc Thiệu vào cứu mẹ.

Thác Bạc Thiệu đầu óc đơn giản mà chân tay thì khoẻ mạnh, khi nhận được tin liền bí mật vào cung, đợi có dịp là hạ thủ.

Không hiểu học được từ đâu, chỗ ngủ của Thác Bạt Khuê thường xuyên di chuyển, nay chỗ này, mai chỗ khác.

Kế hoạch di chuyển chỉ có ái thiếp của nhà vua là Vạn Nhân mới biết, mà vạn Nhân thì tư thông với Thác Bạc Thiệu. Vì vậy, sau khi lẻn vào cung, Thác Bạc Thiệu liền gặp người tình Vạn Nhân.

Vừa trông thấy Thác Bạc Thiệu, Vạn Nhân vô cùng kinh hoàng , hỏi :

- Thiếu gia của thiếp, bây giờ là lúc nào mà chàng dám vào cung?

- Sao lại không dám? - Thác Bạc Thiệu tỏ vẻ bất cần, rồi hỏi với giọng nghiêm chỉnh - Ta hỏi nàng, nàng có thật muốn làm vợ ta lâu dài hay không?

- Thiếp muốn được như vậy cả trong giấc ngủ.

- Vậy được!- Thác Bạc Thiệu túm lấy Vạn Nhân nói nhỏ - Cái đồ trời đánh không chết ấy ngủ ở chỗ nào?

- Ở điện Thiên An trong cung Càn Thanh.

- Có thi vệ hầu ngủ không?

Đêm nay ngài dùng Phùng Quí Nhân. Phùng Quí Nhân chưa bao giờ đem thị vệ đi theo.

- Tốt rồi, mau dẫn ta đi, nhẹ chân chứ.

Hai người đi tránh các điểm chốt, đến cung Càn Thanh.

Điện Thiên An đã ở trước mặt, cách khá sa mà vẫn nghe thấy những lời đùa cợt bên trong, khiến con người thích trăng gió như Thác Bạc Thiệu có chút khó xử. Chàng hoàng tử không ngờ vua xha ban ngày đạo mạo mà thế, mà khi ở ben phụ nữ thì cái “ đức” lại như thế.

Đợi mãi, đợi mãi, Thác Bạc Khuê và Phùng Quí Nhân mới xong cuộc mây mưa. Giữa lúc đang hổn lên thì Thác Bạt Thiệu tay trái cần yêu đao, tay phải nôi Vạn Nhân khẽ đẩy cửa bước vào.

Thác Bạt Khuê nằm mơ cũng không nghĩ rằng đang lúc cùng phùng Quí Nhân vui vầy mà có người dám hành thích. Vì vậy, khi Thác Bạt Thiệu kề gươm vào cổ, Thác Bạt Khuê mới chợt tỉnh. Nhà vua làm vẻ ngang tàn hỏi:

- Nghịch tử, nhà ngươi định làm gì thế?

- Làm gì à? Thưa Đại Nhân cha đẻ của tôi, ông quên rồi sao? Tôi là ai, người đứng sau tôi là ai?

- Người là con trai ta, nó là thiếp yêu của ta.

- Cứt! Lời thầy đồng ông quên rồi sao? Hãy nhớ lại ông phong tước gì? Đứng sau tôi đây, nàng tên gì?

- Nhà ngươi được phong Thanh Hà Vương, tên thời con gái của nàng kia là Vạn Nhân... nói đến đây, Thác bạt Khuê toát mồ hôi, mãi đến lúc này nhà vua mới thấy sự thể quả thật nghiêm trọng. Nhà vua liếc thanh gươm báu kề cổ, nói:

- À ra thế ! Câu Thanh Hà Vạn Nhân ứng vào các người.

Không đợi nói hết, Thanh Hà Vương Bạt Thiệu vung gươm chém chết Thác Bạt Khuê.

Thác bạt Khuê, ông vua “chí cao hơn đời”, người gây dựng lại vương triều Bắc Nguỵ đã kết thúc cuộc đời như vậy.

Năm ấy nhà vua 39 tuổi.

 

HẬU CHỦ BẮC TỀ CAO VĨ:

Bang chủ “cái bang” làm điều xằng bậy

*

Tháng 8 năm 565 Nghiệp Đô - đo thành của BắcTề, một trong 16 nước thời Ngũ Hồ, chìm trong hoảng loạn. 

Đêm mồng 3 tháng 3, Ty Thiên Giám phát hiện một vật hình cái chổi vạch rách chân trời, đuôi chổi quét ngang chòm sao Tử Vi. Theo giả thiết của Tinh tượng học, chỗ sao Tử Vi trên trời là nơi ở của Ngọc Hoàng Thượng Đế, so với dưới trần, thì sao Tử Vi là vua, sao hình cái chổi là Tuệ tinh. Tuệ tinh quen gọi là sao chổi, theo truyền thuyết, chủ binh đao. Tục ngữ có câu; “Trên trời thấy sao chổi, dưới đất giặc giã nổi”.

Ty Thiên Giám không dám giấu giếm, vội tâu chuyện này lên nhà vua.

Lúc này, vua Tề là Vũ Thành Đế Cao Trạm.

Cao Trạm là một bạo quân nổi tiếng trong lịch sử về vong ơn bội nghĩa. Ông ta vốn là em trai đời vua trước Cao Diễn, theo nguyên tắc con thừa kế nghiệp cha thì ông ta khó có hy vọng mặt quay về hướng nam mà lên ngôi vua. Vì anh trai thiên vị, ông mới có thể thay thế anh bằng cách cướp ngôi con của anh. Sau khi lên ngôi, ông ta không nghĩ cách đền ơn đáp nghĩa cho anh. Trái lại, vừa lên ngôi đã cưỡng dâm chị dâu, tức Lý thị của triều trước. Lại còn đe doạ; “Nếu không thuận, lập tức giết con nhà ngươi” Lý thị không còn cách nào khác, đành phải nghe theo, ít lâu sau sinh một con gái, đúng lúc Hoàng Thái tử Thái Nguyên Vương Cao Thiệu Đức do Lý thị sinh ra, đến xin gặp mẹ, cung nhân ngăn lại không cho mẹ con gặp nhau. Lý thị tỏ ra không bằng lòng, Cao Trạm liền sai chém chết Cao Thiệu Đức trước mặt mọi người, rồi sai lột hết quần áo Lý thị phạt roi để thị chúng.

Bản thân Cao Trạm bậy bạ, vợ Cao Trạm là Hồi thị cũng bậy bạ: ngủ với những người khác. Sử chép rằng, trước sau có 8 người là “khách trong màn” (đi đực) của Hồ thị, như Hoà Thế Khai, Lâu Định Viễn v.v... Toàn bộ cung đình bị vợ chồng Cao Trạm làm cho thối hoắc! Triều đình mà như vậy thì dân làm sao sống nổi!

Viên quan Ty Thiên Giám vì đại nghĩa mà ra sức khuyên, trước những lời lẽ đanh thép và phải lẽ, Cao Trạm đồng ý nhường ngôi cho Thái tử Cao Vĩ.

Tháng 4 năm 565, Thái tư Cao Vĩ lên ngôi, đó là Hậu chủ Bắc Tề.

Nhân dân Bắc Tề cơ cực trăm bề, các quan triều đình ngay đêm nơm nớp lo sợ, đều cho rằng tân Hoàng đế sẽ cứu họ thoát khỏi nước sôi lửa bỏng. Nhưng họ đã lầm.

Hồi ức của người cùng thời:

Hoà Thế Khai (nguyên lão của hai triều, Diện thủ (đi đực) của Hoàng Thái hậu Hồ thị, sủng thần của tân Hoàng đế Cao Vĩ): Ta sắp chết rồi, nhưng ta không buồn chút nào. Những gì đáng ăn trên đời này ta đều được ăn, nên chơi ta đều chơi. Không phải tự khoe, những gì ta nếm trải trong mấy chụch năm qua, kẻ khác sống đến mấy trăm năm chưa chắc đã được hưởng! Thái hậu là mẫu nghi của thiên hạ, vậy mà ta ngủ với Thái hậu. Đúng vậy, cùng ta hưởng “diễm phúc” này có 8 người, nhưng có ai được Thái hậu yêu dài dài như lão Hoà này? Tiên hoàng nhường cho Hậu chủ. Bọn tiểu dân ngu dốt, hoạn quan lại có học đều cho rằng cây đề này đổ rồi, nhưng họ không biết rằng, tuy đã nhường ngôi cho Hậu chủ, nhưng Tiên hoàng vẫn là Thái Thượng Hoàng, một Thái Thượng Hoàng đầy quyền lực. Những kẻ có tâm huyết hy vọng ở Hậu chủ, mong rằng những người đối lập với Tiên hoàng và lão Hoà này được bỏ qua. Nhưng Hậu chủ vẫn là con của Tiên hoàng. Có người căn cứ vào sự trừng phạt nhà sư Thông Đàm Hiến (tư thông với Hồ Thái hậu) để nói rằng Hậu chủ tàn nhẫn không kém cha. Người nào nói vậy là không đúng. Vì sao Hậu chủ tử hình Thông Đàm Hiến? Thái hậu dâm loạn với người khác không phải chỉ có một người và không phải chỉ một ngày, là một “bí mật” công khai trong cung, không phải chỉ bây giờ, mà từ đời vua trước. Hậu chủ không thể dung tha Thông Đàm Hiến vì tên ngu xuẩn ấy lại bắt ngư3ời ta gọi hắn là Thái Thượng Hoàng! Gọi như vậy, chẳng hoá ra đức kim thượng có những hai bố? Nghiêm trọng hơn, kiểu đùa này lan rộng ra, thì vấn đề thống của đức kim thượng bị nghi ngờ, thậm chí sẽ lung lay tận gốc. Tóm lại, tên Thông Đàm Hiến tự rước vạ vào thân, đừng trách ai làm gì! Nếu ai cho rằng đức kim thượng không thích bậy bạ thì lầm to! Các vị biết không, bọn ta lúc vắng thường gọi Hầu chủ là “vua nhộn” đấy!

Lục Lệnh Tuyên (Tử Nương ‘nửa mặt già, nửa mặt trẻ”, nhũ mẫu của Cao Vĩ, được mệnh là “bà lắm điều”:

Hoà tiên sinh nói đúng đấy! Đức kim thượng, ta nuôi nấng từ bé. Cậu bé này nói năng cụt lùn, người ngoài tưởng rằng như thế mới đúng là Thiên tử: uy trọng ít mà lời. Thật ra, ít người biết Hậu chủ bị nói lắp. Khi chưa lên ngôi thì không thích nói dài, lên ngôi rồi thì không thích gặp các đại thần, nhất là những vị đạo mạo. Tục ngữ có câu “Người thương lắm điều, dốt hay nói chữ”, quả không sai chút nào. Hậu chủ rất thích hát, làm vua rồi vẫn thích, nói ra không tin: Hậu chủ không những hát, mà còn biết chơi đàn tì bà. Đàn tì bà không phải chuyện đùa đâu nhé! Mọi người đều biết, tì bà vốn là ‘phê bà”, xuất xứ từ Hồ Trung, vốn là “búng ngón tay là “phê”, vuốt ngón tay là “bả”, hình dung động tác khi chơi tì bà, vì vậy mà đặt tên cho đàn. Đàn tì bà có kiểu cổ, kiểu kim. Tì bà cổ có tên là “huyền đào”, cần thẳng, bầu tròn, dựng đứng mà gẩy. Tì bà kim thì để nằm ngang mà gẩy, bầu đàn hình nửa quả lê, đầu cần uốn cong, có bốn dây bốn phím hoặc bốn dây năm phím. Hậu chủ yêu quý của chúng ta chơi tì bà kim. Còn nhớ Hậu chủ tự biên tự diễn một khúc như sau:

Đời người ngắn ngủi vui được mấy?

Nghìn lạng, ta mua một nụ cười!

Chiều tà thơ thẩn ôm đàn dạo,

Vô lo vô lự thế là vui!

Tử Nương “nửa già nửa trẻ” nói không sai, cầm ngang đàn trên lưng ngựa, nghêu ngao chốn điền dã thì đúng là phong độ các bậc danh sĩ. Nhưng phong độ này chỉ có những người “đề huề lưng túi gió trăng”, “mây ngàn hạc núi”, còn đã là ông vua thời loạn, dân tình khốn khổ, bên ngoài thì kẻ thù áp sát biên cảnh, bên trong dân chết đói đầy đường, mà lại đóng vai “vô lo vô lự” thì không ổn. Sử chép rằng, Hậu chủ Cao Vĩ của Bắc Tề “tiếp tục coi sự xa hoa của Vũ Thành Đế  (Cao) Trạm, hậu cung mắc toàn bộ thứ quí hiếm, ăn toàn của ngon vật lạ, một chiếc quân giá vạn bạc, một đài gương giá nghìn vàng, xây dựng cung uyển cực kỳ hoa lệ”.

Một điều khiến ta vừ giận vừa buồn cười là vì Hậu chủ này rất giỏi giả vờ. Mỗi khi nghe tâu về một tai biến nào của dân, liền bãi chầu, rồi lại trai giới, nói là để sửa đức. Một  nhà sử học trong “Giáp Thân tam bách niên tế” từng cười nhạo vua Sùng Trinh triều Minh, rằng khi dân tình đói khổ thì nhà vua trai giới, giảm bữa. So với Cao  Vũ, thì Sùng Trinh chỉ đáng là học trò. Huống hồ Cao Vĩ còn có một biệt tài mà các vua chúa khác không được trang bị: cầm đầu bọn ăn chơi, trùm sỏ bọn ăn mày!

Năm 575, trong Hoa Lâm Viên, cung Uyển của Hoàng gia do mấy vạn dân phu xây dựng bằng máu và nước mắt, bỗng nhộn nhịp hẳn lên, trong cảnh huyên náo có cô gái kỳ quặc. Số là các giai nhân của hậu cung được chia làm hai nhóm, một nhóm mặc quần là áo lượt như thường ngày, nhóm kia thì ăn mặc lôi thôi lếch thếch. Mạn đông của Hoa Lâm Viên phút chốc trở thành đại bản doanh của những kẻ rách rưới này, cổng vào treo hai chữ to tướng: “THÔN NGHÈO”. Một vị triều thần không nắm được sự tình, dâng sớ đàn hặc quan cung môn không nghiêm, để bọn ăn mày lọt vào cung. Lời tố cáo như nước đổ đầu vịt. Viên quan này không bao giờ nghĩ rằng, nguyên nhân của sự lộn xộn này là bọn ngu to gan cũng không dám chui vào đây để lập “THÔN NGHÈO”, mà chính là Hoàng Đế Cao Vị. Khi mà “chó sói đứng đấy thì ai còn hỏi cầy cáo làm gì”. Thực ra, lời đàn hặc chưa bao giờ đến được tai nhà vua.

Thì ra, Bắc Tề khi này không phải đã khôi phục Bắc Tề cũ. Bình tâm mà xét, sau khi lên ngôi, Hậu chủ ban đầu nhiệm dụng quốc trượng Hủ Luật Kim, một người có thể coi là có tài. Sử chép rằng, ông “tính tiết kiệm, không ham quyền thế, tự cạo đầu vào lính, chưa từng thua trận”. Được ông hết lòng phò tá, chính trị của Bắc Tề không phải là không có chút khởi sắc.

Nhưng con người Cao Vĩ không những bản thân mê muội, mà lại hay cả tin. Hơn nữa, không có lòng độ lượng. Chính trong lúc Hủ Luật Kim ngày đêm lo lắng việc triều chính, thì kẻ thù của Bắc Tề là Bắc Chu dùng kế li gián, sai người sang Nghiệp Thành tung lời đồn đại, nào là “bách thặng phi thượng hiên, minh nguyệt chiếu Trang An” (Trăm thặng [là một hũ, tên của Hủ Luật Quang ] bay lên trời, trăng sáng chiếu Tràng An), nào là (Cao sơn bất thôi tự băng, cây hũ [tên một loại cây, cũng là ám chỉ Hũ Luật Quang] bất phủ tự cử” (Núi cao (ám chỉ Cao Vĩ) không lật mà tự đổ, cây hũ không trồng mà mọc), ám chỉ Hũ Luật Quang quyền lực át cả vua. Lại thêm dấm thêm ớt của “ông mù” (tức Tổ Diên, sùng thần của Cao Vĩ, lúc này giữ chức Thượng Thư Tả Bộc Xạ, tước Yên Quận Công, vì đắc tội với cha của Cao Vĩ mà bị giam trong ngục, mù cả hai mắt) và lời dèm pha của “bà dẻo  miệng”. Thói nghi kỵ của Cao Vĩ bột phát, Hũ Luật Kim bị cách chức và bị giết. Vua Bắc Chu được tin, vui mừng đến nỗi đại xá thiên hạ, cả nước tưng bừng phấn khởi.

Sau cái chết của Hũ Luật Kim, Bắc Tề đang khí thế tưng bừng, bỗng trầm hẳn xuống. Do vậy, tuy có mấy người chính trực vẫn dám dâng thư can gián, nhưng Hậu chủ vẫn phá phách như cũ.

Ban đầu, số cung nữ và thái giám  quần áo lam lũ và số cung nữ thái giám quần áo là lượt đều ngượng nghịu, vì số mặc quần áo rách thì đã quen với quần áo đẹp; số mặc quần áo đẹp như thường ngày thì ngượng vì trước những người đẹp ngày nào cũng gặp nhau. Càng ngượng hơn vì phải trình diện trước ông chủ: Hậu chủ Cao Vĩ! Cung nữ cũng vậy, thái giám cũng vậy, bát cơm của họ chẳng phải nhà vua ban cho thì ai? Nói gì bát cơm, mà ngay cả gia đình, sinh mạng của họ cũng do nhà vua định đoạt. Giờ đây chủ biến  thành tớ, tớ biến thành chủ, dù chỉ là giả vờ, nhưng họ chẳng khác “mười năm cái gầu cùng múc trong giếng nước, tám hạ xuống, bảy kéo lên”, chỉ sợ biểu diễn không đạt, bị Hậu chủ trách phạt, biểu diễn quá mức, có thể bị Hậu chủ bắt lấy mất ‘chỗ đội mũ”.

Nghe nói Tư Mã Trung thời Tây Tấn nghe tiếng ếch kêu bèn hỏi cận thần: “Tiếng ếch kêu là của công hay của tư?” Cao Vĩ thấy hỏi như vậy thì quá ngu xuẩn! Có lẽ Tư Mã Trung chưa bao giờ trông thấy con ếch? Thằng cha thật đáng thương! Như Cô gia đây vừa có khả năng làm vua, lại vừa có thể làm ăn mày, thử hỏi xem xưa nay mấy ai làm nổi? Nghĩ đến đây, Cao Vĩ thấy trong lòng khoan khoái, rồi hăng lên, trổ tài ăn xin, lượn đến trước mặt một cung nữ thân hình thon thả, mặt đỏ hồng, vái chào lia lịa, cao giọng nói: “Xin làm ơn, xin làm ơn! Cho tiểu nhân xin một chiếc áo rách!” Người cung nữ nghe giọng nói thì ngẩn người, nhận ra đó là nhà vua, vội quì xuống theo bản năng: “Thánh thượng vạn tuế! Nô tì thật đáng tội chết!”

- Đứng dậy! Đứng dậy! Trẫm đang ăn xin nhà ngươi cơ mà!

Dù Cao Vĩ có dỗ dành đến mấy, người cung nữ vẫn không dám đứng dậy, vì nàng hiểu rất rõ vị Hoàng đế này vui giận thất thường, ban ngày ông ta làm ăn mày, mình làm thí chủ. Nhưng biết đâu tối đến, ông ta lại ngồi trên ngai vàng, gọi bọn cung nữa, thái giám làm nhục vì chuyện ban ngày dám bố thí cho ông ta! Ai dám đảm bảo chuyện này không xẩy ra?

Giữa lúc hai người đang giằng co thì có một ông già đầu bạc đi từ phía sau đi tới, kéo người cung nữ đứng dậy, rồi lấy ra một nắm bạc trắng cho Hậu chủ và bằng một giọng bạn bè, không ra thí chủ, cũng không nô tì, nói: “Anh hùng gặp cơ nhỡ, cảm thương vô cùng! Có ít bạc vụn, mong rằng đỡ đần được đôi chút”. Nói xong, vái dài một vái.

Cao Vĩ nghe nói vậy mà cảm thấy hài lòng, vì đây là lần đầu tiên trong mấy ngày nay, ông ta không bị gọi là Chúa thượng, Vạn tuế.

Khi đã vui, Cao Vĩ bất kể trên giường đang mặc quần áo ăn mày, cao giọng phán:

- Lão ái khanh tên là gì? Với tài ăn nói của khanh, Trẫm có thể mở phủ trong Vương cho ái khanh được đấy!

- Thàn là Lưu Đào Chi xin vâng mệnh!

 Như  vậy đấy, một ông già vì mấy câu đối đáp đắt giá mà được mở phủ trong Vương, hành động này khiến các chiến tướng đổ máu sa trường bầm gan tím ruột. Thực ra, giả dụ các vô tướng biết một số chuyện khác nữa, họ sẽ không giận dỗi về chuyện ông già được phong Vương. Vì rằng sau khi ông già được phong Vương không lâu, những chó, ngựa, gà, chim ưng nuôi trong Hoa Lâm Viên để góp phần trợ hứng cho những hành động quậy phá trong “Thôn nghèo” lần lượt được phong Nghi Ty, Quận Quân, Khai Phủ v.v... hơn nữa đều được hưởng bổng lộc.

Sử chép rằng: Bắc Tề Hậu chủ Cao Vĩ, “thưởng cho một trò, số tiền lên đến bạc vạn, kho tàng trống rỗng, xuống chiếu cho các quận huyện mua quan bán tước, đánh thuế nặng những khách thương, tham nhũng lan tràn, dân không sống nổi!” Nước Bắc Tề vốn cường thịnh, nay trong tay” bang chủ Cái bang (Đầu sỏ ăn mày) đang trở thành “THÔN NGHÈO”.

Năm 576, tử thù của Bắc Tề là Bắc Chu đem bốn vạn rưỡi quân đánh Tề. Quân Chu do Ẩn công Dương Kiên là Hữu Tam Quân , bọn Nhạc Sùng làm Tả Tam Quân, Tề Vương Vũ Văn Hiến làm tiên phong, trực chỉ Tấn Châu, địa điểm quan trọng nhất của nước Tề. Tướng giữ thành sai quân kỵ phi báo về Nghiệp Đô, đều không gặp vì Hậu chủ đang du ngoạn ở Hoa Lâm Viên. Tấn Châu thất thủ vì không được chi viện. Tháng 12 năm sau, Chu Vũ Đế tập trung các đạo binh mã hội chiến với quân Tề. Hậu chủ và người thiếp yêu là Phùng Tiểu Linh hoảng sợ bỏ chạy trước, quân Tề lui, lui mãi về Nghiệp Thành. Lúc này, vì Hậu chủ đáng yêu lại làm một chuyện tức cười.

Theo sử liệu cũ ghi:

Tháng 12 năm 576, sau một trận thảm bại ở Cao Lương Kiều, Hậu chủ Bắc Tề rút bảo vệ Nghiệp Thành. Một lần nữa, Nghiệp Thành rơi vào tình trạng  hỗn loạn.

Hoàng Môn Thị Lan Nhan Chi Thôi có cuộc điều đình với Tướng quân Hũ Luật Hiếu Khanh. Nhạn Chi Thôi ra sức khuyên ông tướng này nên trổ hết tài thừa hưởng tiên tổ, động viên tinh thần quật khởi của Hậu chủ. Hũ Luật Hiếu Khanh trầm ngâm không nói gì.

Đứa con út của Nhan Chi Thôi lên 8 tuổi tên là Nhan Địch thấy giặc sắp đến nơi, mà cha thì không bàn chuyện tác chiến ra sao, lại bàn những là động viên tinh thần quật khởi của Hậu chủ thì không hiểu ra sao? Không nên được, chú hỏi cha:

- Thưa cha, tổ tiên của Hũ Luật Tướng quân là ai thế ạ?

- Hay nhỉ, con chỉ đọc sách cổ về các tiên triều, mà không chú trọng những chuyện của bản triều – Nhan Chi thờ dài – Tổ tiên của Hũ Luật Tướng quân chính là Đại Tướng quân Hũ Luật Kim hiển hách trong lịch sử! Bài “Sắc Lặc ca” của Đại Tướng quân con đã đọc chưa?

- A, ra là bài: “Con sông Sắc Lặc, chảy vòng Âm Sơn, trời như cái vung, trùm lên đồng ruộng. Trời xanh xanh, đồng xanh xanh, gió đè ngọn cỏ, cừu tung tăng! Bài này con đọc rồi!

Thế là giỏi! Cha hỏi con, bài này làm vào khi nào? Trong một hoàn cảnh như thế nào?

- Con không biết! Con trai Nhan Chi Tghôi cười ngượng nghịu rồi van nài – Cha ơi, cha kể cho con nghe đi!

- Được! Cha sẽ kể cho con nghe – Nhan Chi Thôi liếc nhìn Hũ Luật Hiếu Khanh đang ngồi im lặng trên hồ sàng, câu chuyện đầy ngụ ý: “Sắc Lặc ca” do Đại Tướng quân Hũ Luật Kim sáng tác trong một tình hình  rất bất lợi khi ông tổ đức Kim thượng (Cao Vĩ) là Cao Hoàn giao chiến với tướng giỏi của Tây Nguỵ là Vi Hiến Khoan ở Ngọc Bích. Khi đó Tề Vương đem quân đánh Tây Nguỵ ở Ngọc Bích, tướng giỏi của Tây Nguỵ là Vi Hiến Khoan tuỳ cơ ứng biến, sĩ tốt của ta bị thương rất nhiều. Hũ Luật Tướng quân làm bài ca này dfâng lên Tề Vương. Tề Vương cao giọng  ngâm trước quân lính. Ba quân khí thế bừng  bừng, do vậy cơ nghiệp trăm năm của Đại Tề mới giữ được. Cổ nhân có câu; “Đến cả khi gió biết cây cứng cây mềm”, trong tình cảnh nguy ngập, đại thần nhà như Hũ Luật Kim Đại Tướng quân đem tài trí của mình dâng lên quân vương cứu vãn một tình thế ngặt nghèo...

- Chỉ sợ Kim Thượng bây giờ không phải là Tề Vương ngày trước, mà mạt tướng thì lại kém xa ông tổ mạt tướng ! Hũ Luật Hiếu Khanh vẫn chưa hết băn khoăn, nói lẩm nhẩm.

Cổ nhân có câu; “Làm hếg sức mình để thuận mệnh trời! Khi có nguy cấp là thần dân thì phải xông lên, cái việc mà biết rằng khó làm – Nhan Chi Thôi tự bạch.

- Tiên sinh không cần phải nói nữa, mạt tướgn tuy bát tài, nhưng noi gương tổ tiên, cứ thử xem sao?

- Hay lắm! Học trò này đang đợi tin vui của Tướng quân!

... Đáng buồn là Nhan Chi Thôi không nhận được tin vui. Hũ Luật Hiếu Khanh được cổ vũ bởi lý tưởng trung nghĩa, vào Hoa Lâm Viên gặp vua Tề vẫn đang uống rượu vui chơi ở đó.

Nghe tả hữu vào bẩm! Có Hũ Luật Hiếu Khanh xin yết kiến! Cao Vĩ do dự hồi lâu, nếu không có chuyện quân địch  đã ở trước mặt, thì vua không thèm tiếp.

- Thử xem hắn nói gì?  - Cao Vĩ nghĩ thầm, bước ra mặt hầm hầm hỏi – Hũ Luật Hiếu Khanh ông không ở tại tây thành đôn đốc việc phòng thủ, mà đến đây gặp trẫm có việc gì?

- Tâu bệ hạ, lẽ ra thần không được rời vị trí phòng ngự, nhưng vì lòng quân không ổn, sĩ khí thấp kém, không chiến đấu được!

- Chà, chẳng lẽ ông gặp Trẫm là có ngay giải pháp chăng?

- Bẩm vân, Bệ hạ thật sáng suốt!

- Ông định thế nào, nói Trẫm nghe.

- Tâu Bệ hạ, thần muốn Bệ hạ có một cử chỉ hào hùng như Tề Vương trong trận Ngọc Bích trước đây, đích thân đến trận tiền uý lạo ba quân.

Uý lạo? Uý lạo bằng gì? Này ta bảo ông, đừng có xui ta lẩm cẩm, ta có gì để khao thưởng quân sĩ?

- Sao Bệ hạ lại nghĩ vậy? Thần nói “uý lạo” không có nghĩa là khen thưởng vật chất, mà chỉ  đề nghị Bệ hạ làm cho quân sĩ phấn chấn lên. Binh lính phương Bắc của ta thích những lời hào mại, thần bắt chước ông tổ của thần, làm bài từ “tân Sắc Lặc ca”, nếu Bệ hạ thuộc lòng mà ngâm, lại thêm vài giọt nước mắt, thì ba quân chắc chắn sẽ hăng hái vô cùng, quân địch không có gì đáng sợ nữa.

- Chà, có sức mạnh đến thế kia à - Cao Vĩ nửa tin nửa ngờ, hỏi – Bài từ thế nào, đọc lên xem.

- Dạ, bài từ như sau; “Dưới chân thành, địch đánh dữ. Nguy nạn lắm, trông vào các ngươi. Tầng mây thấp, tầng sương dày, phá đười giặc rồi, ta cùng vui”.

- Được! – Thấy Hũ Luật Hiếu Khanh quá nhiệt tình, Cao Vĩ bực mình nói – Hai giờ nữa, Trẫm sẽ uý lạo ba quân.

- Tạ ơn Bệ hạ - Hũ Luật Hiếu Khanh như cất được gánh nặng.

Cao Vĩ hoàn toàn không nhìn nhận đúng mực đề nghị của Hũ Luật Hiếu Khanh. Sau khi trở về cung, nhà vua lại cùng Phùng Thục phi đùa bỡn một hồi, khi cung môn quan đến giục, thì nhà vua gần như quên sạch bài từ của Hũ Luật Hiếu Khanh. Tới khi đứng trước ba quân thì tất cả những lời lẽ hào hùng, những giọt nước mắt  khẳng khái gì gì đấy, đều quên sạch, không còn một câu chữ nào trong đầu nhà vua. Thế là chuyện nực cười xảy ra.

Hũ Luật Hiếu Khanh mờ Cao Vĩ lên tướng đài. Đứng trên cao, Cao Vĩ từng nổi tiếng là con người ‘vô tư”, đã quên sạch những lời nói của Hũ Luật Hiếu Khanh. Nhà vua nhìn ba quân im phăng  phắc đang cúi đầu chờ hiểu dụ, rồi chợt phá cười lên.

Tiếng cười khiến người ngu xuẩn, chợt tỉnh ngộ. Họ không thể nghĩ rằng, trong khi mình bỏ vợ bỏ con ở nhà, quên cả mạng sống, đổ máu hi sih, là để bảo vệ cái của quí này đây! Một người thở dài, nói: “Vua mà như thế, mình lo làm gì?”

Thế là lòng quân tan rã. Hai tháng sau, quân Chu bao vây Nghiệp Thành, Doanh châu, Cao Vĩ, ông vua “cầm đầu bọn ăn mày” bị bắt sống, trở thành tên tù thực sự.

Một điều khiến các sử gia chân chính căm phẫn, là Hậu chủ Cao Vĩ, vua nhóc của nước Tề, sau khi bị bắt có những cử chỉ ngoài sức tưởng tượng. Những người thông thạo lịch sử dã ví Cao Vĩ với Hậu chủ  nhà Thục Hán Lưu Thiện qua điển tích “ở đây vui lắm, không nhớ Thục”, nhưng mọi người có thể chưa biết hành trạng của Cao Vĩ sau khi bị bắt làm tù binh.

Sử chép rằng, sau khi bắt được Cao Vĩ. Vua Vũ Đế Bắc Chu là Vũ Văn Ấp mở đại tiệc chiêu đãi quần thần. Rượu ba tuần, thức ăn năm món xong, Vũ Văn Ấp ra lệnh cho Cao Vĩ đứng hầu rượu và nhảy múa góp vui. Đây là sự nhục mạ lớn nhất đối với nhân cách một Hoàng đế. “Tấn thư” chép rằng, hai vua cuối đời Tây Tấn là Tư Mã Chức và Mân Đế Tư Mã Nghiệp vì không chịu được cái nhục mặc áo xanh nhảy múa như một con hát, đã vùng lên chống lại, nhưng cuối cùng bị thất bại thê thảm.

Những cựu thần của Bắc Tề bị bắt cùng Cao Vĩ chỉ thiếu nước độn thổ. Vậy  mà Cao Vĩ không hệ ngượng. Trái lại, vui vẻ nhảy múa một hồi – có lẽ vẫn nghĩ đây là Hoa Lâm Viên. Giá như Tư Mã Chiêu còn sống, không hiểu ngoài câu “Con là đồ không tim không gan” còn có câu nào đích đáng hơn không?

Cao Vĩ vô liên sỉ là vậy mà vẫn không thoát chết, mà lại chết rất thê thảm. Tháng 10 năm 578, có người tố cáo Cao Vĩ cấu kết với Thứ Sử tuyên châu Mục Đề Bà làm phản, cả hoàng thất cũng tham gia. Vũ Văn Ấp cho bắt Mụ Đề Bà đối chất với Cao Vĩ.

Chết đến nơi Cao Vĩ mới gào khóc kêu oan. Vũ Văn Ấp có ý giết Cao Vĩ từ lâu, không thèm hỏi lại, tử hình cả nhà Cao Vĩ gồm mấy chục mạng người. Cách thức bạn cho tội chết cũng rất hợp với tính cách của Cao Vĩ: nhét đầy miệng ớt, khiến Cao Vĩ bị  sặc mà chết.

 

NAM LƯƠNG CAO TỔ TIÊU DIỄN;

Ông vua bốn lần đi tu, cuối cùng bị chết đói

*

Tháng 2 năm 500, Bình Tây Tướng quân của vương quốc Tề là Thôi Cảnh Tuệ khởi binh chống lại triều đình. Quân phản loạn tôn Giang Hạ Vương Tiêu Diễn làm chủ, nhang chóng bao vây kinh thành Kiến Khang. Đại tướng gĩ thành Tả Hưng Thịnh chết trận. Vua Tề Tiêu Diễn xuống chiếu cần vương, yêu cầu binh mã trong thiên hạ kéo về kinh đô, nhưng người hưởng ứng rất thưa thớt, chỉ có Thứ Sử Nam Dụ Châu Tiêu Ý sai tướng liều chết cứu được nhà vua. 

Sau khi giặc tan, quân sự của Tiêu Ý dâng lời khuyên, nói rằng: “Sau khi giặc tan kẻ có công mà không được hưởng. Là vua hiền chúa sáng mà còn không tự quyết được chuyện đó, huống chi đây là chuyện triều đình rối loạn. Nhược Bằng sau khi diệt giặc, đem quân vào triều, làm công việc ngàn năm có một như Y, Hoắc. Nếu không, lấy cớ chống ngoại xâm mà rút về Lịch dương, đó là cái cớ vẹn toàn cho Tướng quân. Nhược Bằng rời bỏ binh quyền, nhận chức quan tước thì chưa biết sẽ diệt vong ngày nào”. Tiêu Ý không nghe. Ít lâu sau, Tiêu Ý bị Tiêu Bảo Quyển ghép tội mưu phản, bắt uống thuốc độc chết.

Tiêu Ý, một con người rất giống Tống Giang trong Thuỷ Hử, trung thành đến mức ngu xuẩn, trước khi chết, ngửa mặt lên trời than rằng: “Vua bắt bề tôi chết, bề tôi đâu dám không chết. Thần có chết cũng không sao, sợ em trai thần ở Ung châu sẽ là mối lo cho triều đình”.

Lời Tiêu Ý đến tai Tiêu Bảo Quyển, nhưng nhà vua chỉ như gió thoảng bên tai. Ông vua trẻ chỉ biết có ăn chơi này hoàn toàn không hề nghĩ rằng  sau này nước Tề sẽ lại rơi vào tay em trai Tiêu Ý.

Vậy em trai Tiêu Ý là  người như thế nào? Những người am hiểu giai đoạn của lịch sử đều biết ông ta là Tiêu Diễn mà mọi người gọi là “Vua Bồ Tát”. Ông em trai này không những lật đổ triều Tề mà còn sáng lập một vương triều mới. Đó chính là triều Lương, một trong bốn triều Tống Tề Lương Trần thời Nguỵ Tấn Nam Bắc triều, còn bản thân Tiêu Diễn thì sao? Chính sử gọi ông ta là Lương Cao Tổ. Vậy Lương Cao Tổ là con người như thế nào?

 

1. MỚI SINH RA, TRONG TAY ĐÃ CÓ CHỮ “VŨ”, LỚN LÊN TRONG TAY NẮM VŨ TRANG VẬY MÀ BẢN THÂN LẠI ĐỨNG TRONG HÀNG NGŨ TÁM VĂN NHÂN.

Thời Nguỵ Tấn Nam Bắc triều chiến tranh liên miên. Các vương triều phong kiến bé nhỏ chẳng khác chơi đèn cù “anh diễn xong rồi, để tôi lên”. Các nước thay thế lẫn nhau, mà ông vua dựng nước hầu hết dân võ biền. Trong tình hình ấy, sự quật khởi của Tiêu Diễn cũng không ngoại lệ, có điều kỳ lạ là, vào cái thời mọi việc giải quyết bằng quả đấm ấy, con người mà sau đó trở thành ông vua dựng nước lại là thành viên của văn xã “Cạnh lăng bát hữu” một trong 8 người nổi tiếng về văn chương lúc bấy giờ.

Lý giải trường hợp nghịch lý này như thế nào?

Rất nhiều bộ sử, trong đó có cả chính sử, khi đề cập đến Tiêu Diễn, đều trùm lên ông vòng hào quang thần bí, “tướng mạo kỳ lạ, xương chậu dính liền, trên đầu nổi cục, bàn tay phải có chữ “vũ”, hoặc nhắc đến ông thời kỳ trưởng thành lần lượt làm Ninh Sóc Tướng quân, Quán Quân Tướng quân, Phụ Quốc Tướng quân, Đô Đốc bốn châu Ung, Lương, Nam Bắc Thái, trong tay nắm mười vạn binh mã. Nhưng sử sách bỏ sót một điểm này: dù Tiêu Diễn cùng họ với hoàng tộc nước Tề, nhưng ông xuất thân từ con nhà nghèo. Bảy người kia trong  “Cạnh lăng bát hữu” là Thẩm Ước, Tạ Thiêu, Vương Dung, Tiêu Thám, Phạm Vân, Nghiem Phảng, Lục Thuỳ đều nổi tiếng, thường được người đời nhắc đến.

Xuất đạo không lâu, Tiêu Diễn thấy tình hình không đẹp, liền khai thác một dịp tốt để ngoi lên cao, nên tìm mọi cách để chui vào tập đoàn này.

Về việc này, “Lương thư” đã dẫn một câu của nhân vật nổi tiếng Hà Hiến, câu này vô tình đã lật tẩy Diễn khi chui vào văn xã “Cạnh lăng bát hữu”: “Tiêu Lang chưa đến 30 tuổi đã giữ được chức Thị Trung, bắt đầu từ chức này, tất phú quý không để đâu cho hết”.

