LỆ LÀNG VIỆT NAM TRONG TÂM THỨC DÂN GIAN - Tác giả: Hồ Đức Thọ (Nam Định)

Leave a Comment

 

LỆ LÀNG VIỆT NAM

TRONG TÂM THỨC DÂN GIAN

(Tác giả Hồ Đức Thọ - Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin 1998

Sách do Công ty Văn hóa Bảo Thắng giữ bản quyền)

*

LỜI NÓI ĐẦU

Trong quá trình đấu tranh giữ nước và dựng nước của dân tộc Việt từ buổi sơ khai đến chế độ phong kiến và cả trong thời kỳ cận hiện đại, vấn đề làng xã luôn đóng vai trò hết sức quan trọng. Có thể nói từ hạ tầng cơ sở làng xã đã bộc lộ khía cạnh phát triển của xã hội về nhiều mặt, nói khác đi là vị trí nông thôn Việt Nam, vai trò sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp và đời sống văn hoá phía sau các luỹ tre xanh đã là yếu tố cấu thành xã hội, là động lực đưa đời sống vật chất làng quê vươn lên.

Lệ làng ghi trên giấy, khắc vào bia đá, hoặc chỉ bằng sự truyền khẩu đều là những quy định về luật lệ, khuôn phép của nước, của làng, của cả dòng họ để mọi thành viên trong cộng đồng thực hiện. Những quy định trong lệ làng, trong hương ước là những đúc kết có sự bàn bạc, xét duyệt là sự phản ánh trình độ dân trí mà tập tục là những biểu hiện cụ thể về từng mặt. Các thành viên có nhiệm vụ thực hiện, sao chép cho lớp người đương đại và các thế hệ tiếp nối theo đó mà hành động, giữ gìn nếp cũ quê hương: "Đất lề quê thói"

Lệ làng còn là phép tắc về việc phụng sự thần thánh và các vấn đề khác ở nông thôn. Nó vừa thể hiện cuộc sống vật chất, tinh thần, vừa là động lực phát triển sản xuất được mọi thế hệ, đẳng cấp trong cộng đồng tuân thủ. Do vậy, việc nghiên cứu lệ làng, nhất là lệ làng trong tâm thức dân gian, trong văn hoá tư duy, văn hoá trong hoạch định phương hướng, chính sách về mọi mặt sản xuất, xã hội cần được coi trọng. Phải khẳng định đây là yếu tố văn hoá truyền thống, hoà nhập với yếu tố hiện đại theo định hướng chung là xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như tinh thần văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra. Có thể coi lệ làng như một "bộ luật" nhỏ của từng hạ tầng cơ sở. Mọi tục lệ đều đơn thuần, na ná như nhau, mà mỗi làng xã đều có đặc thù riêng thể hiện sự độc lập của từng cộng đồng. Gần nhau mà tập quán khác nhau, đời sống tâm linh về tôn giáo cũng khác nhau.

"Thánh làng nào làng ấy thờ"

Cộng đồng làng xã trước đây có một vị trí mà chính quyền đương đại chấp nhận để cho nó tự quản và quyền hành tự quản được đề trong lệ làng, hương ước. Quyền hành lệ làng còn được bàn tay vô hình của thần, thánh là đấng tối cao trong tâm thức dân gian chứng minh. Do vậy mọi người không thể không chấp hành.

Không chỉ nhà nước phong kiến mà kể cả nhà nước thực dân cũng thừa nhận và có dụng ý cho địa phương có quyền hành để độc lập tự quản, khiến thượng tầng không cần với tới cơ sở mà vẫn đạt yêu cầu thống trị, đồng thời làm tăng sự khép kín, tính bảo thủ, cục bộ ở cơ sở. Từ đó, giai cấp thống trị dễ dàng cai quản hơn và điều này cũng bộc lộ sự tiêu cực, hạn chế trong cái nét riêng, niềm tự hào riêng của từng cộng đồng, làng xã:

"Trống làng nào làng ấy đánh"

Lệ làng, nhất là tục lệ liên quan đến tín ngưỡng dân gian đã có từ lâu đời và cũng được nhiều tác giả đề cập đến trong nhiều tác phẩm như: "Việt Nam phong tục" của Phan Kế Bính, "Làng Việt Nam một số vấn đề về kinh tế - xã hội" của Phan Đại Doãn, "Hương ước và quản lý làng xã" của Bùi Xuân Đính, những bài đăng trong tập văn hoá đại cương và cơ sở văn hoá Việt Nam, về văn hoá làng và làng văn hoá của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Quý, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Thành Duy, Phó Giáo sư Vũ Ngọc Khánh... đã mở ra nhiều đường hướng tới tìm hiểu, nghiên cứu về nông thôn Việt Nam.

Để góp phần trong lĩnh vực nghiên cứu hạ tầng cơ sở - sau hàng chục năm tiếp cận với hàng trăm ngôi đình, chùa, đền, miếu; đọc nhiều hương ước, văn bia; chứng kiến nhiều lễ hội ở một số tỉnh ba miền Bắc, Trung, Nam; được Hội văn nghệ dân gian Việt Nam quan tâm khích lệ, các cơ quan hữu quan từ Trung ương, tỉnh đến các cơ sở giúp đỡ - chúng tôi trân trọng giới thiệu tập “Lệ làng Việt Nam”, một cuốn sách viết về các tục lệ liên quan đến sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, đến trật tự an ninh ở thôn xã, đến sự học hành thi cử, đến mỹ tục hương thôn, đến việc bảo vệ môi trường thiên nhiên của một số miền quê Việt Nam.

Những tục lệ đề cập nhìn chung đều là nét đẹp, là bản sắc dân tộc. Song vẫn có những tục lệ không phù hợp, nên cần phải được loại bỏ. Có tục lệ liên quan đến tín ngưỡng còn được duy trì nhưng giảm nhẹ hoặc biến tướng, hoặc đang được phục hồi một cách khiên cưỡng, làm sai lệch bản chất của nó, hoặc chạy theo cơ chế thị trường... Vì vậy nghiên cứu lệ làng để gạn đục khơi trong, góp phần làm đẹp thêm truyền thống quê hương, dân tộc là việc làm cần thiết, nhất là trong tình hình hoà nhập mở cửa như hiện nay.

Để bạn đọc tiện việc nghiên cứu chúng tôi xin điểm khái quát các tục lệ theo thứ tự sau:

1. Tỉnh Hà Nam, cửa ngõ thủ đô là vùng đất có nhiều sự kiện lịch sử từ thời vua Hùng dựng nước, đến các giai đoạn đấu tranh giành độc lập tự chủ: của các thời Lý, Trần, Lê. Vì vậy, các đền thờ ở đây, ngoài việc là nơi thể hiện nghi thức lễ bái sao cho trịnh trọng, tỏ rõ ý thức truy tư công đức đối với người có công với dân, với nước thì còn các tục lệ đặc trưng như tục tắt đèn khi lễ ở Phù Thụy, Thanh Sơn, phản ánh ước vọng bảo tồn nòi giống từ buổi bình minh lịch sử. Hội khai sơn (mở cửa rừng) cho dân đi làm nương, rẫy ở đền Mẫu Lạt Sơn, hội hát dặm ở Quyền Sơn chào mừng chiến thắng Lý Thường Kiệt. Và nhớ chiến công của vương triều Trần và của nữ tướng Lê Thị Liên, một lương y có công chữa bệnh cho quân đội, tạo thuận lợi để quân Trần đại thắng đế quốc Nguyên - Mông, lệ làng Thanh Nộn có đọc bài "Phú cửa đình" mỗi khi mở hội, để mọi người đều thuộc, đều có trách nhiệm với đình quê.

+ Đình Phương Lâm thờ các tướng phù nhà Lý đánh giặc Chiêm, hàng năm kỷ niệm các tướng Hoàng Đình Độ, Hoàng Đình Thụ có tục cúng hổ tại nấm "Bái tướng" và tục thi vật trước cửa đình. Đây là hội vật được duy trì từ lâu đời và đang được phát huy.

+ Làng Cao Đà xã Nhân Mỹ, nhờ quan Hành khiển Trương Hán Siêu thời Trần mà tái lập được làng, lại có nghề mộc nổi tiếng nên trước khi vào đám, có lệ đem lễ vật lên xóm Quý Du, nơi có miếu thờ Trương Hán Siêu để lễ cáo, hôm sau mới khai hội.

+ Thôn Đồng Du Trung huyện Bình Lục nhờ các tổ về khai khẩn nên có lệ tế tại Giang Đình (đình thờ ở bến sông), ôn lại chuyện xưa các tổ về đây kiếm cá sinh nhai và khai khẩn lập quê mới. Từ ý thức đối với các tổ nên có lệ mỗi nhà đóng 5 thước ruộng để lấy nguồn làm lệ tế tổ tiên ở đình, lệ khao thổ ôn, thổ khí, tiễn ôn dịch, lệ bắt chuột, bắt sâu để bảo vệ mùa màng.

+ Nhiều làng quê tỉnh Hà Nam, đặc biệt là làng Văn ấp, huyện Bình Lục có tộc phả họ Trần ghi năm 1780 về việc con cháu phải noi gương cụ tổ Trần Tất Đạt quan cao, giàu sang và thương người nghèo khổ. Ông cho đắp đê, lập kho thóc để chẩn bần, giúp tiền, chữa bệnh cho dân. Tục lệ trong họ có khảo văn, thờ đầu năm. Đặt giải thưởng bằng hiện vật, bằng ruộng cho ai đoạt giải. Lệ còn quy định trong họ phải làm đúng việc tang lễ, việc quan hệ thứ bậc. Tục lễ tạ khi thành đạt trước tổ đường và quy định nộp tiền gây quỹ họ khi được thăng quan tiến chức, đồng thời đề ra các hình thức kỷ luật đối với người trong họ phạm tội, chơi bời...

+ Làng An Đổ có lệ mỗi gia đình nộp cho làng một đồng tiền, gọi là "tiền nhất tâm" và một bát gạo tẻ để làng lo làm kỵ thánh, trong hội thì dùng rượu cúc để thể hiện sự cao quý (hoa cúc trái thời mà vẫn đẹp, vẫn thơm). Lệ cho ai làm nghề thủ công như nghề rũa cưa, đánh đao, hái, cày, bừa... phải dâng "đồ khéo" tức là các mặt hàng đẹp và được nhận một cân thịt, một đĩa xôi, một cắp bánh.

+ Làng Dâu có sự kiện ba chị em: ả Đào, Nguyễn Phương, Nguyễn Quế cùng dân Tiên Lý, Mỹ Đôi huyện Bình Lục đánh phá doanh trại giặc Minh nên lễ hội ngày 14 tháng 2 diễn lại sự tích phá trại giặc, rồi đem "xác giặc" ném ra rìa làng như chuyện trên 500 năm trước.

+ Tỉnh Hà Nam còn có tục giao bảo giữa hai làng Văn Xá thuộc hai huyện Lý Nhân và Thanh Liêm. Tục này thể hiện sự khiêm nhường trong khi chào hỏi nhau, cùng nhau lo trách nhiệm phụng sự Thánh phụ, Thánh Mẫu và cùng nhau gánh vác chia xẻ khi gặp khó khăn.

"Đắp đê sông Hồng có bác Văn Lâm

Cứu đê Tái - đầm có anh Văn Xá".

Khi vào đám, đại biểu hai quê tay bắt mặt mừng, tế lễ, ca hát thật tràn trề tình cảm.

+ Làng Đô Quan huyện Duy Tiên có tục vờn cầu, tục nuôi "ông ỷ" để thi lấy lợn đẹp cúng thánh và đặc biệt có lệ thi nhặt tiền đồng quanh miệng giếng, ôn lại sự tích thần Đông Hải phát lộc cho dân.

+ Tục lệ làng Và huyện Bình Lục (là quê hương Tam nguyên Nguyễn Khuyến) được ghi niên hiệu Tự Đức thứ 34 (1881). Đây là tục lệ đề cập đến thuyết phong thuỷ, đến việc chuyển chợ, việc làng, tục yến lão, tế sống các ông "Chuồi" đến tuổi 80, việc chia phe giáp để giữ gìn đoàn kết và đặc biệt có bà Hậu Cẩm được làng cử thay quyền lý trưởng. Tiếp sau đó là hội đồng tộc biểu (cải lương). Vào đầu thế kỷ XX tục lệ làng Và có những nét mới, những thay đổi mà ít nơi có. Phải chăng đây là tiền đề để xã hội dân chủ ra đời, tiến tới ban hành các luật lệ phù hợp với đời sống hiện tại hơn, gìn giữ nét đẹp cổ truyền trên cơ sở có phê phán, giúp đời sống văn hoá nông thôn hoàn mỹ hơn.

2. Tỉnh Nam Định xưa là lộ Thiên Trường, với cương vực rộng lớn. Sau thuộc Sơn Nam hạ trấn, lại đổi thành tỉnh Nam Định như ngày nay. Nam Định thuộc hạ lưu châu thổ sông Hồng. Một tỉnh vừa có bề dày lịch sử từ buổi bình minh đến các thời đại Lý - Trần, vừa là miền duyên hải trù phú với lịch sử khai hoang lấn biển, tạo các miền quê mới dồi dào kinh tế, vừa đậm tính nhân văn.

Nói đến Nam Định phải nghĩ tới quê hương nhà Trần, một vương triều mở nghiệp, gìn giữ cơ nghiệp đều rất vẻ vang. Phải nghĩ tới một mảnh đất có truyền thống văn học, lịch đại đã ghi nhận nhiều nhà khoa bảng, nhiều danh nhân văn học nổi tiếng. Nhiều người cho Nam Định là tỉnh vừa "có đất" về võ nghiệp và văn trị, vừa có tài về sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp.

Từ những yếu tố trên đây nên lệ làng trong tâm thức dân gian càng phong phú, càng mang sắc thái bản địa một cách rõ rệt.

+ Lệ ngạch tại khu di tích đền Trần - Bảo Lộc là nơi thờ các vua Trần và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, không chỉ riêng đối với các xã Lộc Vượng, Mỹ Phúc, mà nó còn thu hút hàng triệu người từ khắp mọi miền Trung, Nam, Bắc về với dấu cũ, quê hương các hoàng đế nhà Trần, về với đền thờ vị anh hùng dân tộc Hưng Đạo Vương. Điều đáng lưu ý ở đây là tâm thức dân gian đã biến hoá tài thao lược đánh bại hàng chục vạn quân Nguyên - Mông của Trần Hưng Đạo thành tài trừ tà ma hưng lợi cho dân, cứu dân được tai qua nạn khỏi nên trong lễ hội có hình thức "lễ bán". Khi sinh con nếu thấy con không khoẻ mạnh thì xin đặt tên "bán" cho con, lên đồng khi ốm đau, bắt tà ma, lệ khai ấn Trần triều để xin về treo tại nhà... Tâm thức dân gian coi Trần Hưng Đạo như người cha thiêng liêng, dịp 20 tháng 8 phải về làm lễ, có người còn về để trình giầu, trình lính...

"Tháng tám giỗ cha"

+ Chùa, đền Đô Quan xã Yên Khang, ý Yên Nam Định thờ Phật và thờ tướng quân Trần Nhân Trứ. Ông là tướng tài phò tá Hưng Đạo Vương đánh bại đế quốc Nguyên - Mông, có biệt tài chơi cờ, đánh đàn nên người xưa đặt tên cho dòng sông, cánh đồng quê hương là sông Cầm, cánh mả Cầm. Ngọc phả còn ghi khi đánh cờ ông đã thắng Hoàng đế nhà Trần, cùng các đại vương, được thưởng hàng trăm mẫu ruộng, biến thành "lộc điền" cho dân. Ngày kỵ 25 tháng 8 thường có lệ làm bánh, nấu chè, đơm xôi cao có ngọn để tỏ lòng tri ân công đức. Và các trò bơi thi trên sông Cầm, đánh cờ trong ngày hội, đêm đêm ca hát cũng là những tục lệ mang nặng nghĩa tình, đậm đà bản sắc dân tộc.

+ Lệ làng Hạ Kỳ trong ngày hội kỷ niệm tướng Đinh Lôi, có công giúp nhà Trần đánh giặc và chữa bệnh, trừ dịch cho dân. Đồng thời tưởng nhớ tứ tổ họ Hoàng, Nguyễn, Vũ, Khương đã tạo cho vùng quê này hàng ngàn mẫu ruộng.

Trong hội thường có lệ thi thổi cơm, thi giã bánh để ôn lại quá trình hành quân đánh giặc của ông. Lệ rước thổ công, chúa lúa, xay lúa, làm ra lửa vừa vui, vừa gợi lại cảnh gian nan mà các tổ đã vượt qua, từ đó khiến mọi người thêm yêu mến, gắn bó với quê hương.

+ Huyện Đại An xưa còn có tên Đại ác, gần biển, giáp sông, đồng đất thấp trũng bị úng lụt, vỡ đê nên ngoài nghề nông, nhân dân còn phải mở rộng nghề thủ công, lập chợ buôn bán tiếp xúc với người tứ xứ và cả người Hoa. Lệ ngạch khá đa dạng.

+ Thôn Phúc Chỉ xã Yên Thắng thờ tướng quân Trần Nhật Duật là người ham thích ca hát, thường lệ có lệ chọn các thanh tân, đồng tử múa hát trước ban thờ thần.

+ Đền Ngọc Chấn xã Yên Trị thờ tướng quân Đặng Dung là người giỏi thuỷ chiến, có công phù nhà hậu Trần đánh giặc Minh, khi chết anh linh. Có thuyết nói ông kịch chiến với Điền Quận công thời Lê, do đó có lệ làm thuyền chiến bằng giấy để dâng trước cửa đền và tục bơi thuyền trên sông, khi qua cửa đền phải có sự giao chiến giữa hai bên, để hồi tưởng sự việc thần đã đánh bại Điền Quận công xưa kia.

+ Lệ làng Tướng Loát, Hạc Bổng, Thôi Ngôi liên quan đến tướng Ngô Quý Duật đánh giặc Minh thời hậu Trần. Ông còn là tổ khai khẩn vùng đất ven sông Đáy. Em gái ông là Ngô ái cũng thường góp công sức cùng ông mở mang điền địa cho vùng quê này, nên trong lễ hội, ngoài việc cúng lễ còn có lệ rước kiệu thánh đến thăm những dấu tích lúc sinh thời thánh về dựng nghiệp.

Ba thôn này còn có lệ kiêng đánh trống trong hội, với truyền thuyết có ba trẻ cưỡi trâu, nghe tiếng trống, trâu lồng nên bị ngã chết, sau dân lập đền thờ thể hiện sự thương xót, lòng nhân ái của quê hương.

+ Huyện ý Yên tỉnh Nam Định địa hình phức tạp, nông dân không chỉ dựa vào cây lúa, mà phải còn làm các ngành nghề thủ công tạo cuộc sống ấm no, do vậy các làng nghề trong vùng phát triển khá nhiều.

+ Thôn Ninh Xá, thôn La Xuyên thờ ông tổ nghề mộc, lại là quan "Công tượng lục phủ giám sát" thời Đinh - Lê, đã tạo cho hai làng nghề có truyền thống mộc, chạm. Và đặc biệt là nghề nghiệp ở đây được phát huy ngày càng nhiều, càng hiệu quả nên với tấm lòng chân quê, làng đặt lệ thổi cơm thi để chọn cơm ngon, tinh khiết dâng cửa thánh, ngoài ra còn dâng cửa thánh các "đồ khéo", trưng bày các mặt hàng đẹp. Ai đi xa làm ăn, phải ra đền lễ tạ vào ngày 6 tháng giêng, làm ăn khá giả phải có ý thức đóng góp, tu bổ đền..

+ Nghề đúc ở Tống Xá ngày càng phát triển. Từ một nghề đúc đồng chuyển thành đúc cả gang, cả nhôm. Từ đúc lẻ tẻ tiến tới có hàng chục hợp tác xã và các Công ty nên dịp 15 tháng 9 kỷ niệm thánh tổ Nguyễn Minh Không, nhân dân tổ chức bơi chải ôn lại sinh thời của thánh. Làng còn có lệ thi làm khuôn, làm bễ. Ai thắng sẽ được thưởng, được uống rượu lộc trước tượng thánh. Lệ làng cấm truyền nghề cho con gái và phải dìu dắt, cứu giúp đồng nghiệp khi khó khăn, cơ nhỡ...

+ Thôn Cát Đằng xưa là Lư Châu có nghề sơn then nổi tiếng. Tại đây có đền thờ vua Đinh và các tổ nghề nên dịp kỷ niệm 12 đến 14 tháng giêng, ngoài việc tế lễ tưởng niệm, còn ôn lại lai lịch làng nghề, truyền thống làng nghề và đọc bài ca cổ nhắc nhở lệ làng, tự hào nghề nghiệp:

"... Làng ta là đất thợ sơn,

Bước đi thiên hạ thì hơn mọi nghề..."

+ Làng Vân Chàng xã Nam Giang có nghề rèn rất nổi tiếng và đây là nghề truyền thống được duy trì, phát triển mạnh mẽ, đời sống nhân dân hạnh phúc, ấm no. Hàng năm đến dịp 15 tháng giêng tổ chức kỷ niệm "lục vị tổ sư", mọi người, mọi nhà phải vệ sinh làng xóm, sửa chữa đền đài để lo việc phụng nghinh các tổ đi thăm đền, chùa cảnh hương thôn. Các tốp thợ giỏi thì tiến cúng vào đền những mặt hàng giá trị. Các tốp thợ đi xa làm ăn, hay chuyển cư đi nơi khác đến ngày hội cũng đều về làm lễ tỏ lòng biết ơn. Lớp người già Vân Chàng ngoài việc động viên con em chuẩn bị hàng hoá, bán trong dịp chợ Viềng năm sau (8 - tháng giêng), còn đọc bài thơ nói về truyền thống làng nghề để mọi người ghi nhớ.

+ Nam Định là vùng quê văn hiến, sự học ở đây có nhiều quy định, động viên khác nhau. Các tổng, xã thi đua học. Nhiều địa phương có người đỗ đạt, có chế độ phụng sự tại văn từ, văn chỉ thờ thánh sư dạy chữ. Đối với các bậc đại khoa còn được lập đền thờ riêng, thể hiện ý thức trân trọng của nhân dân.