Hà Hiến nói vậy là có ý bốc thơm Tiêu Diễn, bởi vì bản thân Hà cho rằng Thị Trung là chức quan không thể với tới. Ai ngờ, Tiêu Diễn hoàn toàn không coi chức Thị Trung ra gì, ông ta muốn là muốn ngồi lên ngôi báu.

Tháng 10 năm 501, nịnh thần nước Tề là Nhự Pháp Trân sau khi bày mưu giết hại Tiêu Ý, liền buông lời dèm pha về Tiêu Diễn ở ngoài có những dấu hiệu phản nghịch, triều đình nên cử người đến giám sát. Nghe vậy, Tiêu Bảo Quyển cho rằng có lý, lập tức cử Phụ Quốc Tướng quân Lưu Sơn Dương dẫn ba nghìn quân đến Ung Châu, giả xưng đến nhậm chức Ba Lăng Thái Thú, lại sai một viên tướng đắc lực cầm mật chiếu lệnh cho hai anh em Trung Lang Tướng là Tiêu Dĩnh Đạt và Tiêu Dĩnh Nhiễm trú tại Giang Lăng, hợp sức cùng Lưu Sơn Dương giám sát động tĩnh ở Ung Châu, nếu Tiêu Diễn có hành động gì, lập tức đánh dẹp.

Đây có thể là một kế hoạch tốt, cân nhắc rất kỹ lưỡng. Nhưng họ không gặp may vì vấp phải một đối thủ là Tiêu Diễn.

Sau khi nghe thủ hạ mật báo, Tiêu Diễn lập tức sai Tham Quân Vương Thiên Hổ và Bàng Khánh Quốc đi Giang Lăng, qua châu huyện nào đều phân phát văn thư cho các tướng quan quân chính của địa phương, phê bình triều đình bị hôn quân chi phối, người trung không được thưởng, kẻ gian không bị trừng trị.

Bọn thủ  hạ không hiểu hành động trên của Tiêu Diễn. Trong một buổi gặp mặt, Liễu Khánh Thụ khi ấy giữ chức Biệt Giá Ung Châu, là người phát ngôn đầu tiên:

- Bẩm Chúa công, ti chức nghe nói triều đình cử Lưu Sơn Dương thống lĩnh ba nghĩa quân thuận mà xuống, phối hợp với anh em Tiêu Dĩnh Đạt tập kích tiêu diệt Ung Châu, không hiểu có chuyện ấy không?

- Đúng là có chuyện ấy.

- Vậy chúa công định liệu thế nào?

- Ta đã phái Vương Thiên Hổ, Bàng Khán Quốc đi đối phó với địch rồi.

- Hai người trong tay không một tên lính, làm sao đánh được địch? Lại nữa, ti chức nghe nói, Chúa công sai họ tán phát văn thư cho các Châu Mục, Huyện lệnh ở Giang Lăng, mà không phải là...

Liễu Biệt Giá! – Thấy Liễu Khánh Thụ nhấp nhổm không yên, Tiêu Diễn cắt lời, ý tứ thâm trầm, nói tiếp - đừng lo, Mỗ tuy bất tài, không dám ví với Quản Trọng, Gia Cát Lượng, nhưng lần này, hà hà, ta dùng giác thư, nhất định đánh lui quân triều đinhg. Lão Lưu Sơn Dương không đến thì thôi, hắn mà đến, chắc chắn sẽ nộp thủ cấp thại Giang Lăng!- Thấy Liễu Khánh Thụ nửa tin nửa ngờ, Tiêu Diễn nói tiếp bằng một giọng đầy tự tin – Các ông không tin rồi cứ đấy mà xem.

Vì sao Tiêu Diễn dám tự tin như vậy? Thì ra trong nước cờ này, có một quân cực kỳ quan trọng, đó là Vương Thiên Hổ, người mà Tiêu Diễn cử đi Giang Lăng. Vương Thiên Hổ tuy là Tham Quân của Tiêu Diễn, nhưng lại là tâm phúc của anh em Tiêu Dĩnh Đạt. Vậy trong chuyện này có điều gì khó hiểu?

Sau khi cử Vương Thiên Hổ và Bàng Khánh Thụ đi, Tiêu Diễn vô cùng hứng khởi. Đúng lúc đó, em trai Tiêu Diễn là Tiêu Hoằng Sách tới thăm. Sau khi hàn huyên một hồi, Tiêu Diễn tiết lộ bí mật với Tiêu Hoằng Sách, nói:

-Có nhiều người không hiểu chuyện Vương Thiên Hổ và Bàng Khánh Thụ đi Giang Lăng. Họ là những người không hiểu thời thế. Binh pháp có câu: ”Đạo dùng binh, đánh vào lòng người là thượng sách, đánh vào thành trì là thấp hơn: đấu trí là thượng sách, đấu lực thì thấp hơn. Ta nay cử bon Vương Thiện Hổ giao thư cho những người khác thì thư có chữ, có nội dung, nhưng bác thư anh em Tiêu Dĩnh Đạt thì là tờ giấy trắng, không có chữ, có nghĩa là mọi việc sẽ do Vương Thiện Hổ bẩm báo trực tiếp với anh em Tiêu Dĩnh Đạt. Thực ra, ta chẳng dặn Vương Thiện Hổ điều già cả. Như vậy người ta có thể phỏng đoán rất nhiều về chuyện này, và anh em Tiêu Dĩnh Đạt chắc chắn như gà mắc tóc.

-Thế là thế nào?- Tiêu Hoằng Sách không hiểu, hỏi lại.

-Rất đơn giản – Tiêu Diễn nói tiếp – Chẳng phải Lưu Sơn Dương sẽ gặp Tiêu Dĩnh Đạt đó sao? Ta nghĩ, Lưu Sơn Dương không đui không điếc, chắc chắn sẽ đoán già đoán non rất dữ về cái thư của Vương Thiện Hổ. Hiền đệ cứ đấy mà xem.

Quả nhiên, Phụ Quốc Tướng Quân Lưu Sơn Dương vốn đa nghi, nên đặc biệt nhậy cảm với những chuyện liên quan đến địch ,ta. ông ta dẫn 3000 quân xuôi dòng xuống Giang Lăng, lập tức nghe được những chuyện xung quanh lá thư của Vương Thiện Hổ, liền nghi ngờ lòng trung thành của anh em Tiêu Dĩnh Đạt ở trên bờ. Vậy là hai anh em Tiêu Dĩnh Đạt vốn trung thành với vương triều Tề, bị rơi vào cảnh ngộ khó xử.

Anh em Tiêu hốt hoảng hỏi ý kiến các thủ hạ. Quân sư Tịch Văn Sản nói:

-Tiêu Ung châu (Tiêu Diễn) nuôi quân dưỡng lính đã lâu, quân Giang Lăng của ta rất sợ binh mã Ung châu. Lưu Sơn Dương lại không tin ta. Vậy ta phải làm gì bây giờ?. Không đánh thì thôi, đánh thì cầm chắc là thua. Ngay cả nếu trời giúp mà đánh thắng rồi thì sao? Gương Thượng Thư Lệnh Tiêu Ý còn sờ sờ ra đấy. Huống hồ Chúa thượng là con người mê muội, tất sẽ vì cái chuyện cái thư của Vương Thiên Hổ mà bắt tội ta. Cổ nhân có câu: ”Kẻ nào ra tay trước thì chế ngự được người, kẻ nào ra tay sau thì bị người chế ngự”, xin Chúa công hãy suy nghĩ cho kỹ.

Lời bàn của quân sư khiến anh em Tiêu Dĩnh Đạt đưa mắt nhìn nhau không hẹn mà cùng cất tiếng hỏi:

-Vậy theo cao kiến của quân sư thì nên là như thế nào?

Tịch Văn Sản chậm rãi đưa ra một kế hoạch.

Sáng sớm hôm sau, Tiêu Dĩnh Đạt sai người gọi Vương Thiên Hổ đến, nói:- Thiên Hổ, tình cảnh bọn ta hiện nay khó khăn quá. Chúng ta là bạn cũ, ta muốn nhờ ông giupa cho một việc: Ông cho ta mượn một thứ.

-Mượn của tôi? – Vương Thiên Hổ ngơ ngác không hiểu chuyện gì.

-Đúng vậy. Nghe nói ông có quan hệ với Tướng Quân Lưu Sơn Dương. Nay Tướng Quân đang có sự hiểu lầm bọn ta. Vậy ông cho bọn ta mượn cái đầu của ông để dùng vào việc này.

Không để Vương Thiên Hổ kịp phản ứng, tả hữu nhất loạt xông lên, chém lấy đầu Vương Thiên Hổ cho vào hộp gỗ, cấp tốc sai người đem đến chỗ Lưu Sơn Dương. Lưu Sơn Dương trông thấy đầu Vương Thiên Hổ thì cả mừng, cho rằng đây là cách bày tỏ tấm lòng trung nghĩa của anh em Tiêu Dĩnh Đạt. Vậy là lập tức rời thuyền lên bờ, chỉ đem theo hơn 100 người đến Giang Lăng. Kết quả là Lưu Sơn Dương bị phục kích, bị giết không sót một người nào.

Sau khi trông thấy đầu của Lưu Sơn Dương và bức thư cam kết trung thành với đại sự do Tiêu Diễn chủ xướng, do anh em Tiêu dĩnh Đạt sai người đem đến, bọn Tiêu Hoằng Sách, Liễu Khánh Thụ như chợt tỉnh cơn mê, hiểu rằng chúa công của họ không đánh mà khuất phục đối phương, y như hệt người có võ công cao cường, chỉ ném một cánh hoa, một chiếc lá mà sát thương được kẻ địch.

 

2. ĐẶT CHỨC BÁNG MỘC, PHẾ THẠCH, THU THẬP Ý DÂN, HAI BA LẦN XUẤT GIA ĐẦU PHẬT, VÌ SAO LẠI THẾ?

 Tháng 12 năm 501, Tiêu Diễn hạ thành Kiến Khang, quốc đô của vương triều Tề. Lúc này ông vua trẻ của Tề là Tiêu Bảo Quyển đã bị người ta đầu độc chết, nhhưng Tiêu Diễn vẫn chưa tha, ông ta làm giả lênh Tuyên đức Thái hậu, truy phế Tiêu Bảo Quyển xuống chức Đong Hôn hầu.

Thanh lọc phe cánh xong xuôi, Tiêu Diễn có quân mạnh trong tay, ép Thái hậu phong cho mình các chức Trung Thư Giám, Đại Tư Mã, Lục Thượng Thư Sự.

Tháng Giêng năm sau, Tiêu Diễn lại được phong là Tướng quốc, tước Lương công, tiến thêm bước nữa, phong Cửu Tích, tước Lương Vương.

Theo thông lệ thời đó, Cửu Tích là hàm cao nhất trong triều thần, chỉ kém vua. Vua trên danh nghĩa là Tề Hoa đế Tiêu Bảo Dung thì đang ở Giang Lăng. Vì vậy lòng người xôn xao, không hiểu sẽ xảy ra chuyện gì. Những người theo Tiêu Diễn cất quân đánh Tề tranh nhau dâng thư, khẩn khoản đề nghị Tiêu Diễn lên ngôi, nhưng Tiêu Diễn không nghe.

Một hôm mưu sĩ tâm phúc của Tiêu Diễn là Thẩm Ước đến thăm Tiêu Diễn. Sau khi hàn huyên, Thẩm Ước nói:

-Lúc này nhân tâm ở Kiến Khang không ổn.

Tiêu Diễn nghe nói vậy rất ngạc nhiên, vội hỏi vì sao. Thẩm Ước nói:

-Bọn mục đồng ở Bái Tỉnh hát rằng “Hành trung thuỷ tác thiên tử” (chữ thuỷ ở giã chữ hành [tên của Diễn] làm vua), không hiểu Đại Vương đã nghe câu này chưa?

Tiêu Diễn hình như có điều uẩn khúc, lắc đầu. Thẩm Ước biết tâm trạng mâu thuẫ của Tiêu Diễn: muốn làm vua nhưng lại sợ mang tiếng cướp ngôi, bèn đưa ra một lời giải:

-Nhân tâm giờ đã đổi khác, không thể cứ giữ mãi cái chất thuần phác. Các sĩ đại phu sở dĩ vui lòng đi theo Đại vương là muốn dựa vào rồng phượng để giữ lấy phúc lộc. Ngay cả đến trẻ con cũng biết vận số nhà Tề đã hết, ai nấy đều cho rằng trời giao trách nhiệm này cho minh công. Nay Vương nghiệp đã thành mà minh công vẫn chần chừ không chiếm lấy ngôi báu là vì cớ gì? – Nói đến đây, Thẩm Ước dừng lại một lát rồi nói tiếp – Hiện nay Hoà Đế ở ngoài, kinh thành bỏ trống, đây là thời cơ trời ban. Một khi thiên tử trở lại triều đình, các công khanh ai ở vị trí người ấy, thì khi ấy minh công khởi sự, chắc chắn sẽ có người chống lại minh công.

Thẩm Ước nói có lý có lẽ, khiến Tiêu Diễn động lòng. Ít lâu sau, Tiêu Diễn cướp ngôi nhà Tề, định đô ở Kiến Khang, đổi quốc hiệu là Lương. Bản thân Tiêu Diễn lên ngôi Hoàng Đế.

Khi đã làm vua, Tiêu Diễn vẫn như ngày xưa, tuy nắm đại quyền sinh sát đối với thiên hạ, nhưng ông ta vẫn thích văn học, chú thích đạo lão.

Khi mới lên ngôi, Tiêu Diễn thấy phong khĩ xã hội nhà Tề hủ bại, nên không nắm được tình hình ở dưới, trước hiện thực ấy, Tiêu Diễn xuống chiếu, viết: “Phong tục nhà Thương biến đổi mà di phong thì chưa thịnh, dưới không thấu được lên trên kể đã lâu rồi”. Do vậy dặt chức Báng Mộc, Phế Thạch, cho phép người dân thường được phê bình triều chính, người có công lao, tài vật mà bị oan uổng thì có thể gửi đơn lên Phế Thạch.

Chiếu chỉ vừa ban ra “tính trong sáng” của triều chính tăng lên rõ rệt, nhân tâm lắng xuống, bình tĩnh lại. Buổi đầu không quan tâm đến những công việc quân quốc đại sự của nhà vua, không hiểu nhà vua đặ ra những Báng Nộc, những Phế Thạch để làm gì, thì nay đã hiểu nỗi khổ tâm của nhà vua.

Sau đó không lâu, Tiêu Diễn lại ra lệnh đặt Bác sĩ về Ngũ Kinh, lập trường học ở châu quận, dựng miếu Khổng Tử để tôn sùng Nho giáo, sử gọi là “chính sách tốt rất nhiều”.

Có chuyện thì dài, không có chuyện thì ngắn, thấm thoắt đã đến tháng 9 năm 529, thủ đô vương triều Lương Kiến Khang xẩy ra một chuyện lạ.

Vua Lương Vũ Đế bỏ nhà đi tu tại chùa Đồng Thái, ngôi chùa lớn nhất ở đô thành bấy giờ.

Tin này lan đi làm chấn động cả nước. Trong lịch sử Trung Quốc, tính đến thế kỷ thứ 6 sau công nguyên là thời mà Tiêu Diễn sống, các vương triều tuy không nhiều, nhưng xưng Cô, xưng Quả không dưới 100 người (trong đó có cả những thảo măng anh hùng và thủ lĩnh dân tộc ít người), nhưng trong số họ không một ai rũ sạch bụi hồng, cắt đứt 3000 sợ dây phiền náo, ngủ một mình bên cạnh thanh đăng cổ Phật. Ngày xưa có Hữu Do, Thái Bá vì không muốn làm vua mà bỏ trốn, nhưng đó là truyền thuyết chứ không phải tín sử. Hơn nữa, họ không phải là những ông vua đang ở ngôi.

Các văn võ đại thần chưa rỏ nguyên do thì tranh luận sôi nổi, rất nhiều người nghĩ thầm trong bụng, rằng nếu là họ thì họ có làm như vậy không? Nghĩ rồi, họ đi đến kết luận: Không. Ai lại từ bỏ sự tôn vinh của hoàng đế tối thượng? Do vậy, nhiều không nói ra miệng, nhưng trong bụng thì nghĩ rằng, có thể nhà vua đã phát điên rồi chăng?

Thực ra, nhà vua không điên chút nào. Nếu muốn tìm hiểu vì sao nhà vua cam chịu làm tôi đòi cửa Phật, thì hãy bắt đầu từ cái chết của một người khác. Người có tầm quan trọng đên như thế là Thẩm Ước.

Về Thẩm Ước thì trên ta đã nhắc tới, là người chủ mưu trong sự biến cướp ngôi nhà Tề, dựng lên nhà Lương của Tiêu Diễn. Điều này thì ai cũng biết. Nhưng nhiều người đa bỏ qua một điều, tức Thẩm Ước cũng là kẻ chủ mưu trong việc Tiêu Diễn giết Tề Hoàn Tiêu Bảo Dung.

Thì ra, sau khi cướp ngôi của Tề, lúc đầu chỉ biến Tề Hoàn xuống làm Ba Lăng Vương mà không làm gì khác. Có những lúc Tiêu Diễn thậm chí còn định đổi quận Nam Hải thành nước Ba Lăng, và cho Hoà đế đã bị phế truất đến ở đấy.

Hành động này của Tiêu Diễn khiến dư luận chính thống bàn tán. Thẩm Ước vốn là cựu thần của nhà Tề thì lại càng xấu hổ.

Tháng hai năm 513, Tiêu Diễn thết yến quần thần chúc mừng đã dẹp được sự phản loạn của Từ Đạo Giác. Khi rượu ngà ngà, Tiêu Diễn lệnh cho một cung nữ tên là Tư Hồng ra múa góp vui. Múa xong, Tiêu Diễn chếnh choáng hơi men, hỏi cung nữ Tư Hồng:

Những người có mặt hôm nay đều là những nhân vật nổi tiếng của triều đình, nhà ngươi thử nhìn xem có ai là người quen không?

Từng được rất mực sủng ái trong cung Tiêu Bảo Quyển, lòng vẫn không quên chủ cũ, Tư Hồng nhìn khắp lượt, rồi lạnh nhạt nói:

Trong những người ở đây, nô tì chỉ quen có một người.

Ai vậy?

Tướng công Thẩm Ước. Nô tì còn nhớ Thẩm tiên sinh cũng thường tham dự cuộc tụ hội như thế này, khi còn nhà Tề. Không ngờ hôm nay lại trông thấy Thẩm tiên sinh thật là quả đất tròn.

Nghe Từ Hồng mỉa mai, Thẩm Ước cố quên mà không quên được, ít lâu sau bị một thứ bệnh kỳ lạ. Nhà đại văn hào nổi tiếng với các tác phẩm “Tứ thanh bát bênh”, “Tấn thư” của ông, thương mơ thấy Tề Hoà Đế Tiêu Bảo Dung vì bị Thẩm Ước giết. Vừa thẹn vừa sợ, Thẩm Ước bí mật mời một đạo sĩ đến trừ tà tróc quỉ, bảo đạo sĩ viết lên lá bùa dòng chữ: “Chuyện cướp ngôi là do chủ ý của Tiêu Diễn, không phải do Thẩm Ước sắp đặt, Thẩm Ước cũng không liên quan đến cái chết của Hoà Đế”, có ý mách vong hồn của Tiêu Hoà Đế rằng oan có đầu, nợ có chủ đừng quấy rầy ông ta nữa.

Chuyện trên đây nhanh chóng đến tai Lương Cao Tẩu Tiêu Diễn. Nhà vua cả giận, sai người đến bên giường bênh quở mắng Thẩm Ước, Thẩm Ước vừa lo vừa sợ mà chết.

Tiêu Diễn hình như giác ngộ điều gì đó qua cái chết của Thẩm Ước. Sử chép rằng “từ đó về sau, nhà vua rất tin vào luật nhân quả”. Suy đi tính lại, nhà vua quyết chí đi tu ở chùa Đông Thái”.

Nhiều người cho rằng, chuyện đi tu của Tiêu Diễn là đùa quá hoá thật. Nói vậy, thoạt nghe tưởng có lý, nhưng thực tế nói vậy là gán ghép mà thôi. Sử chép rằng, lần đi tu này, Tiêu Diễn từng triệu tập đại hội “tứ bộ” (bốn loại đệ tử), nhà vua mặc áo cà xa, đích thân giảng “Niết bàn kinh”, “Tam tuệ kinh” cho các tăng ni, thiện nam, thiện nữ. Quần thần bỏ ra bạc triệu cho chùa Đồng Thái để chuộc vua. Nhưng bao lần đề nghị mà vua không chịu cởi bỏ áo tăng ni. Đến khi bá quan văn võ gom được rất nhiều vàng ngọc châu báu giao cho vị chủ trì chùa Đông Thái, Tiêu Diễn mới chịu trở về hoàng cung. Lần này, hoàng đế triều Lương chỉ đi tu có bốn ngày. Về sau, trong gần 20 năm, Tiêu Diễn lạ ba lần đi tu ở chùa Đông Thái, quần thần trước sau phải bỏ ra gần bốn trăm triệu quan tiền mới mua chuộc lại được nhà vua.

Việc Tiêu Diễn xuất gia tu hành có thể do thành tâm, nhưng để nhà vua hồi tâm chuyển ý, các đại thần đã phải xuất ra bốn trăm triệu, gánh nặng này đổ lên đầu trăm họ. Công việc triều chính cũng vì vậy mà lỏng lẻo.

Chỉ ít lâu sau, một cuộc phản loạn quy mô lớn đã nổ ra.

 

3. CHUYỆN LỚN CỦA ĐẤT NƯỚC MÀ KHÔNG TIN VÀO QUẦN THẦN, CHỈ TIN VÀO MƠ MỘNG ĐỦ CHO THẤY ĐẾN LÀ MÊ MUỘI. HẦU CẢNH LÀM PHẢN, CÓ TRUNG THẦN LÀ DƯƠNG CHÚC MÀ TRƯỚC DÙNG SAU BỎ, CHẾT LÀ ĐÁNG ĐỜI.

Tháng giêng năm 547, Đông Nguỵ, nước đối diện với Lương qua một con sông, xẩy ra một sự kiện lớn: Thừa tướng Cao Hoan bị ốm chết. Đại Tướng của Đông Nguỵ là Hầu Cảnh “xấu hổ vì phải đứng trong hàng ngũ với Cao Trừng (con trai Cao Hoan)”, nhân đó làm phản, chạy sang Tây Nguỵ. Vì Hầu Cảnh phản phúc không lường, ít lâu sau lại lật đổ Tây Nguỵ.

Tháng 2 năm ấy, Hầu Cảnh cử Hành Đại Thị Trung Đinh Hoà dâng biểu lên Thiên tử nhà Lương xin được sát nhập 13 chaau do Bắc Nguỵ quản hạt vào đất Lương. Vì đây là chuyện lớn, Lương Vũ Đế Truệu Diễn triệu tập quần thần bàn bạc. Các lão thần dày dạn kinh nghiệm như Thượng thư Bộc Xạ Tạ Cử cho rằng: “Xưa thông hiếu với Nguỵ, nay chứa kẻ phản Nguỵ, không tiện”. Trung Lãnh Quân Chu Dị thì lại cho rằng, Hầu Cảnh lấy hơn một nửa nước Nguỵ, thật lòng nộp cho ta để về với thánh triều. Cân nhắc kỹ thì quả là chuyện đáng mừng. Nếu không dung nạp thì e rằng sau này không cò dịp nào nữa. Thành tâm đã rõ, xin bệ hạ đừng ngại.

Chu Dị, một lão thần gian xảo, vì sao dám công nhiên có ý kiến khác với mọi người? Vốn là từ miệng một hầu cận nhà vua, lão biết chuyện Tiêu Diễn mơ thấy các Châu mục, Thái Thú, Huyện Lệnh thuộc các vùng bắc Hoàng Hà tranh nhau dâng đất quy thuật Tiêu Diễn. Vốn trong đầu chứa toàn những chuyện nhân quả báo ứng, nên khi tỉnh dậy, Tiêu Diễn vui mừng hớn hở, nói lại chuyện này cho kẻ hầu cận, và người này nói lại cho Chu Dị. Kể cũng lạ lùng, thời gian trong mộng là đêm ngày Ất Mão tháng giêng năm ấy, mà theo lời hẹn của Đinh Hoà, đặc sứ của Hầu Cảnh, được cử đến gặp Tiêu Diễn để bàn về việc “đảo chính”, nói rằng Hầu Cảnh quyết định lấy đêm Ất Mão Tháng Giêng năm ấy.

Chu Dị đoán chắc rằng, Tiêu Diễn cho việc Hầu Cảnh sang hàng, trên hợp ý trời, dưới hợp với những điều trong mộng, nên Chu Dị mới dám bác bỏ ý kiến của các triều thần, chủ trương cho hàng.

Quả nhiên, vốn rất tin vào  mộng triệu, Tiêu Diễn thấy thời gian mà  Hầu Cảnh hẹn, khớp với thời gian trong giấc mơ thì cả mừng, lập tức nghe theo đề nghị của Chu Dị, chấp thuận Hầu Cảnh đầu hàng, phong Hầu Cảnh chức Đại Tướng Quân, tước Hà Nam Vương.

Bon tạ cử tuy trong bụng cảm thấy không nên, nhưng ai dám tranh cái với những lời châu ngọc từ mệng nhà vua nói ra?

Tháng 8 nă 547, Hầu Cảnh tham lam vô độ, thấy nhà Lương không thoả mãn được túi tham của mình, bèn mượin cớ triều Lương đơn phương hoà hiếu với đông nguỵ, cất quân chống Lương.

Hầu Cảnh là con người mà Sử chép rằng “không sở trường về cung nỏ, mà chỉ giỏi mưu lược”, được biết người trong hoàng tộc là Giám Hạ Vương Tiêu Chính Đức có ý dòm ngó ngôi vua, bèn gửi thư cho Tiêu Chính Đức. Thư viết: “Đại Vương thuộc hàng thừa kết mà lại bị phế truất. Nay quy thuận Đại Vương, cảnh tuy không sáng suốt như người ta, nhưng cũng thấy việc này là phải lẽ”. Cảnh đề nghị Tiêu Chính Đức là nội ứng, hẹn khi thành công, sẽ mời Tiêu Chính Đức lên ngôi Hoàng Đế.

Vì được Tiêu Chính Đức phối hợp, nên chỉ có 8000 tàn quân và 300 chiến mã mà Hầu Cảnh không mất mấy công sức, đã đánh thắng đến kinh thành Kiến  Khang của nhà Lương.

Tháng 10 năm 548, thành Kiến Khang bị hạ, Tiêu Diễn rút vào Đài thành, trong thành cùng một số quan văn võ ủng hộ nhà vua.

Trước khi rút vào Đài thành, Tiêu Diễn đã làm những gì? nói ra không ai tin, ông vua dựng nước được am hiểu binh pháp này, sau khi lên ngôi, lại rất ghét nói về quân sự. Trước và sau khi Hầu Cảnh làm phản, Thứ Sử Ty châu Dương Nhã Nhân đã mấy lần dâng thư tố cáo Cảnh có ý làm phản, nhắc triều đình phải phòng bị. Các thư đã bị Chu Dị ỉm đi, thậm chí đến tháng 8 năm ấy (năm 548) Hầu Cảnh đã khởi binh phản loạn ở Thọ Dương, mà Chu Dị vẫn đoán chắc rằng “Cảnh không có ý qua sông”.

Vì sao Chu Dị lại chơi cái trò bưng tai bịt mắt như vậy? Vì rằng, trong nhiều năm gần vua, chỉ Chu Dị mới biết ông vua 80 tuổi này thích gì?

Lúc này Lương Vũ Đế đã già nua về thể xác, mà về tinh thần thì không còn hùng tâm tráng chí như xưa.

Lúc đầu, Tiêu Diễm chưa đến nỗi quá lẩm cẩm, cử Thượng Thư Dương Chúc đem quân bố trí, bảo vệ Đài thành đồng loạt tấn công. Dương Chúc căn cứ vào sức tiến công  của từng phía mà chống cự, Cảnh không hạ được thành, giằng co đến nửa năm. Dưới sự chỉ huy của Dương Chúc, quân dân Lương trung thành với nhà vua, lần lượt đánh lui các cuộc tấn công bằng rồng lửa, lừa gỗ và đá tảng, từ đài cao bắn vào quân của Cảnh. Hai bên hình thành thế giằng co. Nào ngờ, Tiêu Diễn sốt ruột muốn thắng nhanh, nhẹ dạ nghe lời Chu Dị, Trương Quán, ra lệnh mở toangcổng thành, ồ ạtđánh ra. Kết quả bị Hầu Cảnh đánh bại. Dương Chúc uất quá, thổ ra huyết mà chết.

Sau khi hạ Đài thành, vì sợ các đạo quân cần vươngđóng sung quanh thành Kiến khang, Hầu Cảnh không dám giết ngay Lương Vũ Đế Tiêu Diễn, mà chỉ “ tung quân đi bắt các cung nữ và vơ vét các đồ ngự dụng”. Từ đó trở đi, Lương Vũ Đế trở thành con người Cô, Quả, đúng với nghĩa của từ này :được ăn rất ít, quần áo không có, do đó lo nắng thành bệnh vì khi đó nhà vua đã 80 tuổi.

Ngày Bính Thìn tháng 5 năm ấy, Tiêu Diễn bị đối rét và bệnh tật hành hạ ở Đài Thành, lại mắc thêm chứng khô miệng. Lúc này nhà vua không có gì ăn dã mấy hôm rồi. đắng miệng quá, ông già mà cách đó không lâu còn là một vị Hoàng Đế, phều phào đòi mật ong. Ông ta không hề nghĩ rằng lúc này là lúc nào, đây là đâu, thân phận của ông thế nào? làm gì có mật ong cho ông.

Đòi mãi, đòi mãi mà không được, Tiêu Diễn rên hừ hừ, chết khát ở Đài Thành.

 

LƯU TỐNG HẬU PHẾ ĐẾ LƯU DỤC:

Việc hay không làm, toàn làm việc dở.

*

Thời Tam quốc, lúc lâm chung, Lưu Huyền Đức dặn con rằng :” Việc thiện dù nhỏ, đừng nghĩ nhỏ mà không làm, việc ác dù nhỏ, đừng thấy nhỏ mà làm”. Con trai là Lưu Thiện thực hiện không tốt lời dạy của ch, nhưng không dám công nhiên chạy theo điều ác, tránh né điều thiện. Sau đó, lịch sử qua đi 200 năm, trong triều đình nhỏ bé Lưu Tống thời Nam triều, có người lại “việc thiện dù nhỏ cũng không làm, việc ác dù nhỏ cũng cứ làm”. Người ấy là Lưu Dục, ông vua bị phế truất triều Tống, một con người không làm được việc tốt nào, chỉ toàn những việc xấu.  

Ngày 8 tháng 7 âm lịch (năm 477), các triều thần của triều đình Lưu Tống (Nam Triều) bị triệu vào cung để nghe quan Tán kị Thường thị Trung lãnh quân Tiêu Đạo Thành truyền đạt huấn lệnh, do danh nho đương thời Lưu Hiển chấp bút, lấy danh nghĩa Thái hậu để ban bố. Lệnh viết rằng:

Vệ Tướng Quân Lãnh Tướng Quân Trung Thư Giám Bát Toạ Dục (tức Lưu Dục) dòng đích lên ngôi chính thống, muôn dân tin cậy, xã tắc trông vào, Vậy mà vô cùng hung ác, tự coi mình đứng trên tất cả mà làm xằng, việc thiện dù nhỏ cũng không làm, việc ác dù lớn cũng dám làm, nhiều lần răn dạy, thảy đều né tránh, gáay đau khổ ngày càng nhiều, vứt mũ quăng miện, bỏ bễ nhung y, đàn đúm với bọn khuyển mã, yêu mến đám chim mồi... diệt nghĩa phản đạo, trời, người đều bỏ... Vậy nên mật chỉ Tiêu Tướng quân sắp mưu lược, đưa thiên hạ trở lại thái bình...

Nghe bản huấn lệnh, không ai lấy làm lạ, các đại thần đều đoán trước chuyện này sẽ xảy ra. Nhưng những người hiểu sự thật, có thể than thở cho tình đời nóng lạnh, vua nào tôi ấy. Còn những ai hiểu rõ giai đoạn lịch sử này đều cảm thấy sự thể tất phải như thế, vì rằng ông vua trẻ triều Lưu Tống này tuy mới ở ngôi một thời gian ngắn, nhưng những chuyện hay thì ông ta không bao giờ làm, lại toàn đi làm những chuyện dở, không xứng với tư cách một ông vua.

 

1. LEO CỘT TRE, THÍCH CHƠI ÁC TỪ NHỎ ĐẾN LỚN. KHÔNG THÍCH HỌC, QUẬY PHÁ LUNG TUNG, BA TUỔI ĐÃ GIÀ.

Ông của Lưu Dục là Lưu Dụ, người sáng lập gia vương triều Lưu Tống. Lưu Dụ là nhân vật có tiếng tăm lừng lẫy thời Nguỵ Tấn Nam Bắc triều, từng đem quân bắc phạt, thu hồi một vùng rộng lớn của đất nước. Sau đó, thống nhất Giang Nam, lập lên một vương triều phong kiến. Tân Khí Tật có bài từ khen rằng : “Nắng triều cây cỏ, thôn ấp như tranh. Nhớ năm xưa dáo vàng ngựa sắt, khí phách như hùm beo băng qua vạn dặm ”.

Sau khi Lưu Dụ chết, con cháu họ Lưu cứ như “ gà què ăn bẩn cối xay” tranh giàng đấu đá, giết hại lẫn nhau liên tiếp xẩy ra.

Cha của Lưu Dục là Lưu Dị vốn chỉ là một phiên vương (Hoài Dương vương). Có lẽ cái tên “Hài Dương” dễ gợi cho người ta liên tưởng đến Hoài Âm hầu Hàn Tín uy danh hiển hách, bị người ta vu cáo là mưu phản, do vậy, Lưu Tử Nghiệp coi Lưu Dị là cái hoạ tiềm tàng, nhiều lần làm nhục ông, đổi vương hiệu của ông từ Hoa Đông vương thành Tương Đông vương, rồi lại chơi ác, đổi thành Trư vương. Để cho Vương hiệu này “đúng như thựctế ”, Lưu Tử Nghiệp sai người đào một cái hố, đổ nước bùn vào, sau đó lột hết quần áo của Lưu Dị quẳng xuống hố, một ngày ăn ba bữa cơm trong máng, bắt ông ăn như lợn.

Lúc này, lúc này Lưu Dục được ba tuổi. Cảnh ngộ mà cha đã phải chịu đựng đã để lại trong ông một ấn tượng sâu sắc. Nhưng điều gười ta cảm thấy lạ, là Lưu Dục không hề quan tâm đến chuyện cha bị làm nhục, mà chỉ chú ý người ta đã dùng thủ đoạn là phương pháp gì để làm nhục cha.

Lưu Dục thời niên thiếu đã nói một câu trở thành “ danh ngôn”. Đó là câu : “ Đại trượng phu thì phải như vậy”. Khi đó người ta nghe mà chưa hiểu “phải như thế ” nghĩa là thế nào. Nhưng sau này thì mọi người đều hiểu.

Vương triều Tống tuy dựng nước bằng vũ lực, nhưng vì là ở đất Giang Nam sản vật phong phú, có cội nguồn văn hoá sâu xa. Lưu Dị lại viết chữ rất đẹp. Do vậy, khi Lưu Dục bắt đầu biết nhận thức, được cha mời mấy thầy nổi tiếng về dậy. Nhưng vị Thái tử bé tí này trở vờ ngây ngô, không chịu học. Mãi khi lên năm lên sáu, thấy không thể bùng nhùng được nữa, Lưu Dục mới chịu học vỡ lòng.

Về mặt học tập, Lưu Dục chưa bao giờ là một học sinh tốt, bất kể phương diện nào.

Ngoài việc đọc sách viết chữ, Lưu Dục có những tài khác không thể thấy ở một đứa trẻ lên năm lên sáu, hơn nữa lại sống trong hoàng cung.

Một thâyd dạy của Lưu Dục nhớ lại một câu truyện như sau : Năm ấy giữa mùa hè ruồi muỗi nọt vào trong phòng rất nhiều. Chiếc rèm cửa bằng sa trong phòng ngủ của Thái tử bị tuột một góc. Những “ bạn cùng học” của Thái tử bị muỗi cắn nổi cục cả ở đầu và chân, nhưng đành chịu bó tay, vì rèm được treo trên đầu một cột tre bự, phải là người lớn mới trèo lên sửa được.chính là trong tình hình như vậy, chỉ nghe tiếng sột soạt, thấy Thái tử leo thoăn thoắt lên đỉnh cột, sửa lại góc rèm bị tuột. Mọi người chưa kịp cất tiếngd khen thì Lưu Dục thì Lưu Dục đãc lộn đầu xuống và tụt ngược từ trên xuống đất. Thầy dạy của Lưu Dục vừa ngạc nhiên vừa tức, mách chuyện này với Lưu Dị, thế là Lưu Dục bị một trận đòn.

Trong con mắt chăm chú theo dõi của người đời, Lưu Dục trôi qua tuổi thiếu niên, và vì cha bị bệnh mà mất, Lưu Dục lên nối ngôi. Sau khi làm vua, Lưu Dục là con người như thế nào?

 

2- CHẲNG LÀ THỢ CŨNG CHẲNG LÀ THẦY, VẬY MÀ KHOAN, ĐỤC, BÚA, CƯA BÀY LA LIỆT. TÍNH ÁC KHÔNG SỬA, SAU KHI LÀM VUA CHỈ MỖI VIỆC GIẾT NGƯỜI.

Khi Lưu Dị còn sống, vì bị cha quản lý rất ngặt, Lưu Dục chưa giám công khai tàn ác. Sau khi cha chết, vì mẹ đẻ là Hoàng Thái phi còn sống, Lưu Dục bất đắc dĩ phải tỏ ra có qui củ. Nhưng người ta có câu’’ Giang sơn dễ thay đổi, bản tính thì khó thay sửa’’, khi tương đối lớn, cái chất lưu manh của Lưu Dục cứ bộc lộ từng tí một. Tất nhiên đây là cả một quá trình.

Lúc đầu, Lưu Dục chỉ tập hợp một số kẻ vô công rồi nghề, bọn lưu manh, cưỡi ngựa thả chim ưng, chạy nhảy như điên trên những con đường lớn trong kinh thành, hoặc sáng đi tối về, hoặc đêm đi ngày trở lại, dù sao vẫn chưa gây hoạ lớn cho dân. Chơi bời như vậy một thời gian, Lưu Dục cảm thấy không khoái, bèn nảy một ý.

Hôm sau, trời chưa sáng hẳn, Lưu Dục sai người gọi thị vệ trong cung tới, lệnh cho họ đem đến ngay lập tức một cây xà mâu:

Trẫm có việc dùng gấp- Nhà vua nói có vẻ nghiêm chỉnh.

Mệnh lệnh từ miệng Hoàng đế ban ra, thị vệ đâu dám chậm trễ, vội lấy một cây xà mâu tốt nhất đem đến.

Một tiếng thét chói tai, Lưu Dục dẫn một đám ác ôn lên đường. Không việc gì mà vội, trên đường các quan, khách buôn qua lại chắc chắn sẽ lãnh đủ.

Sử chép rằng, thường là trông thấy người, nhất là người đi đường, Lưu Dục lập tức xông lên đâm tới, nạn nhân không chết thì bị thương, hiên nganh như hình ảnh Đông Kixôt dưới ngòi bút Xec Văngtet, chỉ khác ở chỗ Đông Kixốt nấp trong cái thế giới tưởng tượng, còn Lưu Dục thì hoành hành ở trên đời.

Để” trợ hứng”, một tên ác ôn mà sử sách có ghi tên là Trương Ngũ Nhi, lại bầy ra một trò khác. Lưu Dục nghe xong, mặt mày hớn hở.

Hôm sau, Lưu Dục sai người ra đường cái quan bắt về hơn 30 người toàn là đàn ông không cần biết họ tên là gì, người ở đâu, không giáp ất gì hết, trói nghiến lại từng người một, rồi phốc lên ngựa chạy theo hướng ngược lại với những người kia, vung xà mâu đâm tới.

 Một tiếng hét thất thanh ré lên, người đàn ông bị đâm trúng hạ bộ hôn mê bất tỉnh. Tiếng kêu thảm thiết khiến một ác ôn cũng phải chau mày, thì ra ai cũng có lòng trắc ẩn.

Cái chau mày cũng không có gì ghê gớm, nhưng đã làm cho một người nổi giận. Ai vậy? Chính là hôn quân tí hon Lưu Dục.

Thì ra, Dục tính nết rất kỳ quặc, khi nhà vua làm gì đó, chỉ cho phép người khác khen mà không được chê, dù chỉ là chau mày.

Cũng rủi cho chàng thiếu niên chưa mất hết lương tri kia, cậu ta đứng ngay trong tầm nhìn của Lưu Dục.

Không cần người khác nhúng tay vào, Lưu Dục tiến đến túm ngựa áo của chàng thiếu niên, trật cả bả vai, rồi lệnh cho đứng yên:

-Nhà ngươi muốn chết một cách thoải mải hay là đứng yên để cho ta một nhát, kéo dài kiếp sống thừa?-Lưu Dục dằn dọng hỏi.

-Vua bắt bề tôi chết bề tôi đâu giám không chết-Chàng thiếu niên biết rõ những thủ đoạn tàn khốc của Lưu Dục, xin được chết, nhưng không ngờ Lưu Dục chỉ đâm một nhát, xén đứt bộ máy nối dõi tông đường của cậu.

-Chết hả? Sao mà dễ thế, ta không cho ngươi được chết- Lưu Dục vừa giận dữ  nói vừa vung xà mâu vào bả vai chàng thiếu niên. Không rõ xà mâu quá sắc, hay vì bả vai của chàng trai quá mảnh, mũi xà mâu xuyên suốt bả vai ra đằng sau.

Từ hôm đó trở đi, Lưu Dục thường xuyên đeo trên người dùi, đục, búa, cưa.Ngày nào mà không giết chết được hoặc bị thương ai đó, thì Lưu Dục như thiếu một cái gì đó, làm như chức sự trời cao là giết người.

 

3.NUÔI LỪA TRÊN ĐIỆN KIM LOAN, BUỘC NGỰA BÊN CẠNH LONG SÀNG.

Lưi Dục đúng là ‘’Thiên ma tinh’’ xuống trần, không chỉ gây tai vạ cho chúng sinh, mà còn luôn luôn thay đỏi  trò chơi, làm những việc mà ngay cả bọn vô lại cùng không giám làm.

Ngựa và lừa là gia xúc được thuần hoá sớm nhất, đến thời Nguy Tần Nam Bắc triều thì được hai loại người yêu thích:vũ phu và văn nhân. Thời bấy giờ có câu ngạn ngữ ‘’vũ phu yêu ngựa, văn nhân yêu lừa’’. Các vũ sĩ yêu ngựa, vì trong hành quân chiến trận có thêm bốn chân, văn nhân yêu lừa, cólẽ do loài vật bé bỏng này rất dịu dàng, nhu thuận, vừa lấp đầy sự nuối tiếc của các tao nhân mặc khách chỉ quen đánh giặc mồm mà không thể rong ruôỉ bằng ngựa trên các miền đất nước, mặt khác, cưỡi lừa ôm bình rượu thường là đạo cụ để vừa đi đường vừa ngâm thơ. Nghe nói Vương Xán, một trong bảy’’Kiến An thất tử’’ là người rất yêu lừa, thích nghe tiếng lừa kêu. Do vậy khi ông bất hạnh từ giã cõi đời, hôm giỗ đầu, các bạn của ông cùng Nguy Văn Đế Tào Phi và một lô quan văn đến bên mộ ông đều bắt chước tiếng lưà mà kêu  lên một hồi.

Đây có thể là một ý thích nghiệp dư quái đản chăng?

Nhưng không một ai nghĩ rằng Lưu Dục lai nâng tầm những ý thích vốn không có gì thanh nhã đó lên tột đỉnh, hoàn toàn mất hết luân thường.

Sau một thời gian cầm giáo cưỡi ngựa đâm người trên đường để múa vui, Lưu Dục lai cảm thấy không còn hứng thú với công việc đó nữa. Trương Ngũ Nhi vốn rất thạo đoán ý bề trên, lại hiến một kế:Nuôi ngựa, chơi với lừa, hơn nữa lại nuôi ngựa trong điện Kim Loán, trong hoàng cung.

Ngoài thái giám và cung nữ ra, người thường có bao giờ trông thấy nội viện hoàng cung, chỉ riêng điều này cũng đủ mới mẻ và háo hức rồi.

-Đã nuôi thì nuôi ngay bên long sàng, đã chơi thì chơi ngay trong Diệu Linh điện-Lưu Dục nói rất nghiêm chỉnh. Và lập tức sai người dắt đến mười mấy con lừa và vài chục con ngựa.

Nghe nhà vua nói vậy, Trương Ngũ Nhi lắc đầu lè lưỡi.

Thì ra, từ lúc Lưu Dụ sáng lập triều Lưu Tống đến nay, trong hơn 50 năm trải qua 7 đời vua, tuy có 5 đời là những ông vua quậy phá, nhưng quá lắm cũng chỉ là những ông vua hoang dâm tửu sắc, chưa ai biến điện Kim Loan thành chuồng ngựa, nhất là nơi đó gợi cho bách tính nghĩ về hoàng cung là nơi thiêng liêng. Trương Ngũ Nhi nghĩ thần – Vậy là hoàng cung lại mang thêm một nội dung mới. Cổ nhân có câu “nằm gai nếm mật”, vua trẻ của mình thì lại “nằm chuồng nuôi ngựa”.

Còn Lưu Dục thì không có thì giờ để xem người ta nghĩ thế nào, chỉ biết rằng, ta là Hoàng đế, lời của ta là thánh chỉ, ai cũng phải tuân theo.

Thế là mấy hôm sau, nội viện của hoàng cung, nơi mà văn nhân gọi bằng cái từ thanh nhã “Nguyệt khuyết”, đã biến thành nơi người và lừa, ngựa ở lẫn lộn.

Sử ghi : Lưu Dục nuôi mấy chục con lừa bên cạnh long sàng.

 

4. DÙNG BỤNG NGƯỜI LÀM BIA TẬP BẮN, ĂN CẮP CHÓ Ở CHÙA TÂN AN.

Khi còn là Đông Cung Thái tử, Lưu Dục rất vênh váo về tài quậy phá của mình. Đến khi lên ngôi chí tôn. Dục lại cho mình tài hoa thiên bẩm. Công bằng mà nói, theo sử sách ghi chép, ông vua trẻ khi lên ngôi mới 10 tuổi này tuy không có tài tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, nhưng rất khéo tay trong những công việc tầm thường như nghề kim hoàn, may mặc, việc nào cũng tinh xảo.

Nhưng có một việc mà nhà vua rất kém và thường vì thế mà nuối tiếc đó là bắn cung.

Khi cha của Lưu Dục là Lưu Dị còn sống, từng chọn ra mấy vị cố mệnh đại thần để phò tá vua trẻ cai trị thiên hạ. Mấy người đó là : Quế Dương Vương Lưu Hưu Phạm, Hộ Quân Tướng Quân Chử Uyên, Hữu Bộc Xạ Lưu Miến, Thượng Thư Lệnh Lưu Xán. Nhưng trên thực tế còn có một người vì nắm giữ binh quyền mà có vai vế đáng gờm, đó là Tiêu Đạo Thành, giữ chức vụ : Tán Kị Thượng Thư, Trung Lãnh Quân, Đô Đốc quân sự của 5 châu Nam Yển, Từ, Yển, Ký, Trấn Quân Tướng Quân, Thứ sử Nam Yển. Không hiểu vì sao Lưu Dục lại “rất không khoái Tiêu Đạo Thành”.

Một buổi chiều tháng 6 năm 477, trời nóng nực, Lưu Dục dẫn một đám côn đồ thị vệ, bất thình lình đột nhập vào phủ Trung Lãnh Tướng Quân của Tiêu Đạo Thành.

Vì đến bất chợt, Tiêu Đạo Thành đang cở trần hóng mát không kịp mặc áo, vội vàng nghênh giá. Nhà vua đến có việc gì nhỉ? – Tiêu Đạo Thành nghĩ thầm – Dù sao thì chó sói vào nhà là có chuyện chẳng lành.

Cả một đoàn người mang dao vác gậy, dắt chó không mời mà đến, lúc đầu cũng chẳng vì lý do nào cả, chẳng qua là nhà vua muốn tập kích một cái, xem vị đại nhân công lao át cả chủ,đang làm gì?

Khi nhìn thấy Tiêu Đạo Thành, mắt Lưu Dục sáng lên : Có chuyện để làm rồi. Chuyện gì vậy? Thì ra nhà vua định dùng Tiêu Đạo Thành làm bia để tập bắn cung. Nhà vua nghĩ thầm “ có lẽ trước kia ta bắn không tốt vì toàn là bia chết. Nay ta bắn thử bia sống, biết đâu lại chả thành “ bách bộ xuyên dương” ( cách trăm thước bắn xuyên lá liễu) cũng nên. Huống hồ là “bia sống”  này là nhân vật nguy hiểm, phải trừ khử bằng được mới hả giận.” Nghĩ vậy, nhà vua lệnh cho Tiêu Đạo Thành cứ ở trần để vua tập bắn, vì chưa bao giờ thấy một cái bia tốt như thế.

Tiêu Đạo Thành nghe vậy mà lửa giận ngùn ngụt – “ Lấy bụng ta để làm bia là thế nào? Đường đường là vua của một nước mà sao bậy bạ tới mức này. Ta phải cãi cho ra lẽ mới được – Bụng tuy nghĩ vậy, nhưng miệng lại kêu to:

-Tâu bệ hạ, lão thần vô tội.

Lưu Dục bất kể Tiêu Đạo Thành có tội hay không có tội, giương cung lắp tên chuẩn bị bắn.

May có Nương Thiên Ân là Đầu Mục thị vệ đứng đầu bên cạnh hiểu rằng chuyện này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng nên khuyên nhà vua:

-Tiêu Tướng quân bụng to, đúng là không có bia nào tốt hơn. Nhưng Bệ hạ có nghĩ là nếu hôm nay ông ta bị chết, thì không biết sau này có bia nào tốt như thế không?

-Vậy theo ý nhà ngươi phải làm thế nào?- Lưu Dục thấy Vương Thiên Ân nói có lý nên bỏ tính cố chấp, hỏi lại. Vương Thiên Ân hiểu rất rõ nếu chặn đứng nhà vua lại thì không được, nên kiến nghị:

-Tâu Bệ hạ, chi bằng bẻ đầu mũi tên đi, lấy bông quấn vào, dùng tên bọc bông ở đầu để bắn. Như vậy, vừa tập có kết quả, vừa còn “bia sống” để dùng sau này, vậy là được cả hai.

Lưu Dục suy nghĩ một lát, rồi miễn cưỡng đồng ý.

Sau khi thoát được tai hoạ đó Tiêu Đạo Thành ngày đêm lo ngay ngáy, không biết sẽ bị hôn quân giết vào lúc nào. Rồi lại nghe người ta nói rằng, khi về cung, Lưu Dục cảm thấy bắn bằng tên bịt thì không khoái, muốn dùng cách khác để giết ông. Vì rằng có Trần Thái phi chỉ trì hậu cung can ngăn, nên nhà vua chưa thực hiện được ý đồ đó “Sử chép: Lưu Dục lại giết Tiêu Đạo Thành, Trần Thái phi nói; “Tiêu Đạo Thành có công với nước, nay giết ông ta, sau này còn ai ra sức vì Bệ hạ?”

Thấy Thái phi ra mặt bênh Tiêu Đạo Thành, Lưu Dục bèn tạm thời đi tìm thú vui khác.

Lúc này, số lừa nuôi ở điện Kim Loan và số ngựa nuôi bên long sàng không làm vua cảm thấy hứng thú nữa, vì nghe nói đây là những lừa ngựa của các đại thần đem dâng. Theo cách nghĩ của Lưu Dục, hưởng thụ những thứ sẵn có thì không khoái bằng những thứ ăn cắp đem về.

Do vậy, đầu tiên nhà vua đi ăn trộm đàn bà, “tư thông với con gái của Hữu vệ dực liễn doanh, mỗi lần đến lại dắt theo mấy nghìn để mua rượu thịt”.

 

TIẾP ĐÓ LÀ ĂN TRỘM CHÓ CỦA NHÀ CHÙA

Từ khi Đông Hán Minh Đế Lưu Trang sai người dùng ngựa trắng chở về kinh về Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, cùng với Nho giáo song song tồn tại, Phật học cũng tăng trưởng cùng với Nho phong. Đến thời Nguỵ Tấn Nam Bắc triều, đắc biệt là thời Nam Bắc triều, việc xây dựng chùa chiền đã mở rộng đến quy mô lớn nhất. Nuôi chó ở chùa là đặc trưng văn hoá phật giáo thời vương triều Lưu Tống.

“Nam triều có 480 chùa”, Lưu Dục trong chùa Tân An. Theo sử ghi chép, thì chó của chùa Tân An và sư nữ của chùa Thanh Đàn Nê là hai món ngon lành của bọn giang hồ lãng tử.

Ngày 7 tháng 7 năm 477, là ngày mà âm lịch gọi là Khất xảo. Theo truyền thống cổ của Trung Quốc, đây là ngày Ngưu Lang Chức Nữ qua cầu ô thước gặp nhau. Hôm ấy, trước hết, Lưu Dục lẻn vào Hữu vệ dực liễn doanh, cùng cô gái mà nhà vua sùng ái làm một cuộc “vụng trộm trên cầu ô thước”. Sau đó, lên xe mui trần, cùng đám du côn lặng lẽ xông vào chùa Tân An, bắt trộm con chó to nhất và béo nhất của nhà chùa.

Lưu Dục sai người đem chó làm thịt, nấu nướng, lấy rượu ngon ra, rồi còn trơ trẽn cho mời nhà sư trụ trì chùa Tân An đến uống rượu.

- A Di Đà Phật, cửa Phật là nơi thanh tịnh,l cấm rượu thịt là một trong tám điều cấm, bần tăng dù chết cũng không dám vâng mệnh.

- Sao nhà sư không ăn không uống? Thử hỏi, Trẫm quyền to hơn, hay phép tắc và những điều cấm đoán của nhà Phật to hơn?

Thế là, vì sợ oai Lưu Dục, vị cao tăng đã không giữ được giới luật tối thiểu.

Ngay trong đêm ấy, Lưu Dục, vị “hỗn thế ma vương” dám làm tất cả mọi chuyện, đột nhiên bị bạo bệnh mà chết.

Về cái chết của nhà vua, có nhiều ý kiến khác nhau.

Một ý kiến cho rằng, Lưu Dục từ chùa Tân An say rượu trở về, được vực vào phòng trải thảm Đông A trong cung Nhân Thọ. Trước khi ngủ, nhà vua nói với những kẻ hầu cận: “Đêm nay ... đêm nay là đêm thất tịch ... là đêm Chức nữ qua sông. Nghe nói Chức nữ rất xinh đẹp, các ngươi ... không được ngủ, phải bắt lấy Chức nữ cho trẫm. Nếu để lỡ việc, ngày mai Trẫm chém đầu”. Bọn hầu cận sợ bị giết, nên tới lúc nhà vua ngủ say, lấy thanh đao Thiên Ngưu của nhà vua vẫn để bên gối, chém chết Lưu Dục.

Người khác thì cho rằn, cái chết của Lưu Dục tuy có liên quan đến những câu nói trong cơn say, nhưng lời lảm nhảm đó chẳng qua chỉ châm ngòi cho cái chết của nhà vua đến nhanh hơn. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái chết của Lưu Dục là nhà vua định bức hại Trung Lãnh Quân, Tán Lỵ Thường Thị Tiêu Đạo Thành, khiến Tiêu Đạo Thành căm thù nhà vua đến tận xương tuỷ. Sử chép rằng: Tiêu Đạo Thành ngầm ra lệnh cho “Vương Kính Tắc liên kết với 25 người trong số tả hữu của Dục là Dương Ngọc Phu, Dương Vạn Niên, Lữ Hân Chi, Trương Thạch Lưu, La Tăng Chí, Chung Thiên Tải, Nghiêm Đạo Phúc, Lôi Đạo Tứ, Hứa Khởi, Thích Nguyên Bảo, Thịnh Đạo Thái v.v... cùng nhau giết Dục. Đêm ấy, Kính Tắc ra ngoài, sau đó cùng Vạn Niên vào phòng ngủ của Lưu Dục, dùng thanh đao phong thân của vua mà giết vua, Trần Phụng Bá ôm đầu và quần áo của Dục lên xe ra cửa Minh môn, giao cho Kính Tắc, Kính Tắc lên xe đến Lánh Quân Phủ trình lên Tề Vương (tức Tiêu Đạo Thành). Tiêu Đạo Thành mặc nhung phục, dẫn theo mấy người vào hoàng cung qua cửa Minh môn, nói với Thái hậu Nãái Phụng nghênh lập An Thành Vương.

Ta cho rằng, chuyện sau có lý hơn cả.

 

NAM TỀ ĐÔNG HÔN

HẦU CHU THIÊN BẢO QUYỂN:

 tiếc tiền không tiếc thân

*

Kể rằng, thời Nguỵ Tấn Nam Bắc triều, Tống Tề Lương Trần đều ở tả ngạn Trường Giang. Nguỵ phân đất cho Tề Chu ở phía Bắc. Trong số 26 quân vương của bốn nhà đó (Tống 8, Tề 4, Lương 8, Trần 5), ngoài mấy ông làm vua ra, số còn lại thì gần 2/3 là quân vương vô đạo. Nếu chỉ mê muội thì còn khả dĩ, đằng này trong số hôn quân đó; rất nhiều người là bạo quân hoang dâm vô đạo, gây ra biết bao tai hoạ cho dân. Họ bất chấp dân chúng sống chết ra sao, chỉ chăm lo cho những thú vui vật chất của mình được thoả mãn. Tiêu Bảo Quyển, ông vua thứ sáu của vương triều Tề là một trong số những ông vua hoang dâm đó.   

Tiêu Bảo Quyển, sinh năm 483, chết năm 501, là con thứ hai của vua Tề Cao Tông Minh Hoàng đế Tiêu Loan. Ông ta chỉ sống trên đời có 19 năm và trong đó chỉ có hai năm làm vua, xong những trò của ông nhiều hơn tất cả những trò của  toàn bộ các đế vương cộng lại.

 

1. TÁNG TẬN THIÊN LUÂN, CHA GIẾT CON KHÔNG KHÓC. ĐIỆN KIM LOAM TÔN NGHIÊM DÙNG ĐỂ NUÔI CHUỘT.

Từ tháng 10 năm 494 đến tháng 3 năm 498, trước sau không đến  năm năm cái vương triều bé nhỏ Tiêu Tống lên thay nhà Tống này đã liên tiếp xẩy ra một số chuyện mà các nhà sử học cho là nghiêm trọng:

Tề Minh đế Tiêu Loan dùng thủ đoạn không gì làm sạch sẽ cướp lấy chính quyền từ cháu, sau đó lại giết hại tôn thất bừa bãi. Chỉ một thời gian ngắn, những người trong hoàng tộc như An Lạc Vương Tiêu Kinh, Tấn Yên Vương Tiêu Lục, Nghi Đô Vương Tiêu Kiên, Quế Dương Vương Tiêu Huyện, Hàng Dương Vương Tiêu Quân, Giang Hạ Vương Tiêu Phong, Kiến An Vương Tiêu Tử Chân, Ba Lăng Vương Tiêu Tử Luân ... đều trở thành quỉ không đầu dưới lưỡi gươm của Tiêu Loan. Lòng căm thù đối với hoàng tộc, Tiêu Loan đến chết vẫn chưa nguôi, trước lúc lâm chung còn sai người bắt giữ tất cả những người trong tôn thất, định dùng tiêu thang là loại thuốc cực độc để tàn sát những người em ruột thịt. Vì có mấy đại thần liều chết can ngăn mới không xẩy ra cuộc đại tàn sát đó.

Có lẽ thấm nhuần tư tưởng của cha “Không độc ác thì không phải trượng phu” mà “đã hành động thì phải ra tay trước”, lúc chưa lên ngôi, Tiêu Bảo Quyển đã lòng lim dạ đá, khi làm vua thì ác như ôn thần.

Sử chép rằng, khi Minh đế Tiêu Loan chết, Thái tử Tiêu Bảo Quyển không tỏ ra thương xót chút nào, ngay cả làm vẻ đau thương cũng không, đúng là cái chuyện có một không hai ở cái thời ông ta sống.

Theo tư tưởng Nho gia thống trị Trung Quốc đã mấy ngàn năm, trong trời đất không ai thân hơn cha con, nhất là khi người cha – dù đã là người cha độc ác - đã dồn hết tình thương cho đứa con, người con đó nếu không tròn đạo hiếu thì thật là táng tận thiên lương.

Các số mệnh đại thần như Thượng Thư Bộc Xự Giang Hựu, Dương châu thứ sử Tiêu Diệu Quang, Lãnh Quân Tướng quân Lưu Huyên ra sức khuyên nhà vua đến khổ trước linh cữu vua cha đã quá cố.

Các vị đại thần không bao giờ có thể nghĩ rằng, Tiêu Bảo Quyển không nói dài dòng, mà chỉ trở vào họng mà nói:

- Trẫm đau họng – Rồi khệnh khạng cùng đám tiểu hoàng ôn (thái giám trẻ) bỏ đi.

Bọn Giang Hựu tức đến nỗi lặng đi hồi lâu mới bình tĩnh lại.

Lưu Huyên vì là Lãnh Quân Tướng quân, thống lĩnh lính cấm vệ, thường được gặp mặt vua, thở dài nói:

- Thưa đại nhân Giang và Tiêu theo ti chức thì nên khởi sự đi.

- Vắng Thiên tử thì tang lễ khởi sự sao được?

- Không được thì còn cách nào khác? Khó mà lay chuyển được ý Thánh thượng, là Thiên tử (con trời) thì chỉ có trời mới nói nổi, chúng ta là thần dân khác nhau một trời một vực! – Lưu Huyên trả lời – lại nữa, chắc các đại nhân chưa biết, thiên tử của chúng ta còn có một thú chơi lạ lắm.

- Lạ như thế nào? – Giang Hựu không hiểu nổi hỏi lại.

Thấy xung quanh không có ai, Lưu Huyên dùng ngón tay trỏ viết lên mặt thẻ gỗ hai chữ “chuột cống”.

- “Chuột cống”? Phải chăng là “chuột cống” trong “Kinh thi”? Xuất thân khoa bảng, nên lối tư duy của Giang Hựu thường gắn với nghề của ông, hỏi – Lưu Tướng quân, Bệ hạ đọc “Kinh thi” thì có chuyện gì đâu, đây không phải chuyện dở, vì  vậy sao ông cứ thở ngắn thở dài như vậy?

- Tiêu Diêu Quang quì lâu quá mỏi cả người, vừa đứng lên vừa nhìn xung quanh, thấy không có người thì nói nhỏ:

Giang đại nhân, ông đúng là người quân tử, “Chuột cống” mà Lưu Tướng  Quân vừa nói, không phải là “chuột cống” trong kinh “Kinh Thi. Thạc thử” – Nối đến đây, Tiêu Diêu Quang nhìn tứ phía không thấy ai, bèn nói tiếp - Đại nhân không biết đấy thôi, ông vua con này khi còn ở Đông cung có bao giờ thích học, làm sao có tâm linh thanh nhã để đọc thơ? Ông thế này này... – Vừa nói vừa giơ tay làm hiệu vờn chuột – chơi với chuột.

Chơi với chuột?

Đúng thế, chơi với chuột.

Sao vậy được? Nói gì thì nói, ông ấy cũng là vua. Vua một nước ai lại chơi với chuột trong điện Kim Loan? Huóng hồ đây là lúc có quốc tang.

- Có gì mà “sao vậy được” Ông có nghĩ quá đến mấy cũng đúng – Lưu Huyên làm như quên hết sự đời.

- Trời ạ, nếu quả như thế thì thần dân nước Tề chúng ta phải đọc chương “Chuột cống” trong “kinh thi mất” – Giang Hựu nghĩ thầm.

“Chuột cống, chuột cống, đừng ăn thóc của ta,  ba năm nuôi mày, mày không thèm ngó, ta tiêu mày đi, về nơi lạc thổ” – Câu thơ trong Kinh thi chốc chốc lại trở lại trong đầu Giang Hựu.

 

2. LÀM VIỆC GẪY RĂNG RÁCH MIỆNG MÀ VẪN KHÔNG BỎ CUỘC, GIỠN QUẦN THẦN, TẤU CHƯƠNG BỎ ĐÓ, THÁI GIÁM CŨNG DÙNG LÀM GIẤY GÓI THỊT.

Năm 497, khi Tề Minh đế Tiêu Loan chưa chết, Tiêu Bảo Quyển khi đó là Thái tử ở Đông cung, việc triều chính chưa đến tay để giải quyết, nhưng lại bận rộn túi bụi hơn cả vua cha.

Thì ra Thái tử đang làm một việc theo Thái tử thì vô cùng quan trọng: nghiên cứu phát minh “trụ đế bằng miệng”.

“Trụ” là công cụ bằng gỗ dùng khi biểu diễn xiếc, thông thường dùng vai và tay để đỡ, rồi cho mấy người nhẹ cân nhưng cường tráng trèo lên, nhào lộn trên đó để mua vui. Điều kiện chủ yếu để biểu diễn trụ đế là khả năng trụ, yêu cầu này khá cao so với các công tử sống trong nhung lụa, nhưng so với Tiêu Bảo Quyển thì dễ như trở bàn tay. “Nam Tề thư. Đông Hôn Hầu kỷ” ghi chép như sau; “Nhà vua có sức khoẻ, trụ được cột Bạch Hổ”. Tiêu Bảo Quyển ỷ vào sức khoẻ như trâu của mình, trụ một cây cột dài hơn bảy thước trên vai, rồi cho những kẻ làm xiếc trèo lên nhào lộn, vậy mà nhà vua vẫn đứng vững không nhúc nhích.

Tất nhiên, chuyện trên đây là chuyện đã qua. Gần đây, Tiêu Bảo Quyển cảm thấy nếu dùng vai hay tay đỡ trụ như chưa thi thố hết bản lĩnh của mình, nên nhà vua suy nghĩ ngày đêm tìm ra một kỹ xảo mới, chuyển trụ để từ vai sang miệng. Chuyện này nghĩ thì đơn giản, nhưng làm thì khó, vì răng miệng làm sao khoẻ bằng vai, hơn nữa, Tiêu Bảo Quyển lại sắp lên ngôi vua, mà miệng vua là “miệng vàng răng ngọc”.

Tiêu Bảo Quyển bất chấp tất cả, để “ý tưởng hùng vĩ” được thực thi, Thái tử không nghĩ đến “miệng vàng rằng ngọc”, khổ luyện ngày đêm, đến nỗi răng cửa bị gãy, khoé miệng ứa máu. Tài ba không phụ kẻ có công, sau mấy tháng luyện tập gian khổ, Tiêu Bảo Quyển đã thành công. Trong lúc đắc ý.

Tiêu Bảo Quyển đặt tên cho trò này là “trụ miệng”.

Để phối hợp với nội dung tiết mục, Tiêu Bảo Quyển còn thiết kế cho mình một loạt trang phục biểu diễn có tên là “tạo sắc cẩm kỹ y”, gồm mũ nhọn mầu vàng và ngọc kính. Vậy là Thái tử đã biến hoàng cung thành sân khấu.

Đã mải chơi thì bỏ bễ việc triều chính.

Tháng 8 năm 498, Tiêu Bảo Quyển lên ngôi.

Tháng 11 năm ấy và tháng 3 năm sau, lần lượt nổ ra hai cuộc phản loạn chống triều đình của Thái uý Trần Hiển Đạt và Bình Tây Tướng quân Thôi Cảnh Tuệ. Tiếp đó, người Thục là Triệu Tục Bá khởi binh, dân Vu châu là Vương Huệ Định khởi nghĩa, khói lửa ngút trời, sinh linh khốn khổ. Quần thân thay nhau dâng thư, dâng biểu, đề nghị nhà vua nắm lấy chính sự. Nhưng vua Tiêu Bảo Quyển làm ngơ, vẫn cùng bọn tiểu hoàng môn chơi với ngựa ở trong triều, cùng bọn thân tín, ca kỹ hát xướng thâu đêm, thường thì rạng sáng mới đi ngủ, đến bữa ăn mới dậy, mấy tháng liền không ngó qua tấu chương của các  đại thần, chuyện này lại khiến cho bọn nội thần rất thích.

Thái Luân thời Đông Hán đã phát minh ra giấy viết, nhưng mấy trăm năm sau đó, do thiên tai địch hoạ, việc sản xuất giây trên qui mô lớn có nhiều khó khăn. Thời Nguỵ Tấn, giấy được coi là của quí. Mọi người đều biết điển tích “quí như giấy Lạc Dương”, đều hiểu nguyên nhân vì sao. Vì vậy, đến triều Tề, chỉ các đại thần mới được dùng giấy để viết biểu chương. Các quan nội thị tuy được vua sùng ái, nhưng chẳng có duyên với giấy. Cái gì hiếm thì quí, nay thấy nhà vua không xem tấu chương, các quan thái giám hoàng môn bèn lấy trộm các tấu chương đó, lấy giấy gói thịt cá, coi như tận dụng “đồ bỏ đi”.

 

3. MẶT ĐẤT RẢI SEN VÀNG, CHẠM TRỔ DẦM XÀ VÌ NGƯỜI ĐẸP. TRÊN ĐƯỜNG VÂY LỮ KHÁCH, CHIẾU ĐẤT TRÀN LAN HẠI DÂN LÀNH.

Từ tháng 7 đến tháng 8 năm 500, hậu cung của nhà Tề phát sinh hoả hoạn. Đám cháy cực to, biến hậu viên hoàng cung vốn đẹp đẽ là thế, thành đống tro tàn.

Ngọn lửa thiêu đốt bao nhiêu là thứ. Nhưng tính cố chấp một cách ngu xuẩn của Tiêu Bảo Quyển thì vẫn nguyên. Lúc này, Tiêu Bảo Quyển vừa dẹp xong cuộc phản loạn Thôi Tuệ Cảnh do mượn được quân của Thử Sử Nam Dự châu, cho rằng “không kẻ nào dám động đến mình” nên nhà vua chơi bời phóng đãng đến cùng cực.

Lên ngôi được ít lâu, Tiêu Bảo Quyển rất sùng ái bọn lộng thần trong triều. Để tỏ thái độ thân cận, nhà vua dùng chữ “Quỷ” để đặt tên cho bọn này, như quỉ Hồng, quỉ Tôn, quỉ Tạ, quỉ Lý ... nhiều vô kể. Nhưng quỉ này không có tài gì khác ngoài cái tài vào hùa với vua để quậy phá, như quỉ Hồng chỉ giỏi làm xiếc, quỉ Tôn giỏi chọi gà, quỉ Tạ giỏi đánh võ, nay chỉ có quỉ Triệu là biết chữ, nghe nói có thể đọc thuộc lòng “Tây Kinh chú” và thường khoe học vấn của hắn.

Thấy nội dung cháy sạch,  và vì ăn không ngồi rồi không biết làm gì, quỉ Triệu vốn thích khoe chữ, tỏ ra rất vui. Hắn liền dẫn “Tây Kinh phú” để khuyên Tiêu Bảo Quyển xây dựng lại cung thất, Tiêu Bảo Quyển vốn có ý định này nên tán thành ngay, trọng thưởng cho quỉ Triệu và lập tức sai người xây dựng lại hai điện Tiên Hoa và Ngọc Thọ. Chạm rồng vẽ phượng, tường được phủ một lớp nước xạ hương, màm loan trướng rủ, rèm cửa lồng châu ngọc, sự xa hoa không thể kể hết. Tiêu Bảo Quyển đốc thúc thợ thuyền làm suốt ngày đêm cho chóng xong. Vật liệu sợ không đủ, cho gỡ cả những thứ quí hiếm ở chùa, đem về bổ sung cho cung điện.

Khi đã xong, quỉ Triệu muốn lấy lòng nhà vua và Phan phi đang được vua sùng ái, lại tâu:

- Đẹp thì có đẹp, nhưng mặt đất bình thường qúa, chưa khiến cho người ta phải dưng lại để ngắm.

- Vậy nhà ngươi bảo nên làm thế nào? – Tiêu Bảo Quyển hỏi. Ông vua này có hai điều sợ trong đời: một loại người khác có thứ đẹp hơn của mình, hai là sợ của mình không phải là thứ đẹp nhất.

- Nên thực hiện đồ án hoa sen vàng ở tất cả nơi nghỉ và những nơi Phan phí qua lại, mặt đất dát vàng, gót sen người đem, hoa nở theo bước chân, vàng trải đầy dưới gót, tất cả đem lại điều lành.

- Hay, hay lắm! - Tiêu Bảo Quyển vỗ đùi khen, một mặt ra lệnh thưởng cho quỉ Triệu, một mặt sai người cứ theo ý của Triệu mà thực hiện. Quả nhiên Phan phi vô cùng vui vẻ.

Tiếp đó, để được lòng Phan phi hơn, Tiêu Bảo Quyển ra lệnh họp “choẹ” ngay trong hoa viên hoàng cung, mời Phan phi làm Thị Lệnh, còn nhà vua thì làm chức Thị Khôi (dưới quyền Thị Lệnh). Thỉnh thoảng nhà vua lại cố ý làm sai đôi chút để Phan phi dùng roi vụt khẽ, nhằm chứng tỏ nhà vua là “con người biết phép tắc”.

Quả thật, với những phụ nữ được nhà vua sủng ái, Tiêu Bảo Quyển đúng là một “đàn ông”, bằng mọi giá để được lòng người đẹp. Nghe nói chiếc xuyến trên cổ tay Phan phi trị giá một triệu bảy mươi vạn lạng. Còn đối với trăm họ mà nhà vua không yêu, thì Tiêu Bảo Quyển chưa bao giờ là một vua hiền. Nhà vua luôn ra sức chà đạp dân lành. Sử chép rằng, những nơi nhà  vua đi qua, dân chúng bị đuổi sạch. Từ cổng Vạn Xuân (Tây thành) đến Đông giao dọc ngang mấy chục dặm không một bóng người. Nhà vua còn sai dựng màn để ngăn đầu đường ngõ phố, bên ngoài có người canh gác, bên trong là bọn tiểu hoàng môn đi tuần. Hễ người dân nào lõ lọt vào đó, là Tiêu Bảo Quyển đích thân cầm xà mâu đâm chết.

Đồn rằng có lần nhà vua đâm chết một phụ nữ có thai chỉ vì đánh cuộc với một tên thái giám, đoán xem là con trai hay con gái.

 

4. TIN QUỈ TIN THẦN, CHỈ CÓ NGƯỜI LÀ KHÔNG TIN, YÊU TIỀN NHƯ ĐỒ VẬT, CHỈ CÓ NƯỚC LÀ KHÔNG YÊU.

Tháng 11 năm 500, Thái Sử Ung châu Tiêu Diễn thuộc phái thực lực ở nước Tề, khi hay tin Tiêu Bảo Quyển định hại ông ta, liền khởi binh chống triều đình. Vì ông ta giương lên ngọn cờ “chống nhà vua mê muội bạo ngược” như vua Trụ, nên đến tháng 10 năm sau, vì được lòng dân, Tiêu Diễn đã đánh tới kinh thành Kiến Khang của Tề.

Lúc này trong thành Kiến Khang có 7 vạn quan, nếu biết phép dùng binh thì có thể giữ được thành. Nhưng Tiêu Bảo Quyển trong tình hình nguy cấp không tin vào người mà tin vào quỉ thần.

Khi bình định Thôi Tuệ Cảnh, Tiêu Bảo Quyển tin lời tên nịnh thần là Nhự Pháp Trân, phong thần cho một “Tưởng Tử Văn” nào đó là “Giả Hoàng Việt, sử kỳ tiết, Tướng Quốc Thái Tể Đại Tướng quân Lộc Thượng Thư sự, Dương châu Mục, Chung Sơn Vương”, lúc này gặp nguy, lại ôm chân Phật cầu cứu, Tiêu Bảo Quyển tăng cường lễ bái, phong cho Tưởng Tử Văn là vua – vua phong vua cho thần, cũng có thể coi là trò cười thiên cổ.

Tiếp đó, Tiêu Bảo Quyển ra lệnh rước thần tượng Tưởng Tử Văn cùng một số “tạp thần” khác vào hậu viện hoàng cung, lệnh cho bà đồng mà nhà vua rất tin cậy là Chu Quang Thượng ngày đêm phù phép trừ tà. Tiêu Bảo Quyển tin rằng, phù phép có thể chống lại 10 vạn đại quân.

Do ảnh hưởng nhà vua “không tin người thật mà tin quỉ”, quân sĩ giữ thành Kiến Khang mất hết ý chí chiến đấu, được lệnh xuất kích, nhưng ra khỏi thành được mươi bước chân đã cởi giáp ngồi lì tại chỗ, không chịu tiến.

Do hai cuộc phản loạn trước đây của Trần Hiển Đạt và Thôi Tuệ Cảnh không thành công, Tiêu Bảo Quyển rất coi thường “nghĩa quân”, nên chỉ nghĩ đến việc cầu thần phù hộ là đủ. Tới khi quân đội nhà vua thua trận liên tiếp sĩ khí quá sa sút, các Lãnh binh đề nghị nhà vua xuất tiền kho để khao quân cổ vũ sĩ khí, Tiêu Bảo Quyển thốt ra một câu “danh ngôn”:

- Giặc đến bắt mỗi mình ta, vậy sao các ngươi lại lấy tiền của ta?