Các xã Trực Cường, Hương Cát - Cát Thành, Nam Lạng - Trực Tuấn còn văn bia, dấu tích văn chỉ nói lên việc học ở địa phương. Văn bia Nam Lạng còn ghi tục lệ để ruộng "học điền", để ruộng nhang đăng cho văn chỉ, cũng như lệ ngạch tế lễ tiến thánh, tiên hiền, hương hiền của quê hương.

+ Thọ Vực thuộc xã Xuân Phong huyện Xuân Trường là vùng đất được mở mang vào thế kỷ XV. Lịch sử mở đất lập làng, cùng những quy định về các mặt văn hoá xã hội được ghi trong tập "Thọ Vực xã chí gia huấn diễn ca". Đây cũng là tư liệu nói tới hội đồng tộc biểu ở nông thôn (1924), nói tới việc cheo cưới, việc hiếu ở nông thôn. Tập diễn ca này gồm 10 điều, từng điều có khía cạnh khác nhau, song đều bổ ích khi muốn nghiên cứu về nông thôn Việt Nam.

+ Làng Thi xã Xuân Hy huyện Xuân Trường có nguồn gốc từ xã Xuân Hy phủ Bắc Hà, sau là Xuân Phương, Xuân Mai, Phúc Thắng huyện Kim Anh tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Mê Linh Hà Nội. Đầu thế kỷ XV tướng quân Ngô Miễn thời Hồ, rồi kế tiếp là Đỗ Quận Công, Trần Quận Công tổ chức khai khẩn lập vùng quê mới Xuân Hy, Xuân Bảng. Do vậy quan hệ giữa làng cựu, làng mới khá chặt chẽ. Hương ước ghi việc kính trọng người già, con phải có hiếu với cha mẹ và ngược lại cha mẹ phải có trách nhiệm với con cháu. Hương ước còn đề rõ việc tôn sư trọng đạo, việc khoan dung với phụ nữ không may hoang thai, cũng như việc hai làng Cựu - Tân có trách nhiệm đùm bọc, giúp đỡ nhau lúc khó khăn.

+ Làng Đồi Trung thế kỷ XVIII lại có lệ ngạch: Không phân biệt dân gốc hay ngụ để tăng cường đoàn kết. Bãi lệ nộp cheo và làng giúp tiền khi lấy vợ hoặc sinh đẻ con trai, con gái. Làng còn giúp đỡ khi hoàn cảnh cơ nhỡ, ốm đau và có người chết cũng như có người đi lính xa quê. Hương ước ghi việc trừng trị kẻ trộm cướp cũng như phạt chức dịch sách nhiễu nhân dân. Ghi việc bố phòng các điếm canh để giữ gìn an ninh, việc lễ tiết đối với các đền trong xã, việc thuế má của địa phương, tránh tình trạng phụ thu lạm bổ sách nhiễu nhân dân... Trong những lệ ngạch từ trên 200 năm trước này có những tình tiết mang tính bình đẳng, dân chủ. Đây cũng là nét đẹp cần được nghiên cứu, phát huy trong xã hội hiện đại.

+ Phủ Giầy nơi thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh mang đậm màu sắc tâm linh. ảnh hưởng của Phủ Giầy không chỉ đối với Nam Định mà còn đối với cả nước, đối với một số đồng bào xa quê bên kia đại dương. Người đời suy tôn bà là mẹ và hàng năm không quên đi trẩy hội Phủ Giầy, trong ngày kỵ 3 tháng 3 Thánh Mẫu mất.

"Tháng ba giỗ mẹ"

Nhiều thư tịch, bi ký nói về tục cũ trong ngày đại lệ. Các phủ Tiên Hương - Vân Cát còn lưu nhiều văn bia nói về tiến cúng ruộng để chi dùng trong ngày hội "hoa trượng" (gậy hoa), tưởng nhớ lại công ơn của Mẫu đối với nhân dân Thiên Bản. Bia cúng ruộng phục vụ việc thờ tự ở Phủ Giầy của hội Tập phúc trong huyện, hoặc ghi việc phụng sự hội tháng 3 của hai xã Kim Thái - Thái La. Văn bia của đệ tam giáp tiến sĩ, Đốc học Hải Phòng Nguyễn Văn Tính viết về Vân Cát Thần nữ là một trong sáu xứ lạ đất Thiên Bản và nói chợ Viềng đầu xuân cùng lệ tháng 3, có ức vạn người từ bốn phương về chiêm bái. Văn bia cũng nói hai làng Vân Cát - Tiên Hương vốn xưa cùng xã Yên Thái, một là hai, hai cũng là một vậy!

Các văn bia khác còn nói tới ruộng lệ ở đền phủ Vân Cát, việc dùng lễ vật như 1 con bò, 2 mâm xôi, 1 buồng cau, 2 vò rượu để lễ chính kỵ. Phải chăng từ đây mà hội Phủ Giầy thường không thiếu món thịt bò thui, ai cũng muốn mua dăm, ba lạng và một vài thứ khác lấy may trong dịp đầu năm.

Sách Tiên Hương Linh từ còn ghi lịch trình phụng nghinh Thánh Mẫu từ Phủ Giầy vào Sòng Sơn. Ghi về ngày chợ Viềng đầu năm coi như chợ Xuân, bà con nô nức kéo về quê Thánh Mẫu xin lộc.

Hội Phủ Giầy, một tín ngưỡng dân gian mang tính tôn giáo vùng lúa nước Việt Nam, thể hiện trông chờ yếu tố thần linh trong hoàn cảnh thiên nhiên, xã hội còn khó khăn mà con người chưa đủ điều kiện làm chủ. Trong yếu tố tâm linh không phải không có tính tích cực và cũng không phải là không có phần hạn chế. Song hội Phủ Giầy đáp ứng nhu cầu tinh thần của quảng đại nhân dân, cần được trân trọng. Lại cần uốn nắn những hạn chế, lệch lạc để ngày hội "mẹ" được hoàn hảo, viên mãn.

3. Lệ làng Dương Xá huyện Hưng Nhân tỉnh Thái Bình có những nét đặc biệt mang tính làng chài. Ngày giỗ vua và các tổ lập làng thường dùng cá chép, lành canh, trôi, trắm và mè để cúng. Cúng xong đem cá thả ra sông. Các lệ khác như cúng thuỷ thần, thổ công đều quẳng lễ vật xuống sông, thả cá xuống sông hoặc ao đền. Trong làng chài còn có sự giúp nhau làm ăn, hoặc làm tròn nghĩa vụ phu dịch đối với làng xã, thể hiện tính cộng đồng nghề nghiệp và ý thức đối với xã hội.

4. Tỉnh Ninh Bình với dãy núi đá vôi hùng vĩ đã tạo nên hang động kỳ quan, cảnh trí thiên nhiên kỳ tú. Người xưa đã khéo kết hợp giữa cảnh quan và công trình để tạo dựng kinh đô Hoa Lư trong vòng cung núi đồi trùng điệp để thủ thế, giữa bối cảnh thế kỷ X mới yên giặc trong, giữ được nước khi thù ngoài đang lăm le thôn tính.

Kinh đô xưa đã đi vào dĩ vãng và thay thế bằng đền đài thờ hai ông vua anh hùng của dân tộc. Toà ngang dẫy dọc của công trình, với đồ thờ tự, tượng pháp uy nghi khiến đồng bào trong nước, ngoài nước trầm trồ khen ngợi các di sản văn hoá tiêu biểu mà tiền nhân để lại.

Trong kho tàng văn tự quý giá ở đây, còn có cả những văn bia nói rõ công trạng của Đinh Tiên Hoàng đế, đồng thời ghi lệ ngạch mà triều đình, hàng huyện, hàng tổng phải có trách nhiệm thực hiện như tế lễ, mở hội đáp ứng đời sống tinh thần giữ bản chất thuỷ chung, uống nước nhớ nguồn của quê hương...

Từ thế kỷ XVII triều đình đã cấp ruộng cho việc thờ phụng vua Đinh - vua Lê, cho địa hạt Trường Yên là dân tạo để lo sửa sang, quét dọn và phục vụ các ngày lễ lớn, nhỏ đồng thời được miễn trừ sưu sai tạp dịch. Các ngày kỷ niệm cũng được quy định cụ thể về nghi thức, lễ vật và các trò phục vụ trong lễ, diễn lại cảnh cờ lau tập trận, để mọi người hồi tưởng lúc sinh thời của ông vua anh hùng thế kỷ X Đinh Bộ Lĩnh.

+ Hương ước xã Vân Lâm tỉnh Ninh Bình đề cập việc phụng sự đền thờ các vua Trần tại điện Thái Vi. Đây là lệ ngạch triều đình phải có trách nhiệm, cử quan tuần phủ thay mệnh triều đình xuống đốc thúc công việc. Lễ vật thường rất đầy đủ, có lễ tam sinh, tam ngự, tam tửu. Lễ vua, cùng như lễ vọng tổ đều được cử hành trang trọng. Hương ước còn nêu trách nhiệm đối với người già khi đến tuổi 70 và nghĩa vụ con gái đối với làng khi về nhà chồng, nhằm gây ấn tượng đối với quê hương. Làng còn có lệ cấp thóc, cấp tiền cho trẻ đến độ tuổi đi học (lấy từ nguồn kinh phí 30 mẫu ruộng đền), thể hiện sự quan tâm của làng đối với thế hệ tương lai, đồng thời nói lên ân nghĩa của vua Trần đối với quê hương.

+ Đền Phúc An thị xã Ninh Bình, thờ quan Hành Khiển Trương Hán Siêu thời Trần. Ông giỏi thơ văn, lại rất có công với nước nên ngày tế lễ này rất được coi trọng. Cả làng, cả tổng phải có trách nhiệm đóng góp: mỗi hộ 1 đồng, 1 bát gạo nếp để lo làm lệ, như trả nghĩa lúc sinh thời ông đã giúp quê hương 100 mẫu ruộng, 200 quan tiền. Lệ cũng quy định các nho sinh và người có học trong tổng đều phải đến phụng sự, coi ông như bậc thầy dạy chữ, đồng thời sang văn miếu lễ thánh Khổng. Tiên hiền tỏ rõ sự trọng đạo của địa phương.

5. Tục nghề làm đá của làng Nhồi Thanh Hoá có nhiều điều khác lạ như bịt mắt lý trưởng khi hái hoa hồng đặt lên kiệu, tỏ sự cầu may. Lệ các tốp nghề giỏi "hiến xảo" (dâng đồ khéo) và con trai đến 10 tuổi thì được làng truyền nghề, được xã cấp hai thùng thóc. Đến tuổi thành niên được làng cấp 2 sào ruộng và 1 sào khuyến học. Các cụ lên lão cũng được làng cấp thóc, cấp vải. Khi biếu lộc thì các bậc chức sắc, đại khoa và đại xảo (thợ khéo nhất làng) đều được biếu, thể hiện ý thức tôn trọng nghề nghiệp của địa phương. Điều đáng lưu tâm là con gái khi ra khỏi làng về nhà chồng, phải đến lễ tại hòn Vọng Phu trên núi Nhồi, như hứa hẹn chung thuỷ và tỏ lòng cảm tạ nghề làm đá quê hương. Tục lệ tuy mộc mạc, đơn giản nhưng đây là những nét độc đáo cần phát huy.

+ Họ Trần Quang xã Thiệu Quang Thanh Hoá thờ Điềm Quốc Công Lê Lựu. Nguyên tên là Trần Lựu, được ban quốc tính nên có họ Lê. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì dưới triều Nhân Tôn Tuyên hoàng đế có lệnh cấp cho các vương thần, đại thần, các quan văn võ "tiền tuế bổng" theo thứ bậc khác nhau. Đô đốc Tây đạo Lê Lựu từ chối không nhận khoản tiền này, thể hiện tấm lòng khiêm nhường, quan tâm đến dân của ông. Nhưng sau đó ông bị mắc tội, đến nỗi con cháu phải trốn chạy để bảo toàn tính mạng... Khi được xá tội, con cháu tụ hội về quê lập từ đường thờ tiên tổ, có lệ dùng cá triều đẩu (có nghĩa là được quay trở lại) và rau cải củ (lại phục) để cúng. Tục lệ này tuy đơn giản nhưng rất ý nghĩa.

6. Nghệ An là tỉnh lớn, địa hình có biển rộng, sông dài và núi rừng trùng điệp. Lại có những núi non, eo biển tạo nên các cửa lạch, cảnh quan kỳ thú. Đền Cờn nằm trên cửa Lạch Cờn xã Quỳnh Phương huyện Quỳnh Lưu là công trình tín ngưỡng thờ tứ vị Thánh Nương. Mẹ con bà là người Tống đã bỏ mình trong sự nghiệp kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông, để lại những phẩm hạnh sáng giá, phù hợp với lẽ sống dân tộc Việt, nên từ thế kỷ XIII được dân thờ phụng. Sang thế kỷ XV, XVI, XVII, XVIII, XIX di tích không chỉ được triều đình đích thân tu sửa, làm lễ theo nghi thức quốc tế, còn cho dân Phương Cần được miễn sưu dịch để làm tròn phận sự nên dân tạo lệ trông nom, quét dọn đền đài. Từ đặc ân đó nên lệ ngạch hàng năm cũng được đặt ra một cách cẩn trọng. Ngoài lệ "chạy ói" (rước xuống hòn ói theo nghi thức chạy) còn có tục tế lễ kéo dài từ 15 tháng chạp đến 15 tháng giêng. Lệ múa hát chầu và những quy định trong lễ bái phụng sự cửa thánh. Lệnh chỉ của các triều đại đối với đền Cờn giao cho các quan huyện, đạo Nghệ An và làng Phương Cần phải có trách nhiệm thi hành, càng chứng tỏ tầm cỡ, ý nghĩa của di tích trong đời sống xã hội. Nơi đây trong tâm thức dân gian cũng có sự ngưng đọng thật đáng kể, vừa có bề rộng lại vừa có bề sâu.

+ Làng Mai Báng ở ngay địa hạt Cửa Lò huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An, thờ tướng Lê Khôi và các tổ tập làng tạo cuộc sống nghề biển, nghề nông cho nhân dân, khích lệ việc học hành mở mang dân trí. Do vậy dân thôn lập đền thờ ông, thờ 6 ông tổ, thờ cả bộ xương cá voi, thờ thần sóng cầu mong mùa cá thắng lợi, làng chài được bình yên, nghề nông được bội thu.

Việc tôn thờ các tổ liên quan đến lệ yến lão, tế sống các già làng ở tuổi 80, cùng với tục làm lễ tại cửa lạch, thể hiện sự tri ân công đức, còn thấy rõ tính chất hoạt động của làng chài trên biển thật gian nan, phải trông cậy vào thiên nhiên, vào cả nguồn cá trong vùng biển rộng mênh mông đầy may rủi mà tâm thức dân gian đời này, đời khác đã thấm sâu. Chỉ có khoa học kỹ thuật hiện đại mới tạo dựng được cuộc sống mới, nếp nghĩ mới cho nhân dân, nhất là ngư dân vùng biên Mai Báng.

7. Huyện Can Lộc Hà Tĩnh với địa hình đất đai chai sạn, đời sống nhân dân trông vào cây lúa, cây khoai nên gặp nhiều khó khăn. Trong thôn xã Vân Chàng có nhiều luật lệ khiến người dân khó bề thực hiện. Thời Lê Cảnh Hưng sắc mục trong làng định lại lệ làng như sau:

Làng xóm phân đường, phân ngõ, có cổng, có người canh để ngăn ngừa kẻ gian. Mở mang chợ để giao lưu kinh tế, cấp đất cho người đến tuổi trưởng thành, giảm nhẹ lệ cưới, lệ treo. Những trai, gái gian dâm đều phải phạt tiền. Đối với kẻ trộm cướp, trước khi giải trình quan, làng bắt thủ phạm và cả gia đình tên mắc tội đều bị phạt tiền. Lệ còn ngăn cấm việc phá cây cối ở đền chùa, đào đất bừa bãi trong thôn xóm.

Sự đổi cải lệ ngạch làng Vân Chàng, có mặt tích cực lại có điều chưa phù hợp, giúp mọi người suy ngẫm về thiết chế ở một hương thôn miền Trung từ thế kỷ XVIII.

+ Hương ước thôn Phú Phong, Hương Khê, Hà Tĩnh được duyệt năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) quy định phần việc của chức dịch, của dân làng. Chú trọng việc an ninh thôn xóm  việc gia đình ăn ở bất hoà, trái đạo lý làm con, làm dân. Ngăn cấm chặt phá cây cối, lễ bái liên miên. Ban thưởng cho người đỗ đạt và trợ cấp cho các gia chủ có việc hiếu, việc hỷ, có nhiều khía cạnh tốt đẹp.

Điều lệ của Hương Khê, nhất là việc bảo vệ môi trường thiên nhiên là nơi có nhiều cây ăn quả ở vườn nhà, nơi công cộng và cả ven đường... có nhiều khía cạnh tích cực, không chỉ phù hợp với đương thời mà còn phù hợp với thời đại hiện tại và tương lai.

8. Lệ làng Thu Xà tỉnh Quảng Trị viết cuối thế kỷ XIX gồm những quy định cho dân người Việt, người Hoa ở đây phải thực hiện. Lệ lễ chùa, lễ đền thờ Chúa Quốc và Thần Tổ gồm dâng các loại bánh. Lệ thả rắn xuống sông xem báo hiệu nước to và mùa màng trong năm. Hàng năm các nhà phải có trách nhiệm đóng góp dầu, nến để phụng sự việc đèn nhang. Hôn lễ phải có nhẫn cưới để chú rể trao cho cô dâu, đây là vật làm tin mà cô dâu phải lấy làm trọng, không được sơ ý để tuột khỏi tay. Mỗi người trong nhà hàng năm phải trồng một cây lưu niên và tết phải có mấy giò phong lan để ở cửa.

Làng Thu Xà còn có lệ kiêng ăn các loại thịt trong tháng và kiêng làm ngày 14. Quy định bà con giúp đỡ nhau khi dựng nhà, đào giếng và khi con cái đi ở riêng. Hàng tháng còn phải góp tiền nuôi bố mẹ, nếu thờ ơ sẽ bị làng phạt tiền và phạt bằng roi...

Những quy định đầy tính nhân ái và còn đậm màu sắc nguyên thuỷ của làng Thu Xà Quảng Trị là những nét riêng cần nghiên cứu trân trọng.

9. Lệ làng An Vĩnh huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi liên quan đến đảo Lý Sơn thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Lệ làng An Vĩnh được áp dụng cả ở phường An Vĩnh quần đảo Lý Sơn.

Người đi làm nghề đánh cá phải có một thuyền lớn, một thuyền nhỏ (thuyền nhỏ để lại đề phòng khi bất trắc, còn thuyền lớn ra khơi đánh cá). Song cũng quy định thời gian ra đảo đánh cá là 4 tháng, sau đó phải về đất liền, nộp 2 phần 10 số thu nhập vào công quỹ, để làng chi phí khi bất trắc.

Theo gia phả thì nhà Nguyễn đã cho quân ra đóng tại đảo để quản lý, bảo vệ cho dân, đồng thời thu sản phẩm mà Nhà nước quy định. Lệ làng quy định việc giúp tiền cho trai, gái lấy vợ lấy chồng, mừng tiền sinh con trai và rút tiền cho các cháu đi học. Các hải sản quý như yến sào, đồi mồi phải ưu tiên bán cho Nhà nước. Ai muốn ra đảo phải lo cơ sở vật chất cho bố mẹ ở nhà, nếu không hoàn thành làng sẽ cấm ra khơi. Và phải làm lễ đền thờ vua, thờ thành hoàng hứa hẹn đủ 5 điều đối với bố mẹ, vợ con, triều đình, bạn bè, bản thân mới được ra khơi.

Những quy định chặt chẽ của An Vĩnh nhằm đảm bảo tính mạng và cuộc sống của làng nghề. Nó phản ánh trình độ quản lý của Nhà nước từ vài trăm năm trước đối với một vùng đảo xa xôi của Tổ quốc.

10. Làng Văn Hoà huyện Sơn Hoà tỉnh Phú Yên ở miền đồng bằng gần với miền thượng, dân sống theo bộ lạc... Ông Mai Đức Phương là người Thanh Hoá đưa dân vào đây khai khẩn nên khi ông chết dân bản tôn là bản cảnh thành hoàng.

Lệ làng quy định mỗi hộ trong năm đóng góp 1 đồng vào công quỹ để làm lệ của làng.

Lệ làng quy định trai lấy vợ phải cùng vợ trồng một cây mít tại quê, gái đi lấy chồng cũng phải trồng một cây mít. Mít này gọi là mít "tố nữ" được mọi người ưa chuộng.

Các ngày kỵ trong gia đình hay lễ tại đình đều phải có món mít xào hay quả mít chín.

Trước khi làm giỗ bố mẹ đều phải làm lễ thành hoàng và thánh Mẫu. Trai gái lấy nhau phải ra miếu ông, miếu bà thề ăn ở thuận hoà. Khi đẻ con phải trồng một cây và phải chăm cho cây xanh tốt...

Một số tập tục ở Vân Hào nơi cộng đồng người Việt, người Hoa chung sống đã thực hiện trên địa bàn tiếp giáp các bộ lạc Ba Na, Xê Đăng, Đá Vách, phần lớn thuộc chủng tộc Anh-đô-nê-di, nói khác đi là người thượng đã có những nét đặc trưng rất tiến bộ, vừa chung thuỷ với tổ khai khẩn, vừa quý trọng đặc sản cây trồng quê hương.

Liệu đây có là cơ sở tạo tiền đề cho việc định cư mà cộng đồng người Việt đã phải thử thách nhiều năm, nhiều thế hệ mới thành công?

11. Làng Hoà An Phủ Ninh Thuận vốn thuộc tỉnh Bình Thuận. Đây là địa bàn huyện An Phước, thổ dân là người Chăm. Tục lệ tết Ka tê diễn ra vào ngày 1 tháng 7 được chuẩn bị rất chu đáo. Có lệ rước thánh Mẫu Bô-I-nư-Na-gar từ miếu Tây sang miếu Đông thờ vua. Con gái, con trai làm nghề đều ra miếu xin thần phù hộ, cuộc vui kéo dài hàng tuần, trai gái hẹn hò lấy nhau. Khi cưới có lệ trình y phục, lệ trồng cây mới được lấy nhau, chọn đất làm nhà... thể hiện làng bản quan tâm đến đời sống cộng đồng và bản chất ăn quả nhớ kẻ trồng cây.