Do phải gia cố công sự giữ thành, các Lãnh Quân đề nghị nhà vua cho sử dụng số vật liệu làm đạo cụ xiếc, nhà vua trợn mắt quát:

- Ở đó không có gỗ thì làm gì có vật liệu mà lấy? Ta còn dùng cho biểu diễn – Dẫm chân bành bạch, nhà vua nói tiếp – Các ngươi đừng có lấy quân địch đông ra dạo Trẫm. Để khi giặc rút, Trẫm sẽ hỏi tội các ngươi.

Sự ngoan cố của nhà vua khiến quan Kiêu Tướng, Quan Quân Tướng Trân Quốc giận điên lên. Ông ta cùng Thị Trung Trương Xã, Hậu Các Xá Nhân Tiền Cường, Ngự Đạo Phong Dũng bàn nhau giết hôn quân, lập vua mới.

Ngày Bính Dần tháng 12 năm 501, Tiền Cường, Phong Dũng xách gươm vào cung, cùng Thái giám Hoàng Thái Bình giết chết Tiêu Bảo Quyển.

Tiêu Bảo Quyển chết được một năm thì nhà Tề diệt vong.

 

LƯU TỬ NGHIỆP:

đứa con bất hiếu, gian dâm thác loạn

*

Năm 464 sau công nguyên, Hạ Lịch là năm Giáp Thìn.

Triều đình nhỏ bé Lưu Tống (Nam triều) xảy ra hai chuyện lớn:

Một là, lịch Đại Minh, lịch mới do nhà toán học, thiên văn học Tổ Xung biên soạn, sau bao lần trắc trở, nay được Tống Hiếu Vũ Đế Lưu Tuấn phê chuẩn, cho phép lưu hành.   

Hai là, Hiễn Vũ Đế Lưu Tuấn, người đích thân phê chuẩn phát minh trên của Tổ Xung, tạ thế.

Sau khi Lưu Tuấn mất, con trai là Lưu Tử Nghiệp thừa kế ngôi vua.

Lưu Tử Nghiệp, tiểu tự Pháp Sư là con cả của Lưu Tuấn, sinh năm 449, chết năm 465, chỉ sống có 17 tuổi, là một người đoản mệnh. Thời gian Lưu Tử Nghiệp ở ngôi vua lại càng ngắn: chưa đầy hai năm.

Trong hơn 500 ngày làm vua, Lưu Tử Nghiệp kế thừa “truyền thống vẻ vang” của người tiền nhiệm, “rượu chè be bét”, thậm chí còn tồi tệ hơn.

 

1. CHỖ NGƯỜI ỐM NHIỀU MA, SỢ LẮM! ĐẾN ĐẤY SAO ĐƯỢC? - MẸ ỐM MÀ CON  NÓI NHƯ THẾ. LẤY DAO MỔ BỤNG VÌ ĐÃ SINH RA ĐỒ OAN NGHIỆT - THÁI HẬU RÊN RỈ LÚC LÂM CHUNG.

Trong xã hội phong kiến mấy nghìn năm, quyền thừa kế của con cả gần như pháp qui không thành văn phải tuân thủ trong chuyển giao quyền lực. Tất nhiên qui tắc trên cũng có những ngoại lệ. Thí dụ, nó rất ít tác dụng đối với triều đình Lưu Tống. Cha của Lưu Tử Nghiệp và Lưu Tuấn không phải là con trưởng Tông Văn Đế Lưu Nghĩa Long. Trong hoàn cảnh không bình thường đó, kẻ nào có sức mạnh, kẻ đó có thể làm vua. Tuy nhiên, với Lưu Tử Nghiệp thì sau khi Lưu Tuấn chết, chuyện kế vị của Nghiệp cũng không hẳn như trên đã nói. Có thể như thế này, sở dĩ ông ta được ngoảnh mặt về nam xưng Cô với thiên hạ là do ông ta có một bà mẹ cực tốt và rất yêu ông ta.

Mẹ Lưu Tử Nghiệp họ Vương, tên thời con gái là Hiến Nguyên, là một phụ nữ hiền thục. Ông tổ ba đời của Tể tướng Vương Đạo, nổi tiếng triều Đông Tấn. Năm Nguyên Gia thứ 20, Vương Hiến Nguyên được sắc phong Vương phi, lần lượt sinh Lưu Tử Nghiệp, Lưu Sở Ngọc (nữ sau phong là Sơn Âm công chúa), tất cả sáu người cả trai lẫn gái. Lúc này Lưu Tuấn chưa lên ngôi vua, tình cẩm vẫn có thể nói là hoà thuận. ít lâu sau (tháng 2 năm 453) Lưu Tuấn mượn cớ thảo phạt Thái tử Lưu Chiểu rồi nhân đó cướp ngôi chí tôn: liền nhanh chóng tìm thú vui mới, yêu cô em họ tên là Lưu Thục Nghi, lại thêm khi ấy Vương Hiến Nguyên đã ngoài ba mươi tuổi, tuổi tăng thì nhan sắc giảm, do vậy lúc đầu Lưu Tuấn không có ý định lập Lưu Tử Nghiệp làm Thái tử. Chỉ vì Vương thị là con người đoan trang, nghiêm cẩn, rất hiểu đạo làm vợ, Lưu Tuấn không tìm ra một lỗi nhỏ ở bà nên không có cớ để phế bỏ Lưu Tử Nghiệp.

Từ ý nghĩa trên mà xét ngọn nguồn, có thể nói Vương phu nhân đối với Vương Tử Nghiệp vừa có cái ơn dưỡng dục, vừa có cái đức khiến Nghiệp trở thành vua.

Vậy thái độ của Lưu Tử Nghiệp đối với bà mẹ thân sinh này như thế nào?

Năm 464, Vương Hiến Nguyên lúc này đã được tôn vinh là Thái hậu, đột nhiên bị bệnh nặng. Các cung nữ và đại thần trong triều đánh tiếng với Lưu Tử Nghiệp (lúc này đã lên ngôi vua) đến điện Hàm Chương để sớm hôm chăm sóc Thái hậu. Biểu chương tới tấp dâng lên, thậm chí có cả những lời lẽ thống thiết như “Bệ hạ không có Thái hậu thì không có ngày nay, Thái hậu mà không có Bệ hạ thì không thể hưởng trọn tuổi trời”. Lưu Tử Nghiệp xem rồi, nghe rồi, nhưng không mảy mai xúc động.

Một thái giám thân tín hỏi nhà vua vì sao không đến thăm Thái hậu đang bị ốm. Không cần suy nghĩ lâu la gì, Lưu Tử Nghiệp tuôn ra một danh ngôn lưu truyền thiên cổ, ông ta nói:

- Ở chỗ người ốm nhiều ma, sợ lắm! Đến đấy sao được?

Nói vậy có nghĩa là đến thăm lúc mẹ ông ta không ốm thì được, nay đã ốm rồi thì không được. Theo nhận xét của Lưu Tử Nghiệp thì lần này Vương Thái hậu ốm rất nặng, gần như đã cận kề Quỉ môn quan, chắc chắn suốt ngày có ác quỷ vây quanh. Bản thân Thái hậu không phải là quỷ nhưng đã là “quỉ dự bị” rồi, làm sao để một người tôn quý như vua đến gần quỷ? Nếu phân tích sâu hơn, ta thấy lời của Tử Nghiệp còn có một ẩn ý; “Sao mãi không chết? Chết nhanh cho gọn việc!”, tuy rằng sử sách không ghi chép câu này.

Một cung nữ hay mách lẻo nói lại câu của Hoàng thượng với Vương thị. Nghe xong Vương Hiến Nguyên lông mày dựng ngược, mắt trợn trừng, toàn thân run bắn. Bà ta không ngờ hòn máu do bà ta rút ruột đẻ ra và tốn bao công sức nuôi dưỡng, lại thốt ra những lời  táng tận lương tâm, đại nghịch bất hiếu đến như vậy.

Bà run rẩy hai tay quát liên hồi:

- Đem dao lại đây, đem dao lại đây!

Các cung nữ đứng hầu bên cạnh không rõ nguyên do, cho rằng Thái hậu định giết nhà vua, ai nấy thất sắc, đồng loạt qùi xuống van xin:

- Xin Thái hậu bớt giận! Xin Thái hậu bớt giận! Thái hậu cầm dao để làm gì ạ?

Đang giận điên người, Thái hậu bỗng bình tĩnh lại, nói rành rọt từng tiếng một bằng một giọng lạnh người:

- Ta muốn mổ bụng ta để xem vì sao lại đẻ ra thằng con “quý tử” như vậy?

Ngay hôm ấy, phần vì bệnh nặng, phần vì giận dữ, Thái hậu mất tại điện Hàm Chương, mới 39 tuổi.

Sau khi Thái hậu mất không lâu, theo ghi chép của “Nhị tập ngũ sử, Tống thư”, Lưu Tử Nghiệp mơ thấy Thái hậu vì giận nhà vua mà chết. Thái hậu thay đổi thái độ thường ngày, với giọng thống thiết bảo nhà vua:

- Nhà ngươi bất nhân, bất hiếu, vốn không có tướng làm vua. Ma mà được ta lập lên, nhưng nhà ngươi ngu muội như vậy, e rằng miếng thịt cũng không phải để nhà ngươi hưởng! Cha ngươi gian hiểm còn ngươi gian dâm. Nếu không nghĩ lại, tất hoạ lớn sẽ giáng xuống đầu nhà ngươi.

Lưu Tử Nghiệp nghe lời trách mắng mà không chút rung động. Quả thật nhà vua còn đang muốn làm nhiều chuyện, do vậy những lời giáo huấn của Thái hậu trong giấc mơ nhà vua hoàn toàn không nhớ nữa.

 

2. CHỊ EM THÔNG DÂM, EM VÌ CHỊ MÀ TUYỂN DIỆN THỦ. NGƯỜI GIAO HỢP VỚI THÚ VẬT, AI KHÔNG CHỊU THÌ CHÉM ĐẦU.

Các sử gia  khi bàn luận về hành động của tiền phế Lưu Tử Nghiệp, đều cho rằng, so với những hành vi khác của Lưu Tử Nghiệp, thì tội bất hiếu chỉ là một lỗi nhỏ. Sự thông dâm thác loạn trong tính giao, mới là tội lớn của ông ta.

Thường thì không có bạn độ trong tính giao vốn là bệnh chung của các đế vương. Nếu không có sự “vượt khung” thì không có gì đáng bàn.

Nhưng cuộc sốn tình dục của Lưu Tử Nghiệp thì “vượt khung” một cách quá quắt.

Sử chép rằng: “Tử Nghiệp ít tuổi mà cường bạo, khi lên ngôi thì sự ngang ngược lại càng quá quắt, thông dâm với cả chị ruột là Sơn Âm công chúa”.

Sơn Âm công chúa, tên thời con gái là Sở Ngọc, chị em ruột với Lưu Tử Nghiệp, đều do Vương Hoàng hậu sinh ra.

Nghe nói sau một lần chị em thông dâm, Sơn Âm công chúa buồn bã không vui. Công chúa không thoả mãn vì không đạt được cực khoái. Lưu Tử Nghiệp – người rất thích “thi thố tài năng” trên mình phụ nữ (tất nhiên là những thanh nữ trẻ đẹp), thấy tình hình như vậy liền hỏi duyên cớ làm sao.

Sơn Âm công chúa làm mình làm mẩy, cằn nhằn:

- Thiếp và Bệ hạ tuy nam nữ có khác biệt, nhưng đều là thác thể của Tiên đế. Bệ hạ có hàng vạn người trong sáu cung, mà thiếp chỉ có mỗi một Phò mã, vậy là không công bằng.

Nghe nói vậy, Lưu Tử Nghiệp trầm ngâm hồi lâu, rồi phá lên cười, nói:

- Chị nói nghe có lý, có điều đây là chuyện lớn, chưa có tiền lệ. Chị xem như thế nào?

- Mặc kệ, Bệ hạ sướng, thiếp cũng muốn sướng.

- Được rồi, được rồi- Lưu Tử Nghiệp không đủ kiên nhẫn để nghe những lời phàn nàn của công chúa, xua tay – Ta tuyển 30 nam kỹ để chị dùng, được chưa.

“Nam kỹ? Cái tên sao khó nghe thế? – Sơn Âm công chúa vừa muốn gái chơi lại vừa muốn  có chiêu bài đức hạnh, dẩu đôi môi anh đào ra.

- Nam kỹ mà khó nghe thì đổi thành Diện Thủ vậy – Về mặt này thì Lưu Tử Nghiệp lại có vẻ thông minh, nói – Diện, tức là mặt mũi phải đẹp: Thủ, tức là tóc phải mượt. Hai cái đẹp ấy rất đáng sài, vậy chị bằng lòng chưa?

Từ chỗ công chúa Sơn Âm ra về, Lưu Tử Nghiệp trong lòng không vui. Thế là lập tức cho triệu các Vương phi, công chúa, mệnh phụ vào cung. Đồng thời cho triệu số ác thiếu (không phải hoạn quan) hàng ngày vẫn đùa giỡn với nhà vua, lệnh cho những tên không biết sợ là gì, cởi hết quần áo, sau đó lột hết quần áo phụ nữ để hành lạc tập thể trong điện.

Người phi của Nam Bình vương Lưu Nhạc (Giang Phi) không chịu, cho rằng hành lạc tập thể thì chẳng khác loài cầm thú. Thấy vậy, Lưu Tử Nghiệp cả giận, lập tức sai người đi bắt ba con trai của Giang Phi đem vào cung, dùng ba đứa trẻ này để cưỡng bức mẹ chúng. Giang Phi không vì vậy mà chịu nhún, Lưu Tử Nghiệp vung kiếm, tự tay chém chết ba con trai của Giang Phi, lại sai người lột truồng Giang Phi ra, đánh Giang Phi 100 roi da, rồi nhà vua đích thân cưỡng dâm.

Hành động trơ trẽn như thú vật đó, khiến cho những Vương phi, công chúa mệnh phụ thường ngày vẫn tự cho mình là cao quí và trong trắng, sợ vỡ mật “vội cởi hết quần áo, không còn mảnh vải che trên người, hành lạc tập thể cho nhà vua xem để tránh hậu hoạ”.

Sau một trận quần giao, trên từ vương công phò mã, dưới đến quan tam tứ phẩm, vợ của họ không ai thoát khỏi bị cưỡng dâm mà bầm gan tim ruột, còn Lưu Tử Nghiệp thì cứ thản nhiên như không.

Sử ghi: “Nhà vua dạo chơi ở Trúc Lâm đường trong Hoa Lâm Viên, bắt các phi, cung nữ và tả hữu cởi chuồng theo sau, hoặc bắt một số nữ hành lạc với một nam, hoặc một số nam hành lạc với một nữ. Lại bắt cung nhân cởi truồng giao cấu với dê đực, khỉ hoặc chó, lại trói ngựa đặt nằm ngửa trên mặt đất, bắt cung nhân lão thể mà giao hợp với ngựa. Một cung nữ không chịu, liền bị chặt đầu.

Hành vi của Lưu Tử Nghiệp khiến cho nhà tâm thần học sau này là tính thác loạn trong tính thác giao.

Không chừng mực trong tình dục vốn đã bị người đời chê cười, thông dâm với chị ruột thì là loạn luân, còn như bắt cung nữ và các phi giao hợp với ngựa dê chó khỉ, thì thật không bằng giống cầm thú. Phải biết rằng, cầm thú còn biết giao hợp với đồng loại.

Sau khi chém đầu người cung nữ không chịu giao hợp với ngựa, Lưu Tử Nghiệp lại mơ thấy người cung nữ đó chỉ mặt nhà vua nói rằng:

- Hôn quân, nhà ngươi chống lại đạo trời, khó có thể còn đến sang năm.

Tỉnh dậy, Lưu Tử Nghiệp trong lòng không vui, sai người triệu quân sư đến, yêu cầu “cách giải mộng”. Tên quân sư chó má đó đã đề xuất một cách giải quyết chết người:

- Chọn một trong số cung nhân lấy một người giống người trong mộng thì giải được điềm gở.

Lưu Tử Nghiệp tin là thật, quả nhiên tìm được một cung nhân giống người trong mộng đem ra chém. Nhà vua cho rằng thế là giải được mối lo.

Kỳ thực, Mối nguy hiểm đối với Vương Tử Nghiệp không vì thế mà được giải thoát, cái hoạ mất mạng đã ở trước mặt.

 

3. ĐỂ GIAN DÂM, GIỮ CÔ RUỘT TRONG CUNG, ĐỔI THÀNH HỌ TẠ. SỢ NGƯỜI THÂN, LỆNH CHO CHÚ BÁC ĐỔI VƯƠNG HIỆU THÀNH LỢN, LỪA.

Cha của Lưu Tử Nghiệp là Lưu Tuấn khi làm vua, từng lưu một cô em họ ở trong cung làm vợ lẽ (phi). Sau đó, để che mắt thế gian, đổi tên cũ là Lưu Thục Nghi thành Ân Thục Nghi, để lại trò cười cho hậu thế.

Lưu Tử Nghiệp sau khi kế vị, bắt chước cha, cũng đưa một người thân vào cung, thay họ đổi tên lấy làm vợ lẽ (tiểu thiếp).

Chỗ khác nhau giữa Nghiệp với cha là, người thân mà Lưu Tử Nghiệp đem vào cung lại là em gái ruột của cha, tức cô ruột, công chúa Tân Sái Trường.

Cô công chúa này lớn tuổi hơn Lưu Tử Nghiệp, có nhan sắc, đã lấy chồng. Chồng là Tướng quân Ninh Sóc của triều đình Lưu Tống, họ Hà tên Mại, Lưu Tử Nghiệp sau khi đưa công chúa vào cung, bèn đổi thành họ Tạ, bắt trong cung gọi là Tạ Quí Tân. Đồng thời giết một cung nữ, khâm niệm kỹ lưỡng, giả làm công chúa đưa về nhà Hà Mại. Cái kiểu gói lửa bằng giấy, thây trong tuyết đó bị Hà Mại phát hiện ra ngay. Con người hiên ngang khẳng khái như Hà Mại làm sao chịu được nỗi nhục này? Ông ta định liều mạng, đem quân phế truất Lưu Tử Nghiệp, lập em trai Nghiệp là Tấn An Vương Lưu Tử Huân lên làm vua. Vì không giữ được bí mật, Hà Mại chết dưới dao của Lưu Tử Nghiệp.

Sau khi giết Hà Mại, Lưu Tử Nghiệp càng đắc chí, cho rằng giang sơng đã vững như tường đồng vách đá, đủ đảm bảo cho nhà vua tha hồ làm bậy. Ngờ đâu Lưu Tử Nghiệp nhưng đang ngồi trên đống củi khô, ngọn lửa do nhà vua nhen lên, dần trở thành đám cháy dữ dội, khiến nhà vua chết không có chỗ chôn.

Vốn là, đạo cương thường của triều đình Lưu Tống đã bị đảo lộn “ai có nắm đấm to thì người ấy làm vua”. Vì vậy, Lưu Tử Nghiệp coi các ông chú có thế lực như cái hoạ tiềm tàng. Với những ông chú này, Lưu Tử Nghiệp vừa sợ lại vừa dè chừng.

Sử chép rằng: “Vừa sợ vừa dè chừng các chú, quản thúc các chú ở trong cung mà hành hạ, không còn luân thường đạo lý gì nữa”.

Không hiểu do tâm lý thích chơi ác hoặc vì lý do nào khác. Một hôm, Lưu Tử Nghiệp đích thân ra lệnh triệu tập các chú, gồm Tương Đông Vương Lưu Dị, Sơn Dương vương Lưu Hưu Hựu, Đông Hải vương Lưu Vĩ, trước mặt văn võ bá quan, lần lượt đổi vương hiệu của các vị này, trong đó có Lưu Dị bị đổi thành Trương  vương (lợn), Lưu Hưu Hựu bị đổi thành Tặc vương (kẻ cướp), Lưu Vĩ bị đổi thành Lư  vương (lừa).

Đổi tên xong, Lưu Tử Nghiệp sai người đổ thức ăn vào máng gỗ, lột bỏ quần áo Lưu Dị là ông chú mà Lưu Tử Nghiệp ghét nhất, quẳng ông ta xuống hố bùn, rồi lôi lên, ăn thức ăn trong máng như lợn.

Vì sao Lưu Tử Nghiệp hận Lưu Dị đến như vậy? Sử chép rằng, vì trong dân gian lưu truyền câu đồn đại “đất Tương trung có khí thiên tử” ,à Lưu Dị thì được phong làTương Đông vương. Do vậy, Lưu Tử Nghiệp quyết ý đưa ông chú này vào đất chết mới thoả lòng.

Lưu Dị là cong người có cá tính mạnh mẽ, thà chết chứ không chịu ăn thức ăn trong máng. Thấy vậy, Lưu Tử Nghiệp nổi giận, sai người trói chặt chân tay Lưu Dị khiêng đến nhà Thái miếu giao cho quan chủ tể, nói:

- Hôm nay, giết con lợn này.

Tính mạng của Lưu Dị xem ra khó giữ, may mà Kiến An Vương Lưu Hưu nhân đứng bên cạnh vờ mỉm cười phụ hoạ, đề nghị để sau khi sinh Hoàng Thái tử (tiểu thiếp của Lưu Tử Nghiệp sắp đẻ) hãy làm thịt lấy gan nhắm rượu. Lưu Dị do đó mà thoát chết.

Sau tai hoạ đó, Lưu Dị căm giận Lưu Tử Nghiệp đến tận xương tuỷ. Ông bí mật mua được hai thị tùng của Lưu Tử Nghiệp là Thọ  Tịch Chi và Khương Sản Chi, lại giao kết với bọn Nguyễn Điền Phu, Vương Đạo Long, Lý Đạo Nhi, bí mật bàn bạc kế hoạch giết hôn quân Lưu Tử Nghiệp.

Ít lâu sau, do Lưu Tử Nghiệp liên tiếp giết nhiều người, trong cung đồn rằng có ma quỉ thường xuất hiện. Vốn là người bạt mạng, Lưu Tử Nghiệp không thèm để ý, nhưng “ma quỉ” (có thể là do Thọ Tịch Chi, Khương Sản Chi bày trò) lại thường xuyên xuất hiện trong cung nên ai cũng sợ hãi.

Ông thầy bói thường được Lưu Tử Nghiệp rất tin, bày cho nhà vua một kế, nói:

- Ma quỷ sợ quý nhân. Nếu Bệ hạ đến chỗ quỷ thường xuất hiện, dùng cung tên mà bắn, thì quỉ sẽ bỏ chạy.

Ngày Mậu Ngọ tháng mười một (năm 464) Lưu Tử Nghiệp dẫn mấy trăm người gồm các phi tần, cung nữ trong hậu cung đến Trúc Lâm Đường trong Hoa Lâm Viên, nơi thường có ma xuất hiện.

Sau ki khoát tay quát lui bọn thị vệ. Lưu Tử Nghiệp cầm cung đích thân bắn quỉ. Bắn xong, nhà vua hốt hoảng khi thấy thấp thoáng có một cung nữ mặc áo đỏ đang vẫy nhà vua. Đang nghi hoặc thì bỗng có tiếng huyên náo, rồi Thọ Tịch Chi, Khương Sản Chi cầm kiếm xông vào, mặt đầy sát khí. Thấy tình hình không ổn. Lưu Tử Nghiệp xoay người lắp tên vào cung rồi bắn. Trong lúc bối rối, nhà vua bắn trệch. Thọ Tịch Chi đâm một nhát vào lưng vua, bọn Khương Sản Chi xông lên chém túi bụi, giết chết Lưu Tử Nghiệp.

 

NAM LƯƠNG NGUYÊN ĐẾ TIÊU DỊCH

Con rồng chuột rồng của Từ Nương nửa già nửa trẻ

*

Năm 552 sau công nguyên, Hầu Cảnh, con người từng làm đảo lộn vương triều Lương thời Nguỵ Tấn Nam Bắc triều, bị bộ hạ giết chết, “loạn Hầu Cảnh” kết thúc sau khi kéo dài 5 năm.

Trong cơn loạn lạc này, không chỉ giết hại Lương Vũ Đế Tiêu Diễn, mà còn làm thiệt mạng một con trai (tức Giản Văn Đế Tiêu Cương), một chúa (Giám Hạ Vương Tiêu Chính Đức), một chút (con của cháu, tức Dự Chương Vương Tiêu Đống) của Tiêu Diễn.  

Tiêu Cương, Tiêu Chính Đức, Tiêu Đống không chết dưới tay Hầu Cảnh, về cái chết của họ, một người họ Tiêu, tên Dịch chịu phần lớn trách nhiệm.

Tiêu Dịch, tự Thế Thành, là con thứ 7 Lương Vũ Đế Tiêu Diễn, vốn là một chức nho nhỏ – Tương Đông Vương, gặp thời tao loạn dựa vào sức mạnh cơ bắp đuổi em giết cháu, cuối cùng leo lên ngôi báu.

Tiếc rằng, giấc mộng quân vương của Tiêu Dịch chẳng được bao lâu, ông ta chỉ ngồi trong điện Kim Loan được ba năm.

Trong ba năm ấy Tiêu Dịch đã để lại những gì trong lịch sử Trung Quốc.

 

1. NỘI CHIẾN TRONG NHÀ, GIẾT CHA, GIẾT EM TRAI, DÌM CHẾT CHÁU.

Sự thay thế quyền lực ở vương triều Lương diễn ra có phần trái với đạo lý. Người sáng lập vương triều Tiêu Diễn khi mới lên ngôi lập Tiêu Thống làm Thái tử. Thống chẳng may chết sớm, để lại ba người con trai: Tiêu Thán, Tiêu Dự, Tiêu Sát. Theo nguyên tắc, “con lớn dòng trưởng thừa kế”, trong thời đại phong kiến, sau khi Thái tử mất, Tiêu Diễn phải truyền ngôi cho con Thái tử, tức hoàng thái tôn (cháu trưởng). Nhưng Tiêu Diễn không làm vậy, mà truyền ngôi cho một người con khác là Tiêu Cương, khiến thiên hạ rất bất bình.

Tiêu Dịch là một trong những con của Vũ Đế như Tiêu Cương, nhân đó khởi binh, với chiêu bài là thảo phạt Hầu Cảnh, nhưng trước hết tấn công cháu mình là Tiêu Sát.

Như trên đã nói, Tiêu Sát là con trưởng của Hoàng  Thái tử Tiêu Thống, theo tông pháp phong kiến, là “đại tông”, khi đó với tư cách Nhạc Dương Vương, Đô Đốc quân sự các châu Ung, Lương, Ích, Tần, Dĩnh, Tuỳ, sử chép rằng “trăm họ mang ơn”.

Sau khi đán bại Tiêu Sát, Tiêu Dịch mới “truyền hịch gần xa, thảo phạt Hầu Cảnh”, nhưng vẫn không ra quân phạt Cảnh.

Một thành viên khác trong hoàng tộc: Yên Lăng vương Tiêu Luân, chướng mắt trước hành động của Tiêu Dịch, ra sức tu sửa khí giới, rèn luyện quân sĩ, chuẩn bị bảo vệ vương nhất. Thấy vậy, Tiêu Dịch cả giận, sai thủ hạ là Đại Tướng Vương Tăng Biện đem quân tập kích, khiến Tiêu Luân phải bỏ chạy.

Đến đây, mọi người bất giác nêu câu hỏi: Tiêu Dịch làm gì vậy?

Người nào hiểu biết thì trả lời:

- Giết người, giết em ông ta là Tiêu Cương và cháu ông ta là Tiêu Đống, hai người này là trợ lực trong chuyện lên ngôi của ông ấy.

Có điều là, Tiêu Dịch đọc rất nhiều sách nên tương đối cao thủ, giết người thân rất “nghệ thuật”, rất thành thạo, không để cho Tiêu Cương và Tiêu Đống chết dưới lưỡi dao của ông ta, để ông ta mang tiếng giết vua, mà mượn tay người khác, mượn tay Hầu Cảnh để khử kẻ thù chính trị của mình. Thời Tam quốc, Tào Mạnh Đức không giết Nễ Hành mà mượn tay Hoàng Tổ, mọi người đều cho Tào là gian hùng. Sử dụng công này của Tiêu Dịch có thể coi không kém Tào A Man.

Hầu Cảnh quả nhiên trúng kế, tuy Hầu Cảnh đã lấy công chúa Phiêu Dương (con gái của Tiêu Cương) làm vợ, hơn nữa tình cảm vợ chồng rất thắm thiết, nhưng khổ nỗi Tiêu Dịch cứ ép mãi, không thể không giết Tiêu Cương, lập Dự Chương Vương Tiêu Đống, cháu của Thái tử Chiêu Minh, rồi lại do sự bức bách của Tiêu Dịch, Hầu Cảnh phế truất Tiêu Đống rồi tự lập làm vua. Đến lúc này Tiêu Dịch mới ra tay, sai thủ hạ là Đại Tướng Vương Tăng Biện, Trần Bá Tiên công kích Hầu Cảnh, giết Cảnh rồi tái lập triều Lương. Người nào tái lập vương triều Lương, tất nhiên người đó làm vua nhà Lương. Cách tính toán của Tiêu Dịch cực kỳ nham hiểm.

Quả nhiên, con người đã bị mọi người bỏ rơi như Hầu Cảnh không chống nổi trận công kích của một âm mưu sắp đặt từ lâu. Năm 552 bị thua, chạy khỏi Thạch Đầu thành, cùng tay chân hơn một trăm quân kỵ chạy về hướng đông, bị bộ hạ của Trương Côn giết chết.

Cái ngày thủ cấp của Hầu Cảnh đem về đến Kiến Khang, cũng là ngày Tiêu Dịch lên ngôi, thực hiện ước mơ mà Tiêu Dịch từng ấp ủ.

 

2. ĐỊCH ĐẾN KHÔNG ĐÁNH, GIẶC ĐẾN CHÂN THÀNH VẪN ĐIỀM NHIÊN GIẢNG “LÃO TỬ”.

 “Nam sử, Lương Đế kỷ” chép rằng, hôm Tiêu Dịch lên ngôi vua trên trời có hai mặt trời.

“Trời không thể có hai mặt trời, người không thể có hai Chúa, hiện tượng lạ lùng như vậy, phải chăng nhân gian xuất hiện cùng lúc hai chúa?” Một số triều thần nghĩ thầm.

Lo như vậy là đúng. Sau khi Tiêu Dịch lên ngôi không lâu, trên đất Lương quả nhiên xuất hiện hai chúa: Tiêu Sát (bị Tiêu Dịch đánh thua, phải bỏ chạy sang Tây Nguỵ) mượn được một đạo quân tinh nhuệ của Tây Nguỵ, tấn công dữ dội vào vùng nam sông Hoài của Tiêu Dịch.

Nhân dân nước Lương vừa thoát khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng, nay lại bị tàn phá bởi chiến tranh.

Tiêu Dịch chỉ giỏi giết người trong nhà, nay trước tình hình bị đánh từ ngoài vào, đã phạm một số sai lầm không thể tha thứ.

Phải nói rằng, quân Nguỵ đánh sang đất Lương, tuy có liên quan đến chuyện Tiêu Sát “cắt đất để mượn quân”, nhưng Tiêu Dịch cũng không thể bảo lỗi này hoàn toàn do Tiêu Sát gây ra. Năm 554 (tức hai năm sau khi Tiêu Dịch lên ngôi, Tây Nguỵ sai Vũ Hán Nhân đến mừng. Đang say mê vì những thắng lợi nội chiến, Tiêu Dịch đã có thái độ ngạo mạn, và với giọng vô lễ, viết thư cho Tể tướng đương triều Vũ Văn Thái, một nhân vật có quyền lực ở Nguỵ, đòi phân chia lại địa giới hai nước. Xem xong thư, Vũ Văn Thái kêu lên: “Ông trời muốn huỷ diệt người này rồi, không ai có thể cứu hắn”. Lập tức sai Trịnh Quốc Vạn Nữu (tên một chức quan) là Vu Cẩn đem quân đánh xuống phía nam.

Quân viễn chinh Tây Nguỵ đã vào đến đất Lương. Tiêu Dịch vẫn cố ý tỏ ra ung dung, triệu tập quần thần từ ngày Tân Mão tháng 9 năm 554 đến ngày Bính Tý tháng 10 năm 554 để nghe nhà vua giảng “đạo đức kinh” của Lão Tử (9 ngày liền). Thế là một cảnh tượng kỳ lại xảy ra:

Một đằng là mấy vạn quân định ngày đêm đánh thành.

Một đằng là các quan chức giữ thành vũ trang đầy đủ, tập trung ở điện Kim Loan để nghe nhà vua truyền giáo – giảng đạo đức kinh.

Kết quả là chỉ mấy hôm sau, thành bị vỡ.

Trước khi vỡ thành, một bộ hạ của Tiêu Dịch là Tạ Đáp Nhân đề nghị tập hợp toàn quân trong thành quyết một trận sống mái. Lúc đầu Tiêu Dịch chấp thuận, lại còn gả công chúa cho Tạ Đáp Nhân. Nhưng khi Nhân vừa ra khỏi  cung. Tiêu Dịch lại nghe lời xúc xiểm của tên nịnh thần tên là Vương Bao, cho là không thể tin vào Tạ (vì Tạ từng làm quan dưới thời Hầu Cảnh), liền thu hồi quyền lực của Tạ. Tạ uất lên thành bệnh mà chết.

Vẫn thành trì ấy, vẫn quân lính ấy, vì sao chưa đầy ba năm để mất một giang sơn tươi đẹp như thế? Tiêu Dịch lúc chết vẫn chư hiểu. Hôm thành trì bị phá, ông ta mặc áo trắng, cưỡi ngựa trắng ra đầu hàng. Khi đến cửa Đông, Tiêu Dịch rút kiếm khóc rống, gọi tên tự mình ra mà hỏi:

- Tiêu Thế Thành, Tiêu Thế Thành, vì sao nhà ngươi đến nông nỗi này?

 

3. ĐỌC HÀNG BỒ SÁCH, VỢ CON BỎ MẶC, VIỆC LỚN MÙ MỜ, VIỆC NHỎ LÀM HẾT MÌNH.

Con người Tiêu Dịch không phải không có điểm khả dĩ. Sử chép: “Ông ta thường ví mình với Gia Cát Lượng, Hoàng Ôn”, đây có thể là tự  khoe mẽ, nhưng quả thật Tiêu Dịch là ông vua có học nhất của vương triều họ Tiêu.

“Nam triều, Lương Nguyên Đế kỷ “chép rằng”: trong cả cuộc đời, Tiêu Dịch từng “soạn truyện hiếu đức, truyện trung thần 30 quyển, truyện Đôn Dương Doãn 10 quyển, chú Hán thư 150 quyển, Chu Dịch bình chú 10 quyển, Nội điển bác yếu 100 quyển, chú giải Ngọc thao kim lâu tử, Lão tử 4 quyển, Hoài cựu truyện 2 quyển, Cổ kim toàn đức chí kinh nam đại cống chức đồ, cổ kim tính danh lục 1 quyển, Phệ kinh 12 quyển, Văn tập 50 quyển.

Mặt mạnh này của Tiêu Dịch, gắn liền với cái thú đọc sách của ông. Người xưa có câu: “Đọc thông vạn quyển sách, chấp bút như có thần”. Tiêu Dịch không chỉ đọc có một vạn quyển sách. Điện Các Trúc của ông ta chứa 14 vạn quyển. Có điều, sau khi thất thủ, ông ta giận lây sang sách, đốt sạch, trong đó có những sách cực hiếm. Tất nhiên đó là chuyện sau này.

Cách đọc sách của Tiêu Dịch cũng rất lạ. Vì bị chột, chỉ còn một mắt, nên ông ta bảo người khác đọc, còn ông ta thì chăm chú nghe.

Có một chuyện thật như sau:

Hồi còn là Tương Đông Vương. Một đêm, sau khi giải quyết công vụ, Tiêu Dịch sai người gọi quan Thị độc đến đọc sách. Đọc mãi, đọc mãi, quan Thị độc thấy Tiêu Dịch mắt lim dim thì tưởng ông ta ngủ. Khi đã xong, quan Thị độc định rút lui thì bất chợt Tiêu Dịch quát to:

- Bay đâu, bắt viên Thị độc này lại  cho ta.

Tả hữu ập vào hỏi nguyên do. Tiêu Dịch nói:

- Thị độc coi thường ta, dám nhân lúc ta nhắm mắt dưỡng thần để đọc quấy quá cho xong.

Dựa vào thông minh vặt, Tiêu Dịch “đọc’’ được rất nhiều sách. Có điều trái với những người ham học khác, Tiêu Dịch không vì thế mà được mọi người tôn kính, thậm chí ngay cả người thân cũng khinh ông ta.

- Từ Nương, tức Từ Phi, tên thời con gái của Tiêu Bội, người vùng thiện, thuộc Đông Hải, lấy Tiêu Dịch tháng 12 năm thứ 16 đời Lương Vũ Đế, trở thành Hải Đông Vương phi. Do tính cách của Tiêu Dịch có phần bỉ ổi, nên Từ phi có ý coi khinh. Sử chép rằng:’’ Nhà vua hai ba năm mới nhập phòng một lần, Phi nhìn nhà vua bằng nửa con mắt, mỗi lần cùng nhà vua tương ngộ, Phi chỉ trang điểm một nửa khuôn mặt, từ đó suy ra Từ phi coi rẻ Tiêu Dịch. Ngay cả người kết tóc se tơ với mình mà còn coi khinh, đủ thấy nhân phẩm của Tiêu Dịch như thế nào.

- Thực ra, Tiêu Dịch lầ con người thông minh trên những chuyện nhỏ –thông minh vặt còn chuyện lớn thì ù ù cạc cạc. Lơ mơ trong chuyện lớn thì khỏi nói nhiều, mà trong thông minh vặt thì lại bộc lộ quá rõ tính nhỏ nhen của Tiêu Dịch.

- Cô ruột của Tiêu Dịch là công chúa Nghĩa Hưng Chiêu Trướng, gả cho một người tên là Vương Bân, sinh được bảy con trai, người nào cũng thông minh. Điều này khiến Tiêu Dịch không chịu nổi. Để làm nhục bảy anh em họ Vương, Tiêu Dịch bèn đổi tên của gia nô Vương Diễn thành Vương Bân ám chỉ cha của anh em họ Vương chỉ đáng là một gia nô.

Thành Kim Lãng sau khi thất thủ, Tiêu Dịch bị quân Tây Nguỵ bắt sống, bị kẻ tử thù là Tiêu Sát hạ nhục ê chề. Vốn xưa này chỉ quen hạ nhục người khác, Tiêu Dịch không chịu nổi, bèn nghĩ ra một trò láu cá: Ông ta đánh lừa người canh giữ là Bộc Xạ Trường Tôn Khiêm, nói rằng: “Ta có nghìn vàng ở trong thành, chỗ vàng ấy là của ông” Trường Tôn Liêm rất phấn khởi. Vào đến thành nội, Tiêu Dịch đổi giọng nói: “Thú thật ta đã nói dối ông, làm gì có chuyện vua  chôn giấu vàng? Ta lừa ông vì muốn tránh xa một chút Tiêu Sát, để hắn đừng làm nhục ta”.