12. Làng núi Hoàn Sam huyện Châu Đốc An Giang có miếu thờ bà chúa Xứ, đền Sơn Thần và đền thờ các tổ có công mở đất. Lệ ở đây dùng sản phẩm nông nghiệp như ngô, đỗ để cúng và đem lộc về cho cả nhà cùng hưởng. Ai túng thiếu thì đến miếu bà chúa Xứ vay tiền, có thể nhặt 1 đồng, đến khi làm ăn khá giả sẽ trả gấp 10, gấp 100 lần tuỳ ý. Hiếm con cũng đến miếu bà cầu xin con và khi sinh con trai được làng cho tiền, cho 100 hạt ngô giống.

Tục lệ Hòn Sam mộc mạc, đơn giản, gắn với tâm thức tín ngưỡng dân gian, có cái cá biệt song lại có đường nét hoà đồng theo bản chất thuỷ chung cộng đồng dân tộc Việt.

"Lệ làng Việt Nam trong tâm thức dân gian” đề cập một số tục lệ ở 12 tỉnh trong nước, mang tính chất cung cấp thông tin cụ thể được rút ra từ các tư liệu cổ và các truyền thuyết, lễ hội dân gian, để độc giả suy ngẫm. Từ đó sẽ chắt lọc những tinh hoa của quê hương, niềm tự hào quê hương để nhân lên trong hiện tại.

Chúng tôi nhận thấy tập sách chắc còn nhiều hạn chế, kính mong độc giả lượng thứ và xin thành thật tiếp thu mọi ý kiến đóng góp để các công trình kế tiếp được ra đời, góp phần nhỏ bé trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về làng quê Việt Nam xưa và nay.

 

TỤC LỆ Ở XÃ THANH SƠN, HUYỆN KIM BẢNG, HÀ NAM

Thanh Sơn là mảnh đất cổ của Hà Nam. Mỗi xóm thôn đều có sự tích, tục lệ khác nhau, rất có ý nghĩa đối với truyền thống của một vùng quê văn hiến.

Thôn Phù Thuỵ xã Thanh Sơn thờ Trần Thị Quang là thứ phi của Thục An Dương Vương. Bà là người làng Phù Thuỵ thuộc xã Thanh Sơn cũ, khi chết được chôn tại quê nhà. Vào ngày bà mất (14/8), nhân dân làm lễ kỷ niệm, thường có tập tục tắt đèn. Tập tục này sang chế độ mới của chúng ta, thấy không phù hợp nên đã xoá bỏ.

Thôn Lạc Sơn, xã Thanh Sơn có đền thờ tại cửa rừng, nhân dân địa phương gọi là đền "Mẫu cửa rừng"(1). Đại tự nhận vào tường có ghi: "Sơn anh hà tú" tức là giang sơn đẹp đẽ anh hùng. Và đại tự khác ghi: "Lê anh nữ tướng" nghĩa là người nữ tướng anh hùng họ Lê.

Lê Chân là một nữ tướng có tài đã phù Hai Bà Trưng đánh nhà Hán. Tuy không phải quê hương ở đây, nhưng Bà gắn bó với Lạc Sơn xã Thanh Sơn để lo đại sự cho nước nhà. Mặc dù việc lớn không thành, nhưng cũng làm cho kẻ thù khiếp sợ hao binh tổn tướng. Bà mất, nhân dân địa phương mai táng phần mộ của Bà ở Dát Dâu(1), lập đền thờ Bà trên đồi "Ông Tượng", sau lại chuyển xuống chân đồi như hiện nay. Hàng năm từ ngày 1 tháng 7 đến 13 tháng 7 dân làng chài và nhân dân các nơi kéo về lễ rất đông, họ đi đò, đi thuyền trên dòng sông nhỏ. Truyền thuyết cho biết dòng sông này được khơi sâu và rộng thêm vào thời nhà Hồ. Hồ Quý Ly đã cho đào thêm nhánh sông này để tiện vào khu Bút Sơn, Lạc Sơn, chắc là khu căn cứ cũ của Lê Chân sau được nhà Hồ sử dụng. Ở đây còn có phủ thờ bà vợ Hồ Quý Ly(2)

Thành phố Hải Phòng có đền Nghè, là nơi thờ bà Lê Chân, một quận của thành phố được đặt tên là quận Lê Chân, để đời đời ghi nhớ người nữ tướng anh hùng, một tấm gương sáng mà nội dung câu đối đền Lạc Sơn có ghi:

"Tấn phúc quang thùy Ngân thuỷ nguyệt,

Khôn nguyên trường chiếu Tượng sơn vân"

(Phúc lớn toả sáng như mặt trăng sông Ngân,

Như lòng người mẹ mãi mãi như mây che chở cho núi Tượng)

Ngoài việc tế lễ trong ngày kỷ niệm bà Lê Chân mất (13/7), đền Cửa rừng Lạc Sơn còn có hội xuân vào ngày 15 tháng giêng âm lịch. Hội này còn gọi là hội Khai sơn (mở cửa rừng) cho dân vào rừng làm việc.

Hội xuân này đồng thời được tổ chức tại đình làng Lạc Sơn, thờ Tản Viên sơn thánh. Đình Lạc Sơn còn mở hội xuống đồng vào ngày 15 tháng 10. Sau khi tế lễ cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, tiên chỉ trong làng xuống ruộng cắm nêu (ruộng đã chuẩn bị sẵn sàng), rồi cấy trên đám ruộng đã cày bừa sẵn. Trong khi cấy có người mang cơm đến, tiên chỉ ngồi ăn cơm như người đi cấy ngoài đồng. Ăn xong lại tiếp tục cấy cho xong nắm mạ. Trong khi đó thì tiếng chiêng trống nổi lên, tiếng reo hoà với tiếng đập nước, tiếng té nước tạo thành không khí huyên náo ngày mùa rất vui nhộn.

Thôn Thanh Nộn xã Thanh Sơn có đền thờ Nguyễn Khôi là người có chí khí, đã có công lớn phù nhà Tiền Lý, chống ách đô hộ nhà Lương. Nguyễn Khôi đã là tướng tài, có mưu lược trong kháng chiến, lại là người biết lấy đức trị để yên dân. Ông đã được ngọc phả, sắc phong và các thư tịch khác ca ngợi. Tại đình Thượng Thanh Nộn còn đôi câu đối rất đáng tự hào:

"Quốc sơ vị hữu định thư, nam Lâm ấp, bắc cường

Lương dĩ thoái tam xá,

Thượng cố hậu khuyết sử, tả Phạm Tu,

hữu Triệu Túc ưng nhượng nhất trù"

Dịch nghĩa:

- Nước xưa chưa có sách ghi, nam là Lâm ấp, phía bắc có thế mạnh khiến nhà Lương phải ba lần thua chạy,

- Sử xưa còn ghi thiếu việc phía tả có Phạm Tu, phía hữu có Triệu Túc còn phải phục mưu lược (ý nói mưu lược của Nguyễn Khôi).

Thôn Quyển Sơn xã Thi Sơn trước đây cùng với thôn Thanh Nộn nằm trong xã Thanh Sơn đều thuộc tổng Quyển Sơn(1). Quyển Sơn nằm dọc theo hữu ngạn sông Đáy, dài hơn 4 cây số. Tại đây có núi Cấm với những hang động đẹp, có địa thế, phong cảnh hữu tình nên dưới vương triều Lý, Lý Thường Kiệt khi đi đánh Chiêm Thành về qua, đã đóng quân tại Cấm Sơn. Ở đây ông đã tổ chức hát mừng chiến thắng. Trong buổi gặp gỡ dân thôn, ông đã khuyên dân chăm chỉ việc trồng cấy, lo lắng việc nương dâu, việc nuôi tằm để được no ấm. Ông lại khuyên dân việc xây dựng gia đình, vợ phải chung thuỷ với chồng, chăm việc dệt lụa, chờ chồng trong lúc bận việc nước mà chồng phải đi xa... Trong buổi hội mừng chiến thắng, Lý Thường Kiệt đã cho tổ chức hát dặm. Sau này nhân dân lập đền thờ ông, hình thức hát dặm vẫn được bảo tồn. Hàng năm vào ngày 6 tháng giêng đến ngày 10 tháng giêng nhân dân tổ chức tế, lễ kỷ niệm ông, tại đền Trúc thường có hát dặm. Tập tục địa phương quy định con gái làng phải biết hát dặm mới được đi lấy chồng, những cô gái nào đẹp, chưa chồng sẽ được hát thi trong ngày lễ hội.

Nội dung bài hát qua 36 làn điệu, có nói về công đức của Lý Thường Kiệt đối với nước với dân địa phương. Mặc dù ông không phải quê hương ở đây, nhưng nhân dân địa phương cảm ân, ghi nhận công đức, kính phục vị quốc Thái uý có rất nhiều công lao với dân tộc.

Đình Cao thôn Thanh Nộn thờ Lê Thị Liên, là lương y giúp nhà Trần chữa bệnh cho quan, và khi về làm giúp đỡ dân thôn. Khi Bà mất, nhân dân lập đền thờ và ngày kỷ niệm đọc bài phú ở cửa đình đã thành lệ.

Vốn khi xưa,

Từ thuở Trần Triều.

Trên đất làng ta,

Có cụ Lê Hoằng.

"Dỹ y vi nghiệp",

May mắn thay! Ngày sáu tháng ba,

Bà Nguyễn Thị sinh ra công chúa,

Lê Thị Liên.

Diện mạo liên hoa,

Sắc như hồng nhật.

Công chúa trưởng thành,

Xuất gia đầu phật.

Nối nghiệp cha xưa,

Cỏ cây gậy trúc.

Có quả thạch bầu,

Với phương thuốc nhiệm màu kiến hiệu.

"Năm cứu thế gian",

Tiếng lương y đồn đại.

"Viễn cận mạc bất tri danh",

Buổi ấy:

Giặc Nguyên sang cướp nước Nam.

Vua nhà Trần sai quân cầm cự,

Đã mấy tháng ròng rã.

Trên bến sông Lục Đầu,

Khói lửa chiến binh.

Ngày đêm khó nhọc,

Quân lính ta, bệnh tật phát sinh.

Vua nhà Trần lo ngại,

Mời công chúa vào dinh.

Làm "quân trung điều hộ",

Nhờ thuốc thần cứu chữa.

Bình phục mọi bệnh binh,

Quân mạnh, tướng hùng.

Vua tôi đoàn kết,

Trần Quốc Tuấn chỉ huy.

Lệnh phản công đã quyết,

Ngọn sóng Bạch Đằng.

Ô Mã Nhi thất bại,

Đại thắng quân Nguyên.

Công chúa về làng,

Thụ sắc vua ban.

"Hoàng tràng công chúa",

Về quê hương làng cũ.

Bổng lộc vua ban,

Công chúa cho dân ta hưởng thụ.

Nhớ đến buổi vị thành thuở nọ,

Công chúa thăm chùa phật tích xưa.

Ngao ngán thay ngày 12 tháng 8,

Hổ gào, beo thét công chúa quy tiên.

Trông lên trời mây vàng xuất hiện,

Giây phút rồi ta đi.

Nghe rừng sâu gió thổi vu vi,

Như vẳng tiếng tiên thiều nhã nhạc.

Từ ngày ấy!

Dân ta thờ công chúa tại đình cao,

Nhớ mãi công lao, người danh y đại đạo.

Để đời đời dân cầu, quốc đảo,

Vinh quang thay!(1).

Và đây, Thanh Nộn còn có tấm bia: "Thanh - Nộn văn chỉ bi ký" niện hiệu Hoàng triều Tự Đức thứ 35 (1881) nói việc thành lập Hội văn của xã Thanh Nộn tổng Quyển Sơn, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân tỉnh Hà Nam. Hội văn của làng đã đứng ra tu sửa văn chỉ, lập lại văn bia ước lệ. Văn bia ghi phần ruộng đất của văn hội ở cánh đồng Biều, đông cận tiểu lộ, nam cận ruộng chùa, tây cận đường nhỏ, Bắc cận ao đình sẽ giúp ích cho việc ghi địa lý, địa danh. Văn bia ghi việc đưa 5 mẫu công điền vào việc kinh tế.

Nội dung văn bia còn ghi rõ lệ xuân thu nhị kỳ đều có rước chiêng, trống, tàn lọng, lễ vật tới văn chỉ để tế, quy định chủ tế, tả văn, vũ phẩm thì được ghi tên vào văn tế trước. Khi tế xong việc cắt đặt phần biếu sẽ tuỳ nghi.

Đặc biệt, văn hội quy định nộp vọng như sau:

Đỗ đệ nhất giáp Tiến sỹ nộp vàng 1 lạng

Đỗ nhịp giáp nộp bạc 10 lạng

Đỗ tam giáp nộp bạc 6 lạng

Phó bảng nộp bạc 5 lạng

Cử nhân nộp tiền 30 quan

Tú tài nộp tiền 20 quan.

Ai được sắc phẩm hàm, nộp tiền 15 quan

Cai tổng nộp tiền 12 quan

Chức tổng mục nộp tiền 10 quan

Thi hương đỗ nhất, nhị trường, hoặc làm chức Lý trưởng nộp 5 quan.

Thi đỗ khoá sinh hoặc các chức hương dịch nộp 3 quan.

Đối với hàng ngũ giai nộp vọng như sau:

- Quan võ nhất phẩm nộp vàng 1 lạng

- Nhị phẩm nộp bạc 8 lạng

- Tam phẩm nộp bạc 6 lạng

- Chánh, phó quản nộp tiền 25 quan

- Chánh xuất đội hoặc thi võ đỗ vũ cử, nộp tiền 13 quan

- Đội trưởng nộp 10 quan

- Ngũ trưởng nộp 5 quan

- Binh, đinh nộp tiền 3 quan.

Còn việc ai muốn xin vào văn hội thì phải có trầu cau 100 miếng, rượu 1 nậm, tiền 3 quan...

"Thanh-nộn văn chỉ bi ký", phải chăng đã là văn tự quy ước về một khía cạnh trong đời sống xã hội của làng quê. Nó vừa phản ánh thực tại xã hội phong kiến, vừa là cách khích lệ sự đi lên trong lĩnh vực quan chức và dân trí ở địa phương.

 

TỤC CÚNG HỔ VÀ VẬT VÕ Ở  THÔN PHƯƠNG LÂM, HUYỆN KIM BẢNG, HÀ NAM

Phương Lâm thuộc xã Đồng Hoá huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam còn có tên gọi Hoa Lâm huyện Cổ Bảng. Đây là vùng đất cổ gần với dải sơn khối đá vôi, phía Tây huyện Kim Bảng, đặc biệt là khu bát cảnh được ví như Tiêu Tương ở Trung Quốc. Để chứng minh điều này, câu đối tại đình Phương Lâm ghi:

"Sơn la án diện tam tinh chiếu,

Thuỷ tạ giang tâm bát cảnh triều".

(Phía trước có núi như ba ngôi sao chiếu,

Lại có dòng sông và tám cảnh chầu về).

Nơi đây, xưa cây cối um tùm, loáng thoáng có gò đống nổi lên, tiếp giáp với Vân Lâm, Phương Khê, Đồng Lạc, Lác Nhuế, Núi Nguỳa... đều là khu đất và núi cao, cây cối um tùm, giáp hoặc gần sông Đáy. Trước cửa làng có cầu gỗ bắc qua sông cổ thông ra sông Đáy nên gọi "Mộc Kiều".

Thời Lý, tại đây có bà Phùng Thị Cát lấy ông Hoàng Nghĩa người ở Khoái Châu, sinh gái đầu lòng là Hoàng Ngọc Chân. Mười năm sau vẫn chưa có con trai nói dõi, nên ông bà lên núi Tượng Sơn tìm chùa Vân Mộng thắp hương cầu nguyện xin người kế nghiệp. Sau đó bà Cát có mang và ngày 12 tháng giêng năm Giáp Ngọ, bà sinh hai trai hình dung tuấn tú, đầy đặn phúc hậu và tư thế khác thường.

Ông bà họ Hoàng đặt tên con là Đình Độ và Đình Thụ. Độ và Thụ thông minh, chăm chỉ nên học hành tấn tới, lớn lên trở thành người tài giỏi am hiểu binh thư, võ nghệ.

Đời Lý Nhân Tôn, vua mở khoa thi Minh Kính và thi nho học Tam trường hai ông đều thi đỗ và được làm quan.

Khi nhà Tống sai Thẩm Khối, Lưu Di chuẩn bị lực lượng đánh nước ta và cấm đoán việc thông thương, gây tình hình căng thẳng ở biên giới. Trước tình thế đó triều đình nhà Lý cử Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân thuỷ bộ tiến đánh các Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Ung để tiêu diệt các căn cứ quân sự ngay trong đất địch, phá tan ý đồ xâm lược của chúng.

Theo Lý Thường Kiệt đi Bắc phạt có cả Hoàng Đình Độ, Hoàng Đình Thụ, với chức Tham tán quân vụ. Hai ông đã sáng suốt, dũng cảm vây, đánh thành Ung Châu, cũng như đánh tan quân cứu viện ở ải Côn Lôn thuộc Nam Ninh - Quảng Tây...

Sau đợt chinh phạt thắng lợi, các tướng nhà Lý, trong đó có hai ông đều được vua ban chức tước, bổng lộc. Sau đó, vào mùa xuân năm Bính Thìn hai ông còn phù tá Lý Thường Kiệt tổ chức bố phòng tại sông Như Nguyệt và đánh địch xâm lấn nước ta khiến tuyên phủ sứ Quảng Nam Quách Quỳ phải hoảng sợ, vội vã lui quân.

Sau hai lần chiến thắng, hai ông được phong tước Đông Bảng Hùng Trấn và Đông Bảng Hùng Uy tướng quân, lại được thưởng vàng bạc về quê thăm viếng tổ tiên.

Hoàng Đình Độ, Hoàng Đình Thụ về quê ngoại Phương Lâm, thấy dân tình chân thực, thế đất cao ráo liền bỏ tiền mua đất dựng nhà làm nơi hương hoả mai sau. Đồng thời giúp dân sửa sang đường xá, cầu cống để việc đi lại dễ dàng. Giúp dân trồng dâu, nuôi tằm, trồng cấy đảm bảo cơm ăn áo mặc.

Hoàng Đình Thụ, Hoàng Đình Độ còn cùng chị gái là Ngọc Chân giúp quan Thái uy Lý Thường Kiệt đánh Chiêm Thành, khôi phục đất đai ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh và được phong tước hầu...

Sau này hai ông qua đời, để lại lòng tiếc thương vô hạn cho nhân dân Mộc Kiều (Phương Lâm). Nhân dân địa phương biến nhà cũ của hai ông làm nơi hương hoả. Theo truyền thuyết địa phương và ngọc phả đình Phương Lâm, xã Đồng Hoá cùng với sự khảo sát di tích thì trước đây địa phương lập ba ngôi đền thờ ba vị riêng biệt. Sau này mới rước hai vị Hoàng Đình Độ, Hoàng Đình Thụ về thờ chung tại đình, còn bà Hoàng Ngọc Chân vẫn thờ riêng ở miếu nhỏ Đông Bắc, làng Phương Lâm. Nhưng các ngày đại lễ, nhân dân địa phương vẫn sửa lễ lên miếu, rước kiệu thánh bà về đình, cho dân được tế lễ theo như tục cũ.

- Tục làm lễ đặt trên "nấm bái tướng".

Phía trước đình có một gò đất nhỏ, xưa kia cây cối rậm rạp thường có hổ về. Theo các cụ già ở làng Phương Lâm thì thường đến đêm 30 tháng chạp, năm nào cũng có hổ về phục tại gò đất trước cửa đình, để chầu tướng họ Hoàng, gần sáng thì lủi vào rừng nên nhân dân gọi đây là "nấm bái tướng". Thấy vậy, nhân dân địa phương khi làm lễ ra đình cúng tất niên thường đem xôi, thịt lợn, chuối ra đặt tại nấm cho hổ ăn. Sau này ban lễ nghi còn làm thịt cả con chó to đặt ngoài nấm cho hổ. Năm nào hổ không về phục trước cửa thánh, hoặc về mà không ăn thì làng đem phần lộc đó về nấu chín, cả làng thụ lộc. Có lần hổ xuống "cánh đồng bò" là nơi chuyên môn chăn bò của thôn Chanh bị mắc bẫy (vì dân làng Chanh bị nhiều lần mất bò do hổ vồ đem đi). Con hổ hay về "nấm bái tướng" bị lột da. Biết được tin ấy, dân Phương Lâm sang làng Chanh xin chuộc bộ da hổ đem về đình. Hàng năm, cứ đến dịp 30 tết lại nhồi trấu vào trong, đem đặt tại "nấm bái tướng" như cũ, để giữ lại tục lệ xưa mà làng đã thực hiện. Qua đây muốn đề cao thêm ý thức của dân đối với thánh, muốn nói lên sự linh thiêng của đình làng Phương Lâm.

- Để cầu mong cho mùa màng tươi tốt, ngoài việc lễ bái cầu mưa gió thuận hoà, Phương Lâm còn có tục "chồng cót lúa" mong cho mọi nhà thóc đầy bồ, đầy cót. Trong dịp từ ngày 9 đến 14 tháng giêng, làng tổ chức nhiều trò chơi, trong đó có "chồng cót lúa". Trò này từng giáp phải huy động lực lượng thanh niên khá đông. Mọi người đều quấn khăn đỏ và thắt lưng đỏ. Số người làm nhiệm vụ kết kho gạo thì cởi trần, lấy tay khoác vai người đứng bên cạnh, ken thành vòng tròn. Vòng người thứ hai, thứ ba đứng trên vai. Người đứng tạo thành kho gạo bên trong, cao hai hoặc ba tầng. Vòng bên ngoài cũng được ken vai nhưng rộng hơn, tạo kho lúa. Các giáp thi nhau trồng người trong tiếng thúc, giáp nào đều người, mặc đẹp trồng cao thì thắng cuộc, được ban giải thưởng. Trò "trồng cót thóc" có từ lâu đời, song việc duy trì kể từ sau cách mạng tháng Tám không được đều đặn. Hơn nữa tư duy về sản xuất được mở mang, lấy khoa học nông nghiệp, giống lúa, chăm bón làm khâu then chốt, nên tục lệ có tính chất cầu trời, cầu may không phù hợp, do đó ít thực hiện.

- Riêng môn vật ôn lại truyền thống thượng võ và trở thành hội vật của làng Phương Lâm thì vẫn được duy trì và phát triển. Hội vật còn được các cấp quan tâm, cử huấn luyện viên về hướng dẫn.

Thường thường để khai mạc hội vật thì một vài đôi vật cao tuổi ra vật giao vật giao hảo trước, các đôi này vừa múa võ, vừa lễ thánh mang tính chất thao diễn, rồi vật tượng trưng mở màn phong trào. Sau đó đến ba đôi thuộc lứa tuổi thiếu niên cũng ra sân, làm lễ rồi đấu vật. Tiếp đến ba đôi thanh niên làng ra bái trước cửa thánh rồi vào vật. Những đôi thanh thiếu niên và phụ lão ra vật trên đây, mang tính chất vật thờ, giao hảo gây không khí ban đầu. Sau đó thì trống thúc liên hồi, các võ sĩ gần xa theo danh sách vào đấu vật.

Các đô vật ở mọi nơi như Thanh Liêm, Lý Nhân, Hải Hậu đều là đô vật nhà nghề. Xưa làng treo giải thưởng có lụa, bánh và tiền đồng. Làng cũng quy định các điều cấm để các đô tránh phạm quy như:

- Cấm tắt đèn (đấm vỗ vào mặt)

- Cấm mói tống (đấm ngực)

- Cấm dọi âm dương (dẫm mu bàn chân)

- Cấm đổ bò cối lỗ (đè cổ cầm khố quật)

Hội vật Phương Lâm thực sự là ngày hội truyền thống mang tính chất rộng rãi trong vùng, đã thu hút đông đảo bà con tham dự, đặc biệt được các cấp quan tâm, được các đô vật các nơi về đua tài, vuốt giải. Hy vọng hội vật Phương Lâm sẽ còn được tổ chức rộng rãi và đông vui hơn.

 

LỆ LÀNG CAO ĐÀ, XÃ NHÂN MỸ, HUYỆN LÝ NHÂN, HÀ NAM

Cao Đà nằm trên vùng đất cổ có bề dày lịch sử. Nơi đây thờ tướng Câu Mang thời Thục An Dương Vương (257 - 219 TCN). Cha mẹ ông nằm mơ thấy rắn Hổ mang nên đặt tên con là Trương Hổ Mang. Khi ông làm tướng đánh bại quân Triệu Đà, được phong Đô đốc và lúc chết phong mỹ tự Câu Mang đại vương thượng đẳng thần.

Đây còn là làng có nghề mộc cổ truyền, nổi tiếng ở tỉnh Hà Nam. Làng nghề này được bảo tồn và phát huy qua nhiều thế hệ. Nhân dân Cao Đà đã lập đền thờ thánh sư Lỗ Ban và các tổ nghề mộc, để tỏ lòng nhớ ơn đồng thời khích lệ các thế hệ tiếp nối phát huy truyền thống của cha ông.

Tại đây, quan hành khiển Trương Hán Siêu đã có mặt trong hoàn cảnh xóm làng tiêu điều, vì tai hoạ chiến tranh. Trương Hán Siêu đã giúp dân khai hoang phục hoá, tạo cuộc sống mới. Lập kho lương đề phòng khi cơ nhỡ trợ cấp cho dân. Mở xóm Quý Du tạo dựng một vùng quê ổn định. Từ công lao đó, Trương Hán Siêu được mọi người kính nể và khi ông rời làng lên chùa Quỳnh Lâm (sau không về) nhân dân lấy đó là ngày kỷ niệm, sau lập đền thờ ông tại xóm Quý Du - Cao Đà. Có lần An Phủ Sứ lộ Tân Hưng Trần Quốc Kiệt ghé thăm đền (năm GiápThân - 1404) đã đề thơ ca ngợi Trương Hán Siêu, trong đó có câu:

... Mục đổ nhân dân điêu tán sự

Tư phủ bão noãn nghĩa nhân quan.

(Thấy làng xơ xác lòng thương xót,

Lo giúp áo cơm nghĩa phúc dày).

Từ những nhân vật lịch sử nên lễ hội đình chùa Cao Đà thường ấn định vào ngày sinh, hoá hoặc ngày thần ra đi, như ngày 15/8 kỷ niệm Câu Mang, 15/2 kỷ niệm Trương Hán Siêu, 10/5 kỷ niệm sư tổ Thanh Đoan mất... Nhưng lệ làng Cao Đà còn có rước "Lòng văn" từ nhà tiên chỉ ra đình vào ngày 4 tháng giêng, lễ thượng điền ngày 24/2, lễ hạ điền ngày 26/10. Ngày 15/6 là ngày hội chùa "Bà Hướng tự" và kỷ niệm thánh sư Lỗ Ban, các tổ nghề mộc được tổ chức lớn kéo dài từ 2 đến 5 ngày.

Ngày đại lễ này đã được định thành lệ ghi trong ngọc phả niên hiệu Minh Mệnh thứ chín (1828):

Làng quy định lễ vật như xôi, gà, lợn, rượu phải được làm sạch sẽ, cẩn thận. Các giáp còn chấm thi để thưởng cho lợn béo, gà béo gài cánh đẹp, xôi dẻo, ngon. Ngày đại lễ có rước kiệu thần ở các đền trong xã về đình công đồng. Các cụ ông ra đình phải mặc áo dài thâm, ai trái lệ phải phạt tiền.

Ai đi xa trong ngày đại lễ, gia đình phải biện 10 miếng trầu ra đình tạ lỗi, nếu không phải phạt tiền.

Ngày 20/11 kỷ niệm Nam Hải đại vương, có lệ làm ngựa giấy ra cúng tại đền, sau khi tế lễ, các giáp đốt ngựa rồi đẩy xuống sông Châu, ôn lại sự việc vua Thục An Dương Vương thất thế, phải cùng ngựa trẫm mình dưới biển tự vẫn.

 

LỆ LÀNG ĐỒNG DU TRUNG, HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM

Đồng Du Trung là thôn thuộc xã Đồng Du huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam. Mảnh đất này nằm trên địa bàn có nhiều mộ cổ thời Bắc thuộc, nơi có nhiều trống đồng, rìu, giáo đồng. Trống đồng An Tập, Vũ Bị và nhất là trống đồng Ngọc Lũ ở vùng này nổi tiếng không chỉ trong vùng, trong tỉnh mà còn ở cả trong nước, ngoài nước. Đây cũng là địa bàn có nhiều di tích thờ các tướng từ thời Hùng Vương, thời Hai Bà Trưng như đền thờ Tam Vị Tản Viên Sơn, Trung Đô Vương, Long Tộc đại vương, Tĩnh Bộ Lôi Công đại vương từ thời Hùng Vương. Nơi này là quê hương của các nữ tướng thời Trưng Vương như Quỳnh Trân công chúa, Hoàng Cả, Hoàng Hai, Hoàng Ba công chúa... Nhưng chính trên mảnh đất có bề dày lịch sử này, việc thiết lập làng xã không đồng đều về thời gian, nơi có trước, nơi lại có sau, mà thôn Đồng Du Trung là một ví dụ. Việc thờ thành Hoàng cũng dựa trên cơ sở quê Cựu, rồi từ đó mà nhân lên trên các vùng quê mới, để gìn giữ cội nguồn bản sắc dân tộc, vấn đề này càng thấy rõ ở Đồng Du.

Theo truyền thuyết, ngọc phả đình Đồng Du, cùng các thư tịch khác tại di tích thì tổ tiên làng Đồng Du ở miền Thanh Xuyên, Hưng Hoá. Nơi đây gần núi Tản Viên, xưa nặng ân đức của ba anh em Nguyễn Tùng, Nguyễn Sùng, Nguyễn Hiển mà nhân dân vùng Thanh Xuyên lập đền thờ tưởng niệm. Năm Kỷ Mùi niên hiệu Thuận Thiên (1029) dân vùng Thanh Xuyên bị dịch bệnh, làm ăn khó khăn nên bốn bề xuôi về đây dựng ấp:

"Lý sơ thuỷ hữu Đồng Du trại,

Hùng mạt năng lưu Tản Lĩnh thần"

(Buổi đầu thời Lý mới có trại Đồng Du,

Triều Hùng mạt còn đây đền thờ Tản Viên Sơn thánh).

Đồng Du còn có nghĩa là dầu cây vông, vậy mảnh đất này xưa địa danh có đúng như triết tự không? Có làm nghề ép dầu cây vông không? Nhưng qua câu đối tại đình Đồng Du có thể thấy được phần nào nghề nghiệp buổi ban đầu ở đây:

"Sơ lai ngư nghiệp sinh nhai Đồng Du tịch địa,

Thuỷ tự sơn thần ủng hộ Bình Lục khai thiên"

(Lúc mới mở đất Đồng Du lấy nghề đánh cá kiếm sống,

Ban đầu thờ Sơn thần cầu giúp mở mang bầu trời Bình Lục).

Bốn họ dựng nhà ven sông để ở và cũng để tiện việc đánh bắt cá hoặc trồng trọt sinh nhai. Khi khai khẩn thành đồng ruộng lập làng, các tổ làm đình ven sông thờ thần nơi quê cũ để tỏ lòng thuỷ chung. Vì công việc khai khẩn vô cùng khó khăn, phải vượt qua nhiều gian lao vất vả nên chỉ biết cầu thành hoàng giúp đỡ che chở. Trong bài "Giang đình tế văn" có ghi: "Cung duy tôn thần, nãi thần, nãi thánh, chí tuý, chí tính. Phụ vật an nhân, hách hách công cao mạc cập. Trừ tai hãn hoạn, nguy nguy đức đại nan thanh...".

(Kính trông tôn thần, là thánh là thần trong cõi tục, rất tinh tuý ở trên đời. Giúp cho của nhiều, người được bình yên, công cao mấy ai sánh kịp. Ngăn ngừa hạn lớn, nạn to, đức lành to lớn sao kể hết)...

Sau này công cuộc khẩn hoang thành công, bốn họ và các tổ kế tiếp đã lo cải tạo cuộc sống bằng cách bắc cầu qua sông cho việc đi lại thuận tiện. Lập quán chùa, quán điếm, quán trong mả, quán mướp, mỗi quán cách nhau 600m, để khi đi làm nhân dân có chỗ trú mưa nắng, hoặc để cất giữ dụng cụ sản xuất, cũng như canh phòng bảo vệ mùa màng. Các tổ còn lo đào giếng lấy nước ăn ở địa bàn đồng trũng để giữ gìn vệ sinh.

"Đồng Du chín giếng, Đôn Thư chín chùa"

Đặc biệt, các tổ còn lo xây dựng đình lớn thờ thần, thờ tổ khai sáng quê hương giữ gìn đạo lý làm người. Lập chùa "Hoa Lâm" (Rừng Hoa) cho dân vui vẻ đến chùa tụng niệm làm việc thiện. Và điều đặc biệt là các tổ lo lắng xây dựng nề nếp kỷ cương trong làng xã, tạo phong tục tập quán tốt đẹp cho từng người, từng nhà, từng giáp, xóm thôn. Phong tục này được thực hiện từng bước ngay từ khi về đây khai khẩn. Buổi đầu các tổ họ Phạm, Nguyễn, Đỗ, Trần lập 4 giáp Đông, Tây, Nam, Bắc. Khi người đông lên lập thành 18 giáp thì các quy định lệ làng về việc tế thần, cũng như mọi việc trong xã được thay đổi, nâng lên.

Dưới đây là một số lệ ngạch được ghi trong sách chữ Hán của làng và truyền thuyết địa phương:

- Sách quy định đêm 30 vào giờ Hợi, đầu giờ Tý có lệ lễ quan đương niên tức là vị thiên quan nhà trời. Lệ này vừa tiễn quan cũ (giờ hợi), đón quan đương niên mới (giờ tý).

- Lễ Mẫu Liễu: Từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 2 (trong làng có đền thờ Mẫu Liễu) có lệ tế lễ tại đền. Lễ xong mọi người xin nước đem về nhà và vẩy nước vào người với ý: giàu như nước, tốt lành như nước, trong sạch như nước.

Khi lễ Mẫu thường lấy màu đỏ làm khước. Mỗi người xin một mảnh vải đỏ đem về nhà. Màu sắc đỏ biểu tượng lộc thánh ban sẽ được may mắn, tránh sự ám ảnh của tà ma.

- Lệ tế ở Giang đình: Giang đình là đình làng bên sông, lễ ở đây để nhớ lại ngày các tổ về làm nghề chài lưới và nghề nông tang kiếm sống. Lệ này thường mở vào ngày 11 tháng giêng, khi tế có cá và thịt lợn.

Ngày 15 lễ dâng sao giải hạn cho dân làng, lễ khao thổ ôn, thổ khí, tiễn ôn dịch. Lệ này còn tổ chức cho dân làng ra đồng đào chuột và bắt sâu, bắt chim sẻ. Ai bắt được chuột thì chặt đuôi đem nộp, còn bắt được sâu và chim thì đem cả con đến trình làng. Ai bắt được nhiều sẽ được lĩnh thưởng.

Lệ khao vọng: Chọn ngày tốt trong tháng 8, làng tổ chức khao vọng, yến lão. Người đến tuổi 50 phải nộp tiền gạo cho làng để làm lễ vọng hương ẩm. Đến tuổi 60 làm lễ vọng lão tuế, phải nạp 5 đồng và 1 thùng lúa (1 thùng lúa trị giá 5 đồng). Lão tuế sẽ được miễn trừ sai dịch đến khi chết. Người là hương lão, hương ẩm thì được làng mời khi có công việc. 60 tuổi được mời bàn việc làng. Ai có tiền thì vọng quan viên, không kể tuổi nhiều hay ít. Ai được tôn là trùm thì phải khao, nhưng được xã cấp cho 1 sào ruộng.

- Mùa xuân, mùa thu, chọn ngày tốt tế thánh Khổng và học trò của ông. Lệ này hội tư văn phải đảm nhiệm. Trong làng ai có học đều được đến dự và được làng cấp 1 sào ruộng để tạo điều kiện cho việc học cũng như khích lệ mọi người mở mang văn minh làng xã.

- Tiết thanh minh: Mỗi nhà đóng vào đình 5 thước ruộng để lấy lãi làm lệ tế tổ tiên ở đình.

Hàng năm, vào tiết thanh minh, các họ, các nhà đi tảo mộ, sau khi làm lễ ở nhà xong, đều đến đình lễ tổ. Trước khi đi làm, hoặc đi đâu xa đều có trầu rượu ra đình lễ. Khi lễ dùng 2 đồng tiền kẽm ra quẻ, nếu một đồng sấp, một đồng ngửa là thuận (được) thì mới đi.

- Ai có ruộng góp vào chùa, hoặc nhiều tiền đóng góp vào chùa, đình sẽ trở thành hậu đình, hậu chùa. Mua hậu là quyền của mọi người. Người làng hay người thập phương đều có quyền mua hậu (theo thư tịch ghi chép thì đình, chùa hiện có 20 mẫu ruộng hậu của 30 người hậu; trong đó ở làng có 20 vị, các nơi có 10 vị).

Các vị hậu được khắc bia thờ tại đình hoặc chùa, trong văn khấn được nêu tên, bày tỏ tấm lòng thành đối với cửa thánh, cửa phật của các hậu.

- Lệ tế tơ hồng: Trong làng có người được tác thành đôi lứa thì làng sẽ đến mừng 5 đồng và 1 thùng lúa trong dịp tế tơ hồng, tỏ rõ sự quan tâm của làng.

Lệ làng Đồng Du Trung hiện nay có nhiều điều không phù hợp, nhân dân đã bỏ qua nhưng cũng có nhiều điều bổ ích. Dù thực tế hay trong ký ức, hương ước đã để lại trong lòng nhiều người, giúp họ vận dụng trong hiện thực xã hội.

 

TỤC LỆ HỌ TRẦN VĂN ẤP, XÃ BỒ ĐỀ, HUYỆN BÌNH LỤC, HÀ NAM

Theo ý kiến của con cháu họ Trần Trọng, Trần Tất thôn Văn ấp, nhất là tư liệu do cụ Trần Trọng Yến, Trần Trọng Phúc cung cấp năm 1978 và tập sách chữ Hán "Trần tộc phả ký" do tri phủ Trần Tất Tuân ghi ngày 3 tháng 2 niên hiệu Cảnh Hưng 41 (1780)(1) thì lai lịch dòng họ và những điều lệ quy định về tế lễ tại từ đường, việc học, việc tang và các việc sinh hoạt khác liên quan đến nội tộc đều được ghi chép thành văn bản để mọi người thực hiện.

Tổ tiên họ Trần về Văn ấp từ lâu đời, nhưng do tình hình xã hội cuối thời Trần và nạn ngoại xâm thế kỷ XV, nên có sự phân tán, mai một. Sang thế kỷ XVIII trong họ mới họp bàn, ghi chép các đời, các chi từ cụ Trần Công có hiệu Pháp Tín và các chi tiếp nối. Cụ Pháp Tín sinh ra cụ Trần Cương, hiệu Phúc Cần. Con thứ cụ Trần Cương được phong Nghĩa Lương hầu, tên tự là Văn Bộ, tên hiệu là Tiến Nghị, tên huý là Lịch, lại có tên là Khoái.

Con trai cụ Trần Cương làm quan triều liệt đại phu tên hiệu là Phúc Thập, tên tự là Hữu Lễ, tên huý là Tại, còn gọi là ông Trần Tài Bá...

Đời thứ 5 có ông Trần Vóc, vốn cần cù sản xuất ủng hộ Nhà nước nhiều tiền, gạo nên được phong Thập Lý hầu. Hai con trai của ông là Trọng Quang, Trọng Khê đều giữ chức phó sở sứ...

Đời thứ 8 là Trần Du, tòng quân được chức Phó Thiên Hộ. Ông phụng sự từ đường chi ất và tôn Nghĩa Lương hầu làm thuỷ tổ của chi. Điều lệ chi này là thần chủ phải lưu truyền, không được tuỳ tiện chôn hoặc hoá (ngũ đại mai thần chủ). Nơi thờ có 3 gian nhà gỗ lim, lợp ngói trên mảnh đất, vườn, ao. Chi ất kế tiếp chi trưởng phụng sự, không được bán, đổi chác. Nếu chi trưởng phải đi nơi khác thì trong họ chọn tạm người thay theo lệ kế tiếp gần trưởng.

Chi thứ 2 đời thứ 5 còn có Trần Tất Đạt, tên hiệu là Anh Đạt Trần tướng công làm quan huyện thừa huyện Bình Lục, thăng Điện tiền nội điện thiếu thanh, đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, Tả trung doãn thượng trụ quốc Lân Thọ Bá, nhân dân thường gọi ông Lân Tường, trong xã thờ ông là "Sáng thuỷ tiên công".

Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44 (1783) ông được dự vào phẩm trật bách thần của bộ Lễ, các niên hiệu kế tiếp đều gia phong, cho phép xã Văn ấp huyện Thiên Bản thờ phụng.

Trần Tất Đạt huý là Thuần, sinh giờ Sửu ngày 24 tháng 10 năm Kỷ Dậu (1669) mất giờ Dần ngày 1 tháng 5 năm Mậu Thìn (1748) hưởng thọ 79 tuổi. Ông là con trai ông Trần Tài Bá và cháu nội Nghĩa Lương hầu, em ông Trọng Chú. Ông vốn họ Trọng vì kế tự ông Tuần Phú bên tổ ngoại nên mới lấy họ Trần Tất trở thành người Giáp Nhì.

Ông thiết lập từ đường, đặt việc khuyến học, lo việc đắp đê, nuôi cá giống, chăm canh nông, trồng vải, trồng hồng, sửa sang đền miếu thờ thần Phật, chia đất ở cho cả nhà chật hẹp nên tám giáp đều ca ngợi. Ông để 10 mẫu tế điền ở xã La Xá, đặt lệ ở tám giáp, cấm kỳ hào sách nhiễu những gia đình có việc hiếu, việc hỉ, giảm nhẹ việc tô thuế và định thành lệ để nhà nghèo đủ sức gánh vác...

Vốn từ nghèo khó, nhờ cần kiệm, mạnh dạn mua đất cày cấy mà dần dần có nhiều ruộng đất, giàu có. Có lần đang làm ruộng nhặt được 1 con gà do quạ cắp bay qua đánh rơi và con gà đó trở thành gà chọi, thắng cuộc với gà của các nhà giàu vùng Sơn Nam, Sơn Đông và thắng cả cuộc thi do triều đình tổ chức, được hàng vạn quan tiền thưởng.

Từ số tiền lớn được thưởng, ông lo liệu việc khẩn hoang ở Thư Trì, giúp vàng bạc và tiền vào công khố cho huyện Chân Ninh để cứu đói năm Nhâm Tuất. Cấp lương, tiền, trâu bò cho Vương sư đánh giặc... Ba cha con ông được bổ nhiệm coi các huyện Bình Lục, Giao Thuỷ, Kim Động được mọi người kính trọng. Con cháu của ông đều có sản nghiệp, chức sắc sang trọng tới hàng trăm người.

Tháng 12 năm Kỷ Tị (1809) Thượng thư bộ Lại Trần Văn Trạc đi kinh lý, ghé thăm từ đường thôn Văn ấp. Hỏi biết lịch sử dòng họ Trần, ông bèn làm bài tán, sai thợ khắc vào gỗ treo ở từ đường:

Khanh tướng môn nhân đắc kỷ nhân,

Kiến dân bần khốn bất an tâm

Trúc đê tác lẫm công vưu đại,

Tế bệnh thi tiền đức hựu thâm.

Thị tướng thị y sinh nãi phụ,

Tại hương tại quốc tử vi thần.

Trần gia Văn ấp nhưng phồn diễn,

Bất tự trần gian lịch kỷ quân!

Tạm dịch:

Nơi cửa quan, giàu sang có mấy người,

Thấy dân nghèo khổ lại đem lòng thương cảm.