Mẹo mặt này đã hại Tiêu Dịch, sau khi trở lại quân doanh, Trường Tôn Liêm và Tiêu Sát ra sức khuyên Vu Cẩm giết Tiêu Dịch.

Biết chắc mình sẽ chết, Tiêu Dịch uống rượu suốt ngày đêm và làm thơ buồn.

Ngày Tân Mùi tháng 12 năm 554, Vu Cẩm chấp thuận đề nghị của Tiêu Sát, sai Thượng thư Phó Chuẩn giết Tiêu Dịch.

Ông vua của vương triều Lương này sau khi chết được phong miếu hiệu là Thế Tổ, thuỵ hiệu  là Nguyên Đế. Ông ta chỉ sống có 47 tuổi.

 

HẬU TRIỆU THÁI TỔ THẠCH HỔ:

Yêu thú chẳng yêu người, giết con như giết lợn

*

Tháng 7 năm 333, nhờ sức của 18 quân kỵ mà nên cơ đồ, Hậu Triệu Cao Tổ Hoàng Đế Thạch Lặc sau một đời chinh chiến, bị ốm chết, di chiếu cho con trai là Thạch Hoàng lên nối ngôi, đồng thời di mệnh chú của Thạch Hoàng là Thạch Hổ phò tá. 

Thương thay Thạch Hoằng. Quan tài chưa ra khỏi cổng, đã trở thành vua bù nhìn, bị ông chú khống chế. Ngôi báu ngồi chưa vững, đã bị ông chú giết chết.

Ông chú của Thạch Hoằng là con người như thế nào?

Sử chép rằng: “Ông ta tính tàn nhẫn, thích giết người bằng cung tên”. Một bận, mẹ đẻ ông ta đã ra lệnh xử tử ông ta, được cha của Thạch Hoằng là Thạch Lặc cứu khỏi tội chết, mới thoát nạn. Một khi trong tay nắm quyền hành, ông ta “trả ơn” ông ta vừa khuất là như vậy đó, đủ hiểu nhân cách của ông ta.

Sự sa đoạ về nhân cách của Thạch Hổ không chỉ là giết chết cháu. Quan sát cuộc đời của ông ta, có rất nhiều chuyện “đáng ghi vào sử sách”, lưu truyền thiên cổ.

 

1. HÙM DỮ CŨNG KHÔNG ĂN THỊT CON, THẠCH HỔ DỮ HƠN HÙM, GIẾT CON NHƯ GIẾT LỢN.

Ngay sau khi lên ngôi không lâu, Thạch Hổ có một đoạn đối thoại nổi tiếng với đám thủ hạ:

Đó là tại một buổi vua tôi cùng dùng bữa. Trong bữa ăn, Thạch Hổ yêu cầu các quan kể về đạo xử thế của các Đế Vương và nguyên nhân hưng vong của các triều đại. Kể mãi, rồi kể đến vương triều Tấn, kể đến Tấn Huệ Đế Tư Mã Trung, nhân đó kể “loạn bát vương”.

- Bát vương? - Thạch Hổ kinh ngạc hỏi – làm sao có nhiều người khác họ được phong Vương đến thế.

- Tâu bệ hạ, những “bát vương” đem quân tàn sát lẫn nhau này không phải những người khác họ, mà đều là họ Tư Mã, họ vốn là anh em chú cháu với nhau – Vương Độ thấy ông vua vũ phu chẳng hiểu gì, kiên nhẫn giải thích.

- Vậy thì Trẫm đã rõ! - Thạch Hổ mở to cặp mắt vằn những tia máu vì uống nhiều rượu hỏi - Đã cùng họ, vậy sao họ lại giết lẫn nhau? – Nhìn xung quanh một lượt, Thạch Hổ giọng cao ngạo – Chắc hẳn là gia phong nhà Tư Mã không tốt. Giả dụ như họ Thạch ta, bảo rằng ta giết con, thì chỉ có ma quỉ mới tin.

Nghe xong đoạn đối thoại này, ai cũng cho rằng Thạch Hổ là người cha hiền, nhưng trên thực tế thì như thế nào?

Vừa giết xong Thạch Hoằng là Thạch Hổ chuẩn bị ngay “mũ cổ áo long bào” để đi tế Nam giao, lên ngôi báu. Nhưng khi cầm gương lên soi nhà vua phát hiện mình “không có đầu” ở trong gương (sử chép đúng như vậy, không phải tác giả bịa ra). Nhà vua sợ quá, bèn kéo con trai là Tahchj Thuý thay mình điều hành quốc sự, còn nhà vua thì ẩn đằng sau làm nhiếp chính như kiểu Triệu Thiên Vương.

Vậy là chuyện đã xảy ra.

Thạch Hổ chỉ thị cho Thạch Thuý như sau:

Những việc lớn của đất nước như tws Nam giáo, tế Thái Miếu, chọn Mục Thú, chinh phạt, hình sát thì không được tự quyết định mọi việc.

Nhưng khi Thạch Thuý thực sự tự mình điều hành công việc, thì nhà vua lại nổi giận, cho gọi Thạc Yhuý đến quở trách: “ Sao không bẩm với ta trước?” Thach Thuý nghĩ thầm :” Sao không bẩm với? Hỏi như vậy thể thống gì nữa. Chẳng phải cha đã bảo mình, ngoài những điều đã quy định ra, mình có quyền tự quyết tất cả mọi việc đó sao? Nghĩ vậy, nhưng không dám nói ra miệng, cố nén bực, luôn miệng nói :” Tâu phụ vương, lần sau con xin sửa chữa”.

Qua đi mấy hôm, nhân Thạch Hổ cho xây dựng điện Thái Vũ, có một số truyện nhỏ thuộc xây dựng hạ tầng, Thạch Thuý rút kinh nghiệm lần trước nên không dám tự quyết, bèn đi hỏi ý kiến Thạch Hổ. Nào ngờ Thạch Hổ cau mày lại, nói rất khó chịu : “ Chuyện bằng cái  dắm mà cũng phải hỏi. Trong đầu nhà ngươi cũng chỉ chứa toàn là cơm hay sao? ” Rồi hạ lệnh cho thủ hạ dằn Thuý xuống đất ( lúc này Thuý đã là Thái tử ) đánh một trận.

Thạch Thuý xưa nay quen kiêu sa dâm dật, chịu sao nổi cảnh nhục nhã này, liền trút cơn dận lên người vợ bé. Theo sử liệu, thì bắt nàng trang điểm rồi trình diện các tân khách. Sau khi giao hợpliền cứ loá thể như vậy mà mổ bụng, lôi ruột gan nàng ra, ướp ngũ vị hương rồi cùng tân khách nhắm rượu “. nhưng cha của ông ta cũng không tha, thỉnh thoảng đánh cho một trận trước mặt mọi người.

Cuối cùng, Thái tử vốn không có bụng làm phản, đã làm phản. Khi được tin, Thạch Hổ không gượng nhẹ chút nào, cho bắt Thạch Thuý cùng vợ con tất cả là 26 người giết sạch, chôn chung trong một cỗ quan tài ngoại cỡ.

Sau khi giết Thạch Thuý, Thạch Hổ lập Thạch Tuyên làm thái tử , phong Thạch Thao, người con mà Thạch Hổ rất yêu, làm thân vương.

Năm 348 Thạch Tuyên ghét Thạch Thao vì truyện thương lượng nhà Thạch Thao quá dài ( 10 trượng), sai người đâm chết Thạch Thao, được tin Thạch Hổ cả giận, gần lên trước mặt quần thần :

- Trẫm đang cần ba đấu tro để rửa lục phủ ngũ tạng. Làm sao mà có bao nhiêu đứa con hư hỏng rơi vào nhà ta ? – Lập tức sai bắt Thạch Tuyên, xỏ vòng sắt vào hàm dưới làm lợn, “lấy mấy đấu cám trộn với cơm canh, bắt ăn như lợn ăn”. Sau đó, xây một đài cao ở bắc thành, áp giải Thạch Tuyên đến đó, lệnh cho Hách Nhã và Lưu linh kà hai tên hoạn quan thân cận của Thach Thao, giật dứt tóc, cắt lưỡi Thạch Tuyên, rồi dắt Thach Tuyên lên đống củi đã chuẩn bị sãn, chặt dứt chân tay, chọc mù hai mắt, hành hạ chán rồi nổi lửa thiêu chết. Sau khi thiêu chết Thạch Tuyên, Thach Hồ bột phát thú tính, sai giết hết vợ con Thach Tuyên. Đứa con nhỏ của Thach Tuyên khi đó mới lên năm tuổi, khi quân đao phủ lôi ra chém, cứ túm lấy vạt áo Thach Hồ mà khóc “Ông ơi!”, nhưng rồi vẫn không thoát chết.

 

2.XE SĂM NGHÌN CỖ, THÚ NUÔI VẠN DẶM, TRỌNG THÚ HƠN NGƯỜI, CHUYỆN LẠ XƯA NAY.

Từ nhỏ, Thach Hổ đã thích săn bắn kiểu “săn đuổi”. Sau khi lên ngôi, sở thích này vẫn không đổi.

Năm 345, Thạch Hổ ra lệnh xây dựng một khu vực săn bắn ở giữa Linh Xương Tân, Trùng Dương và Dương Độ. Khu vực này rộng ra sao thì không có sáh nào ghi chép, nhưng qua thư can gián của Phủ Hồng có câu :” xe săn nghìn cỗ, thú nuôi vạn dặm”, ta có thể hình dung khu vực này rộng lớn như thế nào.

Trong khu vực này có thú có chim, chỉ nhà vua mới được dùng ( y như phụ nữ ttrong hoàng cung), người khác đừng nói đến chuyện săn bắt, mà ngay cả dòm ngó, đụng phải, hoặc làm thú sợ hãi, đều là phạm tội”. “Tấn thư. Thạch Quý Long tải ký” chép rằng : ”Thạch Hổ sai quan Ngự Sử giám sát khu vực, ai vi phạm liền bắt tội, nặng nhất là tử hình”.

Do ăn toàn cao lường mĩ vị, nên cơ thể Thạch Hồ đặc biệt phì lộn, không ngựa nào chịu nổi. Tuy không thể cưỡi ngựa, nhưng Thạch Hồ vẫn thích đi săn. Để giải quyết chuyện rượt đuổi đường dài, Thạch Hổ sai người chế tạo xe lăn và xe cũi. Xe săn daì 30 thước, cao 18 thước. Xe cũi chia làm 3 tầng, tầng dưới cùng là của các vệ sĩ tay cầm dáo dài, kích lớn bảo vệ. So với đương thời, xe này có thể coi là một kỳ quan.

Khi đi săn, Thạch Hổ rất thích tác oai tác phúc, coi mạng người như cỏ rác.

Sử chép rằng, mỗi khi đi săn, Thạch Hổ đều đặt hành cung, chu vi hàng trăm dặm, sai thủ hạ cưỡi ngựa quây thành vòng tròn, rồi vòng tròn xiết nhỏ dần, dồn thú vào giữa, thường thì công việc này mất một ngày. Đến tối, vồng bao vây này chỉ còn vài dặm, Thạch Hổ lệnh cho văn võ bá quan và những người khác phải “ quy lập vi thủ” – quỳ sát bên nhau quây thành vòng tròn mà nhốt các con thú trong vòng tròn đó. Chỉ dụ của nhà vua là, mỗi người phụ trách một chỗ, có thể đốt lửa hoặc cầm đèn lồng, nhưng phải đảm bảo thú không chạy mất. Người nào để xổng thú thì người đó bị phạy. Cách phạt cũng rất lạ : Người có phẩm tước thì khi trở về kinh thành phải đi bộ, không được cưỡi ngựa, người không có chức tước thì bị phạt đánh 100 roi.

Cuộc săn khiến trăm quan mệt mỏi, quân sĩ đói rét mà chết có hàng trăm người.

 

3. ĐÀO MẢ NGƯỜI XƯA, CƯỚP GÁI NHÀ LÀNH, NHÀ NÀO CÓ GÁI XINH ĐẸP MÀ KHÔNG DÂNG VUA, TẤT CHẾT.

Đêm mồng 5 tháng Chạp năm 336, tại ngôi mộ Triệu Giản Tử gần Hàm Đan (Hà Bắc) bỗng xuất hiện một toán người tay cuốc tay xẻng, cầm gậy gộc, móc câu, vây kín ngôi mộ không một kẽ hở.

Những người này định làm gì vậy? Một ông già ở gần đấy sau mấy phút suy nghĩ, chợt hiểu : Đào mộ chăng? Bọn này chắc là những tên đào trộm mộ.

Có nhà vua nào dám đào mộ người ta để lấy của không? Có đấy, chính là Thach Hồ, Thái tổ Hoàng Đế nhà Hậu Triệu.

Vốn là năm đó nước Triệu bị hạn hán nghiêm trọng, một cân vàng chỉ đổi được hai đấu gạo lật. Nhưng Thạch Hồ vẫn “dốc túi” cho xây điện Thái Vũ ở Nhương Quốc (nay là tây nam Hình Đài, Hà Bắc). Dưới điện Thái Vũ, Thạch Hồ cho xây một hầm ngầm chứa được 500 vệ sĩ làm công tác bảo vệ. Lại tuyển rất nhiều gái trinh tuổi từ 13 đến 20 đưa về đây để hành lạc. Để tạo nên cảnh quan ở Nghiệp Thành, Thạch Hổ sai Trương Nễ chuyển các thứ bày ở Lạc Dương như Cửu Long, Ông Trọng, Đồng Đà, Phi Liêm vêh trưng bày ở Nghiệp.

Công trình to lớn khiến quốc khố kiệt quệ mà Thạch Hổ vẫn không tỉnh ngộ, trái lại còn có  chủ trương chết người : đó chính là khai quật mộ lấy của như trên đã tả. Nhưng điều đáng buồn là Thạch Hổ không thành công. Triệu Giản Tử, ông già sống trước đó hơn nghín năm hình như đoán trước được điều này, nên cho xây mộ cực kỳ kiên cố- trên mặt là lớp than dày vài trượng, rồi đến lớp đá dăm, dưới lớp đá là tầng nước đóng băng, tìm không thấy quan tài, Thạch Hổ đành bỏ cuộc.

Không trút được giận lên người chết, Thạch Hổ trút giận lên đầu người sống. Một hôm, vào tháng 7 năm 337, trước mặt đông đủ văn võ bá quan, Thạch Hổ đánh chết tươi Kim Tử Quang Lộc Đại Phu Lộc Minh vì ông này dám khuyên nhà vua thải hồi các thiếu nữ trong hậu cung.

Lục Minh có đáng bị đánh chết không? Điều này liên quan mật thiết đến số phụ nữ trong hậu cung của Thạch Hổ.

Thông thường, nhà vua có “ ba cung, sáu viện, bảy mươi hai phi tần”, có xê dịch đôi chút cũng không sai. Nhưng trong cung của Thạch Hổ có bao nhiêu cung nữ? Sử chép: 10 vạn. Con số này vào thời đó có thể coi là kinh khủng, chẳng trách Lục Minh dâng lời khuyên.

Số phụ nữ trên đây nhập cung như thế nào? Một số tiếp quản từ “di sản” của ông anh Thạch Lặc, ngoài ra đều do Thạch Hổ sai người đi bắt về.

Tất nhiên, nói là “bắt” có vẻ khó nghe. Nghĩ như vậy, nên Thạch Hổ ban một đạo chỉ lện : Phàm là cư dân nước Hậu Triệu, trong nhà có con gái đẹp, có phụ nữ đẹp mà cha và chồng của họ không đem dâng, thì chém đầu không tha, con người ta ai lại dâng vợ, dâng con cho người khác? Không dâng thì bị kết tội, nếu không chỉ có chết. Vì vậy có thực tws là tự sát cả nhà.

Bắt những gái đẹp, những người phụ nữ đẹp này về làm gì? Nhiều người nghĩ rằng để thoả mãn long dục. Thực ra, nghĩ vậy có phần oan uổng cho Thái tổ Hoàng Đế nước Hậu Triệu. Bản thân ông ta, dù tinh lực dồi dào đến mấy, cũng không sài hết bấy nhiêu mĩ nữ. Thì ra, Thạch Hổ dùng những giai nhân này, những giai nhân mà người ta vẫn tưởng là dùng để hành lạc, để chơi trò “trị quốc”, nghĩa là để thay thế các viên quan đàn ông. Vậy là trong cung xuât hiện những Ty Thiên Giám, Thị vệ là nữ, nữ quan lại tăng thêm 24 bậc, lại thêm hàng nghìn kỵ sĩ là nữ. Tất cả đều “áo vàng đai bạc”, rầm rộ theo sau Thạch Hổ mỗi khi tuần du hoặc yến hội.

Sự xuất hiện của những nữ quan này cướp mất cơm của những viên quan nam. Vậy là ngoài sự phẫn nộ của quần chúng, lại thêm sự bất mãn của những người này. Thạch Hổ đã lâm vào tình thế nguy ngập.

Tháng Giêng năm349, nổ ra cuộc binh biến cảu các vệ sĩ nguyên là vệ sĩ ở Đông cung bị Thạch Hổ đày đi Lương châu. Thạch Hổ vừa giận vừa lo nên bị ốm nặng. Nhưng trước khi Thạch Hổ thở hơi thở cuối cùng về chầu tiên tổ, các bbộ hạ đã giở trò rồi.

Ý của Thạch Hổ là bổ nhiện con trai Thạch Bân làm Thừa tướng kiêm Lục Thương Thư Sự, Thạch Tuân là Đại Tướng quân, trấn thủ Quan hữu. Nhưng ái phi của Thach Hổ là Lưu thị câu kết với Trấn Vệ Đại Tướng quân Trương Sài, lừa bắt được Thạch Bân, và dẫn một toán quân mạnh cùng Thạch Bân bắt Thạch Tuần giải về U Châu.

Lúc này Thạch Hổ đã nửa mê nửa tỉnh, mà ngay cả khi tỉnh, Thạch Hổ cũng không thể hỏi người kế vị là ai nữa.

Tháng 5 năm ấy, Thạch Hổ chết ở fđiện Kim Loan trong cung Nghiệp thành, thọ 55 tuổi.

 

TẤN HUỆ ĐẾ TƯ MÃ TRUNG:

ông vua bù nhìn, ngu đến lạ lùng

*

Nghe nói ở châu Âu thời trung thế kỷ, tầng lớp quý tộc các vương quốc chỉ lấy vài người trong họ để bảo đảm huyết thống được thuần nhất và cao quý. Hậu quả của nó là bổ sung cho đội ngũ quý tộc vốn không đông đảo một số người đần độn hoặc ngớ ngẩn. Trung Quốc vì đã được nho giáo quản lý băng nhân luân lễ nghĩa, truyện thông hôn trong giới quý tộc và hoàng tộc tương đối ít, vì vậy số đần độn trong giới quý tộc và hoàng tộc cũng không nhiều. Kiểm điểm lại qua sử sách hiện còn lưu giữ, trong suốt mấy nghìn năm số người đần độn thực sự trong hoàng tộc cũng chỉ có dăm ba người, trong đó phải kể đến Tư Mã Trung, con trai Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm. Khi còn là Thái tử cũng như sau khi đã làm vua, Tư Mã Trung nổi tiếng về đần độn, cuộc đời ông vua này khiến ai cũng cảm thấy lạ lùng.

 

1. CON NGU CÓ CÁI PHÚC CỦA NGU, LÊN NĂM TUỔI ĐÃ BIẾT QUYỀN BIẾN.

 “Ngôi vị này thật đáng tiếc!” Ông suy nghĩ thật rồi sao?

Ông nội của Tư Mã Trung là con người uy danh lừng lẫy Tư Mã Chiêu, cụ nội là Tư Mã Ý, hai người này nổi tiếng những con người “mưu trí” trong lịch sử Trung Quốc. Cha của Tư Mã Trung là Tư Mã Viêm “lắm mưu nhiều kế, làm nổi việc lớn”. Vì vậy, về mặt di truyền mà xét, ai cũng cho là bịa khi nghe nói Tư Mã Trung chậm khôn, nhưng thực tế là như vậy.  

Rất nhiều sử sách đã ghi chép câu chuyện như sau:

Một hôm, Tư Mã Trung khi ấy còn là Thái tử chơi rông, theo sau là một đoàn thị tùng. Rong chơi hồi lâu, cuối cùng đến Hoa Lâm Viên của Hoàng gia. Hoa Lâm Viên tuy tiếng tăm không nổi như Đồng Tước Đài của Tào Tháo, về quy mô cũng không rộng lớn như Thượng Lâm Uyển của Hán Vũ Đế, nhưng vì là công viên riêng của Hoàng gia, Tư Mã Viêm đã đầu tư vào đấy không ít tiền của, nên trông rất trang nhã. Nghe nói cái đẹp của Hoa Lâm Viên là dựa vào sơn thuỷ tự nhiên. Trong vườn, oanh yến dập dìu, hồng hoa xanh liễu, thỉnh thoảng lại thấy một bóng hồng thướt tha trong hồ quang bóng liễu. Chỉ có điều, đây là công viên của Hoàng gia, dân thường không có duyên may được hưởng. Kể cũng lạ, Tư Mã Trung không thích chỗ nào khác trong khu vườn, mà chỉ có tình cảm đặc biệt với hồ nước. Khi đó đang vào mùa hè, nóng đến nỗi ếch kêu ộp oạp trời hầm hập, nông phu vật vã ngủ không yên, bọn thị tùng tưởng Thái tử định xuống tắm đã toan ngăn cản, không ngờ Thái tử buột miệng hỏi một câu, khiến ai nấy đứng đực ra như phỗng. Câu hỏi là; “Quan hay dân đấy?”

Tâu Điện hạ, Người hỏi gì ạ?” Tả hữu không hiểu đầu cua tai nheo ra sao.

Chính là tiếng ếch đó!- Tư Mã Trung trả lời nghiêm chỉnh, hoàn toàn không có ý đùa cợt.

Tả Hữu cố nhịn cười, đáp: “Tâu Điện hạ, ếch cũng có ếch quan ếch dân. Sinh ra ở trong cung là ếch quan, sinh ở trong dân thì hẳn là ếch dân”.

- À thì ra chúng kêu theo lệnh nhà quan, hay thật! Tư Mã Trung hoa chân múa tay như phát hiện ra điều gì mới mẻ.

Đông người hay lắm chuyện, câu chuyện trên đây không công khai, nhưng cả triều đều biết.

Một số quan đại thần vốn không ưa địa vị Thái tử của Tư Mã Trung và rất muốn gạt Tư Mã Trung khỏi ngôi kế vị, liền dâng thư đề nghị Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm nên vì đại nghĩa mà truyền ngôi cho cháu, chọn một người trong số hậu duệ của Tư Mã Sư lập làm Thái tử, làm người kế nghiệp của Tư Mã Chiêu và Tư Mã Sư.

Trong tình hình chính trị không ổn định, truyền ngôi cho người hiền chứ không phải người thân, vốn là biện pháp thông minh được công nhận. Vương triều họ Lý đời Thành Hán tình hình cũng tương tự như họ Tư Mã, không truyền ngôi cho con mà cho cháu.

Với vương triều Tấn, người nào đề xuất truyện trên đây phải coi là bậc trung thần. Những ý kiến của trung thần phải là vua hiền mới được tiếp thu. Mã Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm dựa vào oai thừa của tổ phụ cướp lấy chính quyền từ Tào Nguỵ, chinh phục Đông Ngô còn thối nát hơn mình, ngoài những việc kể trên, bất cứ phương diện nào đều không phải là một ông vua hiền.

Sử chép về Tư Mã Viêm: “Sau khi bình định Ngô, lười nhác chính sự, chỉ vui chơi yến ẩm. Bái  binh ở các châu quận, nên việc vũ bị bỏ trống. Không tuyển người theo con đường trung chính nên mất nhân tài”. Để thoả mãn sắc dục, “lại tuyển 5000 gái đẹp của Tôn Hạo vào cung, nhét hàng vạn người nguy hiểm trong cung đình”. Gái đẹp nhiều đến nỗi Tư Mã Viêm hoa cả mắt, suy nghĩ ra một cách: ngồi xe dê (do ba con dê kéo xe) dê dừng ở nhà người đẹp nào, nhà vua xuống xe ở đó rồi cùng người đẹp đó uống rượu và hành lạc. Để được nhà vua sủng hạnh, có cung nữ lấy lá tre rải trước nhà, tưới nước muối xuống đất (vì dê thích ăn lá tre và liếm nước muối), để dụ vua vào nhà.

Do vậy, Tư mã Viêm không chấp thuận ý kiến của quần thần, không giao quyền bính cho cháu, cũng không tính đến chuyện thay Thái tử.

Tất nhiên công bằng mà nói, Tư Mã Viêm không muốn thay Thái tử còn vì một lý do khác.

Vốn là vào một năm trước khi quần thần dâng thư, Tư Mã Viêm có ban cho Tư Mã Trung một cung nữ mà Tư Mã Viêm đã dùng, tên là Tạ Cưu. ít lâu sau, Tạ Cưu mãn nguyệt khai hoa, sinh một con trai, đặt tên là Tư Mã Duật. Đồn rằng khi Tư Mã Duật lên năm tuổi, trong cung xẩy ra hoả hoạn mà không rõ nguyên nhân. Lúc này Tư Mã Viêm vẫn đang trị vì ngôi báu, vội lên lầu cao quan sát, chỉ thấy lửa bốc cao ngùn ngụt, thế giới chìm trong lửa. Lưng trời cột lửa bốc cao, mặt đát tàn lửa bay khắp. Lửa mượn gió ra oai, gió mượn lửa gào thét, bầu trời một màu đỏ rực. Bỗng nhà vua thấy có ai kéo gấu áo, nhìn xuống té ra là Tư Mã Duật.

-  Sao cháu không đi lánh cùng Thái phó mà đến đây kéo áo ta?- Tư Mã Viêm trong lòng không vui, tưởng cháu đến làm nũng.

 Tâu vua ông !- Giạng Tư Mã Duật tuy còn ngọng nhưng trịnh trọng, nói- Lửa cháy to quá mà chưa ai biết vì sao? Giờ đây trong cung nhốn nháo, giả sử có kẻ xấu làm bậy, chúng ở chỗ tối, Bệ hạ thì ở chỗ sáng thì nguy hiểm lắm !

Tư Mã Viêm nghe vậy thì hết lời khen ngợi, từ đó trở đi, vị trí của Tư Mã Duật không còn bình thường trong suy tính của Tư Mã Viêm. Do vậy, khi quần thần dâng thư xin thay Thái tử, Tư Mã Viêm dứt khoát từ chối. Nhà vua nghĩ rằng, dù Thái tử không được thông minh, nhưng Duật đĩnh ngộ hơn người, kham nổi việc nước, giữ được giang sơn của họ Tư Mã.

Một hôm, Thượng thư Lệnh Vệ Quyền hầu yến ở Lăng Vân Đài. Không khí giữa vua tôi tương đối thuận để đề xuất chuyện thay Thái tử. Do vậy, Vệ Quyền mượn rượu giả say tiến lên quỳ trước Tư Mã Viêm  nói: “Thần có điều muốn khải tấu Bệ hạ!”.

Tư Mã Viêm ngạc nhiên hỏi:

- Khanh định nói gì?

- Là chuyện ... chuyện ... Vệ Quyền định nói lại thôi, ấp a ấp úng, cố tìm  các diễn đạt làm sao cho nhà vua chấp thuận. Ông còn đang cân nhắc thì Tư Mã Viêm đã đoán ra điều mà Vệ Quyền định nói: “Hẳn là chuyện Thái tử. Cái lão Vệ Quyền này chẳng ra sao cả. Người khác đề nghị thay Thái tử thì có thể hiểu, còn nhà ngươi mà cũng vào hùa với họ sao? Chẳng lẽ ngươi cũng không hiểu nỗi khổ tâm của Trẫm khi thấy Thái tử ngu đần mà không nỡ phế bỏ hay sao?” Nghĩ đến đây, nhà vua rất bực, định nói một câu, nhưng Vệ Quyền đã mở miệng trước:

- Tiếc thay chiếc ngai này! – Vệ quyền vỗ vỗ vào Long sàng mà than với giọng ỡm ờ.

- Khanh say quá rồi!- Tư Mã Viêm cũng nói một câu đầy ngụ ý, nửa đùa nửa cảnh cáo ngầm Vệ Quyền là đừng có rách việc.

Quần thần tỏ vẻ không vui, lần lượt rút lui, nhưng vị trí của Tư Mã Trung thì được bảo đảm. Âu cũng là người ngu hưởng phúc người ngu!

 

2. CAI TRỊ MƯỜI MẤY NĂM, NHƯNG CHÍNH LỆNH ĐỀU DO NGƯỜI KHÁC BAN BỐ, KHẮP NƠI ĐÓI RÉT, LẠI HỎI MỘT CÂU KỲ QUẶC: SAO KHÔNG ĂN CHÁO THỊT?

Nhìn trong xã hội phong kiến, Tể tướng là chức quan cao nhất, chỉ dưới một người mà trên cả vạn người. Còn Hoàng đế thì trên cả triệu người, là đấng tối thượng, chúa tể cả nhân gian. Vậy có ông vua nào mà một chút quyền hành cũng không có? Có đấy. Tục ngữ có câu: “Cây rừng lớn lên thì sẽ có nhiều chim”, Tấn Huệ Đế Tư Mã Trung chính là  loại “chim” đó. Có người dùng câu: “Ngoài thì bị quần thần chế ngự, trong thì bị vợ con sai bảo” để hình dung tình cảnh của Tư Mã Trung khi làm vua. Sự thực quả đúng như thế.

Trong 17 năm ở ngôi, trước sau có 8 vị Vương họ Tư Mã nổi loạn. Họ hoặc là cờ biển đoàng hoàng, đòi hạ vua: hoặc công khai đem quân đến đánh; hoặc ép vua ra lệnh phế truất con vua là Tư Mã Thuật, xuống chiếu giết hại Dương Tuấn, cha đẻ của Hoàng Thái Hậu; hoặc kề gươm vào cổ vua, bắt phải nhất nhất nghe những điều trái khoáy. Thời gian này, người vợ đầu của nhà vua là Giả Nam  Phong bị người ta giết chết bằng rượu pha chất độc, người vợ thứ hai Dương Mẫu Dung thì bốn lần bị phế truất. Những câu chuyện bê bối như thế không đểm xuể. Tháng 7 năm 307, Đông Hải Vương Tư Mã Việt và em trai là Tư Mã  Dĩnh vì giành quyền lợi mà sử dụng đến vũ lực, Tư Mã Trung bị đưa ra làm chiêu bài và bị Tư Mã Việt cưỡng ép đến Nghiệp Quân đánh Tư Mã Dĩnh. Hành quân đến Đảng Âm, Hà Nam (nay là huyện Thanh Âm, Hà Nam), quân của Tư Mã Việt bỗng dưng tan vỡ, Tư Mã Trung bị bỏ lại bên đường, bị bọn lính bên đối phương nhằm mặt vua mà bắn để mua vui.

Một tên lính mặt đầy hột cơm căm giận nói:

- Tất cả là tại lão này, khiến dân Tấn chúng ta vợ con li tán, bọn lính chúng ta có nhà mà không được vè. Phế lão đi!

- Không được! Hoàng Thái Đệ đã có lệnh: Đông Hải Vương phải chết, còn nhà vua phải sống!

- Một tiểu đầu mục vội can.

- Không giết lão thì cũng phải cho lão biết thế nào là đau đớn – Tên mặt đầy hột cơm vừa nói vừa bẻ đầu nhọn, lấy vài bọc đầu mũi tên lại, rồi nói:

- Hãy trông đây!

Nói thì chậm, làm thì nhanh, chỉ nghe “vút” “vút” liền mấy tiếng, mặt và mông Tư Mã Trung trúng liền mấy phát tên bọc vải, khiến nhà vua đau quá, rống lên như lợn bị trọc tiết. Lúc này, văn võ bá quan và bọn thị vệ đã bỏ chạy từ lâu, may được viên quan tư vấn cao cấp kêu gọi Kê Thiệu liều chết bảo vệ, phủ phục trên mình vua mới ngăn được những mũi tên bọc vải bắn tới. Bọn tay chân cuả Tư Mã Dĩnh lôi Kê Thiệu xuống chặt đầu. Lần này, Tư Mã Trung bị một phen sợ đến nỗi mặt mày xây xẩm, ngã từ trên mình ngựa xuống đám cỏ rậm, sáu viên ngọc nhà vua dùng làm ấn tin vẫn đeo trên người, đều rơi đâu mất.

Hai nữa, các vương công đại thần nước Tấn không phải ngay từ đầu đã đối xử với Tư Mã Trung như vậy. Sở dĩ nhà vua không được họ coi trọng, phần lớn do bản thân Tư Mã Trung đần độn mà ra. Ngạn ngữ có câu: “Mình tự làm nhục mình trước thì thiên hạ mới làm nhục mình”.

Khi Tư Mã Trung mới lên ngôi không lâu, trời đại hạn, khắp nơi đói kém. Dân chúng ba nước Nguỵ, Thục, Ngô vừa ra khỏi cảnh tàn phá của chiến tranh, lại rơi vào cảnh nước sôi lửa bỏng. Dân đói liên tiếp dâng biểu lên triều đình. Lúc đầu, Hoàng hậu Giả Nam Phong còn ỉm đi, không cho nhà vua biết. Sau vì cơ quan chuyên trách bất cẩn, một tờ biểu “lọt” vào tay nhà vua. Tờ biểu đó có đoạn viết: Trung Nguyên đói rét, hàng ngàn dặm đất đai khô héo, dân tình đói khổ, ăn cả rễ cỏ cây. Vậy mà những kẻ đến chậm ngay cả rễ cỏ cây cũng không có mà ăn. Thương thay! Xót thay!

Xem xong, Tư Mã Trung không hiểu, bèn hỏi tả hữu:

- Không còn rễ cỏ vỏ cây, vậy tại sao họ không ăn cháo thịt?

Tả hữu thở dài, không nói gì. Thì ra vị vua này chỉ biết có cao lương mĩ vị, món kém nhất là món cháo thịt, vậy nên mới có câu hỏi trên, để lại trò cười thiên cổ.

Nếu như không giỏi chính sự thì còn khả dĩ, đằng này, ngay cả công việc gia chính, Tư Mã Trung cũng để nát bét be như tương.

Nhà sử học Đài Loan Bá Dương từng có đoạn miêu tả rất xác thực trong sách “Tư trị thông giám” bằng bạch thoại của ông như sau:

“Một hôm, một viên quan thuộc cảnh sát cục (uý bộ) khu nam Lạc Dương biến mất mười mấy ngày liền, rồi lại đột nhiên xuất hiện. Té ra viên quan này gặp một bà già. Bà này nói rằng con gái bị bệnh, đó là bệnh ma ám. Thầy đồng mách bà đến phía nam thành, gặp thanh niên nào có hình dáng như thế thì bí mật mời về nhà, ma quỉ sẽ bỏ đi. Viên quan trẻ tất nhiên nhận lời, liền lên một chiếc kiệu nhỏ che kín mặt, và để cho pháp thuật được linh nghiệm, còn bỏ anh ta vào trong một cái dọ bằng tre. Đi hơn mười dặm thì kiệu dừng, anh ta lại bị khiêng xuống, cảm thấy qua sáu bảy lần cửa sau đó dọ tre được mở ra, anh ra nhìn thấy đình đài lầu các vàng son rực rỡ.

Tiếp đó, anh ta được tắm  rửa sạch sẽ bằng nước thơm, mặc quần áo sang trọng đắt tiền, chén một bữa sơn hào hải vị, rồi bị đưa đến một căn phòng rất mực hoa lệ. Khi trời chạng vạng tối, một phụ nữ trạc ba mươi lăm, ba mươi sáu tuổi, người nhỏ mà lùn, da đen nhẻm, dưới lông mày có một nốt ruồi, diện mạo tầm thường, ngủ cùng anh ta hơn mười đêm. Sau đó, đưa anh ta trở về theo đường cũ.

Người phụ nữ đứng tuổi công nhiên bắt bọn trai trẻ ngủ với bà chính là Giả Nam Phong, vợ Tư Mã Trung. Ngay cả vợ, Tư Mã Trung cũng không quản lý nổi, nói gì đến quản lý đất nước. Chẳng trách các quan trong triều không coi nhà vua ra gì!

 

3. KHÔNG BẢO VỆ ĐƯỢC VỢ CON, LẠI ĐÒI TỰ BẢO VỆ MÌNH. ĐÔNG NÓI CŨNG GẬT, TÂY NÓI CŨNG Ừ, LẦN ĐẦU THEO Ý RIÊNG THÌ RA LỆNH GIẾT NGƯỜI.

Trong xã hội phong kiến lấy đàn ông làm trung tâm, mỗi người đàn ông trưởng thành có vợ con đều có trách nhiệm kép là bảo vệ vợ và con cái. Đây là pháp luật không thành văn. Người nào không gánh nổi trách nhiệm kép này, thì không phải là người chồng tốt của vợ, người cha tốt của con. Từ điểm này mà xét, Tấn Huệ Đế Tư Mã Trung là một nhân vật điển hình về “ba không”: Với dân thì không phải vua tốt, lại không phải chồng tốt, cha tốt.

Nếu không phải kẻ đần độn, thì chẳng tự sát cho rảnh.

Trên đây đã nói, Tư Mã Trung có một con trai thông minh lanh lợi, tên là Mã Tư Duật. Lớn lên Tư Mã Duật mắc cùng căn bệnh của công tử đương thời: không chịu học, mà chỉ thích vui chơi cùng bọn tay chân và thị vệ. Đối với con cái hoàng tộc thì đây không phải khuyết điểm to tát gì. Chỉ cần người cha kịp thời răn bảo thì cũng không có gì đáng ngại. Nhưng Tư Mã Duật thì không may có một người cha là Tư Mã Trung, một mẫu hậu là Giả Nam Phong.

Do không có khả năng sinh đẻ, Giả Nam Phong căm ghét tất cả những phụ nữ trong cung có thai với Tư Mã Trung. Nghe nói mụ đã từng tự tay giết chết một cung nữ sắp đến ngày sinh nở. Với những phi tần thoát khỏi sự bức hại của Giả Nam Phong khi có thai, thì bản thân họ và con họ đẻ ra, hễ có dịp là Giả Nam Phong đưa vào đất chết.

Với Tư Mã Duật thông minh nổi tiếng thì Hoàng hậu Giả Nam Phong quyết không dung tha. Duật vì chuyện buôn bán vặt mà ăn đòn. Theo sử ghi chép. Tư Mã Duật rất thạo buôn bán, đặc biệt là bán thịt và rượu. Khi bán thịt, chỉ cần cầm lên thau và ước lượng được ngay mấy cân mấy lạng, không sai chút nào.

Nổi hứng buôn bán, Tư Mã Duât liền đem rau cỏ, gà vịt, bột mì ở Đông cung, bán cho dân lấy tiền.

Khi ấy Thái tử tẩy mã Giang Thống đã từng khuyên Tư Mã Duật 5 điều:

1) Tuy Duật trong người đôi lúc không được khoẻ, nhưng nên vào trong triều hầu hạ vua.

2) Nên thường xuyên triệu Thái phó để trau dồi đức hạnh.