Đắp đê, lập kho thóc công ấy thực to,

Đem tiền của cứu người bệnh trọng đức ấy càng sâu.

Là thầy thuốc, là vị tướng đáng bậc cha mẹ của dân,

Khi chết trở thành vị phúc thần của nước của làng.

Họ Trần Văn ấp còn phồn thịnh,

Không biến đổi thịnh, suy như các triều đại trên đời.

Truyền thuyết địa phương còn nói việc một số quan lại ghen ghét, tâu vua cử ông đi dẹp loạn. Biết nguyên nhân nổi loạn của nông dân vùng ven biển là do bị bần cùng hoá, đói khổ nên ông cho quân trở đầy thuyền thóc ra mặt trận. Khi đến nơi, ông phát chẩn cho dân, khuyên dân làm ăn, do đó không cần giao chiến mà giặc tự lui binh.

Sự việc thu phục nhân tâm của ông bị một số quan trong triều buộc tội, tâu vua triệu ông về triều xét sử. Trước khi về triều chịu tội, ông bảo con cháu gọi gà vào sân, đem vãi thóc cho gà ăn thật no, sau ông lại lấy gạo vãi ra sân tiếp tục cho gà ăn. Nhìn đàn gà căng diều tưởng chừng không còn sức chứa, ông tiếp tục bảo người nhà lấy cơm cho gà ăn, đàn gà lại xô đẩy tranh ăn... Thấy vậy ông mỉm cười bảo gia đình yên tâm, không sợ tù tội, mà chỉ lo hao tổn tiền của, quả nhiên ông lo đem vàng, bạc đút lót nên được trắng án.

Dòng họ Trần Trọng, Trần Tất và nhân dân thôn Văn ấp coi ông Trần Tất Đạt như bậc đại vương, bậc thành hoàng bản thổ che chở, bảo vệ cho nhân dân và con cháu. Mọi người quy định lệ ngạch khích lệ nhau thực hiện, nhằm tạo nếp sống văn minh, đồng thời phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng họ, quê hương.

Trong họ quy định cho tất cả các chi phải ghi chép vào gia phả họ tên, ngày sinh, ngày giỗ, chức tước, là văn, là võ, là học trò, làm thợ, đi buôn hay làm ruộng... Đẻ ra những ai, thứ bậc trong họ... đều phải tuyên đọc, thông báo rõ ràng cho già, trẻ, trai, gái hiểu rõ để vấn tổ tầm tông, tránh những sai trái đạo làm người.

Con gái trong họ đi lấy chồng phải đem 3 tiền và 10 miếng trầu biện lễ tổ tại từ đường.

Ngày tế tổ đầu năm, định vào ngày 5 tháng giêng quy định mọi người từ 10 tuổi trở lên, phải ra dâng lễ trầu cau tươi 5 miếng lên ban thờ tổ, ai thiếu lễ phải phạt 10 đồng.

Phẩm vật tế lễ như trâu, lợn, dê, gà và lệ xôi được thông báo từ trung tuần tháng chạp năm trước.

- Lệ làm xôi: Tiết đông chí làm xôi 8 người, tế xuân làm xôi 12 người, làm cơm 8 người. Xôi mỗi mâm 2 tiền, cơm mỗi nồi 2 tiền, nếu cơm trắng và ngon thì thưởng. Người thứ nhất thưởng 1 tiền người thứ 2 thưởng 36 đồng, người thứ 3 thưởng 24 đồng. Nếu nấu kém, đen thì phạt 36 đồng. Trước khi biện lễ phải thông báo trước, nếu thông báo rồi mà thiếu sót, quên lãng thì phải phạt tội bất kính 3 tiền, họ thu về làm lễ gà, rượu tạ tiên tổ. Nếu người được phân công mà chậm trễ cũng bị phạt như vậy.

- Nghi thức tế lễ thì dùng áo thanh cát, mũ the đen, thao đen, giày đen. Nếu không có, cho phép dùng áo dài, nhưng mũ nhất thiết phải có, nếu sai sẽ bị phạt 20 đồng.

- Về thứ bậc trong họ:

Chủ tế ngồi ăn uống riêng 1 chiếu, còn thì theo thứ bậc anh em, bác, chú từng hàng mà ngồi mỗi chiếu 4 người, không phân biệt giàu, nghèo, nhiều tuổi, ít tuổi (dưới 10 tuổi thì không được tính vào thứ bậc).

Thường khi làm lễ có thịt trâu, bò thì để 2 bắp chân và 4 chân; nếu thịt lợn thì để 4 chân, mỡ lá và 2 bộ lòng trắng để người phục vụ ăn và biếu người cho mượn đồ vật. Nếu người chịu trách nhiệm thiếu sót trong công việc tế lễ, hay đối xử thì phải biện lễ trị giá 3 tiền để nói lại với họ.

Đồ lễ dùng:

6 bình rượu

6 bình chè

6 lô nhang

150 bát

150 chén

2 quán tẩy

100 thẻ hương

100 nến

1 bản thúc văn

1 bản sớ lễ cầu an cho cả họ

Tiết con vật sống một phần (cắt cổ lấy tiết)

Tiết đã chín hai phần

Thịt sống (không dùng bầu dục) một ít

Thịt chín

Chả nướng

Nước canh rau cần

Nước canh rau cải

Canh gan lợn

Rượu, muối trắng sạch...

Vàng khay, giấy tiền 3000

Trống lớn, não bạt, mõ, lệnh

Màn che một bức bên trong, 4 bức che 4 phía

Ngoài ra chuẩn bị 200 đôi đũa mới để ăn uống

Chè khô mua trị giá 1 tiền

Chè tươi mua trị giá 1 tiền

Sự chuẩn bị phải chép vào giấy cho chi tiết, tránh thiếu sót. Nếu sai xuyển họ sẽ phạt 3 tiền, để làm lễ cáo lỗi và có lời nói với tông tộc.

- Việc biếu sau khi lễ:

Chủ tế được biếu chả nướng, thịt bò, thịt lợn (cả thịt thủ lợn).

Từ 60 tuổi trở lên và tộc trưởng được biếu một phần.

Từ 70 tuổi trở lên được biếu hai phần (cả nam lẫn nữ).

Là trai hoặc gái đến tuổi 60, có trầu rượu đưa đến lễ tổ và nói với họ đều được biếu thịt thủ. Người xướng tế, đọc chúc, chấp sự còn được biếu thịt nóng.

- Việc học trong họ:

Giờ Mão ngày tế xuân (5 tháng giêng) mọi người đến từ đường, chọn người ra đề gồm đại tập và tiểu tập.

Đại tập gồm 1 bài văn, 1 bài thơ.

Tiêu tập là 1 bài thơ ngắn.

Ai nhận khảo sẽ ra ngồi chiếu riêng để làm, lúc đang làm gặp tế thì vào tế, tế xong lại tiếp tục làm bài.

Hội đồng chấm thi sẽ chọn người trúng thưởng, phần đại tập, ai đoạt giải nhất sẽ được thưởng 3 sào ruộng, đoạt giải nhì được thưởng 2 sào, giải ba được thưởng 1 sào ruộng.

Phần thưởng về tiểu tập như sau:

Giải nhất được 100 tờ giấy, giải nhì được 60 tờ giấy và giải ba  được 40 tờ, nếu không có giấy thì lấy tiền thay vào.

Lệ này được trong họ thi hành nghiêm chỉnh, nếu thiếu ruộng thì lấy ruộng tế điền mà thưởng, sau sẽ mua thay vào, nếu ai phản đối sẽ bị phạt biện lễ xôi, gà nói lại với họ.

Ai trong họ sinh con trai, phải cố cho con học hành tử tế, trong họ phải trích công quỹ giúp đỡ, đồng thời khi tế lễ phải chiếu theo xuất đinh từ 18 tuổi trở xuống để biếu, xôi một bát, thịt một miếng.

- Việc tang lễ:

Không kể trai gái (nếu đi lấy chồng thì họ không tính) trong họ đều phải biện lễ đến viếng và họ giúp 3 quan tiền để lo mai táng. Nếu nhà có đàm nghèo thì số tiền giúp sẽ tăng lên (tính ra tiền mua quan tài 2 quan và 4 tiền xôi, gà, rượu lễ ngoài mộ).

Trưởng họ chịu trách nhiệm đốc thúc tang lễ, mai táng sao cho chu tất, biểu lộ tinh thần tông tộc, giữ gìn thuần phong mỹ tục.

Mọi người trong họ phải đóng góp tiền để họ chi phí và phải đưa tiễn ra huyệt. Ai sai sót phải phạt 24 đồng và trầu cau để nói với họ. Riêng người đau ốm nghèo quá hay dưới 15 tuổi thì được miễn lệ.

Quan hệ trong họ:

Trong họ nếu ai biểu hiện mưu mô làm khuynh gia bại sản của nhau, kiện tụng nhau, chơi bời lừa dối bất luận ít hay nhiều đều phải phạt 3 quan và biện lễ xôi gà nói với họ.

Nếu người trong họ vi phạm phải đến cửa quan, thì họ phải có đơn tâu trình quan, biện bạch giúp đỡ, khi xong việc người đó phải có lễ xôi, thịt tạ lễ họ. Nếu ai phạm phép nước họ sẽ không bênh vực, nhưng trong họ phải bàn bạc lo toan.

- Người trong họ đi làm trộm cướp "du thủ du thực" không lo sinh kế, hay chơi bời cờ bạc, trong họ tụ hội bảo ban một đôi lần mà không chừa, đến lần thứ ba trở lên sẽ bị làm nhục và phạt 6 tiền, cùng lễ tạ lỗi. Nếu tôn trưởng không làm nhục người vi phạm, thì phạt 1 quan 2 tiền, cùng khao họ để nhận lỗi. Nếu cố ý không hối cải, lại có hành động điên rồ với người trong họ, trong họ sẽ quây lại đánh, bắt trình quan. Nếu có hành vi phản loạn, đúc chế, cất dấu binh khí cả họ sẽ làm đơn trình quan, tránh liên luỵ đến dòng họ.

- Trong họ có người không hiếu, không hoà, đè nén lẫn nhau, dâm loạn chơi bời, cậy giàu cậy mạnh, coi thường bậc tôn trưởng... cả họ sẽ đánh trống quây bắt đánh đòn trừng phạt và tuỳ tội nặng nhẹ mà sửa lễ tạ tội ở từ đường, thưa chuyện xin hối cải với họ tộc.

- Nếu tay trắng mà làm nên, trở thành khá giả, hoặc sinh con trai thì phải có lễ bái yết từ đường. Nếu về văn đỗ sinh đồ trở lên, võ từ biền sinh trở lên được sắc mệnh của triều đình, thì phải làm lễ trị giá 3 tiền bái tạ tổ đường.

Nếu đỗ cao như tiến sĩ, tạo sĩ (tiến sĩ võ) thì phải làm lễ trị giá 6 quan để tạ ở từ đường.

Người trong họ thành đạt:

Văn từ tri huyện, tri phủ thực nhiệm, võ từ thị hậu được điều động làm việc mỗi năm phải nộp 2 quan tiền bổng lộc.

- Văn quan giữ chức Tham nghị, Phó hiến đương quyền, võ từ thủ hiệu, cai cơ đang tại chức mỗi năm phải nộp 5 quan cho họ.

- Văn quan từ chức Tham sai, Tham bồi, Đốc đồng, Đốc thị, võ từ quan trấn thủ, Đề lĩnh, Đốc suý, Chưởng phủ trở lên mỗi năm nộp 10 quan vào quỹ họ.

- Về ruộng bổng lộc, hay dân làm ăn khá giả, cũng nên tuỳ theo nhiều ít mà cúng vào họ.

Những ngân quỹ đóng góp trên sẽ dùng để mua ruộng, ngoài phần nộp thuế, phần lãi tích vào kho để đề phòng khi mất mùa đói kém, trợ cấp cho bà con trong họ. Hoặc cho vay để bà con làm ăn với lãi xuất từ 2 đến 3% một năm.

- Mỗi khi đến ngày lễ của họ, trong họ chọn người thông hiểu tuyên đọc hoặc giảng giải hình luật phép nước, cũng như điều lệ họ tộc để quan hệ cha con, vợ chồng, anh em, họ hàng, làng xóm, bè bạn được am hiểu từ đó mà gìn giữ gia phong, lệ họ, phép nước.

Trước kia ở Văn ấp có từ đường họ Trần tại các giáp để thờ tổ họ lại có đền thờ Nhân Uy đại vương Trần Tất Đạt chung của làng Văn ấp.

Hàng năm đến ngày kỷ niệm Nhân Uy đại vương, nhân dân 8 giáp ở Vân ấp tổ chức lễ, rước xách linh đình. Con cháu họ Trần đi làm ăn các nơi như Hà Bắc, Thái Bình, Hà Nội... đều lũ lượt kéo về vấn tổ tìm tông, tham gia ngày lễ tổ, lễ đại vương.

Hiện nay, các từ đường, đền thờ có phần mai một, nhân dân Văn ấp cùng con cháu thập phương tập trung tế lễ tổ và đại vương Trần Tất Đạt tại "Trần đại vương từ" thôn Vân ấp một cách gọn nhẹ, nhưng điều đặc biệt là trưởng tộc ôn lại lịch sử dòng họ, lịch sử Nhân Uy đại vương với công lao, sự nghiệp, sắc phong vua Lê Cảnh Hưng (1783) và sắc phong của các vua thời Nguyễn ban tặng, để mọi người tự hào về tông tộc.

Điều đặc biệt là sách lệ ngạch trong họ, do tộc trưởng giữ cũng được phiên âm dịch nghĩa, tuyên đọc tại đền cho các chi, các ngành họ Trần Trọng, Trần Tất hiểu, từ đó mà giữ mình và bàn định cách giảm nhẹ, hay để nguyên lệ ngạch cho con cháu thực hiện, trong giai đoạn đổi mới của đất nước hiện nay.

 

HƯƠNG ƯỚC XÃ AN ĐỔ, HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM

An Đổ là xã lớn thuộc tổng An Đổ huyện Bình Lục Hà Nam. Tống An Đổ thời xưa, gồm các xã An Đổ, An Tập, Cao Cái, Duy Dương, Mạnh Chư, Phù Tải, Trung Lương và Vân Tập. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 các xã nhỏ trở thành đơn vị thôn. Thôn An Đổ, thôn Mạnh Chư hợp nhất thành xã An Đổ.

An Đổ nằm trong khu vực nhỏ học thịnh hành, nhiều người đỗ đạt làm quan. Đây cũng là khu vực có nhiều công trình kiến trúc cổ, thờ tự các nhân vật lịch sử qua các triều đại phong kiến, nhất là đền thờ trạng nguyên Dương Đình Chung ở Mạnh Chư, từ đường Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến ở Vị Hạ. Riêng đình An Đổ thờ 3 vị tướng thời Lý: Đương Chu, Ngô Lang và Thạch Nuôi là ba tiến sĩ võ năm Mậu Tuất (1085). Ba ông đã giúp Lý Thánh Tông đánh giặc Chiêm Thành thu nhiều thắng lợi.

Hương ước An Đổ ghi trên sách chữ Hán, niên hiệu Thành Thái thứ nhất, ngày 9 tháng 3 do tiên chỉ Nguyễn Đình Tân, xã trưởng Cù Văn Phương cùng hương lão Nguyễn Duy Hoà, hương thân Phạm Văn Hải thay mặt dân ký tên. Hương ước có các điều lệ sau đây:

- Lệ hàng năm kỷ niệm tướng quân Đương Chu vào ngày 6 tháng giêng, được kéo dài 3 ngày và trở thành ngày hội chính của làng. (Ngày 5 lễ cáo, ngày 6 chính tế, ngày 7 lễ tạ).

Ngày 6 tháng giêng là ngày sinh ông Đương Chu, lễ vật dùng lợn đen, rượu cúc, cờ vàng. Rượu cúc chỉ khí tiết cao quý, vì các hoa nở vào mùa xuân, riêng hoa cúc nở vào mùa thu. Hoa muộn mà thơm tho, trái thời, khí tiết khắc nghiệt mà vẫn đẹp. Cờ vàng chỉ sự tôn quý, chủ tể một phương, không thua kém ai.

- Văn tế ngày chính lễ có câu: "Sinh vị bần dân tế nạn, tử năng trực sự giải phân". Nghĩa là khi sống vì kẻ nghèo đói mà cứu khổ, lúc chết còn bênh vực điều nghĩa, trái, phải phân minh.

Ngày 7 là ngày lễ tạ. Trong ngày này, ngoài việc làm lễ, dâng hương, còn có lệ hát chèo và nhân ngày này, xã tổ chức mừng thọ các tụ từ 70 tuổi trở lên, đồng thời bàn việc làng cả năm.

- Ngày 7 tháng 5 là ngày sinh ông Thạch Nuôi, lễ dùng một con lợn và 10 con gà. Ngoài việc tế lễ, làng liên tưởng việc thân phụ, thân mẫu ông Thạch Nuôi để mộ tiên tổ mà sinh ra ông nên dân làng nhân sự việc này, cùng các nhà chức sắc trong làng đem xôi tịnh, thịt tịnh đều một đĩa, rượu một chén, trầu 5 miếng đi lễ tiên tổ nhà mình (vào ngày 8 tháng 5). Lệ này được gọi là lễ "tổ đức".

- Ngày 12 tháng 8 là ngày hoá của ba ông, dùng lễ tam sinh. Lệ làng chuẩn bị cho ngày này như sau:

Trước ngày Kị các nhà đều đưa đến đình đóng góp 1 đồng tiền, đồng tiền này gọi là "Tiền nhất tâm" và 1 bát gạo tẻ (nộp trước chính kị một ngày) để lo kị nhật và sau ngày kị lễ tạ.

Trong ngày 12 tháng 8 còn có lệ "dâng đồ khéo" tức là dâng các mặt hàng mà trong năm dân làng sản xuất như rũa cưa, dao, hái, cày, bừa... để kiếm sống. Ai có mặt hàng sắt đẹp, chất lượng tốt hội đồng xét duyệt cho trúng thưởng thì được nhận 1 cân thịt lợn, 1 đĩa xôi và 1 cặp bánh dày nặng 1 cân đem về khao cho thợ và gia đình.

- Ngày 15 tháng 10 kỷ niệm ngày sinh Ngô Lang đại vương, lễ vật gồm thịt lợn, xôi. Nhưng đặc biệt hơn cả là phải có 5 thứ quả như chuối tiêu, bòng, cam, sung, khế. Năm thứ bánh như bánh dày gạo nếp mùa, bánh chưng, bánh khúc, bánh nướng, bánh mặn. Năm thứ hoa (tuỳ theo thời vụ mà chọn hoa lễ).

- Ngày 25 tháng 12 lễ tất niên. Lệ này sẽ thay đổi quần áo mũ thần tượng (khi thay thì đồ cũ sẽ hoá đi). Lệ này thực hiện trước tiên ở đình, rồi tiếp tục thực hiện ở phủ. Lễ vật như xôi, gà, rượu thì tuỳ nghi còn y phục và các lễ vật khác phải làm đủ đôi đủ bộ, và phải đủ 10 chiếc (với ý nghĩa là tròn trặn).

- Ngày 9 tháng 2 có lệ mừng người sinh con trai. Tiên chỉ, hương trưởng cấp cho người mới sinh 2 đấu gạo nếp, thịt gà, thịt lợn đều 1 cân để động viên gia đình, đồng thời nhắc nhở gia đình chăm lo, dạy dỗ con cái thành người tốt, học hành chăm chỉ.

- Từ năm sinh con trai đến năm 49 tuổi mỗi năm đóng 10 cân thóc ở đình để gây quỹ công lợi. Cũng ngày 9 tháng 2 ai từ 50 tuổi trở lên thì phải làm vọng hương ẩm. Người làm vọng phải đóng 10 cân thóc mới, 1 vò rượu (quãng 2 đấu gạo nếp), tiền 2 đồng (trị giá bằng 4 đấu gạo tẻ), trầu 200 miếng để xin làng công nhận.

- Làng có 20 mẫu công điền do chúa Trịnh Sâm ban thưởng, vì có công hưởng ứng giúp vua, giúp triều đình từ thời Trịnh Kiểm. Ruộng này dùng để chi tiêu các ngày đại lễ, dùng trong việc hiếu, việc tang, việc vui mừng. Chức sắc không được phép lạm bổ trong dân.

Trong sách ghi hương ước còn chép cả bài thơ của Trịnh Sâm có câu như sau:

Uý thiên sự đại thần gia kính

Trợ quốc an dân đế khuyến cần.

(Sợ trời phụng sự bề trên thần cũng phải khen ngợi,

Giúp nước để an dân vua khuyên mọi người nên làm).

Trong làng ai có việc gì phấn chấn, thăng quan tiến chức nên sắm lễ gồm xôi, rượu, thịt lợn và tiền để làm lễ tạ thánh, còn tiền thì sung công quỹ. Tiền thì tuỳ tâm nhưng lễ phải được coi trọng. Ngoài việc lễ tại đình, đền còn nên lễ thần tổ để khuyến khích con cháu uống nước nhớ nguồn.

Lệ làng mỗi năm chọn 10 người làm việc tế lễ. Trong số 10 người thì nên có 2 người quen công việc tế lễ ở đình, đền, chùa, miếu để chủ trì hướng dẫn công việc. Những người này trước khi làm lễ một ngày và các ngày làm lễ phải trai giới, để giữ lòng thành kính (ăn ở sạch sẽ, kiêng sinh hoạt nam nữ).

- Lệ sông đình: Chọn trong làng xem ai nhiều tuổi nhất mà còn minh mẫn đông con cháu, có chữ, giỏi giang thì không câu nệ chức tước đều được chọn cử vào sông đình.

Kinh phí lo cho lệ này dựa vào 1 sào 8 thước ruộng của đình, phần ruộng này giao cho thôn trưởng khoán để thu lợi.

- Lệ con gái đi lấy chồng:

Con gái nếu lấy chồng ngoài xã thì phải nộp tiền là 5 đồng và 100 miếng trầu. Nếu lấy chồng ở trong xã thì nộp 1 đồng và 100 miếng trầu. Số tiền trên dùng mua gạch để lát đường làng, đường xóm.

Nhà ai có con hay anh em hư đốn khó dạy, trong nhà phải tự phân xử. Nếu gia đình ấy không phân xử nổi làm ảnh hưởng đến trật tự trị an của làng thì bị phạt 100 đồng tiền, hoặc phạt bằng cách lấy của gia đình ấy 2 sào ruộng làm lệ phí giữ gìn trật tự trị an cho làng, tạo sự thuận hoà êm ấm ở hương thôn.

 

LỆ "DIỄN KHAI SỰ TÍCH PHÁ ĐỒN MINH BINH" HỘI LÀNG DÂU (MỸ ĐÔI) XÃ AN MỸ - BÌNH LỤC TỈNH HÀ NAM

Làng Dâu còn gọi làng Mỹ Đôi, xã An Mỹ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, nằm trên địa bàn có bề dày lịch sử. Nơi đây, nhiều sự kiện chiến tranh tự vệ của nhiều lịch đại đã diễn ra, nhưng đậm nét hơn cả, vẫn là sự tích ba chị em ả Đào, Nguyễn Phương, Nguyễn Quế chỉ huy nghĩa binh đánh giặc Minh đầu thế kỷ XV.

Theo Ngọc phả đình Dâu và truyền thuyết địa phương do các cụ Nguyễn Văn Ban, Nguyễn Văn Bàn, Nguyễn Văn Hán là người địa phương cung cấp thì thân phụ của chị em ả Đào từ vùng Tiên Lữ Hưng Yên, sang xã Bồ Xá Bình Lục lấy vợ lẽ là Thị Hương và sinh được ả Đào, Nguyên Phương, Nguyễn Quế. Hồi đó giặc Minh xâm lược nước ta, sát hại sinh linh, cướp phá tài sản, gây nhiều thảm cảnh ở Trang Cổ Thọ (nay thuộc xã An Mỹ).

Trước những hành động bạo ngược của giặc Minh ngày ngày diễn ra, các bô lão Cổ Thọ sang làng Bồ Xá cầu cứu viện binh đánh giặc. Nghe qua tình hình, ả Đào bàn với hai em và dân làng tìm cách đánh giặc trừ hại cho dân.

Nghĩa binh hai làng Bồ Xá, Cổ Thọ quyết định đánh úp căn cứ giặc Minh. Vào lúc nửa đêm ngày 14 tháng 2, ả Đào chia quân làm ba đạo, phối kết hợp với dân làng Cổ Thọ tập kích phá đồn giặc. Trước giờ xuất phát, nghĩa quân lấy bánh dầy làm lương ăn, lấy mía thay nước và tuyệt đối không dùng lửa. Trận tập kích phá đồn giặc thành công. Nhân dân Cổ Thọ được giải phóng, lấy lại sự thanh bình cho làng quê.

Để ghi nhớ công ơn những người anh hùng cứu dân, cứu nước, nhân dân địa phương thiết lập đền thờ trên các đường tiến quân, do vậy mà làng Dâu có ba ngôi đền nhỏ ở ba phía, mỗi đền thờ một vị tướng như ả Đào tiên chúa, Nguyễn Phương đại vương, Nguyễn Quế đại vương.

Nhân dân làng Dâu còn xây dựng ngôi đình to lớn mái cong, với sự gia công nghệ thuật điêu khắc công phu để làm nơi cộng đồng thờ chung các vị và qua nhiều thời đại, đều được phong sắc với lời lẽ tốt đẹp. Điều đặc biệt là lệ làng lấy ngày 15 tháng 2 để trình diễn "Phá đồn minh binh, diễn khai sự tích" (mở cuộc thao diễn sự tích đánh đồn giặc Minh). Lệ này có hai phần:

- Phần chuẩn bị được các giáp thực hiện rất cẩn trọng. Các giáp phải thi nhau nuôi lợn béo và sạch, để lấy thịt cúng thánh và diễn khai sự tích. Phải chọn gạo làm bánh dầy, sao cho bánh trắng, ngon và dẻo. Thi nhau trồng hoặc mua loại mía ngon, mềm và hoa quả vừa làm lễ vật vừa tượng trưng cho lương thực, dùng trong chiến trận của các tướng khi đánh giặc. Những lễ vật này được hội đồng chấm thi cân nhắc, xét thưởng theo từng loại nhất, nhì, ba.

Các giáp còn có phận sự chặt cành cây, cắm xung quanh khu miếu ở phía Đông Nam đình Dâu, giả làm đồn binh của giặc, đồng thời bố trí một số nơi giặc đóng trong xóm. Nhà nào được chọn là vị trí đóng quân, thì người trong nhà phải chấp nhận đóng vai quân Minh, đến đêm phải thắp đèn báo hiệu và khi quân của tiên chúa ả Đào đánh đến, nằm lăn ra giả chết, mặc cho nghĩa quân khiêng vứt ra khe, rãnh phía Nam đình Dâu.

Trước khi vào hội, làng phải chuẩn bị nhân lực, bố trí làm ba cánh quân. Đặc biệt là tìm người có phúc, có đủ phẩm hạnh đóng vai trò ả Đào tiên chúa và hai vị đại vương Nguyễn Phương, Nguyễn Quế. Đồng thời phải chọn người múa rồng và đóng vai Chử Đồng Tử tiên ông... Tóm lại, lệ làng Dâu về chuẩn bị khai diễn sự tích phá đồn giặc Minh khá cụ thể, nếu các giáp chuẩn bị thiếu chu đáo sẽ ảnh hưởng đến lễ hội, do đó mọi người, mọi nhà được phân công phải lo lắng chuẩn bị, tập duyệt phần việc của mình một cách nghiêm túc.

- Phần thao diễn sự tích được triển khai sau khi tế lễ, vào giờ Tý đêm 14 rạng 15 tháng 2. Đến lúc này, mọi nơi (từ đình, chùa đến nhà tư) thực hiện cấm lửa như lệ làng đã ghi: "Thử gian bài binh, bất khả phát yên, duy thủ bạch viên bính, khiến sinh dĩ hường quân sỹ" nghĩa thời gian là dùng binh không được phát lửa, dùng thịt lợn, bánh dầy cho quân ăn. Truyền thuyết còn cho biết: Nước uống được thay bằng mía.

Các đạo quân được bố trí tại ba hướng:

Đạo phía Nam do Nguyễn Phương làm tướng, đạo phía Đông do Nguyễn Quế chỉ huy, còn đạo phía Tây do chính ả Đào tiên chúa cầm linh phù làm tướng soái. Cả ba đạo quân tiến từ ba phía về khu miếu có cành cây cắm xung quanh, tượng trưng vị trí đóng quân của địch. Bên trong khu miếu "quân xanh" được mặc áo, quần, thắt lưng như quân đội nhà Minh, từng tốp, từng tốp nằm, ngồi vạ vật bên các bình rượu. Khi chín hồi chiêng trống vang lên thì cả ba đạo giáp công, giao chiến một ngày, một đêm thì quân giặc đại bại bỏ đồn chạy trốn. Sau đó ba đạo quân chia nhau tấn công các căn cứ nhỏ đóng trong làng. Một gia đình bố trí làm nơi quân Minh đóng thì châm đèn báo hiệu. Nghĩa quân ào ạt tấn công, tiêu diệt lần lượt các vị trí, rồi khiêng "xác giặc" ra khe phía nam làng Dâu, vứt xuống để giải quyết hậu quả. Sau đó đoàn quân kéo về đình tụ hội.

Trước sân đình, bỗng xuất hiện con rồng vàng, trên lưng rồng có tiên ông Chử Đồng Tử, tay cầm quạt vẫy gọi tiên chúa và hai tướng Nguyễn Quế, Nguyễn Phương. Cả ba người chạy ra phía đuôi rồng rồi như bay đi xa dần, trong khi đó thì dân làng giơ tay vẫy vẫy, hoặc chắp tay chào vĩnh biệt, vẻ bùi ngùi xúc động, cảm phục biết ơn.

Lệ ngạch trong lễ hội đình Dâu, thôn Mỹ Đôi xã An Mỹ huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam, với những tình tiết diễn tả cuộc chiến, phù hợp với nội dung lịch sử và tín ngưỡng dân gian, đã làm sáng tỏ thêm cho sự kiện lịch sử mà nhân dân địa phương tham gia đánh phá đồn giặc Minh.

- Bên cạnh lệ thao diễn phá đồn giặc Minh, làng Dâu còn lệ đào "cốt khí" (đào xương người chết). Lệ này thường diễn ra trong xóm phía Nam đình. Theo truyền thuyết, xóm này nguyên xưa là vùng trũng, có lạch nước chảy qua. Thế kỷ XV khi giặc Minh chiếm đóng vùng này, bị dân binh địa phương tiêu diệt và xác giặc được tập trung vùi chôn ở vùng trũng, sau này đất cao dần, lại có sự quật lấp đất thành nền nhà, thành xóm, nhưng phía dưới vẫn còn xương người. Truyền thuyết địa phương nói tới việc bất ổn về sức khoẻ trong xóm... Do vậy, từ lâu đời, dân làng Dâu phải đào đất tìm xương người đem chôn nơi khác. Có nhà phải cậy sân, đào sâu trong lòng đất tìm xương người, có nhà phải đào cả nền nhà lấy xương đem chôn nơi khác... Tục này có màu sắc duy tâm, song việc làm có thật này lại liên quan đến sự kiện lịch sử đánh giặc Minh, góp phần làm sáng tỏ thêm về mảnh đất, con người thế kỷ XV ở làng Dâu, Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

 

LỆ LÀNG VĂN XÁ, HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM

Văn Xá thuộc xã Đức Lý, huyện Lý Nhân và thôn Vân Lâm, huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam, hai làng cách nhau chừng 20km. Tuy khác xã, khác huyện nhưng lệ làng không khác.

Vậy điều gì đã hun đúc cho hai làng có tục lệ ấy?

Có nhiều đạo sắc phong từ thời Lê - Nguyễn ở đền Văn Xá, Văn Lâm phong cho Cao Văn Phúc đại vương và Từ bà Văn Huệ cùng Nhị Vị thuỷ tế đại vương.

Theo ngọc phả và truyền thuyết thì vào thời Lý, ở trang Văn Xá (Thanh Liêm) có ông Cao Văn Phúc nhà nghèo phải đi kiếm cá sinh nhai. Làng Văn Xá (Lý Nhân) có bà Từ Thị Lang cũng nhà nghèo, ngày ngày ra sông mò cua bắt ốc kiếm sống. Có lần ông họ Cao lên Cầu Không bán cá thì gặp Bà, hai người nên duyên vợ chồng, sống đầm ấm trong cảnh nghèo bên đầm hồ, sông nước.

Một lần ông bà họ Cao đi trồng khoai, cuốc được hai quả trứng. Khi về nhà, trứng đó đem luộc không chín, mà đập cũng không vỡ. Sau đôi quả trứng nở ra hai con rắn, dưới bụng rắn có chữ "Câu Mương Huynh", một con khác có chữ "Câu Mương Đệ". Ngày ngày đôi rắn nhỏ quấn quít bên nhau thật thân tình nên ông bà họ Cao quý mến đôi rắn, đi đâu cũng mang rắn theo bên mình coi như con mình vậy.

Ông bà họ Cao chậm có con nên càng đem tâm làm phúc. Một lần, tại làng Văn Xá, nhân dân bị bệnh dịch trầm trọng, ông bà họ Cao đã hết lòng cứu chữa, giúp dân được tai qua nạn khỏi. Ít lâu sau ông bà họ Cao qua đời để lại tình cảm tốt đẹp với mọi người. Nhân dân ngưỡng mộ lập miếu thờ ông bà và bên miếu tự nhiên xuất hiện một cái giếng rất sâu. Ngày ngày đôi rắn xuống giếng ẩn nấp. Lại có truyền thuyết về chiếc giếng kỳ lạ: quả bưởi rơi xuống giếng sẽ trôi được ra sông Hồng... Một thời gian sau, đê Bích Trì bị vỡ, nhân dân chết, nhà cửa bị dòng nước cuốn trôi, triều đình kêu gọi mọi người cứu đê giúp dân, giúp nước.

Trong tình thế nguy cập, đôi rắn trong giếng từ từ bò lên đê, rồi con nọ cắn đuôi con kia và biến hoá to lớn khác thường, nằm chắn ngang dòng nước. Dòng nước ngừng chảy, giúp mọi người tiếp tục đổ đất đắp đê và khi đê đã bình yên, đôi rắn tự nhiên nhỏ lại và bò xuống sông Châu biến mất.

Lại có lần ở Văn Xá (Nam Sang) nhân dân bị bệnh dịch, ông bà họ Cao hiện về cùng Cầu Không, Tế Xuyên bán thuốc cứu dân, nhờ đó mà mọi người lại được bình yên vô sự.

Thấy sự việc trên, nhân dân Văn Xá ở hai huyện sửa sang đền thờ và thường gọi là đền Thánh phụ, Thánh mẫu. Nhân dân còn tạc tượng thờ ông bà họ Cao, trên tượng có con rắn quấn ngang cổ, thể hiện tình cảm phụ tử, mẫu tử...

Sự việc đôi rắn cắn đuôi nằm trườn trên đê, ngăn nước cho dân đắp đê đến tai vua. Vua Lý sắc phong "Nhị vị thuỷ tề long vương" và bệnh cho dân hương khói phụng sự.

Có lần nhà vua đem quân đi đánh giặc, qua đây được bà Từ Thị báo mộng, dặn vua cứ theo đám mây vàng mà tiến quân, nhờ vậy mà quân ta đại thắng. Sau khi đánh giặc trở về, vua Lý nghĩ đến công lao của ông bà họ Cao, bèn phong ông là Văn Phúc đại vương, phong bà là Văn Từ hoàng hậu tôn thần. Các triều đại tiếp nối đều phong sắc và cho nhân dân hai quê phụng sự. Nhân dân hai làng Văn Xá cũng đã mang hết sức mình xây dựng công trình đình làng quy mô, chạm khắc tinh xảo để lấy nơi thờ phụng người có công với nước với dân. Các bậc văn nho thăm đình đã để lại câu đối tiến cúng:

   "Bạch noãn trưng tường, huyền điểu xích long phi độc cổ,

   Hoàng vân thắng trận, đan thư thanh sử thượng truyền kim".

(Trứng trắng tỏ điềm lành, rồng tỏ chim đen không phải là không có,

Mây vàng thắng trận, sách hồng, sử xanh còn mãi đến ngày nay).

Hàng năm, đến ngày 13/3 giỗ ông Cao Văn Phúc thì nhân dân hai quê tụ hội tại Văn Xá (nay là Văn Lâm) làm lễ kỷ niệm.

Ngày 19/3 kỵ bà Văn Từ hoàng hậu thì nhân dân Văn Lâm xuống Nam Sang* làm lễ kỷ niệm, tình cảm giữa hai quê thật là đằm thắm.

Tình cảm đó còn được thể hiện trên nhiều khía cạnh và nó trở thành lệ làng:

- Hai quê ở hai huyện khác nhau mà địa danh giống nhau, đều lấy tiếng đệm tên của hai vị thánh phụ, thánh mẫu mà đặt thành làng Văn Xá.

- Tập tục khiêm nhường mọi người tôn trọng lẫn nhau, chào nhau bằng bác được giữ gìn từ lâu đời. Cụ già Văn Xá, Nam Sang đến Văn Xá (Văn Lâm - Thanh Liêm) chào tất cả già, trẻ đều bằng bác và ngược lại mọi người ở Văn Lâm đến Văn Xá - Nam Sang cũng chào từ cụ già đến em nhỏ bằng bác.

- Ngoài sự tôn trọng lệ làng, chào nhau bằng bác, tinh thần giúp đỡ, đùm bọc khi khó khăn cũng được bộc lộ rõ ràng và trở thành trách nhiệm đối với nhau:

"Đắp đê sông Hồng có bác Văn Lâm

Cứu đê Tái Đàm có anh Văn Xá".

(Đê sông Hồng gần Văn Xá - Nam Sang, đê Tái Đàm gần Văn Lâm - Thanh Liêm).

- Cả hai quê đều giúp nhau làm nghề đánh bắt cá, nuôi cá, sau này còn làm cả nghề vớt cá bột trên sông, nghề rìu tôm, đan lưới... Theo cụ Nguyễn Văn Bàn cùng các cụ cao niên ở Văn Xá, Đức Lý, Lý Nhân thì nghề làm cá ở Văn Xá đã trở thành truyền thống ở Văn Xá - Thanh Liêm.

Còn Văn Xá và làng Kênh ở Nam Sang thì giỏi làm nghề cá con, cá bột. Nhân dân vùng này đem nghề truyền thống quê hương đi khắp mọi nơi như Hà Bắc, Hải Phòng, Kiến An, Vĩnh Phú, Nam Định... Ở đâu nghề cá Văn Xá cũng phát đạt, đời sống nhân dân cũng khấm khá và dân Văn Xá biết ơn, ngưỡng vọng thánh phụ, thánh mẫu.

- Lệ làng Văn Xá cấm các tên sau đây:

Phúc là tên thánh phụ, phải nói là Phước.

Rắn thì phải bảo là khô.

Thánh mẫu huý là Từ Thị Lang đọc là Dây, (Khoai lang gọi là khoai ngọt).

- Mỗi khi mở hội thường tổ chức các trò như chạy gậy(1), giằng bông (2), chơi đu. Đặc biệt là các bà tổ chức các điệu múa như điệu kéo lưới để ôn lại nghề cũ của thánh. Tổ chức múa tiên, trò mường, trò khách trên sân cỏ trước cửa đền khá tự nhiên. Và hầu như mỗi khi bà con hai quê gặp nhau, họ hoan hỉ mở trò này để bộc lộ tình cảm một cách chân tình, đằm thắm. Trong khi múa theo dáng như bay, các cô gái thanh tân thường vận câu hát:

"Người tiên một chốn đôi quê,

Khi ở nội tộc khi về cố hương"

ở Văn Xá có một cái giếng rất sâu, hầu như không bao giờ cạn, truyền thuyết cho rằng đáy giếng thông ra sông Hồng và thường gọi là giếng "Thông thư". Mỗi khi quê ngoại muốn nhắn nhủ quê nội thì viết thư nhét vào quả bưởi, thả bưởi xuống giếng đình, tự khắc bưởi trôi ra sông và người quê nội làm nghề cá trên sông sẽ bắt được bưởi và xem thư... Các già làng trân trọng tình cảm hai quê, coi mối tình này đẹp đẽ không bao giờ hết cũng được vận vào giếng thông thư:

"Mạch chảy giếng sen tình không cạn"

Khi múa hát các cô, các bà mặc quần trắng, áo dài, chít khăn, đeo hoa đánh phấn rất đẹp. Họ quây quần múa hát, đến bữa thì phụ lộc xôi, thịt. Hết tốp này biểu diễn lại đến tốp kia múa hát. Họ vận cả câu nhắc nhở ngày vào hội trong điệu múa "Hổ chầu".

"Bao giờ mồng chín tháng ba,

Kéo vào Vĩnh Trụ mà ra thuyền rồng".

(Vĩnh Trụ cách Văn Xá 4km, ý chỉ vào quê ngoại).

Lại có tốp biểu diễn vận cả bài thơ dân gian do các cụ ông, cụ bà sáng tác để ca ngợi hai quê, nhắc nhở mọi người về hội làng truyền thống.

"Nam quận Thanh Liêm biệt huyện thành,

Vân hà nhị ấp nhất văn danh.

Tương truyền giai cấu thần tiên ngẫu,

Bất tận tài liên huynh đệ tình.

Thập tải hội đồng tồn cổ tục,

Bách ân ca vũ thuật tiền sinh.

Vãng lai giao thiệp kim hà nhật,

Thần hoá nhân dân lễ thượng minh".

(Thanh Liêm riêng biệt đất phương nam,

Mấy nước hai quê một tên làng.

Tương truyền duyên bén thần tiên hợp,

Mãi mãi tình dài nghĩa anh em.

Mười năm mở hội theo tục cũ,

Trăm điệu hát ca nhắc chuyện tình.

Khách quý qua đây ngày vàng ngọc,

Lòng thành kính cẩn đấng tiên linh).

Lệ làng Văn Xá quy định về sự đóng góp trong ngày hội, theo sự tuỳ tâm của mọi người. Ai làm ăn khá giả góp nhiều, hoàn cảnh túng bấn góp ít, không bổ bán, nhưng lại rất thịnh tình, đặc biệt quĩ đình trông vào nguồn kinh phí ở mấy mẫu ao đình để mua lợn, bắt cá làm lễ cúng thánh và tiếp đón bà con nội, ngoại tộc hai quê.

Sau khi tế lễ, ca múa ở Văn Xá, đoàn đại diện hai quê lại kéo sang thôn Kênh gần đó để lễ chùa Cổ Am, nơi xưa kia thánh mẫu, thánh phụ thường qua lại đây làm nghề đánh cá. Tại đây dân làng tế lễ, ca múa một ngày một đêm rồi mới kéo về nội tộc Thanh Liêm.

Lệ làng Văn Xá vào ngày 4 tháng giêng và nhất là hội tháng 3 với việc tế lễ, ca múa ôn lại sự tích lúc sinh thời của thánh phụ Cao Văn Phúc và Từ bà Văn Huệ là tập tục vốn có từ lâu đời. Tập tục này mang nặng tính dân gian của dân làng chài đồng bằng sông Hồng. Mười năm mới có một lần hội, nhưng khi tổ chức hội thì thật tràn trề tình cảm, hàng chục ngày đi hội, hàng chục ngày thoả mãn tình cảm hai quê.

 

LỆ NUÔI "ÔNG Ỷ"  VÀ VỜN CẦU LÀNG ĐÔ QUAN - HÀ NAM

Đô Quan trước đây thuộc xã Mộc Hoàn, tổng Mộc Hoàn, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội. Hiện nay thuộc xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.

Đây là mảnh đất cổ từ lâu đời, các họ Phạm, Lê, Trần, Nguyễn, Đào, Hà về đây tổ chức thành 6 xóm và phân thành 18 giáp. Đây là vùng đất ven sông Hồng, đất bãi, đất trong đồng có tới 1110 mẫu, có xóm ngoài bãi ven sông với diện tích 50, 60 mẫu. Song đây cũng là địa bàn có nhiều gò đống. Truyền thuyết địa phương nói tới 99 gò, chỉ thiếu 1 gò nữa là đủ số 100, sẽ là nơi kinh đô. Do vậy đây chỉ là đất quan mà thôi...