3) Thời gian lưu lại hoạ thất nên càng ngắn càng tốt.

4) Bán hoa quả rau xanh trong vườn thì mất thể diện quốc gia, tiếng tăm không tốt.

5) Xây nhà cửa thì không cần hỏi ý kiến thầy bói.

Ta Mã Duật xem xong, cười khẩy không nghe.

Ít lâu sau, con trai Tư Mã Duật là Tư Mã Ban mắc bệnh khó chữa, chỉ còn đợi chết. Tư Mã Duật trong lòng đau xót, đề nghị Tư Mã Trung phong cho Ban một vương hiệu. Tư Mã Trung đồng ý, nhưng Giả Nam Phong không chịu. Tư Mã Duật không kìm nén được, buông lời oán trách Giả Nam  Phong.

 Mấy hôm sau, Giả Nam phong dụ được Tư Mã Duật vào cung, đỏ rượu cho say, rồi nhân đó lệnh cho Duật sao một bản tấu chương có tính chất phản nghịch. Giả Nam Phong đưa cho nhà vua xem và yêu cầu phế truất ngôi Thái tử của Tư mã Duật. Tuy giận đấy, nhưng hổ dữ không ăn thịt con, Tư Mã Trung nhất thời không nỡ, còn Giả Nam Phong thì nhất quyết phế truất, Tư Mã Trung thì cũng không còn cách nào khác. Thế là Tư Mã Duật bị phế làm dân thường. Ít lâu sau, Giả Nam Phong sai người giết chết Tư Mã Duật mà Tư Mã Trung không hề biết.

“Lưới trời lồng lộng, chạy đâu cho thoát”, sau khi giết chết Tư Mã Duật không lâu, Giả Nam phong lại rơi vào số phận như Tư Mã Duật. Triệu vương Tư Mã Luân bắt giam Giả Nam Phong, nói là để trả thù cho Thái tử. Tư Mã Trung là vua, là chồng mà đành giương mắt nhìn bề tôi bắt vợ mình giam vào bề tôi bắt vợ mình giam vào ngục rồi đánh thuốc độc chết. Sau này, Hoàng hậu mới là Dương Mẫu Dung thì bốn lần bị phế truất, nhà vua cũng giả điếc làm ngơ. Cái kiểu bỏ mặc người thân để cầu sự yên ổn cho bản thân, thì chỉ có thể tìm thấy trong số những người mà đặc trưng chủ yếu là mê muội.

Một nhà sử học khi bàn về Tư Mã trung có nói rằng, ông ta nhu nhược và mê muội suốt cả cuộc đời. Làm vua 17 năm, nhưng không một chính lệnh nào ban bố từ miệng ông ta.

Phán xét như vậy kể cũng hơi oan cho Tư Mã Trung. Tuy là kẻ bất tài một trăm phần trăm, nhưng không phải cả đời ông ta chưa ra một chính lệnh nào, tối thiểu ông ta cũng đã từng ra lệnh giết chết một người.

Chuyện xảy ra vào năm 301. Vị vương thứ 3 : Triệu vương Tư Mã Luân bị khép tội chết. Ngày 15 tháng 4 năm ấy, Hà Gian vương Tư Mã Dõng đem quân cần vương về kinh sư. Ai có công thì thưởng, ai có tội thì phạt. Sau nửa tháng, Tư Mã Dõng trình lên nhà vua một danh sách nhằm trừng phạt cái ác, biể dương cái thiện. Tư Mã Trung sai người triệu Tư Mã Dõng vào cung, hỏi:

Trong danh sách các nghịch thần, sao không thấy tên Tư Mã Uy?

- Tâu bệ hạ, tội Tư Mã Uy hình như chưa đáng chết

- Nhà ngươi nói gì thế?- Tư Mã Trung nổi giận- Hắn cùng phe với Tư Mã Luân bức Trẫm thoái vị, còn giành lấy ngọc tỉ từ tay Trẫm. Nhà ngươi bảo tội hắn có đáng chết hay không? Người khác thì tuỳ ngươi muốn xử lý thế nào thì xử lý, nhưng Tư Mã Uy dứt khoát phải chêt! – Nói xong, rũ tay áo bỏ đi.

Vì khi đó Tư Mã Trung đang là “vua” nên Tư Mã Dõng không thể không chấp hành mệnh lệnh, xử tử Nghĩa vương Tư Mã Uy.

Năm năm sau khi Tư Mã Uy chết (năm 306) ngày Canh Nọ tháng 11, Tư Mã Trung bị người ta giết chết bằng bánh tẩm thuốc độc, năm ấy nhà vua 48 tuổi.

 

ĐÔNG TẤN HIẾU VŨ ĐẾ TƯ MÃ DIỆU:

Vì một câu nói đùa mà bị ái phi trùm chăn chết ngạt.

*

Lời ca:

Mưa lất phất bay

Sầu trong heo may

Nắng chiều nhạt cỏ

Rằng ta đang say.

Những muốn nỗi điên vùi trong rượu, gõ chén mà hát rằng, vui gượng lòng buồn tênh. đai áo lỏng dần không hối hận, vì ai mà dung nhan tiều tuỵ? Người tinh ý có thể thấy, bài từ này do Liễu Vĩnh, người sáng tác Từ nổi tiếng đời Tống sáng tác, chỉ khác có mỗi chữ cuối cùng của bài. Vì sao sửa lại nguyên tác của Liễu Vĩnh? Tác giả không có ý khác, chỉ muốn “mượn rượu người xưa tưới đẫm nỗi chất chứa trong lòng”, kể với chư quân câu chuyện dưới đây:   

Nhân vật chính trong câu chuyện tuy không phải cùng thời Liễu Vĩnh, nhưng cuộc đời của nhân vật này chẳng khác câu từ mà Liễu Vĩnh đã viết, “ Những muốn nỗ điên vùi trong rượu, gõ chén mà hát rằng, vui gượng lòng buồn tênh”. Càng lạ lùng hơn, nhân vật này “đai áo lỏng dần không hối hận”,rốt cuộc “ vì y mà dung nhan tiều tuỵ”. Vì thấy người khác tiều tuỵ mà nói đùa một câu, thế là đang ở địa vị chí tôn của một Hoàng đế mà chết trong tay một người đàn bà trong cung đình, đáng gọi là chuyện xưa nay chưa hề có.

Nhân vật này họ kép: Tư Mã, tên đơn : chỉ một chữ Diệu, là con trai của Đông Tấn Văn đế Tư Mã Dực, ông vua thứ 9 triều Đông Tấn. Vị chúa tể tác giả câu chuyện kỳ lạ cổ kim có một này là con người như thế nào?

 

I. MẸ CAO KỀU VÀ ĐEN NHẺM, VỐN KHÔNG HY VỌNG CÓ MẶT Ở ĐỜI, CHA RẤT MONG CÓ CON TRIA NỖI DÕI, LỜI THÀY ĐỒNG ỨNG VÀO MỘT NGƯỜI.

Nói đến Đông Tấn Vũ Đế Tư Mã Diệu, rất nhiều sử gia cho rằng, ông là con người kỳ lạ xưa nay. Là vua, ông không những chết một cách kỳ lạ mà ông ra đời cũng rất kỳ lạ.

Theo lẽ thường, ông không nên có mặt ở đời này.

Vốn là, cha của Tư Mã Diệu là Tư Mã Dực và Lý thị, mẹ đẻ ra ông, không phải là một cặp xứng đôi vừa lứa.

Ta hãy nói đến Tư Mã Dực, Tư Mã Dực tự là Đào Vạn, con út của Tư Mã Ý, ông vua khai quốc triều Đông Tấn. Tư Mã Dực từng tham gia việc phế lập Khang Đế (Tư Mã Nhạc), Mục Đế (Tư Mã Nhiễm), Ai Đế (Tư Mã Thừa) và Phế Đế (Tư Mã Nhiễm). Có thể nói, từ năm 342 ông 22 tuổi trở đi, vì nhận cố mệnh của Thành Đế (Tư Mã Diễn) ông đích thân tham dự vào những quyết sách của giới lãnh đạo cao cấp Vương triều Đông Tấn. Ông sở dĩ 22 tuổi đã đứng trong hàng ngũ hạt nhân cao cấp, không phải do ông thực sự có bản lĩnh – giả dụ ông thực sự có bản lĩnh, thì Hoàn Ôn là người nghĩ đủ mọi cách hãm hiếp Thiên tử mà ra lệnh cho chư hầu cũng không chọn Tư Mã Dục làm “Hán Hiến Đế”. Tư Mã Dục rất hiểu điều này. Do đó, vào những năm cuối cuộc đời chính trị, ông khao khát sinh được một con trai như Tôn Trọng Mưu để con trai nối tiếp chí hướng của mình. Nhưng ai ngờ trong cuộc sống gia đình, ông lại gặp bất hạnh đến như vậy.

Trước khi mẹ đẻ Tư Mã Diệu là Lý thị được phong Hoàng hậu, Tư Mã Dực từng hai lần lập vợ chính. Trịnh thị, một trong hai người là “gà mái” không biết đẻ trứng, không để lại cho Tư Mã Dực một con nào. Người vợ tiếp theo là Vương thị thì đúng là một bụng con, đẻ liền một mạch ba con trai, nhưng hai chết yểu, đứa còn lại là Tư Mã Đạo thì sinh lòng phản nghịch, bị tước bỏ vương vị. Mẹ vì con mà rơi vào cảnh thấp hèn, Vương thị bị giam trong lãnh cung, buồn bực mà chết.

“Tấn thư, Hậu phi truyện”, chép: “Các cơ thiếp sau đó, trong mười năm không ai sinh được con nào”.

Có bệnh thì vái tứ phương. Tư Mã Thục vốn không tin lắm vào quỉ thần, nay bắt đầu mê tín. Một hôm, ông cho triệu thầy bói nổi tiếng ở đô thành tên là Hộ Khiêm, đề nghị bói một quẻ xem ông có con trai nối dõi hay không, nếu có thì tìm ở đâu?

Hộ Khiêm khấn vái một hồi, xóc xóc nắm cỏ thi trong tay, rồi nói: “Hậu phòng có một nữ có thể sinh hai quý nam, trong đó có một người làm cho nhà Tấn cường thịnh.

Vì sao Hộ Khiêm lại nói như vậy? Có người liên hệ với Hộ Khiêm chuyện Lý thị sinh liên tiếp hai con trai mà cho rằng Hộ Khiêm bói như thần. Người khác thì lại bảo đây chẳng qua là gặp may. Trong hai người ai đúng ai sai, ta chẳng cần phân tích kỹ làm gì. Người nói thì vô tâm, nhưng Tư Mã Dục thì lại có ý, hơn nữa lại thành tâm muốn có con nối dõi. Ông ta nghĩ thầm: “Phải chăng là nàng”.

Thì ra khi đó Tư Mã Dục đang sùng ái một mĩ nhân họ Từ, tên thời con gái là Chiêu Dung được phong Quí nhân, địa vị chỉ dưới Vương phi. Người đẹp này sinh được một con gái (tức công chúa Tân An sau này). Tư Mã Dục khi thấy cô đồng nói “một nữ”, liền nghĩ đến Từ Chiêu Dung. Nhưng ông trời trêu ngươi, nhà vua thường xuyên sủng hạnh mà Từ Quí nhân không sinh con trai. Lúc này có một đạo sĩ đến đô thành nước Tấn, người này họ Hứa tên Mại, các ông khanh trong triều anh cũng mê tài ăn nói của ông ta, Tư Mã Dực cũng không ngoại lệ. Một hôm, Tư Mã Dực đặc cách triệu Hứa Mại vào cung để hỏi về vấn đề người nối dõi. Hứa Mại khuyên Tư Mã Dực nên tăng cường sủng hạnh những người đẹp trong hậu cung. Kết quả là không biết bao nhiêu người đẹp đã hầu ngủ, nhưng Tư Mã Dực vẫn không có con trai nào. Tư Mã Dực khát khao người nối dõi đến nỗi bất chấp cả những điều kiêng kỵ, mời danh y về sản khoa vào phủ, triệu tất cả những mĩ nhân đã được Tư Mã Dực sủng hạnh đến để vị danh y này xem tướng từng người một. Xem hết số mĩ nhân mà người này cứ lắc đầu, lại  gọi bọn thân phận kém hơn là nô tì đến xem một lượt, người này vẫn lắc đầu. Cứ như vậy không biết bao nhiêu người, cuối cùng cho gọi bọn hèn kém nhất trong phủ là bọn thợ dệt. Vừa thấy một cô thợ chuyên làm việc nặng, “người dài ngoẵng mà đen nhẻm” mặt thô, mắt to, vị danh y sáng mắt lên, vỗ đùi kêu:

- Tâu Điện hạ, chính là người này!

- Sao? Người này hả? – Tư Mã Dực rất không bằng lòng, hỏi lại - Ông không lầm đấy chứ?

- Tiểu nhân theo thầy học nghề từ năm 12 tuổi, nay đã ngoài 60, hơn 40 năm quan sát không biết bao nhiêu người, chưa thấy ai được như Nương nương này. Nếu Điện  hạ tin lời tiểu nhân thì đất nước sau này có chủ, nếu không tin thì cho phép tiểu nhân cáo lui.

Thấy vị thần ý vốn được coi là “giỏi như Hoà Đà” tự ái, Tư Mã Dực bỗng mềm lòng, vẻ mặt trở lên tươi cười:

- Tiên sinh đừng giận, đừng giận. Nếu tiên sinh không lầm thì Cô gia thử xem sao.

- Đêm ấy Tư Mã Dực cho vời cô nô tì Côn Luân (tên gọi chung những người có nước da đen như người Mã Lai) vào hầu ngủ. Cô này họ Lý, “Tấn thư, Hậu phi truyện” viết về chuyện này như sau: “Sau đó mơ thấy hai con rồng nằm lên gối, ít lâu sau thụ thai”, rõ ràng đây là nói theo kiểu mê tín dị đoan, ta cũng chẳng cần xem xét làm gì. Có điều, người phụ nữ cao kều và đen nhẻm tên là Lý Lăng Dung ấy đã liên tiếp đẻ ra cho Tư Mã Dực hai con trai, là sự thật.

Các sử gia cho rằng, không có Lý Lăng Dung thì không có Hiến Vũ Đế triều Đông Tấn. Mà nếu không có chuyện những người đẹp trong phủ hơn mười năm không sinh được người con trai nào, thì ngôi Hoàng Thái hậu cũng không bao giờ rơi vào tay Lý Lăng Dung. Vậy thì thâu tóm chuyện này như thế nào? Chỉ có thể nói: kỳ lạ thật!

 

2. TRONG CƯỠNG NGOÀI ÉP, NGÔI VUA MẤY LẦN NGHIÊNG NGẢ RỒI LẠI ỔN. TRẬN PHÌ THUỶ, GẦN NHƯ ĐỨNG NGOÀI CUỘC ĐỂ NGHE TIN THẮNG TRẬN.

Trong 11 đời vua triều Đông Hán, Tư Mã Diệu ở ngôi lâu nhất, nhưng như vậy không có nghĩa là ổn định. Sau khi lên ngôi, ông đổi niên hiệu là “Ninh Khang” nhưng trên thực tế, vương quốc Tấn chưa khi nào yên ổn.

Trong suốt 24 năm làm vua, thiên tai địch hoạ liên tiếp xảy ra.

Tháng 11 năm 373, Tư Mã Diệu được Thái hậu Chử Toán Tử giúp rập, lo liệu xong xuôi đám tang của cha là Giản Văn Đế Tư Mã Dực, thì trong cung đình bỗng xảy ra một chuyện không to mà cũng không nhỏ.

Hôm ấy trời chưa sáng hẳn, hoàng cung của Tư Mã Diệu đối diện với phủ đệ của nhà vua bị phế truất Tư Mã Loan,  gần như cùng lúc đó hai toán người xông ra. Hai toán người này đều nhận lệnh của một tiểu lại Từ Châu tên là Lư Tủng và cùng làm một nhiệm vụ: phế bỏ (nếu có thể thì tốt nhất là giết đi) Tư Mã Diệu, rước Tư Mã Loan lên làm vua. Lư Tủng tuy chỉ là một tiểu lại, nhưng kế hoạch do hắn vạch ra lại rất táo gan và chu đáo. Những người trước hắn thường chỉ nghĩ đến phế truất vua cũ mà chưa có trù liệu về nghênh lập vua mới. Vậy mà Lư Tủng biết đưa ra một Hoàng đế tiền nhiệm để ép Thiên tử ra lệnh cho chư hầu. Về mặt thời gian, chọn lúc trời dạng sáng, lại đúng khi tang lễ vừa xong, văn võ bá quan đều mệt mỏi, vua mới thì miệng còn hơi sữa. Chọn thời điểm này để hành động, không cần chắc thắng trong tay thì cũng chắc bảy tám phần.

Có lẽ mưu sự tại nhân hành sự tại thiên, hoặc giả Tư Mã Diệu có số làm vua, Du Kích Tướng quân Mao An Chi cùng Trung Lĩnh tướng Hoàn Bí, tướng Ân Khang dẫn một số vệ binh đang làm nhiệm vụ trực nhật xông thẳng vào toán người sắp tràn vào hoàng cung (trong đó có Lư Tủng) giết và bắt sống không sót một mống. Toán thứ hai chạy vào cổng phủ của Tư Mã Loan, nhưng bị Tư Mã Loan cự tuyệt không cho vào, nên chạy tản mát mỗi người một ngả. Cuộc bạo loạn bị dẹp nhanh chóng mà Tư Mã Diệu không hề hay biết.

Sau chuyện này, một toán quần thần văn võ do Tạ An và Vương Thản Chi cầm đầu đã thực hiện những biện pháp tăng cường bảo vệ hoàng cung, thay linh canh gác cổng bằng những người lính trung thành với nhà vua. Bọn lòng lang dạ sói không bao giờ còn dám mơ tưởng xông vào hoàng cung nữa.

Nhưng lúc này một mối nguy càng lớn hơn đang treo trên đầu Tư Mã Diệu như bóng với hình. Mối nguy bắt đầu từ Hoàn Ôn đang thống lính quân đội ở bên ngoài. Hoàn Ôn là một loại người như tào tháo, Vương Mãng, rất nổi danh cuối đời Đông Tấn, từng đem quân lên bắc đánh Tần, Đánh bại quân Tần ở Lam Điền, tiến quân lên Bá Thượng, ba lần phò tá nhà vua. Về sau, uy tín của Hoàn Ôn càng lớn. Trước khi lâm chung, cha của Tư Mã Diệu là Tư Mã Dực một ngày liên tiếp đi bốn đạo “ kim bài”, đề nghị Hoàn Ôn voứi tư cách Đại Tư Mã đem quân về triều phò cgính, nhưng Hoàn Ôn không thèm đếm xỉa nửa lời. Không còn cách nào khác, Tư Mã đành phải viết một chiếu thư như sau : “ Đại Tư Mã (Hoàn Ôn) có thể nhiếp chính kiểu chu công phò tá thành vương, có thể giúp Thái tử thì giúp, không thể giúp thì đoạt lấy quyền bính mà thay thế.

May mà có bọn Vương Thản Chi, Tạ An và một số đại thần tìm mọi cách chống đỡ, khiến Hoàn Ôn không thực hiện được dã tâm cướp ngôi nhà Tấn.

Sau truyện này, Hoàn Ôn căm thù đến tận xương tuỷ bọn Tạ An, Vương Thản Chi và cũng bất mãn với Tư Mã Diệu.

Năm 372 Hoàn Ôn dẫn quân về triều, bầy trận ở Tân Đình “ định cướp ngôi nhà Tấn, kêu gọi đàm phán với Tạ An, Vương Thản Chi để nhân đó giết hai người”. Hoàn Ôn định giết Tạ An và Vương Thản Chi để chặt đứt vây cánh của Tư Mã Diệu, rồi cướp lấy ngôi báu. Tư Mã Diệu và Vương Thản Chi vô cùng lo sợ, vì lần này Hoàn Ôn định làm thật : Một người trung thành với Hoàng tộc mật báo rằng, Hoàn Ôn đã bố trí quân mai phục đằng sau chỗ tiếp Vương,Tạ. Không hiểu số phận còn mỉm cười với Tư Mã Diệu, hay là khí số của nhà Tấn chưa hết, mà trong không khí căng thăngr như vậy, Tạ An với tinh thần trượng nghĩa, trình bày điều hơn lẽ thiệt, khiến Hoàn Ôn thay đổi ý định. Kết quả, một lần nữa, tính mạng của Tư Mã Diệu lại được bảo vệ, vương triều Đông Tấn một lần nữa thoát khỏi khủng hoảng.

Sau khi Hoàn Ôn chết, con thuyền cũ nát Đông Tấn dưới sự chèo chống không có gì làm giỏi giang của Tư Mã Diệu, lênh đêng được một số năm.

Năm 383, tức năm thứ 8 niên hiệu Thái Nguyên triều Đông Tấn, Tiền Tần ở phương bắc dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh kiệt xuất là Phù Kiên, đem quân đánh xuống phía nam, quân đông 90 vạn, tố lên 100 vạn, định nuốt chửng Đông Tấn. Nói ra kể cũng lạ, năm ấy Tư Mã Diệu 22 tuổi gần như đứng ngoài cuộc trong trận chiến chinh phục và chống chinh phục, thôn tính và chống thôn tính này.

Theo sử liệu ghi chép về trận phì thuỷ, người ta thấy phù kiên khí thế ném roi ngựa lấp sông lừng lẫy một thời ; đọc thấy “sau khi bình định đông nam, Tượng thư Bộc xạ Tư Mã Xương”lừo lẽ hào hùng ; đọc thấy phong độ ung dung và tao nhã của thừa tướng kiêm danh tướng Tạ An “chỉ huy tướng soái người nào việc ấy, thậm chí còn đọc thấy Tạ An sau khi phá địch, Tạ An” vui đến nỗi gota giầu rơi mà cũng không biết”, nhưng tuyệt nhiên không hề nói đến vua Đông Tấn Tư Mã Diệu. Khi đó ông vua này làm gì? vậy chẳng là truyện kỳ quặc hay sao ?

Nghe nói khi Giản VĂn Đế còn đang tại vị, một nhà tiên tri thần bí đã nói một câu sấm như sau: “ Tấn tộ tân Xương Minh” ( ngôi nhà Tấn kết thúc bởi Xương Minh). Khi đó, không ai hiể câu sấm này sẽ rơi vào ai?

NĂm 362, mẹ của Tư Mã Diệu là Lý LĂng Dung mang thai 10 tháng, sắp lâm bồn, “ mơ thấy thần nhân bảo rằng: Nhà ngươi đẻ con trai, tên tự Xương Minh”. Đêm ấy, Lý Lăng Dung cao kều và đen nhẻm vì khó sinh nên đau đến chết đi sống lại. Vì khát khao có con nối dõi, Tư Mã Dực sai người đi tìm bà đỡ đến, phải mất bao công sức mới giúp được Lý Lăng Dung sinh được một con trai. Khi đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời thì bên ngoài Vương phủ, phương đông hừng sáng.

Bà mụ bế đứa bé đầu beo mắt cọp đến bên giường Lý quý nhân khi ấy mặt mày xanh nhợt vì mất quá nhiều máu, khẽ nói:

Xin chúc mừng nương nương !

Đang sốt ruột vì không biết mình có sinh cho Cối Kê vương một con trai nối dõi hay không, Lý Lăng Dung hỏi một câu yếu ớt: Cho ta biết mau, con trai hay con gái ?

Bà mụ chưa kịp trả lời thì một cung nữ đứng túc trực bên cạnh cướp lời: Bẩm Quý nhân, bà sinh một tiểu vương.

Không đánh lừa ta đấy chứ? Lý Lăng Dung nửa tin nửa ngờ lại hỏi lại :” Sao lại có chuyện như vậy?” Bà mụ tuổi 60 trả lời: - Nương nương chuyện to tát như vậy, ai dám nói đùa nương nương.

Ngừng một lát bà ta đề nghị: - Nương nương đặt tên cho tiểu vương đi! Thằng nhỏ này hành hạ ta suốt cả đêm.

Lý Lăng Dung tuy vô cùng mệt mỏi nhưng loé lên niềm hạnh phúc- Đặt tên là gì nhỉ? Hay đợi Vương gia tới hãy bàn.

Đại vương có ý của đại vương, Nương nương có ý của Nương nương chứ! Mẹ thì phải đặt tên cho con, ít nhaats cũng đặt tên cúng cơm – Bà mụ nửa đùa nửa thật nói.

Nếu nhất thiết phải là ta đặt tên- Lý LĂng Dung vừa thở vừa nói – Vậy thì đặt tên cho nó là Xương Minh. Khi sinh, chẳng phải trời vừa rạng sáng đấy sao?

Vậy là đứa trẻ có nhũ danh là “Xương Minh”, sau này có quan danh Tư Mã Diệu. Tư Mã Dực khát khao con trai nối dõi, có ngờ đâu “ Xương Minh” này chính là “ Xương Minh” trong sấm truyền, vì vậy không để ý. Tuy yêu thương Tư Mã Diệu rất mực, nhưng cho đến khi lâm chung, trong tình hình không còn cách nào khác, mới lập dio chiếu lập Tư Mã Xương Minh là Thái tử.

Quả thật Tư Mã Diệu cung không làm được gì vẻ vang cho cha mẹ. Theo sử sách ghi chép, “ từ sau khi Tạ An chết, nhà vua chìm đắm trong tửu sắc, giao quyền hành cho Lang Nha vương Đạo Tử”. Đạo Tử cũng thích rượu hàng ngày “uống đến say mèm cùng nhà vua”, suốt ngày “ suốt ngày trong rượu, còn biết đến việc nước làm gì ?”

Nghe nói từ khi Đỗ Khang chế ra rượu, rượu chiếm một nửa công việc và tội, không có sai lầm, khuyết điểm nào mà không do rợu gây ra. Vào thời Nguỵ Tấn của Tư Ma xDiệu, rượu là một trong những đăc trưng văn hoá cùng với thuốc và phong độ con người. Tào Mạnh Đức anh hùng là thế, mà khi nam chin Đông Ngô, giữa lúc binh mã rrắng tay, còn “ Cất chén mà hát rằng, nhưng đời người mấy nội”. Những văn nhân như  Nguyễn Tịch, Lưu Linh v.vv...uống rượu như hũ chìm. Nguyễn Tịch còn có một biệt hiệu nữa là “ Nguyễn bộ binh”, cái tên còn có biệt hiệu là “Nguyễn bộ binh”, cái tên còn được người ta biết hơn tên thật, trong đó câuchuyện về rượu. Vốn là, một bộ binh là Hiệu uý bộ binh (chức qua). Là một văn nhân, vì sao Nguyễn Tịch lại đi làm quan võ mà lại là một chức quan nhỏ? Lí do không đơn giản hơn : Nha môn bộ binh tồn mấy trăm gánh rượu ngon, làm quan chủ quản nha môn này, tất nhiên được dùng số rượu trên. Con người đã từng viết bài “ Tửu đức tụng” ( ca ngợi chuyện uống rượu) như Lưu Linh, không những tinh thông triết lý về rượu, mà tửu lượng cũng kinh người :” Đỗ Khang nấu rượu, Lưu Linh uống, say suốt ba năm mới lấy tiền”

Nếu là người thường thì Tư Mã Diệu dù có quá chén thì cũng có thể thông cảm, hoặc giả như Tào Mạnh Đức tuy có thích rượu, đôi khi quá chén cũng không coi là tội lỗi. Điều kì lạ là, Tư Mã Diệu không uống thì thôi, đã uống thì uống thâu đêm suốt sáng, hơn nữa, liên tục trong nhiều tháng liền. Về cuối giai đoạn chấp chính, ngoài rượu ra, Tư Mã Diệu còn gần gũi đám tăng lữ tàn hại bách tính. Tục ngữ có câu :” Nhà dột từ nóc dột xuống”, do khuyết điểm của Tư Mã Diệu gây nên, vương triều Tấn nhân tâm không theo nếp cũ, phong hoá ngày càng suy đồi. Người đương thời là Nguỵ Thâu chép chuyện này trong “ Nguỵ thư. Tư Mã ý truyện”: Một bận, con trai Tả Bộc Xạ Vương Tuần làm lễ kết hôn, người đến chúc mừng chật đường, chỉ riêng xe cộ đã mấy trăm cỗ. Khi đang lũ lượt kéo đến cổng nhà Vương Tuần, bỗng nhiên một truyền hai, hai truyền ba, mấy trăm cỗ xe sang trọng có đến quá nửa quay đằng sau, đổi hậu đội thành tiền đội. Người ta hỏi nhau có chuyện gì xay ra? Thì ra, người được vua sủng ái nhất là Vương Nhã vừa được thăng quan, giữ chức Thái tử Thái phó. Những con người thường ngày vẫn được coi là tao nhã không chịu bỏ qua cơ hội cầu thân với Vương Nhã, và qua Nhã, cầu thân với vua, vậy nên tranh nhau bỏ Vương này đi đến Vương kia.

Một buổi sáng thứ hai năm 396, người phụ trách quan sát thiên tượng ở Ty Thiên giám xin được yết kiến gấp Hiếu Vũ đế Tư Mã Diệu. Nhà vua sáu một trận say vẫn chưa tỉnh hẳn, hỏi viên quan:

Sáng sớm mà đã vào cung, có chuyện quân quốc đại sự muốn bẩm báo với Trẫm chăng?

Tâu bệ hạ, chuyện không hay rồi. Tiểu thần đêm qua xem thiên văn, thấy đuôi sao chổi quệt vào Khốc tinh, e rằng có chuyện bất lợi cho nước ta.

Dào, sao chổi thấy ở chân trời thì có chuyện gì ghê gớm?- Tư Mã Diệu giạng coi thường.

Chuyện quan trọng đấy ạ!- Ty Thiên Giám là nơi rất mực thước, viên quan nói một cách nghiêm chỉnh:

Người ta có câu, “ Sao chổi xuất hiện, binh đao triền miên, sao Chổi nhập sao Khốc, quân vương thành cô độc”.

Dào, thế thì đã sao? Trẫm tưởng có việc gì to tát kia?”- Tư Mã Diệu tỏ ra bất cần, nói – chẳng qua là quân vương không trường thọ chứ gì?- nói đến đây nhà vúa loạng choạng đứng lên, cất giọng lè nhè bảo tả hữu - Đem rượu ra đây!

Viên quan Ty Thiên Giám quan sát ngôn hành của nhà vua, cho rằng Tư Mã Diệu vẫn còn say, bất giác lắc đầu, định rút lui thì bị Tư Mã Diệu vẫy lại:

-Lại đây, lại đây mà xem bản lĩnh của Trẫm- Nói xong, nhà vua tiếp lấy chén rượu từ tay tả hữu, tiến ra gữa sân, ngửa mặt lên trời, nói to:

Sao chổi, sao chổi! Mời sao một chén rượu. Sao đến thì ta đi, xưa nay thiên tử có bao giờ sống mãi!

Viên quan Ty Thiên Giám và bọn tả hữu đứng ngây như phỗng. Thiên tượng đã cảnh báo, không thể coi thường.

Từ đó trở đi, tửu lượng của Tư Mã Diệu ngày một tăng, còn đạo đức thì ngày càng xuống cấp.

Tháng 9 năm ấy trời nóng nực. Ngày Canh Ngọ, Tư Mã Diệu lại giá lâm điện Thanh Thử, như thường lệ sủng ái phi Trương Quý nhân. Trước khi đi ngủ cón uống một trận khoái khẩu. Trương Quý nhân được coi là tiên tửu trong cung, cũng đã say đến bẩy tám phần mà Tư Mã Diệu vẫn ép uống. Chịu không nổi, Trương Quý nhân quỳ xuống xin vua tha cho, nhưng Tư Mã Diệu bỗng nổi giận, nghiêm mặt nói:

-Tửu lệnh như quân lệnh, huống hồ lại là lệnh của Trẫm. Nhà ngươi dám chống lệnh Trẫm thì hãy coi chừng, Trẫm bắt tội đấy!

Vốn được chiều chuộng nên Trương Quý nhân làm nũng:

-Thiếp không uống nữa, xem Bệ hạ kết tội gì?

Tư Mã Diệu say đến nỗi mắt mờ đi, cảm thấy Trương Quý nhân vốn được coi là tiên nữ trong cung bỗng trở nên xấu xí lạ thường, đầu tóc không cõnanh mượt, khoé mắt đã mấy nếp nhăn. Vậy là nhà vua cười nhạt nói:

-Để Trẫm xem nhà ngươi còn già mồm được mấy nỗi! Bảo cho nhà ngươi hay, đừng nghĩ mình trẻ trung xinh đẹp. Thực ra nhà ngươi đã ngoài ba mươi, trong cung thiếu gì người trẻ trung xinh đẹp hơn nhà ngươi. Nếu ngươi không vâng lệnh, ta sẽ cho ngươi vào lãnh cung! Nõi xong, nhà vua ngủ thiếp đi.

Trương Quí nhân tức điên lên. Từ khi đắc sủng, Quí nhân đã bảo một thì không thể hai. Nhà vua chưa khi nào giận nàng dữ dội đến như vậy. “Có lẽ mình già rồi chăng?” Nàng tự hỏi, bất giác sợ toát mồ hôi: “Hỏng rồi, lão hôn quân đã nói là làm, chư chừng sẽ giam mình vào lãnh cung. Bọn tạp nhạp trong cung đứa nào cũng đáo để, ta thà chết cũng không để chúng hả hê!” Rượu vào thì nghĩ sằng bậy loé lên. Sau khi rửa mặt thay áo, Trương Quí nhân cho gọi cung nữ thân tín tên là Thái Vân đến, ra lệnh giết chết Tư Mã Diệu. Vừa nghe nói phải giết nhà vua, Thái Vân sợ bạt vía, quỳ sụp xuống van lạy. Trương Quí nhân thấy vậy nổi cơn tam hoành, quát:

- Chỉ có hai con đường, một là nhà ngươi giết vua, hai là ta giết nhà ngươi. Nhà ngươi chọn con đường nào?

Thấy Thái Vân đã có vẻ chịu, Trương Quí nhân bèn vừa đấm vừa xoa, dỗ dành:

- Đừng sợ, chỉ cần nhà ngươi chùm chăn cho đến ngạt thở, mọi việc đã có ta lo liệu.

Thái Vân vốn có sức khoẻ, thấy chủ nói vậy, sau khi cân nhắc liền bèn đến phòng ngủ của Tư Mã Diệu, trùm chăn làm Tư Mã Diệu ngạt thở.

Năm ấy, Tư Mã Diệu 35 tuổi.

 

HÁN HẬU CHỦ LƯU THIỆN:

bất tài hay anh tài giấu mặt?

*

Lời ca: 

Đường công danh như xe xuống dốc, nguy hiểm khôn lường.

Hôm qua còn ở chốn Ngọc Đường, hôm nay đã mang hoạ.

Chi bằng ta lánh xa

Ẩn một nơi nhàn hạ!

Tháng 4 năm 233 sau trận Di Lăng không lâu, Chiêu Liệt Đế Lưu Bị của Tây Thục vì bị nguyên soái Đông Ngô Lục Tốn dùng hoả công đốt sạch trại liên hoàn dài 700 dặm, uất lên mà bị bệnh. Biết mình không qua khỏi, Lưu Bị cho triệu Thừa tướng Gia Cát Lượng, Thượng Thư Lệnh Lý Nghiêm đến nơi trú quân của Lưu Bị là thành Bạch Đế (nay là phía đông huyện Phụng Tiết, Tứ Xuyên) để dặn dò công việc sau này. Vua tôi sau một hồi hàn huyên, Lưu Bị vốn quen tấn công, cầm tay Gia Cát Lượng, bảo: "Tài của ông gấp mười Tào Phi, chắc chắn có thể bảo vệ đất nước hoàn thành việc lớn. Nếu có thể giúp con ta thì giúp, nếu nó bất tài thì ông giàng lấy ngôi vua".

Gia Cát Lượng nghe vậy thì kinh hoàng, Lưu Bị lại kéo tay con trai mà nói rằng: "Sau khi cha mất, con phải thờ Thừa tướng như thờ ta".

Lời  của Lưu Huyền Đức đã vẽ ra một sự thật: Từ đó về sau, Gia Cát Lượng và ông vua con nối nghiệp hành động theo một nghịch lý: Một người với thân phận đại thần làm công việc của nhà vua, còn người là vua ở ngôi chí tôn, nhưng núp dưới cái bóng khổng lồ của người khác. Sự nếm trải như thế nào thì người ngoài không thể biết.  

Ông vua con của dòng họ Lưu núp dưới bóng của người khác ấy, sau này trở thành một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Nổi tiếng không phải vì tài năng, mà bởi vì ông ta "vô năng" (bất tài). Theo lối nói thông thường, ông vua họ Lưu tên Thiện này là một con người kém cỏi. Có rất nhiều huyền thoại có tính chất nhục mạ về ông ta, đến nỗi say này, cái tên "A Đẩu" trở thành một từ tượng trưng cho sự ngu si bất tài. Vậy rốt cuộc Lưu Thiện là con người như thế nào?

 

1. THÂN PHẬN LÊNH ĐÊNH, LÚC LOẠN LI, MỚI VÀI TUỔI ĐÃ BỊ MUA BÁN LẠI

Về con người Lưu Thiện với những gì mà ông ta đã nếm trải kể cũng thú vị. Tuy thời gian ở ngôi vua khá dài (41 năm) nhưng chính sử cũng như dã sử không hề chép một thành tựu nào về chính sự của ông, nhưng giai đoạn trước khi lên ngôi và sau khi mất ngôi thì rất đáng để kể lại.

Với những sự kiện còn lưu giữ, cả thời kỳ rất dài trước khi lên ngôi đều là những trang giấy trắng.

Trần Thọ, người lập "truyện cho Lưu Thiện, trong "Tam quốc chí", khi giới thiệu về vị Hậu chủ này cũng né tránh sự thật, ông viết: "Hậu chủ huý là Thiện, tự Công Tự, con trai của tiên chủ. Năm Kiến An thứ 24, tiên chủ lập Thái tử", còn trước năm Kiến An thì hành trạng của Lưu Thiện không rõ ràng. Các sách sử khác, bao gồm cả "Tư trị thông giám" của Tư Mã Quang đều mắc khuyết điểm này.

Chính vì  phần sử liệu không nói gì, nên dã sử thừa cơ xâm nhập, kể lại rất nhiều chuyện;

Trước trận Xích Bích mấy tháng, trong trận Đương Dương Trường Bản, vì không có căn cứ địa vững chắc, lại thêm binh ít tướng mọn, hốt hoảng "bỏ cả vợ con, cùng mấy chục người trong đó có Gia Cát Lượng, Trương Phi, Triệu Vân lên ngựa bỏ chạy". Trong đám "đại quân trăm vạn" của Tào Tháo, Lưu Thiện cùng mẹ đẻ làm Cam phu nhân chẳng khác chiếc thuyền nhỏ giữa đại dương bão táp, suýt nữa bị tai hoạ tày trời, may được đại tướng của  Lưu Bị là Trường Sơn Triệu Tử Long xông xáo nhiều phen, cứu thoát trong đám loạn quân, đứa trẻ vô tội này mới còn sống...