Từ xưa đây có đình dưới và đình trên.

Đình dưới thờ Đông Hải Triệu đại vương. Theo ngọc phả đình làng Đô Quan, Hà Nam thì đây là nơi đóng quân của Đông Hải và nhân dân chịu nhiều ơn huệ của ông. Ông đã đem tiền của ban phát cho dân. Trong dịp hội 10 tháng giêng, có tục nhặt tiền đồng quanh miệng giếng.

Trong làng có năm cái giếng, nhưng riêng một chiếc giếng đình thì không có nước. Ngày hội, ban tổ chức dùng tiền kẽm cắm xung quanh miệng giếng, vừa chạy vừa cúi xuống nhặt tiền, ai nhặt được nhiều tiền mà không bị ngã là thắng cuộc.

Ngoài trò nhặt tiền còn tổ chức kéo dây, chọi gà, đấu vật, đấu roi và đặc biệt là vờn cầu.

- Làng chia làm hai phe, mỗi phe bầu một ông "đô thờ". "Đô thờ" là người có nhiều sự may mắn, vừa khoẻ, vừa có phúc hơn người. Hai ông "đô thờ" đều đóng khố, chít khăn đỏ, còn người tham gia vờn cầu thì mặc quần trắng và áo dài thâm. Các chức dịch của làng thì khăn áo tử tế đứng ngoài cầm chịch.

Quả cầu làm bằng củ chuối to, gọt tròn như cái rá con, đặt ở bàn chính giữa, người hai giáp đứng về hai bên. Hai ông "đô thờ" đứng đầu hàng. Trước khi vờn cầu một ông lĩnh xướng:

Vờn cầu kéo dây,

Thờ đức đại vương,

Đức đại vương phương hộ đồng xã.

Già sức khoẻ, trẻ bình an.

Người cả hai bên reo to "Hộ giờ", hai ông "đô thờ" nâng quả cầu lên hô "Hộ đốc, hộ đốc, hộ đốc" thì trống lệnh thúc. Người hai bên đẩy "đô thờ" đang giữ quả cầu về phía mình. Xô đẩy, giằng co quả cầu về là thắng cuộc, họ quan niệm năm đó làm ăn may mắn.

Làng Đô Quan còn có tục nuôi "ông ỷ".

Để chuẩn bị cho ngày đại lễ 10/1 trong làng có 6 xóm, chia làm 18 giáp. Mỗi giáp phải nuôi một "ông ỷ". Muốn làm được điều này trong giáp phải chọn người làm "lềnh". Nam giới từ 14 - 17 tuổi đủ tiêu chuẩn, đức độ đều được chọn làm "lềnh". Người làm "lềnh" phải có nhiệm vụ nuôi một con lợn trong một chuồng riêng sạch sẽ. Cho lợn ăn thức ăn ngon, sạch, phải cố gắng đạt tiêu chuẩn trọng lượng làng đề ra. Để chuẩn bị rước "ông ỷ" ra đình thi vào ngày 10 tháng giêng, giáp phải lo đóng cũi đẹp, lấy vải đỏ căng lên cũi "ông ỷ".

Tối 9 tháng giêng, người làm "lềnh" phải tắm cho lợn thật sạch sẽ, mọng da. Sáng 10 tháng giêng đưa hội bát âm đến, lùa "ông ỷ" vào cũi, rồi rước ra đình dự thi. Ban giám khảo chấm vóc dáng, trọng lượng xong, các "ông ỷ" đều được đem thủ vào cung cấm đại đình để cúng thánh. Còn các "ông ỷ" thứ nhì, ba, tư thì lần lượt phân công đặt trên ban thứ yếu, hoặc các đền nhỏ khác trong xã.

Giáp nào được nhất sẽ được làng thưởng. Mảnh vải đỏ phủ chuồng "ông ỷ" sẽ được xé nhỏ, phân phát trong giáp để đem về giắt mái chuồng lợn làm khước.

Ngoài ra làng Đô Quan còn có lệ thi đấu roi, thi gà chọi thu hút được đông đảo bà con trong thôn xóm, cũng như một số bà con trong huyện bạn, tỉnh bạn khiến hội làng Đô Quan rất đông vui và mang tính thượng võ dân tộc.

 

TỤC LỆ LÀNG VÀ HẠ, XÃ TRUNG LƯƠNG

Làng Và Hạ còn gọi Vị Hạ thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Trước kia Và Hạ thuộc xã An Đổ, tổng An Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

Và Hạ nằm trên vùng đất cổ thuộc địa bàn đồng chiêm, lắm gò đống và loáng thoáng có núi đất, núi đá vôi ở An Lão, Tiêu Động mà tiêu biểu là núi Quế (Quế Sơn). Và Hạ có bốn họ lớn, mà tiêu biểu là họ Nguyễn. Họ Nguyễn ở đây chia làm 9 họ nhỏ, trong đó có họ Nguyễn Tôn (họ cụ Nguyễn Khuyến). Các dòng họ, đặc biệt là họ Nguyễn có nhiều người đỗ đạt. Có gia đình cha, con, ông, cháu đều đỗ từ tú tài, phó bảng, tiến sĩ và giải nguyên (gia đình Nguyễn Khuyến).

Là một làng có truyền thống hiếu học, nhiều người đỗ đạt nên tục lệ cũng có nhiều điều chặt chẽ, nhiều quan điểm ảnh hưởng nặng nề đạo Khổng. Ngay việc thiết lập đền thờ thành hoàng cũng có sự sắp xếp ở cạnh làng, mang tính chất yểm trấn trạch, tránh "tà ma", tai vạ cho dân. Đình chùa được làm gần nhau ở đầu làng và chọn hướng đất rất cẩn thận. Trong văn bia niên hiệu Tự Đức thứ 34 (1881) có ghi:

"An Đổ xã Vị Hạ thôn Phụng biên đình sở, tự sở, tứ miếu sở phân châm toạ hướng liệt kê vụ khả dĩ lưu hậu thế:

- Nhất đình sở Tý long nhập thuỷ, nội bàn toạ quý hướng Đinh, kiêm ngoại bàn Canh Tý Canh Ngọ, cách giang Tốn Bính thủy triều.

- Nhất tự sở nội bàn tạo Quý hướng Đình, kiêm ngoại bàn Bính Tý Bính Ngọ.

- Đệ nhất thần miếu tại Đồng Ngói xứ.

- Đệ nhị thần miếu tại Đồng Bến xứ.

- Đệ tam thần miếu tại giếng Đông xứ.

- Đệ tứ thần miếu Hội long lai mạch, nội bàn toạ Giáp hướng Canh, trung bàn toạ Mão hướng Dậu, ngoại bàn toạ Giáp hướng Canh".

Dịch nghĩa:

Thôn Vị Hạ xã An Đổ kính chép vị trí đình, chùa và bốn ngôi miếu, hướng phân châm nơi toạ lạc để truyền lại lâu dài:

- Ngôi đình có Tý long nhập thuỷ, phần trong của la bàn là nằm Quí hướng Đinh, phần ngoài hướng Canh Tý Canh Ngọ, bên kia sông có nước từ phía đông nam chảy lại.

- Ngôi chùa bên trong la bàn tạo Quý hướng Đinh, phía ngoài là Bính Tý Bính Ngọ.

- Miếu thờ thần đệ nhất tại xứ Đồng Ngói.

- Miếu thờ thần đệ nhị ở xứ Đồng Bến.

- Miếu thờ thần đệ tam ở xứ giếng Đông.

- Miếu thờ thần đệ tứ có Hội long lai mạch, phần bên trong la bàn Giáp hướng Canh, phần giữa toạ mão hướng Dậu, phần ngoài toạ Giáp hướng Canh.

Riêng đình làng thờ bốn vị thần, hợp tự từ các miếu về đây, đó là thần Chu Đương thời Đinh, Đông Hải Vương Nguyễn Phục, Lãng Vương Cư Sĩ và Đinh Cát Thiên Cương đại vương. Trước cửa cấm toà đệ nhị có hai bức chạm ở dưới mảng chạm long chầu mặt nguyệt. Hai bức chạm này tạo thành các chấm tròn tượng trưng cho các vì sao, theo phương vị bát quái "Hà đồ", "Lạc thư". Hai bảng "Hà đồ", "Lạc thư" suy ra từ sự biến chuyển của đất trời, do cổ nhân tìm ra từ sông Hà, sông Lạc. "Hà đồ, Lạc thư" thường dùng để trấn, yểm trên công trình kiến trúc, song không phải nơi nào cũng có và ai cũng làm được. Theo truyền thuyết địa phương thì Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã đem vốn hiểu biết của mình, tạo "Hà đồ", "Lạc thư" yểm tại cửa cấm, mong muốn quê hương được bình an, thịnh vương hay nói khác đi là mong cho làng được phú, quý, thọ, khang, ninh.

Từ đặc thù làng xã, nên có những tục lệ đặc biệt ít nơi có:

- Lệ chuyển chợ Và trong ba phiên cuối năm.

Chợ Và gần cửa đình, sát dòng Thanh Giang, xưa có cầu ngói bắc qua. Bia cầu chợ Vị làng Và nói về ngôi cầu "thượng gia hạ trì" lớp ngói 5 gian, lâu ngày đổ nát. Năm Mậu Dần (1698) các quan chức thuộc các phủ, huyện lân cận, cùng thiện nam tín nữ khởi công tu sửa cầu và khắc bia vào ngày tốt tháng đầu mùa xuân, niên hiệu Chính Hoà năm thứ 22 (1701).

Chợ Và họp một tháng chín phiên vào ngày 4, 6, 10, 14, 16, 20, 24, 26, 30 (nếu tháng thiếu thì họp vào ngày 29). Chợ gần sông, xưa thuyền lớn thường cập bến để mua bán (hiện nay sông bị lấp dần chỉ còn là con ngòi nhỏ và cách đây trên 60 năm chợ chuyển lên gần cầu Sắt nhưng không thành). Điều đáng lưu ý là các phiên 24, 26, 30 của tháng chạp giáp tết chợ Và chuyển ra cánh mạ ngoài đồng, gần đền thờ thánh Cả để tránh ảnh hưởng đến việc chuẩn bị lễ bái cuối năm ở đình Công Đồng, tránh sự đi lại trước cửa đình và chợ này gọi là chợ Đồng. Cụ Nguyễn Khuyến có bài thơ chợ Đồng:

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

Năm nay chợ họp có đông không?

Trở trời mưa bụi còn hơi rét,

Nếm rượu tường đền được mấy ông?

Hàng quán người về nghe xáo xác,

Nợ nần năm hết hỏi lung tung.

Dăm ba bữa nữa tin xuân đến,

Pháo trúc nhà ai nổ đánh đùng.

- Việc làng:

Lệ làng Vị Hạ: con trai 16 tuổi thì được "vào làng", nghĩa là được tham dự việc làng, có nghĩa vụ đóng góp và được hưởng quyền lợi của làng, được dự các bữa cỗ mà làng mời. (Phụ nữ dù là vợ quan to cũng không được dự việc làng).

- Việc đóng góp và hưởng thụ theo tuổi tác (trọng sỉ) khi dự hội họp hay dự cỗ thì người nhiều tuổi ngồi trên, người ít tuổi ngồi dưới. Cùng tuổi và cùng "vào làng" một năm, ai có bố tuổi nhiều hơn thì người ấy được ngồi trên. "Bố trên, con trên, bố dưới, con dưới" là như vậy.

Theo lệ làng Vị Hạ cứ 50 tuổi lên "lão làng", 60 tuổi lên "lão cụ", 80 tuổi được dân làng mang võng lọng đến nhà rước ra đình để dân làng làm lễ mừng thọ. Lên "lão cụ" là được "ăn nhưng không phải đóng góp gì với làng. Song có một số người 59 tuổi sắp lên "lão cụ" thì chết, nên sau làng định lệ 59 tuổi được lên "lão cụ".

Lễ mừng thọ 80 tuổi được tổ chức rất trọng thể, người đến tuổi 80 được làng cõng ra đình, đầu đội mũ nỉ, ngồi chiếu cạp giữa đình. Dân làng lần lượt vào vái ông "Chuồi" hai vái. Cụ già này cứ ngồi yên không phải đứng đáp lễ (quy định). Cụ Nguyễn Khuyến là bậc đại khoa cũng thực hiện lệ làng, có người ngạc nhiên, cụ bảo: "ta trọng tuổi trời cho".

Mấy câu thơ mừng thọ:

Nay mừng ông lão tám mươi,

ấy dân Hoài Cát1, hay người Đường Ngu2

Nhởn nhơ kích nhưỡng khang cù3

Thiều quang chín chục4, xuân thu tám nghìn5

Chẳng tiên ấy cũng là tiên.

Khi ra đường thấy cụ già thì người ít tuổi hơn phải tránh ra một bên nhường đường và cất lời chào, các cụ già chỉ phải gật đầu "ừ" để nhận lời chào. Đó là quy định việc kính lão đắc thọ mà từ xưa đã định.

- Việc phân chia thành giáp.

Làng phân thành hai giáp Đông và Đoài. Giáp Đông sử dụng sàn cầu phía đông, giáp Đoài sử dụng sàn cầu phía tây. Họ nhỏ phân về Giáp đông; họ to thì phân chi trưởng về giáp Đông, các chi khác thì phần về giáp Đoài. Phân chia như vậy để hai giáp không có sự cạnh tranh, thậm chí đánh nhau vì cả hai giáp đều có người trong họ. Giáp Đông tuy ít hơn giáp Đoài, nhưng là giáp đàn anh, nên khi xướng tế thì người giáp Đông xướng trước, rồi mới đến người giáp Đoài.

Thờ cúng ở đình trong các ngày rằm tháng 3, rằm tháng 7, 5 tháng 5 và các ngày kỷ niệm các thánh, cúng giao thừa (đêm 30 tết); con trai đến tuổi vào làng đều có thể đến dự.

Riêng ngày 6 tháng giêng là ngày việc làng lớn nhất. Lệ làng trong dịp này phải cúng bằng bánh dày, không cúng bằng xôi. Nam từ 16 đến 58 tuổi, nếu trong năm chưa làm nghi thức lễ tiết nào khác thì phải làm cỗ ra đình. Cứ ba người làm một cỗ gồm bốn đồng bánh dầy, một con gà trống và một bát cuốn nộm. Tuy không quy định kích thước bánh, nhưng mọi người đều làm bánh có đường kính từ 25 đến 30cm; ít ai làm nhỏ, sợ mang tiếng.

Cỗ của "lão cụ" thì to hơn, vừa cúng thánh vừa trình làng được "ăn nhưng" nên to nhỏ không hạn định. Nhưng nhìn chung mỗi người làm một cỗ gồm bốn đồng bánh dầy đường kính 40 đến 50cm, gà sống thiến thật to, cá trắm to. Có người còn dùng cả một con lợn móc hàm, tuỳ tâm không hạn định.

Để bắt đầu cuộc tế, bao giờ cũng dùng trống cái, trống con, chiêng lệnh nổi lên. Chủ tế mặc áo tế màu xanh lam, tay rộng, đầu đội mũ tế, chân đi hia thắt đai uy nghi đứng giữa chiếu. Xướng tế và bồi tế đều mặc áo nâu, nẹp đỏ, đội mũ lính xưa, tay cầm bát biểu đứng tựa các cột đình làm hàng rào danh dự. Hai người xướng tế điều khiển cuộc tế đứng ở hai bên (đại diện chủ hai giáp Đông và Đoài). Trình tự hành lễ sẽ nhất nhất làm theo lệnh, cho đến khi xướng "lễ tất" mới tế xong.

Sau khi tế, mọi người mới được vào lễ theo trình tự nhiều tuổi lễ trước, ít tuổi lễ sau. Lễ xong đến công việc "bắt cỗ", nghĩa là nhận phần cỗ của mình. Cứ bốn người một cỗ, người cao tuổi ngồi trước ở mâm cao, người ít tuổi ngồi sau ở mâm dưới, cứ thế theo trình tự cho đến người cuối cùng. Người giáp Đông bắt cỗ của giáp Đông, người giáp Đoài bắt cỗ của giáp Đoài, mọi người thụ lộc rất vui vẻ.

Từ 7 đến rằm tháng giêng các cụ được lên "lão cụ" còn làm cỗ mời quan viên, hoặc mời làng; làm tuỳ tâm. Song việc làm cỗ "lão cụ" có tính chất ganh đua, có người làm xong phải bán đất, bán nhà đi tha phương cầu thực. Do vậy nên Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã bàn với làng giảm bớt các tục lệ phiền phức.

Lệ làng 6 tháng giêng tuy đông vui, nhưng phụ nữ thì phải lo việc làng cho chồng, con, cha, anh rất vất vả, phải chú ý chọn từng hạt gạo xấu để loại trừ, phải bỏ từng hạt đậu ruồi để bánh mịn và đẹp, lo tiền mua sắm lễ vật khiến nhiều người phải mang công mắc nợ.

Thời xưa, một năm 13 kỳ việc làng, ai đến lượt đăng cai phải lo liệu rất tốn kém. Cụ Nguyễn Khuyến thấy việc làng quá phiền phức, tốn kém nên cụ đã yêu cầu làng sửa đổi lại như bỏ bớt các kỳ việc làng, hàng năm chỉ còn một kỳ đại lễ 6 tháng giêng. Các ngày khác thì tuỳ tám ông lão làng tổ chức, gọi người làm cỗ một cách nhẹ nhàng, chỉ độ hai hoặc ba cỗ xôi, theo giá bấy giờ, mỗi cỗ chỉ tốn một đồng. Ai làm trong các dịp này thì khi đại lễ không phải làm nữa.

Lệ xưa cứ 5 năm mở hội lớn một lần (vào đám), thời gian thường từ 5 đến 7 ngày. Những ngày vào đám có tổ chức leo dây, múa rối nước, đánh đu, đấu vật, đấu gậy, ném vòng vào cổ vịt, tổ tôm điếm, đánh cờ người. Việc đánh cờ người được lựa chọn mỗi bên 16 người. Người ngồi làm tướng phải đẹp, hoàn cảnh gia đình cũng phải nổi trội hơn bà con trong thôn về nhiều mặt. Tục này còn quy định: ai đấu cờ thua thì làng tống tiễn ra khỏi làng (đi qua cầu đá). Khi tống tiễn có cả trống bỏi đánh theo sau. Sau đó đấu thủ bị thua muốn quay lại xem hội cũng được, tuỳ ý.

- Lệ săn chim Cuốc.

Theo tài liệu của cụ Nguyễn Đức Trung người làng Vị Hạ thì thánh ở làng Vị Hạ, lúc sinh thời thích đi săn chim Cuốc, nên dịp Tết nguyên đán làng tổ chức săn chim Cuốc, bắt làm cỗ cúng thánh, vừa là hình thức làm náo động, xua đuổi những gì xúi quẩy đến với dân làng.

Sáng 2 tết làng cho hai người mõ đánh bôông - bèng tức là "lệnh Giong" đi khắp làng, để báo cho mọi người ngày hôm sau sẽ là ngày săn chim Cuốc.

Sáng 3 và 5, trai tráng quần áo gọn gàng, tụ tập tại đình để đi săn chim Cuốc. Không riêng gì trai tráng mà cả trung niên, cụ già cũng chống gậy ra đình để tham gia hoặc động viên con cháu săn chim Cuốc. Mọi người đi tay không, còn hai người cầm bôông, bèng thì có nhiệm vụ khua, làm náo động. Đoàn người đến bụi tre, bờ ao, bờ hồ, bụi lau, sậy... là những nơi có thể có chim Cuốc. Vừa đi vừa reo, hò cùng với tiếng bôông, bèng làm cho chim Cuốc cuống cuồng hoặc lủi, hoặc bay, sà xuống ao, xuống hồ. Thấy chim Cuốc thì mọi người nhào theo, bất kể gai góc, bùn nước, rét mướt. Hễ bắt được chim Cuốc phải giơ ngay lên, báo cho người khác trông thấy, nếu không sẽ bị giằng xé. Ai bắt được "chim tiên" sẽ được thưởng nhiều (con chim Cuốc đầu tiên), bắt được các con sau sẽ được thưởng ít hơn. Giằng được một phần con cuốc cũng được thưởng nhưng ít hơn.

Chim Cuốc bắt được sẽ làm thịt để tế thánh. Nếu bắt được nhiều thì sau khi tế sẽ chia phần cho cả giáp. Có năm phần thịt được chia chỉ bằng hạt ngô cũng thực hiện. Nếu không bắt được chim Cuốc sẽ dùng gà trống hoa mơ thay thế.

Truyền thuyết địa phương: có nguồn nói thánh làng Và thích đi săn chim Cuốc, có nhiều người cho rằng vì con Cuốc làm lộ chỗ phục binh của thánh, khiến trận đó thất bại nên phải bắt hoặc xé ra cho hả giận. Do vậy mà lệ săn chim Cuốc không chỉ săn ở Vị Hạ, có khi còn săn đến cả các làng lân cận như Vị Thượng, Đồng Quan, Phú Đa, làng Đổ để bắt kỳ được chim cuốc.

Tục lệ này bảo tồn lâu dài, được đông đảo bà con tham gia. Vừa là tục vừa là hội vui xuân mang tính thượng võ dân tộc. (Hiện nay, vì việc cải tạo nông thôn và sản xuất mới, nên không còn chim cuốc để săn, do đó tục này không thực hiện).

- Quản lý hành chính - kinh tế.

Giữa thế kỷ XVIII Vị Hạ không có tiên chỉ, việc cúng tế trong làng do các vị lão làng lo liệu. Phần thu và quản lý trong thôn do chức dịch lý trưởng đảm nhận. Sang năm 1900 không ai chịu đảm nhận phụ trách, quản lý việc thu thuế, hộ đê, gọi phu và các tạp dịch khác, mọi người đùn đẩy nhau, cuối cùng bà Hậu Cẩm xin đảm nhận và được làng cùng cấp trên chấp thuận.

Thời Pháp thuộc phụ nữ không được tham chính, không được dự vào việc làng. Riêng bà Hậu Cẩm được làng cử phụ trách coi như lý trưởng là một sự việc bất bình thường, phá vỡ tục lệ xưa kia của làng.