Đây là một đoạn trích trong thủ bút của La Quán Trung đời Minh. Đoạn này có trong "Tam quốc chí". Triệu Vân truyện", chỉ vẻn vẹn có mấy chục chữ: "Khi tiên chủ bị Tào công đuổi gấp, bỏ vợ con lại ở Đương Dương Trường Bản mà chạy về phía nam, Triệu Vân tay ôm ấu chúa, tức Hậu chủ, bảo vệ Cam phu nhân, tức mẹ đẻ Hậu chủ", chuyện chỉ có vậy, nhưng qua sáng tạo nghệ thuật của những người như La Quán Trung, trở thành chuyện như mọi người đều biết. Nhiều người bắt đầu từ chỗ này để tìm hiểu về A Đẩu lưu thiện và đi đến kết luận "ngu si hưởng thái bình'.

Ngoài ra, còn một đoạn ghi chép của Bùi Công Cho người Nam Bắc triều chú dẫn "Tam quốc chí", đoạn liên quan đến nỗi  cơ cực của Lưu Thiện thời thơ ấu, thì ít người biết tới, như vậy chí ít là không công bằng.

Theo sử liệu ghi chép, thời thơ ấu của Lưu Thiện rất khổ.

Đó là khi đại bại ở Tiểu Bái, Lưu Bị bị Tào Tháo và Lã Bố giáp công, hốt hoảng bỏ nhà mà chạy. Khi ấy, Lưu Thiện mới "vài tuổi", "lưu lạc về phía tây đến Hán Trung, bị bán cho người ta".

Đến năm Kiến An thứ 16 (212 sau công nguyên) Quan Trung đại loạn, Lưu Quát người Phù Phong chạy loạn đến Hán Trung, vì là phú hào, nên tuy là tị nạn, nhưng vẫn có nô tì hầu hạ. Có người giới thiệu với Lưu Quát rằng có một đứa trẻ rất biết khu xử. Lưu Quát bèn mua Lưu Thiện về làm thư đồng. Một bận, nhân lúc nhàn rỗi, Lưu Quát qua chuyện phiếm, nhận thấy lời lẽ Lưu Thiện không phải bọn phàm phu tục tử "biết là con nhà tử tế, liền nhận làm con nuôi", còn cưới vợ cho, sinh một con trai.

Năm 214, Lưu Bị đoạt được Ích Châu từ tay Lưu Chương, sai bộ hạ là Giản Tướng quân vào Quan Trung tìm A Đầu. Lưu Thiện  ở nhà Lưu Quát biết được tin này, liền cất lẻn đến dịch xá bái kiến Giản Tướng quân. Hai người hàn huyên, Lưu Thiện trả lời rành rẽ rất nhiều vấn đề do Giản Tướng quân đặt ra. Giản từng là một nội thị của Lưu Bị, cuối cùng đi đến nhật xét rằng, chàng thanh niên lưu lạc tài ba này chính là A Đầu mà năm xưa mình đã bồng bế. Trương Lỗ hồi ấy là Đô Đốc Hán Trung  muốn câu kết với Lưu Bị, bèn "sai tắm rửa cho Thiện rồi đưa đến Ích Châu, lập làm Thái tử".

Trên đây là sự thực lịch sử mà Bùi Tùng chú dẫn trong "Nguỵ lược" (Tam quốc chí).

Từ đoạn sử liệu ít người biết tới trên đây, ta được biết Lưu Thiện thời thơ ấu rất gian truân cay đắng. Cái gọi là "ngu si hưởng thái bình" chẳng qua là người đời sau suy diễn mà gán cho Thiện.

 

2. Ở NGÔI MẤY CHỤC NĂM, TUY Ở CHỐN THÂM CUNG, NHƯNG NHIỀU NGUY HIỂM VÀ NẮM NỖI BUỒN.

Rất nhiều người cho rằng Lưu Thiện có phúc. Từ khi nên ngôi xưng Đế, trong một thời gian dài có Gia Cát Lượng, Tưởng Uyển, Phí Vĩ, Khương Duy v.v... lần lượt thay Thiện điều hành việc nước, Thiện không cần bận tâm, hơn nữa còn được "Tư Trị thông giám" 246 sau công nguyên, chép "Thục Hán đế quốc Hoàng đế Lưu Thiện, tìm nguồn vui trong thanh sắc, chó ngựa". Những người cho rằng Lưu Thiện có phúc là căn cứ vào những chứng cứ trên, chứng minh cuộc đời làm vua của Lưu Thiện rất đỗi dễ chịu.

Nhưng họ đâu biết nỗi cay đắng của Lưu Thiện : Lời cô thác của cha già lúc lâm chung " giúp được thì giúp, không đáng giúp thì đoạt lấy ngôi", là một đòn giáng vào lòng tự trọng- nếu như có lòng tự trọng- của Lưu Thiện. Trong thời gian mười một năm (Từ 223 đến 234 sau công nguyên), có thể nói Lưu Thiện sống dưới cái bóng  khổng lồ của Gia Cát Lượng. Tuy xuất phát từ lòng trung thành mà Gia Cát Lượng không hề có ý thoán đoạt, nhưng có thể nói rằng từ đầu đến cuối, Gia Cát Lượng coi Lưu Thiện như trẻ con. Trong "Xuất sư biểu" lừng danh thiên cổ, Gia Cát Lượng cáo giới ông vua gần 30 tuổi Lưu Thiện: "không được coi thường mọi việc mà dẫn đến thất nghĩa", cái giạng điệu ấy mỗi người hiểu một khác, Lưu Thiện chưa già mà cũng không còn là trẻ con nữa, tất nhiên là rất khó chịu, nếu không thì tại sao sau khi Gia Cát Lượng chết, có người đề nghị lập miếu thờ, Lưu Thiện chần chừ mãi, không chịu phê chuẩn.

Tưởng Uyển, Phí Vĩ, Khương Duy tuy chưa là cái bóng lớn trùm lên đầu Lưu Thiện, nhưng cũng đã gâu ra nhiều phiền phức không ngờ cho Lưu Thiện : Mùa đông năm 250, đương kim Vệ Tướng quân nhf Thục Hán Khương Duy, một lần nữa cất quân tiến đánh Tây Bình thuộc Nguỵ, không hạ được thành nhưng bắt sống được Vệ Chỉ huy quan (Trung Lang tướng) của đối phương là Quách Tuần. Do sự giới thiệu tích cực của Khương Duy, Quách Tuần được phong Tả tướng quân của nước Thục.

Sau đó ba năm, ngày mồng 1 tháng giêng năm 253, Đại tướng quân Phí Vĩ, thống soái tối cao đế quốc Thục Hán tổ chức gặp mặt tại Hán Thọ, chúc mừng năm mới. Do cao hứng, uống thêm mấy chén bị say, Phí Vĩ bị Quách Tuần vốn được coi là tâm phúc, thừa cơ đâm chết.

Tin này lan đi, cả nước xôn xao. Thái thú Việt Tây của nước Thục là Trương Nghi càng tức giận. Số là cách đó không lâu, ông từng gửi thư cho Phí Vĩ nói rằng :"ngày trước, Sầm Bành trong tay có quân mạnh, lại giữ phù tiết của nhà vua, vậy mà bị chết dưới tay thích khách. Tướng công ở địa vị tôn quí, quyền lực thì lớn, lại tin dùng quá đáng kẻ mới quy hàng (chỉ Quách Tuần). Nên lấy chuyện người xưa làm gương mà cẩn thận một chút mới được !" Phí Vĩ không nghe, cuối cùng bị hại.

Bọn vệ sĩ của Lưu Thiện và bản thân Lưu Thiện còn sợ hơn Trương Nghi. Một tiểu hoàng môn nội thị nhớ lại : Từ khi nhận chức Tả tướng quân, Quách Tuần mỗi khi có hoạt động khánh tiết đều mượn cớ chúc rượu, vừa quỳ vừa nhích dần lên, lúc đó nghĩ rằng đó chẳng qua là hắn quá cảm động, giờ nghĩ lại, có thể khẳng định rằng hắn định hành thích Hậu chủ. May mà khi đó các võ sĩ đứng bên Lưu Thiện đều là những người tuyệt đối trung thành được tuyển từ thời Lưu Bị, do đó mới bảo toàn được tính mệnh của Hậu chủ. Lưu Thiện càng nghĩ càng thấy sợ.

 

3. Ở ĐÂY VUI LẮM KHÔNG NHỚ THỤC, NƯỚC MẤT, THÂN BỊ CẦM TÙ, BỊ ĐƯA LÊN PHÍA BẮC SỐNG KIẾP THỪA.

Tháng 5 năm 263, đại quân Tào Nguỵ tấn công Thục. Chinh tây tướng quân Đặng Ngải của nước Nguỵ dẫn ba vạn quân từ Đich Đạo tấn công Cam Tùng, chặn đường về của Khương Duy. Chung Hội dẫn hơn 10 vạn quân theo đường Tà Cốc, Lạc Cốc, Tí Ngọ Cốc, tấn công Hán Trung. Được tin Nguỵ tấn công, Thục cử Liêu Hoá, Trương Dực, Đổng Quyết rút quân về bảo vệ hai thành Hán, Lạc. Khương Duy dẫn quân lui về giữ Kiếm Các.

Tháng 10 năm ấy, Đặng Ngải từ Âm Bình hành quân hơn 700 dăm vượt qua vùng không có người ở, cướp đường Giang Du, liền đó chiếm Bồi huyện, Miên Trúc, áp sát Thành Đô.

Đich ạnh đang ở trước mặt. Lưu Thiện vội triệu tập quần thần bàn cách đối phó. Có người đề nghị dời quốc đô về phía nam, có người chủ trương quy phục Đông Ngô, bắt chước Thân Bao khóc giữa triều đình nhà Tần, hoặc Vũ Hương Hầu vượt sông xin quân cứu viện. Quang lộc đại phu Tiêu Chu cực lực bác bỏ lời bàn của các quan, chủ trương hàng Nguỵ.

Qua một hồi đắn đo cân nhắc, Lưu Thiện chấp nhận đề nghị hàng Nguỵ. Ông ta nghĩ rằng, dời đô về phía nam thì càng “vào sâu vùng bất mao”, không tránh khỏi vận xấu, còn  Đông Ngô thì không phải là đối thủ của Tào Nguỵ, sau này khó tránh khỏi hoạ diệt vong. Đau lâu chẳng bằng đau nhanh, hai lần nhục, chẳng thà một lần cho xong.

Vậy là Lưu Thiện cử Thị trung Chương Chiêu đến gặp Đặng Ngải dâng biểu xin hàng, biểu viết rằng:

“Giới hạn bởi Giang Hán, chiều sâu bao la, đất đai Thục như bậc thang, riêng một cõi như hình cái đấu. Vì mạo phạm, qua bao năm tháng, thế rồi xa rời kinh thành vạn dặm. Nay Văn Hoàng Đế (chỉ Tào Phi) sai Hổ Nha tướng quân đến nơi xuống chiếu ôn sát, ban cho cái ơn tan hiếu, mở mang cơ nghiệp là lẽ tự nhiên. Bĩ đức mỏng manh, trộm tham di chúc, ngẩng đầu mấy bận mà chưa được chỉ giáo của đức chí tôn. Oai trời chấn động, người mà quỷ thần đều nể phục, sợ hãi vương sư, đâu dám không tuân mệnh. Nay  quân tướng đóng yên mọtt chỗ, trở thành giải giáp, phủ quan giữ nghiêm, không huỷ chút gì. Trăm họ đông đúc, lương thảo ở Tây mẫu, đang đợi ân huệ của bề trên. Cúi lạy Đại Nguỵ ra ơn đức, được noi cái nghiệp của Y, Chu. Xin cử Thị trung Chương Chiêu, Quang Lộc đại phu Tiêu Chu, Phò mã Đô uý Đặng Lương đem theo ấn tín để đợi lệnh”.

Do Lưu Thiện “thức thời”nên được kẻ thù ưu đãi đặc biệt, có thể là để vỗ về dân chúng, vì vậy, ngay tại hiện trường khi tiếp nhận sự đầu hàng của Lưu Thiện, Đặng Ngải với tư cách là “thừa chế” đại diện cho vương triều Nguỵ, tuyên bố bổ nhiệm Lưu Thiện làm Phiêu Kỵ tướng quân.

NĂm 264, Lưu Thiện bị chuyển lên Lạc Dương phía bắc.

Sau khi đến Lạc Dương, Lưu Thiện phát hiện sự tình có chút tế nhị : Đế quốc Tào Nguỵ phong Thiện làm An Lạc Công, nhưng nhân vật có thực quyền nhất trong vương triều Nguỵ là Tư Mã Chiêu vừa được phong Tấn vương thì có ý nghi ngờ Lưu Thiện, tuy bề ngoài ra vẻ tin. Do vậy, vị Hậu chủ nhà Thục Hán vẫn bị người ta gọi là A Đẩu này quyết tâm lợi dụng ý nghĩa của cái từ “A Đẩu” để tự bảo vệ mình.

Ít hôm sau, Tư Mã Chiêu mở tiệc chiêu đãi Lưu Thiện. Trong bữa tiệc có gọi một số ca kỹ chơi những điệu hát nước Thục, và theo sự bố trí của Tư Mã Chiêu, một số người giả vờ đối cảnh sinh tình, lặng lẽ khóc. Lưu Thiện ngồi bên cạnh Tư Mã Chiêu vốn cũng nao nao trong dạ, nhưng thấy sắc diện của Tư Mã Chiêu khó hiểu thì cảnh giác, làm ra vẻ tươi cười hớn hở như không hề suy nghĩ gì. Tư Mã Chiêu vốn vẫn coi Lưu Thiện là “A Đẩu” thấy vậy yên tâm, nói nhỏ với tả hữu :”người đâu mà vô tình, dù Gia Cát Lượng có sống lại cũng không giúp được hắn, nói già Khương Duy”.

Giả Xung vốn được coi là “khách thanh lịch” bèn trêu Tư Mã Chiêu :” Nếu khống thế, làm sao tướng công bắt được hắn”.

Sau buổi tiệc, Tư Mã Chiêu trêu Lưu Thiện hỏi :” Có nhớ Thục không?”

Lưu Thiện giật mình, vội đáp:” Ở đây vui lắm, không nhớ Thục”.

Câu trả lời đánh lừa được Tư Mã Chiêu, cũng qua mặt được cựu thần nước Thục là Hề Chính. Tan tiệc, Hề Chính bảo Lưu Thiện:” Lời của Chúa công vừa rồi có chỗ chưa ổn. Nếu Tư Mã Chiêu còn hỏi như vậy, Chúa công nên tỏ ra buồn rầu chảy nước mắt mà nói rằng, phần mộ tổ tiên đều ở đất Thục, tôi không nhớ sao được?” Suy nghĩ một lúc, Lưu Thiện gật đầu.

Sau đó mấy hôm, Tư Mã Chiêu vẫn còn nghi hoặc, Tư Mã Chiêu lại hỏi Lưu Thiện có nhớ nước cũ không? Theo lời mách của Hề Chính, Lưu Thiện bê nguyên si câu nói trên, cố làm ra vẻ đau xót, có điều rặn mãi không được một giọt nước mắt. Thấy vậy, Tư Mã Chiêu đã có chủ ý (thông đồng với Hề Chính từ trước?) đột nhiên hỏi :” Lời của ông sao giống luận điệu của Hề Chính thế?”

Lưu Thiện giả vờ giật mình, mở to mắt hỏi:” Sao Tướng công lại biết? Đúng là Hề Chính bảo tôi nói vậy”.

Tư Mã Chiêu bật cười ha hả. Từ đó, bận túi bụi vào chuyện âm mưu thoán đoạt nhà Nguỵ, Tư Mã Chiêu bỏ ý hại Lưu Thiện.

Lưu Thiện thực hành mưu làm ra vẻ ngu đần, nên tuy ở chốn hang hùm nhưng không bị ăn thịt, yên ổn sống tiếp những ngày cuối đời.

Tháng 12 năm 271, Lưu Thiện bị bệnh mà mất ở Lạc Dương, hưởng thọ 64 tuổi.

 

LINH ĐẾ LƯU HỒNG

đời đông hán: mắc chứng sợ lên cao

*

Lời ca: Giằng lấy cục bùn từ miệng chim én (én lấy bùn để làm tổ).

Mà lại đầu kim gãy để dùng

Vạch miêng chim én để tìm hạt đậu

Bóc cẳng cò lấy thịt ăn

Rãn muỗi lấy dầu

Xin tiên sinh cứ hạ thù!

Trên đây là bài vè chế giễu những anh keo kiệt, rán sành ra mỡ. Vì là tác phẩm văn học, bài vè tránh không khỏi khái quát các hiện tượng cùng loại thành điên hình. Cũng vì vậy mà có người hỏi: "Trong cuộc sống có loài người như vậy sao?"  

Khẳng định là có. Không những trong đám phàm phu tục tử, mà cả trong hàng ngũ Đế Vương cũng không tránh khỏi có những người như thế. Tất nhiên, họ không đến nỗi như tác phẩm văn học đã cường điệu "giằng lại cục từ miệng én, rán muỗi lấy dầu ăn", nhưng so đo từng tí trong chuyện tranh giành lợi lộc, thì trong các đế vương có rất nhiều.

Linh đế Lưu Hồng, ông vua thứ 12 đời Đông Hán, là ông vua keo kiệt hơn những người keo kiệt khác một cái đầu.

Lưu Hồng là đời chút của Chương Đế Lưu Đát, con trai Giải Độc Đình Hầu Lưng Sưởng. Nếu vì quá tham lợi nhỏ, thì ông vua tại vị 25 thành tích chẳng có gì đáng kể, chắc chắn sẽ không được sử sách ghi lại.

Ông tổ nghề mộc là Lỗ Ban, ông tổ nghề hát  là Đường Minh Hoàng, vậy tổ sư của ông "keo" là ai? Có người bảo là Đào Chu, có người lại bảo là Hoằng Cao. Sai hết! Một nhà sử học đã nói không hề khôi hài, rằng "xét về mặt quy mô cũng như thủ đoạn, tổ sư của những người keo kiệt, không ai hơn Hán Linh đế Lưu Hồng.

Ngày Đinh Sửu tháng 12 năm 167, Đông Hán Hoàng đến Lưu Chí bị chết đột ngột. Do bị liệt dương bẩm sinh, Lưu Chí không có con. Vấn đề người nối ngôi trở nên rắc rối.

Sau khi bí mật bàn mưu tính kế, vợ Lưu Chí là Đậu Hoàng Hậu thoả thuận cùng gia nhân Dậu Võ, quyết định lập Lưu Hồng lên nối ngôi. Lưu Hồng không tin vào tai mình khi nghe tin này, ông ta cho rằng mình nghe lầm.

Ta biết rằng, chế độ quan lại đời Đông Hán xếp theo từ dưới lên là Hầu, Vương, Thân Vương, Thái tử, Hoàng đế. Người dân thường thì miễn bàn, tước Hầu khó có hy vọng trở thành Hoàng đế. Tước Hầu đời Đông Hán lại chia thành ba cấp: Hầu ăn lộc của một huyện, hầu ăn lộc hai xã, Hầu ăn lộc của ba xóm (tam Hầu), mà Lưu Hồng lại ở cấp thấp nhất: Giải Độc Tam Đình Hầu (trông coi việc tưới tiêu). Vì vậy, dù nằm mơ, Lưu Hồng cũng không nghĩ rằng mình có thể làm vua.

Đúng là vận may đã đến!

Kể từ lúc Quang Lộc Đại phu Lưu Điều và Trung Thường Thị Tào Tiết đến Hà Gian, nơi cư ngụ của Lưu Hồng để đón về làm vua. Lưu Hồng đã tâm niệm : người ta sống ở đời, trăm năm chỉ là một chớp mắt, phải sống gấp, làm những gì mà mình thích, để không phụ với trời xanh. Còn vua thì làm cũng được, không làm cũng được. Bảo làm thì mình làm, vì sao cũng chỉ là vua nhặt !

Tất nhiên, sau khi lên ngôi cũng có làm một đôi việc, vua mà lại. phải ra vẻ một ông vua chứ. Thế là niên tiếp xuống chiếu, đổi niên hiệu là Kiến Ninh phong Thái Uý Trần Phồn là thái phó, Quốc Trượng Đậu Võ, Tư Đồ Hồ Quảng cùng đảm nhiệm Tham Lục Thượng Thư  Sự, tiếp đó, đại xá thiên hạ. không hiểu sao, thiên hạ không đại xá cho nhà vua, sau khi lên ngôi được ba năm, vùng Hà Nội (bắc Hà Bắc) bị đói, dân ăn thịt lẫn nhau. Quốc khố rỗng tuếch, đời sống của vua cũng lao đao. đúng khi đó, có người mách nước cho nhà vua.

Người nào vậy? Không phải là Đậu Thái hậu, mà là Hiếu Nhân Đổng Thái hậu, mẹ đẻ của Lưu Hồng. Đổng Thái hậu giúp nhà vua rất nhiều ''mẹo", trong đó có mẹo vét tiền.

Người ta nói rằng, thiên tử giầu vì có bốn biển, ''dưới gầm trời, đâu cũng là đất đai của nhà vua, nhưng người sống trên đất đai đó đều là thần dân của nhà vua, vinh hoa xài không hết, phú quí hưởng bất tận, vậy vua cần tiền để làm gì ? câu hỏi thật là chí lý.

Theo lí luận phân tâm học của phương tây, ''bản năng" chi phối tất cả. Thật ra, ngoài ''tính bản năng" trời sinh, người ta còn một bản năng khác : chạy theo đồng tiền.

Theo bản năng, Lưu Hồng vui vẻ tiếp thu  kiến nghị của Thái hậu, ra lệnh: những kẻ bị tội mà chưa hành quyết thì có thể '' nhập kiêm thục" (nộp tơ lụa để chuộc tội), nói theo ngôn ngữ hiện đại thì những kẻ giết người, đốt nhà cướp của, hiếp dâm vv... mà chưa bị hành quyết, chỉ cần nộp một khoản tiền là thoát tội.

Chỉ trong vòng vài năm, chiếu lệnh này ban bố đến ba bốn lần.

Kết quả như thế nào ! Tiền voà rất nhiều, nhưng quốc khố có đầy hay không thì rất khố nói. Thực tình hoan nghênh cử chỉ của nhà vua : giết người thì đã sao, bỏ tiền ra mà chuộc tội. Hiếp dâm một phụ nữ thì có gì là ghê gớm, lão đây có tiền. Thái hậu yêu tiền, nhà vua cũng yêu tiền, mắt đen không nhìn thấy bạc trắng, có tiền '' mua tiên cũng được ", tiền rất được việc.

Lòng tham của con người là không đáy, đổ vào đấy bao nhiêu cũng không vừa. Một khi đã đánh hơi thấy sự '' ngọt bùi của đồng tiền", Lưu Hồng và Đổng Thái hậu bèn quyết định phóng tay vơ vét.

Phóng bằng cách nào !

Nghĩ đi nghĩ lại, Lưu Hồng quyết định bán quan tước.

Đúng, chỉ quan mới đáng giá, quan cũng giỏi kiếm tiền. Thời bấy giờ tuy chưa có cách nói ''ba năm làm Tri phủ, mười vạn lạng bạc ròng", nhưng loại Thái Thú trên 2.000 thạch và 2.000 thạch đá giỏi xay tiền như  thế nào, thì khi ở ấp phong Giải Độc Đình Hầu, Lưu Hồng đã biết quá rõ. Giờ đây Thái hậu cần tiền tiêu, không bắt chúng nộp thì bắt ai ?

Thế là '' mở phủ đệ phía Tây để bán quan. Từ Quan Nội Hầu đến Hổ Bôn Vũ Lâm số tiền nộp có khác nhau"

Theo phụ chú của "Hậu Hán thư", ta thấy nhiều hiện tượng thú vị:

Thì ra, Thái hậu yêu tiền, ông con quý tử của Thái hậu cũng yêu tiền. Cái cảnh hai mẹ con hăng hái mua quan bán tước , đã mở đờng cho nạn hà lạm sau này.

Nếu như tán đồng việc đi tìm tổ sư cho các nhành nghề hiện nay, tìm danh nhân lịch sử để tuyên truyền cho tâm lý khắc bạc trưởng giả học làm sang, cái tâm lí mà những năm 80 tại Trung Quốc lan tràn khắp hang cùng ngõ hẻm cực kỳ sôi động và bị người ta chỉ trích nhiều nhất, bị đàm tiếu, bị oán hận, nhưng lại như một con rết đọc, chết mà không bị thối rữa, hễ có điều kiện là lại ngóc đầu dậy, cái loại " quan mua" mà người ta yêu ngời ta hưởng đó, nếu định tìm tổ sư thì bổn nhân đánh cuộc rằng, cái ngôi vị cao quý đó phải thuộc về Lưu Hồng và mẹ của vua là Đổng Thái hậu.

Khỏi nói dài dòng, ta hãy xem nhà vua bán quan như thế nào?

Bậc tam công, Tư đồ, Tư không, Thái phó, Thái uý, Thái bộc, Thượng Thư lệnh, Châu mục, nhất đẳng hầu v.v... hưởng lộc 2.000 thạch, nhất loạt thu 20 triệu.

Quận tú, Huyện lệnh (huyện loạ I), Hiệu uý, Châu viên, Thừa, Chủ bạ ăn lộc 400 thạch, đồng loạt nộp 4 triệu.

Một thạch đổi một vạn, nhìn qua thì cứ tưởng là đắt. Nhưng núi rừng mênh mông chim chóc nhiều vô kể, chắc chắn có những kẻ vào bẫy. Có tiền là có thể mua rượu, mua thịt, mua phụ nữ, vậy tại sao lại không mua một chức quan để làm quan? Mua rượu uống xong là hết, mua thịt ăn xong là mất, mua phụ nữ lại càng thiệt : hao tiền tốn sức. Chỉ có mua quan, tuy có đầu tư nhiều, nhưng kiếm được lại càng nhiều hơn.

Thái hậu và nhà vua ở chốn thâm cung làm sao hiểu được tâm lý của bọn tiểu thị dân vô lại vì phú bất nhân đó.

Sau khi công bố biểu giá mua quan bán tước, Thái hậu thấy trong lòng bâng khuâng.

Tuy Thái hậu là bậc tôn quý, nhưng dù sao thì cũng là phụ nữ. Thấy tiền của chảy vào như nước, Thái hậu vừa vui vừa buồn. Buồn vì chuyện gì? Vì không có chỗ tiêu tiền chăng? Không phải, Thái hậu kiếm tiền không phải để tiêu. Giống như các thân sĩ ăn không ngồi rồi, suốt ngày ư ử kinh kịch "Xuống biển" hoặc như các tiểu thư khuê các lắm tiền, tiệc tùng khách khứa, tiền đối với Thái hậu là một thú vui. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, đây là một cái thứ nghiệp dư, là một sự hưởng thụ "cao sang". Niềm lạc thú, hương vị và cảm giác do nó đem lại, không lời lẽ nào có thể diến tả. Đúng là "Đạo khả đạo, phi thường đạo, Danh khả danh, phi thường danh" ("Đạo" mà người ta có thể nói thì không phải là "Đạo" vĩnh viễn bất diệt lúc nguyên thuỷ, cái danh mà người ta có thể gọi tên thì không phải là cái danh vĩnh viễn bất diệt) không phải là cái đạo của bọn phàm phu tục tử.

Thái hậu buồn ở chỗ người ta sẽ nói như thế nào? Nhớ lại khi chưa xuất giá, hàng năm vào dịp tết, được người già trong gia đình mừng tuổi nhiều hơn, thường bị chị em bằng vai phải nứa ghen tị đến phát cuồng, giờ đây bỗng chốc có bao nhiêu là tiền, thì miệng lưỡi thiên hạ đâu có để yên? Huống hồ đây là do mua quan bán tước mà có.

Thái hậu buồn, buồn thật sự.

Nhưnng Thái hậu rốt cuộc là một con người thông minh. Người thông minh thì bao giờ cũng nghĩ ra cái gì đấy. Quả nhiên, sau khi biểu giá được ban bố mấy hôm, Thái hậu lại sai người bảo nhà vua thêm một câu vào biểu giá:

 

"NGƯỜI CÓ ĐỨC ỨNG TUYỂN THÌ GIẢM MỘT NỬA HOẶC MỘT PHẦN BA SỐ TIỀN"

Nói theo ngôn ngữ hiện đại, thì những kẻ có tiền lại có "đức" thì được ưu đãi, giảm giá từ 33,33 % đến 50 %, có lẽ đây là phần thưởng cho đức hanh, vừa có "hiệu quả kinh tế", vừa có "hiệu quả xã hội" thì Thái hậu mới yên tâm.

Nhưng ông con Lưu Hồng thì không cần suy nghĩ nhiều. Nhà vua tóc ngắn, kiến thức cũng không dài. Kiểu mua bán 2.000 thạch đổi lấy 20 triệu, 400 thạch đổi lấy 4 triệu, ông không cho là bình thường, nói cao thì thế là quá cao, bảo thấo thì thế là quá thấp. Hơn nữa, số tiền thu được đều do Thái Hậu nắm giữ, ông điên đầu vì chuyện này.

Thế là, nhà vua gọi tay chân thân tín lại, bảo chúng bí mật lập một kho tiền riêng, mở một trương mục mới : bí mật rỉ tai một số người đến chỗ Thái hậu mua một chức quan 2.000 thạch, bảo rằng họ ơn vua như trời biển, cũng chức ấy ở chỗ Hoàng thượng sẽ giảm giá một nửa, người có đức hạnh thì giảm cho một nửa hoặc 1/3, hơn nữa được bổ nhiệm ngay, không phải chờ hạu bổ. Tất nhiên, khi điện kiến Thái Hậu thì không được để lộ chuyện này ra, kẻ nào đẻ lộ thì hậu quả cũng có thể tự hiểu.

Biện pháp này dược triển khai, giá này được nêu ra, khách đến mua quan ở Tây Đệ lập tức bị hút sang phía này. Tâm lí của con người là mua phú quí chứ không mua bần tiện, nhưng đó là mua đồ vật, đây là mua quan. Quan cũng là đồ vật, nhưng không phải là đồ vật thông thường. Ở đây không được thiếu một xu, vật chết báu như vật sống, 2.000 thạch tức là bậc công khanh, cùng là công khanh, nhưng ở chỗ Thái hậu bán 20 triệu, còn ở chỗ hoàng đế bán 10 triệu (hoặc 5 triệu).Chẳng lẽ con người ta lại ngu ngốc đến nỗi chen đổ lan can Tây Đệ, bỏ thêm 10 triệu để mua lấy một chức quan ? kr nào mà như vậy, nếu không là điên thì là điếc, và rất có thể là một người đần.

Vậy là, truyện mua bán của nhà vua nhộn nhịp hẳn lên.

Trong con mắt bọn phàm phu tục tử, mỗi vị vua đều hưởng tận vinh hoa phú quí ở đời. Thực ra, chưa hẳn là như vậy. Một nbạn thích trêu chọc nói vậy, ''Tần Thuỷ Hoàng đã mặc đồ ni lông bao giờ chưa ? Vua Khang Hi đã xem ti vi bao giờ chưa ? Lời nói quá quắt, nhưng quả thật có những thứ người thường giơ tay ra là với tới, vậy mà các bậc đế vương cả đời chưa bao giờ được hưởng. Ví dụ như Lên cao thì Linh đế Lưu Hồng cả đời chưa bao giờ được ở nhà cao tầng.

Năm 180 sau công nguyên, trong hoàng cung Lạc Dương, thủ đô của Đông Hán, bọn Trung Thường thị tào tiết cứ ngồi mà ca cẩm. Họ đang lo vì nhà vua tuổi lớn mà cứ đi lung tung khắp nơi khắp chốn. Bọn Tào Tiết không buồn vì nhà vua bỏ bế việc triều chính. Nếu có tấm lòng trung nghĩa đó, thì họ không còn là họ nữa. họ lo vì nhà vua cứ như  vậy, thì tai hạo sẽ đổ ập lên đầu họ.

Nguyên là, từ khi vua thứ 10 Chất Đế Lưu Toản bị Bạt Hộ tướng quân Lương Kí bị đầu độc chết, vua thứ 11 Lưu Chí liên minh với hoạn quan Xỉ Tí để trừ diệt Lương Kí, thế lực của hoạn quan bành trướng rất nhanh. Năm 159, bọn hoạn quan Đường Hành, Đơn Siêu gồm 13 người cùng được phong Hầu trong một ngày đã khiến cho người xôn xao bàn tán, còn Lưu Hồng thì năm 168 cùng ngày phong tước Hầu cho bọn Tào Tiết, Vương phủ gồm 17 người, đã đưa quyền lực của bọn hoạn quan lên đỉnh cao.

Năm 179, con nuôi  hoạn quan Vương Phủ là Vương Cát khi đó làm tướng ở nước Bái, dựa vào thế lực của cha nuôi, thích giết người để giải trí. Mỗi khi giết ai, hắn cho sác lên xe diễu khắp các huyện để thị uy, mùa hè, xác bị rữa, liền lấy dây xâu các đốt xương sống treo lên cao, sau khi diễu một vòng như vậy, mới cho phép người nhà đem về chôn.

Có người tâu chuyện này lên Lưu Hồng, nhưng Kưu Hồng cho rằng đó là chuyện thường. Vì rằng, so với Lưu Trí thì Lưu Hồng càng ỷ lại, càng tin tưởng bọn hoạn quan. Ông vua trẻ này từng nói với mọi người, rằng '' Trương Nhượng là cha Trẫm ",Trương, Triệu đều là hoạn quan.

Nhà vua quá sùng ái hoạn quan, khiến thời kỳ hoạn quan chuyên quyền lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc được mở ra nhanh chóng.

Những đại, tiểu hoàng môn (hoạn quan lớn nhỏ) bị thiếu từ  nhỏ, quanh quẩn trong cung cấm, bỗng thấy cả cái thể giới loè loẹt bên ngoài, tên nào tên nấy bổng nẫy lòng tham, đều có tâm trạng "vơ vét". Dựa vào mưu mẹo và "lễ lạt", chỉ trong mấy năm, tên nào cũng xây nhà cao cửa rộng, nuôi con hát, chó săn ngựa đua, tận hưởng lạc thú ở đời.

Thời kỳ này, ở Lạc Dương có rất ít nhà cao cửa rộng, nay đột nhiên loại nhà như thế nhiều hẳn lên, không thể không chướng mắt mọi người, nhất là những ngôi nhà đó xây giấu nhà vua. Do vậy, khi các tiểu hoàng môn bẩm với các đại thái giám rằng nhà vua muốn lên lầu cao ở cung Vĩnh An để ngắm toàn cảnh thành nội, thì bọn trương nhượng, Triệu Trung, Tào Tiết sợ toát mồ hôi.

Làm thế nào bây giờ?

Vắt óc suy nghĩ, cuối cùng người thông minh vẫn là Triệu Trung, Trung đã nghĩ ra được một kế.

Vốn là khi ấy đang lưu hành những câu sấm truyền, từ nhà vua đến dân thường đều rất tin. Do vậy bọn Triệu Trung sai người đem quyển "Xuân Thu tiềm đàm ba", sách đó có câu "Thiên tử vật cao đài tạ, cao đài hạ Tắc Thiên hạ bạn chi" (Vua không được lên lầu cao đài, nếu không, thiên hạ sẽ chống lại nhà vua) để doạ Lưu Hồng. Đây vốn là một câu cảnh cáo, khuyên nhà vua không nên xây dựng đài cao lầu rộng, bọn hoạn quan xuyên tạc thành ra "không được treo lên đài cao" vì trèo lên cao sẽ nhìn thấy nhà cửa của chúng, hành vi phạm pháp của chúng sẽ bị bại lộ.

Vậy là Lưu Hồng vốn không sợ trèo cao, nay trở thành kẻ mắc bệnh "sợ cao", trừ một trận duyệt binh đã được hoá giải bằng "tai nạn binh đao", suốt đời Lưu Hồng không trèo lên cao một lần nào nữa. Để "bồi dưỡng" chứng "sợ cao" cho nhà vua, bọn Triệu Trung kiếm cho nhà vua những trò chơi mới.

Chó cảnh, cưỡi xe lửa, làm tiểu thương.

Vài ngày sau, vườn sau của hoàng cung thâm nghiêm là thế đã trở thành một cái chợ. Ngự  hoa viên rộng khoảng mấy dặm chật ních người. Ngày thường các cung nữ nghiêm trang yêu điệu, nay như bị ma ám, hoá trang thành dân tiểu thương. Đúng là, xưa áo đỏ quần hồng, nay khách thương tài chủ. Người gọi kẻ thưa, người đi kẻ lại, người bán bánh, kẻ bán rượu "Đỗ Khang", người dắt bò, kẻ mổ dê, hàng nào quán ấy ba tiêu, anh đào xanh đỏ, ngựa hãn huyết của nước Đại Uyển, các chim lạ của vườn Thượng Lâm, tất cả những thứ trước đây ít được nhìn thấy, thì nay đem ra mua bán đổ chác, khiến đám cung nữ vui như hoá rồ, nha vua thích như hoá dại.

Thấy nhà vua thích vui chơi, bọn hoạn quan lại đem đến một cỗ xe hai bánh do bốn con lừa kéo, xếp theo thứ tự ba trước một sau, rồi thỉnh nhà vua lên xe, hưởng cái thú "ông chủ lừa".

Không đợi nhà vua cảm thấy nhàm chán, các tiểu hoàng môn lại nghĩ ra trò chơi mới: chơi chó cảnh, nào là Tế khuyển của nước Lỗ toàn thân trắng như bông, thân dài mà mảnh; nào là chó sư tử tai nhỏ, lưỡi màu lam, lông như lông sóc, dáng như sư tử đực; nào là chó bướm, lông điểm mầu cánh bướm, có thể bỏ vừa trong tay áo ... không sao kể hết.

Ông con trời mặt mày rạng rỡ, càng thấy trên đời có nhiều thú vui. Từ đó, ông quyết tâm mắc bệnh "sợ cao" ngày càng "sợ cao" không còn chí tiến thủ của một ông vua nữa.

Năm 189 sau công nguyên, Lưu Hồng chết, hưởng thọ 34 tuổi.

 

VƯƠNG MÃNH - HOÀNG ĐẾ KHÔNG TƯỞNG,

VỪA CẤP TIẾN VỪA PHỤC CỔ

*

Lời ca: Võ kiếm hát dưới trăng, tri âm xưa nay hiếm. Lẻ loi đầu bạc, leo lét đèn đêm, thân già run rẩy. Vậy nên, người hiền thường gặp gian truân trong cơn say tráng sĩ khương thân.

Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ thứ nhất trước công nguyên vương triều Tây Hán do Lưu Bang sáng lập liên tiếp nổ ra hai sự kiện lớn:

Năm thứ bảy trước công nguyên, Hán Thành đế Lưu Ngạo do sùng ái chị em Triệu Phi Yến, Triệu Hợp quá độ, trúng phong mà chết.

Trước đó một năm, Vương Măng, cháu của Thái hậu Vương Chính Quân (mẹ của Thành đế), đã một bước lên mây, giữ chức Đại Tư Mã đầy quyền lực.   

Vương Mãng cùng họ với Vương Chính Quân, nhưng không phải xuất thân quyền uy. Cha Vương Mãng là Vương Mạn chết sớm, bỏ lại hai mẹ con rau cháo qua ngày. Vương Mãng thông minh đĩnh ngộ nhưng cũng chỉ biết đợi thời. Năm 28 (Tr. Cn), Vương Mãng 18 tuổi, vẫn chỉ là dân thường, vậy mà những anh em thúc bá trong họ đã hiển quí từ lâu: Vương Phượng là Đại Tư Mã Đại Tướng quân; Vương Đàm, Vương Thương, Vương Lập, Vương Căn, Vương Phùng đều được phong hầu cùng một lúc, sử gọi là: "Ngũ Hầu". So với họ, hình như số phận của Vương Mãng là vùi đầu vào đống giấy  cũ, không bao giờ dám mơ tưởng đến chuyện đỗ đạt, thành danh, lập nên sự nghiêp. Đó là nhận xét rất lôgic của một người am hiểu lịch sử Hán và gia thế của Vương Mãng.

Nhìn bề ngoài, nhận xét này hình như không thể phản bác lại, nhưng nó không phù hợp với sự phát triển sau này của lịch sử. Trong mấy chục năm sau đó, vị hoàng thân có họ xa vời với hoàng tộc họ Vương tên Mãng, tự là Cự Quân này không những lọt vào chính giới mà còn chiếm được giang sơn nhà Hán, lập lên một đế quốc mà ông ta cho là "lý tưởng".

Vương Mãng chỉ sống được 68 năm, nhưng những việc ông làm đã gây ra bình phẩm trong mấy ngàn năm, người ghét ông thì tô vẽ ông thành một bạo chúa, người yêu ông thì tôn ông là bậc "Đại Nho".

Vậy ông là con người như thế nào?

 

1. HÀNH SỰ THEO LẼ PHẢI, GIỮA CUỘC ĐỜI Ô TRỌC ĐƯỢC THÁI HẬU TÁN THƯỞNG "GIẢ THẬT" CŨNG KHÓ PHÂN, CON LÀM ÁC QUYẾT KHÔNG BAO CHE, PHÁP LUẬT TRÊN HẾT

 Khi bàn về Vương Mãng, không thể không bắt đầu phong trào xã hội từ cuối đời Tây Hán và trong cả giai đoạn nhà Hán.

Nhà sử học Đài Loan Bá Dương tiên sinh đã từng nhận xét như sau, từ đầu đến cuối đời Tây Hán, việc điều hành chính sự là do nhà vua và ngoại thích (họ ngoại) cùng đảm nhiệm. Hiện tượng này đến cuối đời Tây Hán đã dẫn đến một hiện tượng khác là: Khi Hoàng đế cũ tạ thế thì ngoại thích của Hoàng đế đps rút khỏi chính quyền; tân Hoàng đế lên nối ngôi, ngoại thích của vua mới được đưa vào chính quyền. Tình hình này rất giống khi có sự chuyển dịch của chính đảng sau khi bầu cử của một số nước dân chủ thời cận đại.

Cái kiểu "Thiên tử nào triều thần ấy" đã gây ra rất nhiều vấn đề có tính chất xã hội, nghiêm trọng nhất là dã tạo ra một phong cách không lành mạnh quyền hành trong tay mà không vơ vét, hết quyền coi như bỏ đi. Mấy anh em thúc bá của Vương Mãng rất tâm đắc đạo lý này, anh nào anh ấy đều mập ú. So với họ thì Vương Mãng tiết kiệm hơn nhiều, ông bần hàn từ nhỏ, lại đọc nhiều hiểu rộng, tỏ ra là con người khiêm nhường, lễ độ trong tập đoàn nhà họ Vương bất học vô thuật, do vậy được nhân vật trung tâm của nhà họ Vương là Vương Chính Quân có cảm tình. Tất nhiên, Vương Mãng biết rằng muốn leo lên cao, tất phải do một người có thể lực cất nhắc. Có lẽ Vương Mãng gặp vận may: ít lâu sau, Đại Tư Mã Đại Tướng quân Vương Phượng ốm nặng. Đây là dịp may để tỏ lòng hiếu thảo và bộc lộ tình thân. Mấy anh em con cháu họ Vương thấy nhân vật số hai của tập đoàn họ Vương này ốm liệt giường, chắc chắn không qua khỏi, liền tỏ thái độ trái ngược với sự tận tuỵ hàng ngày, chẳng ai buồn hỏi han ông già một câu. Chỉ có Vương Mãng là ngày đêm túc trực bên giường Vương Phượng, quân áo không kịp thay, bữa ăn không còn nhớ. Tuy không thể cứu được mệnh, nhưng Vương Phượng vô cùng cảm kích Vương Mãng, lúc lâm trung, tiến cử Vương Mãng theo hình thức "thác cô" (coi như con nhà gửi gắm) với Vương Chính Quân. Vậy là hành động theo nghịch lý mà Vương Mãng từng bước leo lên, lúc đầu là chức Hoàng môn lang (hầu hạ và truyền đạt chiếu chỉ của nhà vua), sau thăng Xạ Thanh Hiệu Uý, Kỵ Đô Uý Quang Lộc Đại Phu v.v... cuối cùng là chức Đại Tư Mã, phong Tân Đô Hầu.

Ngày Bính Tuất, tháng hai năm thứ bảy trước công nguyên, Hán Thành để Lưu Ngạo bị bệnh mà mất, Vương Mãng bắt đầu gặp khó khăn. Ai để Lưu Hãn, người kế tục Thành Đế lại không phải là con đẻ của Thành đế, mà là con của Định Đào Vương Lưu Khanh (em trai Lưu Ngạo). Ai Đế có ngoại thích của Ai Đế. Để tránh mâu thuẫn. Thái Hoàng Thái Hậu Vương Chính Quân thông qua quyền nhiếp chính từ xa của mình, ra lệnh cho tất cả Hoàng thân họ Vương đồng loạt từ chức, Vương Vương Mãng cũng trong số đó.

Sự thăng trầm lần thứ nhất trên đường hoạn lộ không làm Vương Mãng nản chí.

Trong bữa tiệc do các đại thần tổ chức để từ biệt, Vương Mãng cũng tranh thủ biểu diễn một "màn kịch".

Dự tiệc có đầy đủ các nhân vật ở tầng lớp trên, đúng là "chuyện trò toàn bậc thâm nho, không một bặt đinh có mặt" mũ mãng như mây gợn, áo quần vẻ khang trang, người cao đàm, kẻ khoát luận, người uống rượu, kẻ hoa tay, ai cũng tỏ ra cao nhã, thoát tục, chỉ có Vương Mãng chốc chốc lại rời bàn tiệc một lúc. Lúc đầu, mọi người tưởng ông ta đi "thay áo" (đi tiểu) nhưng vì đi nhiều lần, nên có người phát hiện, kêu lên: "Chắc là Tân Đô Hầu (Vương Mãng) bị bệnh thận, nếu không thì cứ  ra ra vào vào mãi thế?".

Thấy mọi người đã chú ý một người thân tín của Vương Mãng nhân đó tuyên bố với mọi người rằng Vương Mãng là con người chí hiếu, ông rời bàn tiệc là để cho mẹ ông đang bị ốm uống thuốc.

Chỉ một câu giải thích, hình ảnh của Vương Mãng được hoàn thiện thêm một bước trước mắt mọi người.

Sau đó ít lâu, một sự việc đã đưa Vương Mãng lên bậc thánh, đồng thời cũng huỷ cả thanh danh xưa kia của ông:

Có người tố cáo với cơ quan chức năng ở Tân Đô, nơi Vương Mãng bị biếm trích, rằng con trai thứ của Vương Mãng phạm tội giết người, yêu cầu cơ quan chấp pháp thi hành công lý. Vì sợ dư uy của gia tộc Vương, nên sau khi nhận được lời tố cáo, cơ quan chủ quản vội đến nhà Vương Mãng báo tin.

Vợ Vương Mãng và một số thành viên trong gia đình cho rằng chuyện này không hề hấn gì, vì người bị Vương Hoạch giết chỉ là một nô tì, mà tính mạng của nô tì thời bấy giờ chẳng có gì ghê gớm, rẻ như trâu ngựa. Ai bảo giết trâu ngựa thì phải đền mạng? Những người không cho là nghiêm trọng thì hỏi lại như vậy. Nhưng Vương Mãng thì nghĩ khác. Chuyện xảy ra trước đó không lâu lại trở về trong kí ức. Đó là một buổi sáng tháng 6 năm thứ 7 trước công nguyên, khi đó Vương Mãng chưa từ chức, Hán Ai Đế vừa mới lên ngôi, thiết yến triều thần tại cung Vị Ương, viên quan đại phu trách lễ tân xếp chỗ ngồi của Phó Thái Hậu, bà nội của Ai đế Lưu Hân bên cạnh Thái Hoàng Thái Hậu Vương Chính Quân. Khi đó Vương Mãng là Đại Tư Mã chịu trách nhiệm kiểm tra lần cuối thấy sắp xếp như vậy, liền trách mắng viên quan lễ tân: "Phó Thái hậu chẳng qua là chuốc quốc, sao lại dám sánh ngang với Thái Hoàng Thái hậu (Vương Chính Quân) chí tôn chí thánh? Lập tức ra lệnh xếp chỗ ở phía dưới. Khi biết chuyện, Phó Thái hậu giận run lên, từ chối tham dự yến hội, căm thù Vương Mãng đến tận xương tuỷ. Do đó chuyện cấn cá đó, lại thêm hiện thời Thái hậu đang buông rèm giải quyết việc chính sự, nếu không cẩn thận, chắc chắn sẽ vấp ngã. Nghĩ vậy, Vương Mãng nén nỗi đau, ra một quyết định ít ai ngờ tới: Bắt Vương Hoạch tự sát để xoa dịu  sự bất bình.

Quyết định trên đây không những khiến cả nhà họ Vương bất mãn, thậm chí vợ Vương Mãng thương con mà khóc đến mù cả hai mắt, nhưng đã tăng điểm cho Vương Mãng về mặt được lòng dân. Muốn làm lên nghiệp lớn thì không được câu nệ chuyện nhỏ, thí một con "tốt" có đáng kể gì.

 

2. DÙNG BỌN THƯ SINH NÊN MỘT ĐẾ QUỐC HÙNG CƯỜNG, KHIẾN LƯU MANH NHƯ LƯU HANG TRONG XOE MẮT, MANG HOÀI BÃO CHÍNH TRỊ MÀ XƯNG ĐẾ, KHÔNG PHẢI VÌ THOẢ Ý RIÊNG TƯ MÀ VÌ TÁI TẠO THƯỢNG CỔ VĂN MINH

Vương Mãng giành lấy chính quyền từ tay nhà vua còn non trẻ triều Tây Hán. Ở Trung Quốc có một hiện tượng lịch sử là, mỗi một lần thay triều đổi đại đều nổ ra một cuộc hỗn chiến. Những kẻ có dã tâm hoặc những anh hùng có lực lượng vũ trang trong tay, đánh nhau và thôn tính lẫn nhau, cuối cùng còn lại người nào thì người ấy được phía Nho gia tôn là thánh quân "vì chính đạo nên được nước". Vương Mãng đã phá vỡ hệ thống này , vương triều mới được thiết lập trong cảnh yên hàm, không đổ máu.

Không ai có thể phủ nhận Vương Mãng là một bậc cự nho. Một học giả mà thiết lập được một đế quốc rộng lớn, thì trong lịch sử Trung Quốc chỉ mỗi mình Vương Mãng, khiến những người như Lưu Bang, Hạng Võ "vốn thất học" không dám coi thường trí thức và văn hoá. Điều đáng nói là, Vương Mãng giành lấy chính quyền không phải để thoả mãn dục vọng cá nhân, ông có hoài bão của ông: trở về với người xưa, tái tạo nền văn minh thượng cổ, xây dựng một thế giới lý tưởng.

Để thực hiện lý tưởng cuả mình, sau khi lên ngôi, Vương Mãng thực hiện một loạt chính sách mới:

1. Đất đai thuộc sở hữu nhà nước, tư nhân không được phép mua bán.

2. Phân phối lại ruộng đất, không có tá điền, trên nguyên tắc mỗi cặp vợ chồng được chia 100 mẫu (mỗi mấu bằng 1/15ha).

3. Chấm dứt chế độ nô lệ, cấm ngặt mua bán nô tì.

4. Lao động bắt buộc. Những kẻ vô nghề nghiệp thì mỗi năm phải nộp một tấm vải.

5. Thực hành chế độ chuyên doanh. Chính quyền trung ương chuyên doanh rượu, mối và đồ sắt; tiền tệ do nhà nước phát hành thống nhất.

6. Thiết lập chế độ vay lãi. Những khoản vay để dùng vào tang lễ, cúng bái thì không phải trả lãi.

7. Thực hiện kinh tế có kế hoạch, giá cả do nhà nước không chế nhằm ngăn chặn tư tưởng thao túng thị trường, loại trừ hiện tượng có người giàu kẻ nghèo.

8. Thuế thu nhập, thu theo công thức "thập nhất" tự do kinh doanh công thương, săn bắt cá, bói toán, chữa bệnh, chăn tằm v.v... thu 1/10 lãi ròng.

Một sử gia đã bình luận về những vấn đề này, ông nói rằng: "Ta thấy Vương Mãng theo đuổi một cuộc cải cách xã hội toàn diện, trời long đất lở. Thế kỷ 19 mới xuất hiện chủ nghĩa xã hội (đương nhiên là chủ nghĩa xã hội không tưởng), vậy mà thế kỷ thứ nhất ở Trung Quốc đã xuất hiện ý tưởng và thực tiễn đó".

Tuy nhiên, Vương Mãng chắc chắn thất bại, điều này không chỉ do ông có nhiều nhược điểm trong tính cách, mà quan trọng hơn, những ý tưởng cải cách của ông "vượt quá" thời đại của ông.

Lấy ví dụ đơn giản, trong chính sách mới của Vương Mãng có qui định chi tiết trong các điều khoản của vay vốn và các khoản thu nhập, thu thuế từ lợi tức cho vay tức cho vay lãi và doanh thu đều là 1/10 trên lãi ròng. Vào khoảng thế kỷ I chưa có lực lượng kỹ thuật để thúc đẩy cuộc cải cánh rộng lớn đó, vỉ vấn đề này có liên quan đến tính toán giá thành rất phức tạp, e rằng đương thời chưa có ai làm nổi, mà giả dụ có người tài cán như vậy thì cũng không có đủ một đội ngũ cán bộ để thực hiện. Vậy mà Vương Mãng chỉ dựa vào mệnh lệnh hành chính, mà những viên quan này thì thối nát, bất tài. Thế là bức tranh đẹp đẽ về cải cách chinhs sách đã biến thành những hành vi bạo chính, làm nổ ra những cuộc chống đối của dân.

Nhân đây xin nói thêm, Vương Mãng còn là con người theo thuyết ''có chế độ là có tất cả". Ông cho rằng "xác lập được chế độ thì thiên hạ tự nhiên yên ôn:. Vì vậy, ông dùng phần lớn thời gian vào việc cải cách chế độ, tai hại hơn, ông đặc biệt thích thú với thuyết "chính danh" của nhà Nho, bất chấp những phiền toái, lao vào chuyện đổi quan danh, địa danh, hơi "hiện đại" một chút là lấy lại tên cũ, thay đổi nhiều đến nỗi không ai nhớ nổi. Cuộc cải cách đã gieo mầm tai hoạ cho vương triều mới. Trước Vương Mãng, triều đình Tây Hán đều phong tước vương cho các tù trưởng bộ lạc Tây nam Di, đó là hư danh, không mất một xu nào. Vương Mãng lại đổi thành tước Hầu. Cù  Đình Vương của tộc Bá Sắc ở Quảng Tây cự tuyệt, không thụ phong, là người đầu tiên cất quân chống lại. Tiếp đó là Thuyền Vu của Hung Nô bị đổi từ "Hung Nô Thuyền Vu tỉ" (ngọc tỉ) thành "Hung Nô Thuyền Vu Chương" (con dấu), khiến cho giớ quý tộc Hung Nô nộ khí xung thiên, tuyệt giáo với Trung Quốc. Hai cuộc chinh phạt hai miền nam bắc trưng dụng binh lương khiến dân tình xôn xao, đói rét, cuối cùng nổ ra cuộc khởi nghĩa của nông dân kiểu Trần Thắng, Ngô Quảng.

Trong khung cảnh khó lí giải như thế, Vương Mãng vẫn khăng khăng làm theo ý mình, tầm mắt của ông vẫn thản nhiên dõi về phía chân trời.

 

3. XỬ KẺ THÙ CHÍNH TRỊ, MỔ BỤNG MOI GAN, NÓI RẰNG ĐÂY LÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC. ĐỂ ĐÁNH HUNG NÔ, SAI KỲ NHÂN BAY THỬ VÀ CHẾ BIẾN THỰC PHẨM NHÂN TẠO.

Tháng 12 năm 16 sau công nguyên, tử cung Vị Ương ở kinh đô Tràng An, ban bố một thánh chỉ quái đản:

"Lệnh cho các thái y, các đầu bếp, những đồ tể vào cung".

Nhiều người không sao hiểu nổi, vì rằng người chữa bệnh, người nấu ăn, người mổ lợn, mỗi người một vai trò khác nhau vậy, cùng vào cung để làm gì?" Thì ra hôm áy có một kẻ thù của chính nhà vua bị giải vào cung. Người này họ Vương, tên Tôn Khánh, là tay chân của Hoắc Nghĩa cách đây mười năm đã nổi dậy chống lại Vương Mãng ở Đông Bình, Sơn Đông. Cuộc phản loạn cách đây 10 năm khiến Vương Mãng suýt nữa mất mạng, nên Vương Mãng căm thù đến tận xương tuỷ bọn Hoắc Nghĩa, giờ đây nhà vua đích thân trả thù.

Khi bọn ngự  y, đồ tể đã đến đủ, Vương Mãng tự tay quật ngã Tôn Khánh trói lại, rồi sai bọn đầu bếp, đồ tể quen sử dụng giao mổ bụng Tôn Khánh, lôi tim, gan, phổi, lá lách, thận ra, nghiên cứu vị trí và công năng của chúng trong cơ thể, lại còn dùng tăm tre luồn vào mạch máu để tìm huyết mạch. Đây là cuộc giải phẫu nhân thể đầu tiên ở Trung Quốc do nhà vua phê duyệt, so với những cuôc giải phẫu thời văn nghệ phục hưng, đi trước 1500 năm.

Vì chuyện này, có người gọi Vương Mãng là ông vua "nhiệt tình với khoa học". Nếu ta thay từ "khoa học" bằng từ "kỳ phương dị thuật" thì đúng hơn.

Năm 19 sau công nguyên, Vương Mãng quyết định chinh phạt Hung Nô vì lí do không chịu thần phục. Trước khi cất quân, nhà vua hiệu triệu cả nước, trưng dụng những ain có mưu hay kế lạ để đánh Hung Nô, không cần chính ngạch, hễ có sẽ được bổ nhiệm làm quan cao chức trọng. Người ta có câu: "Hễ có trọng thưởng, tất có người xông ra", nhà vua thích phù phép thì sẽ có người đi theo con đường mà nha vua thích.

Chỉ sau đó ít lâu, có người hiến kế rằng xưa kia Hung Nô giao chiến, vì trinh sát lạc hậu nên chịu nhiều thua thiệt. Nay anh ta có thuật phi hành, có thể ngày đi ngàn dặm, trinh sát tận tim gan của kẻ thù. Vương Mãng cả mừng, lập tức tuyên triệu người có thuật phi hành đó. Hôm bay thử, thấy người đó có hai cánh lớn chắp bằng lông chim, trên mình người đó cũng dán đầy lông chim, dùng những khuyết tròn và dây dợ liên kết hai cánh lại để dễ điều khiển. Với trang bị như  thế, người này đã lợi dụng khí áp thấp, từ trên đầu dốc cao, bay được một quãng mấy trăm bước.

Vương Mãng hiểu rằng, người này thì tham thưởng mà nói quá đi, nhưng vì "để saunày còn có người đến", nên phong cho người đó làm Lí quân (quan phụ trách kỹ thuật trong quân đội).

Việc Vương Mãng đích thân phê chuẩn bay thử, so với những phát minh cùng loại của châu Âu, sớm hơn 10 thế kỷ.

Do liên tiếp bị mất mùa, nhân dân bị đói rách, nên Vương Mãng cử người đi khắp trong cả nước điều tra đầy đủ về những cây có thể dùng làm lương thực. Có người nói rằng, chỉ cần tìm ra một loại "thuốc" là có thể giải quyết tận gốc vấn đề đói kém. Tuỳ sau này qua điều tra, cho thấy đây chỉ là chuyện nói khoác, nhưng Vương Mãng cũng cho trợ cấp cho người đó tiến hành thí nghiệm, mà các nhà sử học sau này gọilà "thực phẩm nhân tạo".

Tháng 9 năm 23 sau công nguyên, Vương Mãng chết dưới tay Đỗ Trình - tướng nghĩa quân lục lâm, thọ 63 tuổi, không rõ nơi chôn cất.

 

U VƯƠNG CƠ CUNG NIẾT

đời Tây Chu: Đánh đổi non sông lấy nụ cười

*

Những năm cuối đời Tây Chu, xã hội rất rối ren loạn lạc. Năm 841 trước công nguyên, tại quốc đô triều Tây Chu đã nổ ra cuộc khởi nghĩa nổi tiếng của nhân dân trong nước đánh đuổi ông vua hoang dâm tàn ác Chu Lệ Vương, công việc triều chính tạm thời do đại thần Chu Công, Triệu Công giải quyết, sử gọi là "Cộng hoà Chu Triệu". Năm ấy cũng là năm đầu tiên có thể tra cứu về niên đại trong lịch sử Trung Quốc.   

Mười bốn năm sau, Chu Lệ Vương ốm chết, hai ông Chu, Triệu một lòng trung nghĩa với nhà Chu, đã lợi dụng sự mê tín để làm dịu sự phẫn nộ của dân chúng, đưa con trai của Lệ Vương là Cơ Tịnh lên ngôi thiên tử, tức Chu Tuyên Vương.

Sau khi kế vị, Chu Tuyên Vương cũng tỏ ra hăng hái trong việc trị nước, nhưng về cuối đời, nhà vua trở nên cố chấp, bắt nước Lỗ bỏ con đường lập con út, người nước Lỗ không phục, nha vua cất quân đi đánh Lỗ. Đại thần là Đỗ Bá can ngăn, nhà vua giết Đỗ Bá. Đỗ Bá chết không lâu, Cơ Tịnh cũng bị bạo bệnh mà chết.

Ngôi vua cuối cùng của Tây Chu truyền cho U Vương.

U Vương họ Cơ, Tên Cung Niết, là con cả của Tuyên Vương Tịnh, lên ngôi sau khi Tuyên Vương chết, không rõ ngày sinh, mất năm 771 (trước công nguyên), chỉ làm vua được mười một năm. Trong mười một năm trị vì thiên hạ, Cung Niết đã làm được những gì?

 

1. THẢ HỔ HẠI THÁI TỬ, MẤT HẾT LUÂN THƯỜNG

Một học giả khi bàn về sự thay thế các vương triều trong lịch sử Trung Quốc có nói rằng, từ góc độ tín sử (ghi chép xác thực) mà xét, Chu u Vương là ông vua đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc chết dưới lưỡi dao của con đẻ. Lời nhà học đúng mà không đúng. Căn cứ vào chữ nghĩa thì Chu U Vương chết dưới lưỡi dao của quân Khuyển Nhung, chứ không phải của con trai mình. Nhưng nếu xét theo nghĩa rộng, cái chết của Cơ Cung Niết và cả sự diệt vong của vương triều Tây Chu, đều liên quan đến Cơ Nghi Cựu, con trai của U Vương.

Chu U Vương có hai thái tử, một là Cơ Nghi Cựu do Thân Hoàng Hậu sinh ra, một là Cơ Bá Phục, con của Bao Tự. Xét về tuổi thì Cơ Nghi Cựu là trưởng, nhưng không được nhà vua yêu bằng Cơ Bá Phục, lí do cũng đơn giản: "con được hiển quí là nhờ ở mẹ", đây là câu giải thích đầy đủ nhất trong trường hợp này.

Ai cũng biết rằng Cơ Bá Phục là con trai Bao Tự, bà phi được nhà vua sủng ái nhất. Về bà này, có bao nhiêu chuyện đã trở thành truyền thuyết.

Đồn rằng, voà thời vua Khổng Giáp nhà Hạ, có một con rồng sa xuống giữa sân chầu, và đã để lại một ít tinh dịch. Khi đó thầy bói của cung đình cất tinh dịch đó trong một cái hộp gỗ nhỏ, lưu truyền cho các đời sau.

Đến đời Chu Lệ Vương cũng không ai dám mở ra. Một hôm vì quá rỗi rãi, Lệ Vương tản bộ đến chỗ cất chiếc hộp gỗ tại một cung điện, nhà vua hỏi: Đây là cái gì? Sao niêm phong kỹ thế?

- "Muôn tâu thánh thượng, đây là chiếc hộp đựng tinh dịch của rồng, lưu giữ từ đời vua Khổng Giáp nhà Hạ, không được mở ra một cách tuỳ tiện" - một cung nhân tỏ ra am hiểu trả lời nhà vua.

- "Có gì mà nhà ngươi sợ run lên như vậy? Bất quá chỉ là chiếc hộp cũ. Mở ra, Trẫm đã từng nhìn thấy tinh dịch lợn ngựa, nhưnh chưa bao giờ thấy tinh dịch rồng".

- "Tâu thánh thượng, tinh dịch rồng cũng không có gì hay mà xem, hộp lại không được mở tuỳ tiện, nếu không hậu quả không biết đâu mà lường!".

-"Câm mồm, mở hộp ra! Chẳng lẽ trẫm phải tự tay mở ra hay sao?"

Sự tình đã như vậy, người cung nhân già đành phải mở cái hộp ra. Thế là, một thứ dịch mầu trắng và dính như hồ chảy tản mát ra tứ phía, không sao ngăn lại được. Nhà vua bèn lệnh cho các cung nữ "cởi hết quần áo ra để tinh dịch thẹn mà quay lại". Kể cũng lạ dòng tinh dịch chui vào trong  cơ thể cung nữ xinh đẹp, tuổi vừa đôi tám, khiến cô thụ thai. Cái thai trong bụng rất nhiều năm, mãi đến thời Tuyên Vương mới sinh một bé gái. Sau đó, âm dương xoay vần thế nào mà người con gái đó lưu lạc đến đất Bao (thuộc đất của nhà Chu) làm con nuôi Bao Chước, người nước Bao. Bao Chức vì lỡ xúc phạm Chu U Vương nên bị bỏ ngục, người nhà cô ta bèn đem cô gái dâng cho Cơ Cung Niết. Nhà vua hỏi họ tên, cô gái nói tên là Bao Tự, từ đó gọi nàng là Bao Tự. Bao Tự mặt hoa da ngọc, mi thanh mặt tú, răng trắng môi hồng, đẹp đến nỗi chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường. U Vương yêu như hòn ngọc trên tay, đưa vào hậu cung, sinh được một trai đặt tên là Cơ Bá Phục.

Từ hôm Cơ Bá Phục chào đời, Bao Tự ngày đêm suy tính, tìm cách để Bá Phục thay thế Nghi Cựu, nối ngôi U Vương. Có hai biện pháp để trở thành nhà vua trong tương lai: một là phế bỏ Thân hậu, người đã sinh ra Nghi Cựu, hai là tìm cách loại bỏ Cơ Nghi Cựu. Về biện pháp thứ nhất thì các đời sau người ta vẫn dùng để bỏ trường lập thứ, nhưng Bao Tự lại không dùng. Vì sao vậy? Vì đằng mẹ đẻ Thân hậu - nước Thân vốn là nước mạnh trong các nước chư hầu, nay l;oại bỏ Thân hậu, chắc chắn sẽ bị Thân Hầu trả thù.

Biện pháp thứ nhất không thông, Bao Tự hướng sang biện pháp thứ hai. Lúc này, Chu U Vương đã bị Bao Tự dắt mũi, bảo sao nghe vậy, ngoại trừ lên trời hái trăng, xuống biển bắt rồng, còn thì Bao Tự muốn gì là nhà vua sai người làm bằng được.

Một hôm, sau khi chăn gối, Bao Tự nũng nịu bên tai nhà vua, vẫn là chuyện loại bỏ Cơ Nghi Cựu, lập Cơ Bá Phục. Lúc đầu Cơ U Vương còn do dự, vì hổ dữ không ăn thịt con, huống hồ Nghi Cựu là con đẻ của nhà vua. Nhưng dù phụ tử tình thâm vẫn không thắng nổi "lời tỉ bên gối". Cuối cùng U Vương đành nghe theo lời Bao Tự, hơn nữa còn nâng hành động lên trình độ nghệ thuật. Thế là sảy ra một chuyện tưởng chừng ngẫu nhiên.

Đó là một buổi hoàng hôn đầu thu, Cơ Nghi Cựu một mình lững thững đi dạo trong vườn Thượng Lâm, có lẽ phải suy nghĩ điều gì đó. Thái tử đi vào khu nhốt hổ mà không hay. Khu này xây dựng đầu đời Tây Chu, nhốt các loại mãnh thú như hổ, báo, gấu, tì (một loại ác thú) để kỷ niệm cuộc gặp gỡ giữa Tây Bá và Chu Công, một cuộc giai ngộ của "rồng mà không phải rồng, hổ mà không phải hổ, gấu mà không phải gấu", một cuộc gặp mà nên nghiệp bá, nhưng về sau thì nơi đây chỉ để thuần tuý thưởng ngoạn. Bình thường thì bổ báo đều được nhốt trong cũi. Vì vậy, Nghi Cữu khi phát hiện ra đây là khu hổ báo nhưng trong lòng không chút lo sợ. Tuy vậy, đi trước vài bước, Thái tử cảm thấy có điều không bình thường: trong vườn không một bóng người, những người trông nom vườn thú đều không thấy mặt. Đang phân vân thì chợt có tiếng gầm dữ dội, con hổ vằn vốn được nhốt cẩn thận, đã vọt ra khỏi chuồng, Thái tử thoáng thấy một bóng người phía sau chuồng hổ thì chợt hiểu đây là một âm mưu.

 Giữa lúc nguy cấp, Thái tử lại tỏ ra rất bình tĩnh. Khi con mãnh thú chồm tới, Thái tử không hốt hoảng bỏ chạy, trái lại cũng tiến đến đối mặt với con hổ và bất giác cũng gầm lên một tiếng khiến con hổ giật mình lùi lại, nằm phục xuống. Nghi Cựu nhân đó mà thoát thân.

U Vương mưu kế không thành rồi cũng quên đi, chỉ có Bao Tự thì không quên, không bao giờ cười nữa. Trước tình hình đó, U Vương lo thắt ruột, ngày đêm suy nghĩ làm sao để Bao Tự lại cất tiếng cười.

 

2. ĐÁNH ĐỔI GIANG SƠN LẤY TRẬN CƯỜI, ĐỐT LẦU PHONG HOẢ ĐỂ MÀ CHƠI

Một buổi sáng tháng 12 năm 722 (trước công nguyên0 tại quốc đô Cảo Kinh (nay là tây nam thành phố Tây An, Thiểm Tây), rất nhiều ngưòi xôn xao bàn tán trước bản cáo thị viết trên giấy da dê. Thì ra đây là một giải thưởng. Cáo thì nói rằng, quốc mẫu Bao Tự vì lo việc nước, không thiết mở miệng cười, vì vậy, ai có kế lạ khiến quốc mẫu cười, lập tức được thưởng ngàn vàng.

Cáo thị vừa ban bố, lập tức có kẻ hiếu kỳ chạy đến nước Bao, báo cho bố nuôi của Ba Tự là Bao Chước. Bao Chước tham ngàn vàng, nghĩ ra một kế: đề nghị U Vương trữ rất nhiều lụa. Thì ra, hồi nhỏ Bao Tự rất thích nghe tiếng xé lụa, Bao Chước nghĩ rằng cứ xé thật nhiều lụa chắc chắn Bao Tự sẽ cười. Nào ngờ "tích cũ diễn lại" không ăn thua, Bao Tự hoàn toàn không còn thích tiếng xé lụa, nói gì đến mở miệng cười? Bao Chước không những không được thưởng, mà còn bị một phen bẽ mặt.

U Vương thấy ngay cả cha nuôi của Bao Tự cũng không thể làm  cho nàng cười thì trong lòng rầu rĩ, liền tăng tiền thưởng.

Người ta có câu; "Cứ thưởng lớn, tất có kẻ bạo gan", liền thưởng lên đến hai ngàn vàng, liền có người hiến kế.

Người hiến kế là ai? Đó là Qoắc Thạch Phụ. Ông này thuộc loại "trên đầu có bướu", một con người đầy mưu mẹo. Nói ra thật xấu hổ, ông ta cũng là đại thần nhà Chu, có điều, ông ta không giúp vua trở thành Nghiêu Thuấn, trái lại rắp tâm đẩy chủ vào tà đạo. Thấy nhà vua cuống quýt. Ông ta hiến ngay một kế: đốt lầu phong hoả để ghẹo các chư hầu.

Số là, cuối đời Tây Chu, vua mê muội, bề tôi ngu dốt, rất nhiều nước trong số "tám trăm nước chư hầu" của vương thất nhà Chu không chịu thần phục. Minh văn khắc trên "Vũ đỉnh" chép rằng, khoảng giữa và cuối thời kỳ chấp chính của Chu Tuyên Vương (cha của U Vương), Ngạc Hầu vốn thuộc nhà Chu đã liên kết với Đông Di và Nam Hoài Di tấn công vương thất nhà Chu, đánh thẳng tới vùng phụ cận của kinh thành. Vua Tuyên Vương dốc hết binh lực trong nước, lại được một số chư hầu có bụng trung thành đem quân giải vây, mới đánh bại được quân phiến loạn. Cuộc chiến đã cho thấy sự suy yếu về thực lực quân sự của nhà Chu nên một số bộ tộc thiểu số láng giềng như Khương Nhung, Khuyển Nhung liên tiếp xâm phạm, gây bao phiền phức cho vương thất nhà Chu. Để đề phòng sự quấy nhiễu của Khuyển Nhung, tập đoàn thống trị Tây Chu cho xây dựng hơn 200 đài phong hoả trên núi Li gần Cảo Kinh. Thời xưa, việc thông tin liên lạc còn rất nguyên thuỷ, chỉ dựa vào sức người để truyền đạt, nên tính thời hiệu rất thấp. Sau khi có đài phong hoả, hễ có địch, liền đốt phân chó sói trên đài (nghe nói đốt bằng phân chó sói thì khói bốc rất cao), trong vòng mấy dặm đều trông thấy. Đài nọ báo cho đài kia, chỉ một thoáng, tình hình quân sự trong vòng mấy chục dặm đã sáng tỏ. Nghe  nói đài phong hoả trên núi Li Sơn của Chu U Vương là để gọi các chư hầu đến cấp cứu. Nói cách khác , khi đài phong hoả đốt lên, các lộ chư hầu đều biết là có giặc uy hiếp kinh thành, bất kể ngày đêm đem quân về cứu. Quắc Thạch Phụ coi đây là một tuyệt chiêu, xui U Vương cứ đốt đài phong hoả, khiến chư hầu bị hẫng khi đem quân về cứu ứng, gây cười cho Bao Tự.

U Vương rất đỗi vui mừng. Nhà vua hoàn toàn không nghĩ đến hậu quả nghiêm trọng của việc đốt đài phong hoả bèn lệnh cho người đốt đài, còn nhà vua thì dắt Bao Tự lên đài bí mật quan sát tình hình.

Lại nói các lộ chư hầu thấy các đài phong hoả trên Li Sơn đều bốc cháy, tưởng rằng Khương Nhung, Khuyển Nhung lại đem quân đến vây hãm kinh thành, liền đi gấp ngày đêm, người không cởi giáp, ngựa không tháo yên, xộc thẳng tới Li Sơn.

Lúc này đang là tháng mười hai, nước đóng băng. Khi các lộ quân cần vương kéo quân đến châ núi Li Sơn, ai nấy đều trở thành "Bạch mã tướng quân", băng tuyết bám đầy khôi giáp, như con ngựa trắng.

Bao Tự ngồi uống rượu trên đài cao trông thấy tình cảnh đó, nhất là khi nghe U Vương tuyên bố "Đây chỉ là một trò đùa nho nhỏ, chẳng có giặc giã gì đâu" thấy các lộ hầu tỏ ra vô cùng thất vọng, ngơ ngác và ủ rũ, Bao Tự không nhịn được, bật cười một tiếng. Đúng là tiếng cười sáng bừng khuôn mặt. Khiến U Vương thấy bao tâm huyết của nhà vua là đáng giá, lập tức ban thưởng cho Quắc Thạch Phụ hai nghìn lạng vàng. Hoa nào cuống ấy, lại nói sau khi Thá tử Cơ Nghi Cựu trốn khỏi Cảo Kinh, chạy một  mạch sang nước của cậu ruột là Thân Hầu. Cơ Cung Niết đã không biết thẹn với con mình đẻ ra, trái lại còn hạ lệnh bắt tội luôn cả Thân Hầu, người đã chứa chấp Thái tử. Sự tình đã đến bước này, Thân Hầu đành liên kết với Khuyển Nhung cất quân đánh Cảo Kinh. Quân đến dưới thành tiến sát hào thành, Cơ Cung Niết mới biết, liền ra lệnh đốt khói trên lầu phong hoả. Bọn vệ sĩ dưới quyền tuân lệnh, nhưng các chư hầu đã bị lừa một lần, không thích bị lựa lần thứ hai, ai cũng cho rằng đây lại là câu chuyện ngụ ngôn cho sói làng nước ơi, nên không một chư hầu đến ứng cứu.

Quân lính phòng thủ Cảo Kinh vốn oán ghét Cơ Cung Niết mê muội thiếu sáng suốt, bất mãn với hành động ngang ngược của Quắc Thạch Phụ, nên không một ai thật lòng cứu giúp nhà vua, sau một hồi hò la lấy lệ, quân lính tản mát, bỏ đi sạch. Thấy tình thế bất lợi, Cơ Cung Niết dẫn Bao Tự và Bá Phục chạy trốn, trên đường đi, lại sai đốt khói lần nữa, nhưng vẫn không một ai đến ứng cứu. Cơ Cung Niết bị vây chặt không còn lối thoát, chết trong đám loạn quân, Bá Phục cũng trở thành qui không đầu, còn người đẹp Bao Tự thì trở thành chiếm lợi phẩm của vua Khuyển Nhung.

Thật là:

Dòng lệ đắng chảy tràn

Câu chuyện sao quái đản!

Bảo rằng U Vương ngu,

Đâu biết U Vương khổ!

Còn bị người giết,

Vợ làm vợ người ta!

Manh danh một ông vua,

Mà đời như canh bạc!

Để lại một chuyện cười,

Hoang đường vào bậc nhất!

 

 

 

 .............................................................................................................

- Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng giữ bản quyền. 

- Cập nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

.

0 comments:

Đăng nhận xét