Từ năm 1924 việc quản lý hương thôn do hội đồng tộc biểu. Những họ lớn đều cử đại biểu dòng họ và hội đồng. Như vậy là ở thôn xã: ngoài lý trưởng, phó lý còn thêm một hội đồng tộc biêu. Đây là bộ máy "cải lương", thực chất thì việc quản lý hành chính, thu thuế, trị an hội đồng này không có thực quyền, không có lương. Riêng trưởng bạ, thư ký hộ lại được thu lệ phí đo đạc, sang tên việc mua bán ruộng đất, cấp giấy giá thú, sinh, tử.

- Việc canh phòng cũng được quy định:

Làng có hai điếm canh ở đình và quán ngói. Tổ chức tuần phu có 10 người, đứng đầu là đốc tuần, hay trương tuần phân công nhau canh phòng trộm cướp, bảo vệ mùa màng, bảo vệ mức nước cho đồng ruộng, đồng thời theo dõi, kiểm soát người lạ mặt đến làng.

Tuần phu được hưởng quyền lợi bằng cách thu lúa sương (mỗi mẫu thu ba lượm lúa), thu ruộng xâm canh của dân làng khác, thuộc phạm vi mình bảo vệ tới 10 - 15 hay 20 lượm một mẫu. Trung bình một năm mỗi tuần phu được tới 6 tạ thóc lúa sương, nhưng nếu để xảy ra trộm cặp, gặt trộm lúa thì phải đền, do vậy nên phải phân chia nhau quản lý cho chu đáo hương thôn cũng như đồng ruộng.

- Thuế:

Nam giới từ 18 đến 59 tuổi đều phải nộp thuế thân (còn gọi là thuế đinh). Thuế thường thu vào vụ gặt chiêm (tháng 5 ta). Sổ thuế lập vào cuối năm trước (lấy ngày 31 tháng 12 làm mốc). Ai chết trước ngày đó thì được miễn thuế thân, chết sau ngày đó thì thân nhân phải nộp đậy, vì sổ thuế đã làm rồi. Người sinh ra ở Vị Hạ đã đi tỉnh khác, xã khác, nếu còn đóng góp với làng thì cũng phải nộp thuế thân ở làng mình. Nộp thuế xong sẽ được cấp thẻ công nhận, gọi là thẻ tuỳ thân, đi đâu phải đem theo, nếu không có thẻ coi như người xấu và bị bắt tù.

- Thuế ruộng còn gọi thuế điền. Thuế này tính theo diện tích đo đạc từ thời Pháp rồi phân chia ra ba hạng ruộng: nhất đẳng điền, nhị đẳng điền, tam đẳng điền. Thuế ruộng loại 1 cao hơn loại 2, thuế ruộng loại 2 cao hơn loại 3. Diện tích đo đạc bao trùm cả hồ ao, tha ma, đình chùa, đường xá nên thuế giao về phải gánh chịu cả số diện tích không canh tác.

Cách tính trên đây không chính xác, là kẽ hở cho sự vị nể, tư túi, hà hiếp người nghèo... tính ra người nghèo có bốn cái thiệt:

- Chịu thuế khống về đường xá, gò đống, tha ma.

- Chịu thuế khống về diện tích gian lậu.

- Chịu thiệt do thuế bổ bình quân các loại ruộng, trong khi đó không được nhận ruộng tốt.

- Chịu tiền ngoại phụ cho lý dịch cao hơn người giàu.

Theo địa dư huyện Bình Lục thì từ năm 1935, xã An Đổ thuế đinh và điền như sau:

- Đinh 1338 xuất, thuế

3311,55đ

- Điền 1894 mẫu, thuế

2635,62đ

- Ngoại phụ trung bình 6%

356,83đ

Cộng:

6.304,00đ

(Giá thóc 1,80đ/1 tạ)

Dân số (nam, phụ, lão, ấu) 5272 người.

Thuế bình quân đầu người = 1,20đ bằng 67kg thóc.

Riêng thuế thân 2,63đ một đinh bằng 146kg thóc là mức thuế rất nặng, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân.

Một số quy định dưới thời Pháp thuộc trên đây đã là gánh nặng đè lên đầu nông dân Vị Hạ. Sự hà khắc đó đã bị nông dân phản đối, đấu tranh trực diện, buộc một cường hào trong làng phải trả lại hoa lợi đã chiếm đoạt về cho nông dân. Hoặc tố cáo tri phủ Bình Lục dùng hộc, dùng cân sai trọng lượng để thu thóc thuế làm hại dân, chống bọn hương lý phụ thu quá nhiều, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Các hình thức đấu tranh tự phát của nông dân Bình Lục, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đưa phong trào cách mạng thay cũ đổi mới của Bình Lục trở thành điểm sáng của cách mạng Hà Nam.

 

LỄ HỘI ĐỀN TRẦN ĐỀN BẢO LỘC,

TỈNH NAM ĐỊNH

Lễ hội đền Trần - đền Bảo Lộc, Nam Định là lễ hội lớn trong năm của nhân dân hai xã Lộc Vượng, Mỹ Phúc nói riêng, của đông đảo nhân dân tỉnh Nam Định và các tỉnh vùng Châu thổ sông Hồng, cũng như cả nước.

Lễ hội này trở thành lệ: "Tháng tám giỗ cha". Tháng tám giỗ cha là dịp kỷ niệm Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Lễ hội được nhân dân ý thức rất cao, mọi người tôn trọng Hưng Đạo Vương, coi ông như vị cha mà mọi người là con phải có trách nhiệm báo hiếu.

"Dù ai buôn đâu bán đâu,

Mồng mười tháng tám chọi trâu cùng về".

Để chứng minh công đức của ông, xin rích tập "Phả hệ bảo tích" (Sự tích quí báu về thế hệ nhà Trần) phần "Cung lục linh tích hành trạng" (Kính chép hành trạng thiêng liêng) về Trần Quốc Tuấn.

Đại vương sinh ngày 10 tháng 12 năm Nhâm Tý, niên hiệu Nguyên Phong thứ 2 (1252)* đời vua Thái Tông.

Cha của vương tính nghiêm khắc, cứng rắn là anh ruột vua Trần Thái Tông, làm quan Thái uý phụ chính năm Giáp Ngọ (1234). Vua yêu quý sắc phong Hiển Hoàng, về sau lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (Thuộc Đông Triều) làm ấp hưởng lộc lâu dài. Lại phong là Yên Sinh Vương. Vua Anh Tông phong Khâm Minh đại vương.

Mẹ của Vương là Thiện Đạo quốc mẫu, biết giữ đạo làm vợ, thờ phụng Huy tổ thượng hoàng. Thường đêm đốt nhang cầu thượng đế mơ thấy Thanh Thiên đồng tử rồi mang thai(1). Khi sinh trong nhà có gió thơm, ánh sáng tràn ngập... đặt tên Quốc Tuấn.

Một năm Quốc Tuấn biết nói, 6 tuổi bày được trận đồ, đọc thơ ngũ ngôn. Lớn lên hình dáng khôi ngô, thông minh hơn người, được cha tìm thầy cho học văn, võ và nhanh chóng trở thành người tài. Vua Thái Tông yêu quý thưởng cho nhiều tiền, ông tạ ơn rồi đem chia cho các tướng dưới mình. Trong gia đình dùng ba điều: Nhân từ, cần kiệm, khoan dung. Việc dùng tướng chọn theo 5 điều: Trung, tín, nhân, trí, dũng nên các tướng đều trở thành tông thần có công vào bậc nhất.

Phu nhân của Vương là Nguyên Từ Quốc mẫu vốn hiền thục, sinh được bốn con trai:

- Con trưởng là Quốc Hiến được phong Khai quốc công Hưng Vũ đại vương.

- Con thứ là Quốc Uý được phong Hưng Hiến Vương.

- Thứ nữa là Quốc Tảng được phong Tiết Độ sứ Hưng Nhượng đại vương.

- Thứ nữa là Quốc Nghiễn được phong Hưng Trí vương đều theo Vương đánh giặc làm phên dậu cho nước.

- Gái cả là hoàng hậu của Nhân Tông, được truy tôn là Bảo Thánh hoàng Thái hậu.

- Gái nuôi là Thuỷ Tiên công chúa lấy Phạm Ngũ Lão.

- Cháu gái nội là con Hưng Nhượng Vương là Hoàng hậu của Anh Tông, truy tôn Thuận Thánh Bảo từ hoàng thái hậu.

- Cháu gái ngoại là Tĩnh Huệ công chuá (con Phạm Ngũ Lão) là thứ phi của Anh Tông.

Tiếng nhà tốt đẹp, phúc đức ít người bằng...

Ngày 20 tháng 8 Đại Vương mất ở Vạn Kiếp, lúc đó hơn 70 tuổi, xa gần đều khóc lóc, bãi chầu 10 ngày. Nhân Tông và vua truyền cho trăm quan mặc tang phục. Vua đi xe mộc ngựa trắng, thân hành đốc việc dùng quan tài bằng đồng liệm táng trong vườn An Lạc(1) nay là địa phận khu rừng ấp An Sinh huyện Đông Triều. Vua sai lập đền thờ ở Thiên Trường và Vạn Kiếp ngàn thu thờ tự. Vua nhớ Đại vương sai người lấy gỗ bạch đàn hương tạc tượng thờ, ngày đêm phụng sự. Mỗi khi trong nước có đại sự đều đến cầu đảo. Các vương công tướng tá khi có lệnh đi đánh giặc đều đến đền làm lễ cầu, bái yết rồi mới xuất quân.

Trải qua các đời, mỗi khi có giặc xâm phạm, vua đều sai quan đến cầu ở đền, nếu thấy tiếng kiếm kêu vang trong bao thì tin là thắng lớn.

Các châu huyện gần xa gặp úng hạn, tật, dịch, đến lễ đều qua khỏi. Nếu gặp tà ma quấy nhiễu thì đến đền làm lễ xin mượn kiếm hoặc đổi chiếu tế cũng sẽ yên lành. Có người chậm chạp sinh con hay khó nuôi đến lễ cầu cũng thấy ứng nghiệm...

Qua các triều đại đều phong Hưng Đạo Vương là Thượng đẳng phúc thần(2).

Do ảnh hưởng to lớn của Hưng Đạo Vương đối với nhân dân Nam Định, đặc biệt đối với Bảo Lộc (thái ấp của phụ thân Hưng Đạo Vương), là nơi phát tích dòng dõi nhà Trần, nơi thờ 14 vua Trần, xưa là cung điện Thái Thượng hoàng, nơi có chùa Phổ Minh thờ Thượng hoàng Nhân Tông cùng gia quyến... nên lễ hội đền Trần - Bảo Lộc vừa mang tính chất thành lệ và là sự tuỳ tâm, tuỳ công việc phải kêu cầu và đặc biệt là tuỳ sự giác ngộ, trình độ hiểu biết để lễ bái, tưởng niệm của từng người.

Theo một số già làng thì xưa kia, cứ tám năm một lần có đại lễ. Các đền lân cận thờ Hưng Đạo Vương như Trần Thương, Bảo Lộc, Lưu Phố... đều rước kiệu xuống khu đền Trần - Cố Trạch với quan niệm rước về quê cũ, về khu cung điện Thái Thượng hoàng. (Khoảng 30 kiệu của tám xã).

Riêng đối với Bảo Lộc, Lựu Phố nằm trong vùng thái ấp có vườn An Lạc, có thái ấp xưa, có Lựu Viên thời Trần... thì các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu đều rước về đền Cố Trạch (dịp kỷ niệm Hưng Đạo Vương mất).

Từ 15 - 8 các cửa đền nhỏ trong xã cũng rước lên đền và để kiệu tại sân đền, năm ngày sau mới rước về.

Trong dịp kỷ niệm này, khu vực đền và lăng mộ tại Bảo Lộc lại thu hút nhân dân về hội đông đúc hơn. Không khí hội ở đây sôi nổi hơn. Nhân dân quan niệm đây là thái ấp của Hưng Đạo Vương Liễu liên quan đến buổi thiếu thời của Hưng Đạo Vương. Đây có khu lăng mộ, có thể nói là khu lăng tượng trưng, vì theo sử liệu, đã có sự thay đổi vị trí đền Bảo Lộc từ chỗ giáp sông (Hà Lộc) vào vị trí này (do sông chuyển dòng, đất cũ bị vỡ lở xuống sông). Nhưng đầu thế kỷ XX khi xây lăng Bảo Lộc, người hưng công đã tìm thấy câu đối:

"Ngọc cốt di truyền thang mộc ấp

Kim thân xuất hiện An Lạc Vương".

(Cốt ngọc còn lại nơi ấp thang mộc,

Thân vàng còn rõ ở quê hương An Lạc).

Về Bảo Lộc, việc lễ bái cũng có sự bố trí phiền phức, nhưng lại phù hợp với ai sùng lễ. Phải lễ 21 cửa, cùng với 57 bài vị, bát hương trong chùa, phủ, ngũ dinh, đền chính, đền Khải thánh. Phải có 5 lễ chính ở ban thờ Phật, thờ Mẫu, thờ phụ vương Mẫu, thờ công đồng và các quan.

Các lễ này, trừ ban thờ Phật thì dâng lễ chay, còn phải lễ mặn xôi, gà, rượu.

Ngoài việc lễ bình thường, ở đây còn có các việc như lễ bán, lên đồng, xin bùa bát quái, bắt tà ma, bùa trấn trạch, trình lính...

- Lễ bán: Sau khi sinh con được một cữ, muốn yên tâm, con khoẻ mạnh thì sửa lễ lên đền xin bán vào cửa thánh, xin đặt tên bán cho con. Tất nhiên hàng năm phải có lễ lên đền. Khi nào lớn, đủ tuổi làm lính thì thôi lễ bán.

- Lên đồng: Khi ốm đau, bệnh tật (nặng căn quả) thường có chuyện lên đồng kiều thánh hồi dương. Trước kia việc này ít có, những năm gần đây việc này phát triển bừa bãi. Người ngồi đồng được cung văn, hầu dâng tấu trình độ 5 hay 10 phút thì phát ra lời gọi là lời thánh ban.

Tại đền Cố Trạch, trước kia thì việc lên đồng phải chọn người khoảng 11, 12 tuổi. Ai được chọn lên đồng phải ăn chay nằm mộng một tháng và phải là con ông cháu cha (nhà quyền thế) mới được ngồi đồng. Thường cầu đức thánh Phạm là con rể Hưng Đạo Vương. Khi lên chỉ viết chữ lên mâm gạo chứ không phán. Sau này việc lên đồng bị pha tạp.

- Bắt tà ma: Người bị ốm nghi là do tà ma thì đưa lên đền kiều thánh lên trừ tà ma. Xưa còn có tục đóng giả các quan cầm thanh la, chiêng đi khua khắp làng để xua đuổi ma quỉ. Sau đó thường bán bùa trấn trạch, để dán tại cửa buồng, cửa nhà yểm không cho ma tà vào.

Bùa bát quái, bùa hộ mệnh cũng là hình thức hoặc dán ở nhà, hoặc đeo trong mình để cầu được bình an không bị ma tà, xúi quẩy.

Khi lễ xin bùa thường khấn:

- Ngũ lôi thần tướng.

- Ngũ hổ thần quan

- Trần triều đại thánh

- Sát quỉ trừ tà (cho bản thân hoặc gia đình) được an khang thịnh vượng.

Ngoài các hình thức mang tính chất mê tín trên đây, lễ hội đền Trần - Bảo Lộc có tổ chức các hình thức như:

- Làm lễ cúng các ngày kỵ của 14 vị vua Trần.

- 15 - 1 rước kiệu vua Trần Nhân Tông từ chùa Tháp sang đền Trần, tế bài ban, đấu vật.

- Tối 14 - 1 vào lúc nửa đêm (23 giờ - 1 giờ) tổ chức lễ khai ấn. Chủ tế lấy ấn tín ra đóng vào tờ giấy vàng, trên tờ giấy đề niên hiệu, tháng, ngày sao cho đủ 13 chữ, nghĩa là chọn chữ sinh. Thí dụ: Đinh Sửu niên chính nguyệt, thập ngũ nhật thừa mệnh phụng khai ấn. Khuôn khổ giấy khai ấn to nhỏ không nhất định, sau khi lấy ấn tín, tờ giấy này sẽ dán vào đình, chùa, phủ thờ trong xã.

- 16 - 1 lại rước trở lại chùa.

Các di tích xung quanh khu vực đền Trần - Chùa Tháp - Bảo Lộc còn tổ chức bơi chải như đình Bơi ở Đệ nhị thờ đại Hoàng công chúa. Sau khi bơi còn tổ chức té nước rất vui vẻ.

Riêng dịp hội kỷ niệm ngày Hưng Đạo Vương mất thường tổ chức từ 15 - 20 tháng 8. Ngoài các nghi thức như trên đã nêu, xưa còn tổ chức múa rồng, múa sư tử, đánh đu, đấu vật, đánh cờ người hoặc cờ thẻ, tổ tôm điếm, chọi gà. Đêm thì tổ chức hát chèo, hát ca trù rất vui vẻ. Bên chùa thì tổ chức tụng kinh Phật cuốn hút đông đảo bà con.

Nhìn chung về hội đền Trần - Bảo Lộc có những điều thuộc lệ làng, lại có nhiều điều tự phát. Tính tự phát nặng nề mê tín dị đoan như đồng bóng, bùa hộ mệnh, trấn trạch, bắt tà ma khá nặng nề, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần của nhân dân đối với vị anh hùng dân tộc, một thời làm rạng danh cho đất nước.

Dưới đây chúng tôi xin trích dịch sách "Trần gia phả ký" của Trần Đại Tông Từ, viết năm Chính Hoà thứ nhất (1680), kết hợp với truyền thuyết do ông Trần Công Doãn, Trần Xuân Năng thôn Tức Mạc xã Lộc Vượng kể về lệ ngạch xưa.

Ngày giỗ các vua và thành hoàng.

 

 

Ngày

Tháng

1.

Thái Tông

1

4

2.

Thánh Tông

25

5

3.

Nhân Tông

3

11

4.

Anh Tông

16

3

5.

Minh Tông

19

2

6.

Hiến Tông

11

6

7.

Dụ Tông

25

4

8.

Nghệ Tông

15

Chạp

9.

Duệ Tông

24

Giêng

10.

Ơng Phù (Phế Đế)

22

Chạp

11.

Thuận Tông

24

Giêng

12.

Kiến Tân (Thiếu Đế)

22

Chạp

13.

Giản Định đế

22

Chạp

14.

Trùng Quang

14

4

15.

Uy Minh trấn quốc đại vương (Lê-Tần)

5

Giêng

16.

Cao Mang

5

Giêng

Theo ông Trần Xuân Năng, thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, ngoại thành Nam Định:

Xưa cứ ba năm một lần có lệ quốc tế, quan Tổng đốc sở tại thay mặt triều đình đến tế và cấp 100 quan tiền để làm lễ.

Thời Minh Mệnh, vua về đền Thiên Trường và đền Cổ Trạch một lần. Lần ấy nhà vua đến vái rồi sai quan tổng đốc đứng đọc văn. Nay bài văn tế không còn, chỉ có bài của dân Tức Mặc thừa lệnh tế (có viết ở sách ông Trần Công Doãn giữ).

Ngoài lệ quốc tế, hàng năm địa phương huyện, xã và dân trong họ vẫn tổ chức hội vào ngày 14, 15, 16 tháng giêng và 18, 19, 20, 21 tháng 8.

1. Tháng giêng:

- Ngày 14 đem kiệu "ngọc lộ" để ở nhà tổ chùa Phổ Minh ra chồng ở sân trước chùa, ông trưởng họ Trần vào thượng điện mang bát nhang Trần Nhân Tông để lên kiệu rước sang đền Thiên Trường. Rước từ đầu giờ Mão đến cuối giờ Mão thì đến đền Thiên Trường, rồi rút lấy năm nén nhang trên bát nhang ở kiệu cắm vào bát nhang đặt trước ngai Nhân Tông ở trong đền, đến chiều ngày 16 thì rước lại chùa và lễ tạ.

- Trưa ngày 14, rước bát nhang tổ họ Trần về ngôi đền thờ ở hàng Tiện, tế một tuần đến chiều 14 rồi rước về đền Thiên Trường lễ tạ. Lúc rước bằng một kiệu long đình, khi về thì hái một choé nước và để choé nước ở đó.

- Ngày 15 (buổi sáng) rút một nén hương ở bát nhang tổ và 14 nén ở bát nhang hoàng đế, cắm vào bát nhanh công đồng, rước ra cổng đền để ở giữa đường, tế trời đất một tuần, rồi rước thẳng lên Hữu Bị, ra bến sông Hồng, lấy một cái choé xuống sông múc đầy choé nước rồi rước về. Choé đựng ước 10 bát nước, khi về đến đền, đem choé nước vào múc chia ra mỗi bát trên ban một ít nước, rồi tế nước một tuần. Sau đó đem nước này ban cho các người trong họ Trần uống hết. Lúc này là cuối giờ Ngọ ngày 15.

- Cũng sáng ngày 15, rước Hưng Đạo Vương từ đền Bảo Lộc về Cố Trạch, đến chiều 15 thì rước kiệu bát công Hưng Đạo Vương từ Cố Trạch sang đền Thiên Trường, đặt ban tại sân lễ vọng vào đền, đến giờ Thân đầu giờ Dậu thì rước về Cố Trạch rồi rước về Bảo Lộc. Đến đền Bảo Lộc là 12 giờ đêm và lễ tạ thì trời sáng.

- Sáng 16, tế cá. Cá gồm có một đôi cá triều đẩu (cá quả), 10 con long ngư (cá chép). Cá quả mỗi con 1 cân, cá chép mỗi con 2 cân. Tất cả đều dùng cá sống đựng vào 11 cái thùng sơn đỏ, đặt ở trước bát nhang công đồng. Tế từ mờ sáng đến giữa trưa thì rước cá này thả ra sông Hồng. Ngày này còn có lệ thi thơ bát cú vịnh cảnh đền.

- Sáng 16 khi trời chưa sáng rõ thì dùng lễ chay tế trời đất ở giữa sân, hướng về phía Đông bày lễ, trên đặt lễ chay, dưới đặt lễ tam sinh, lễ cả con lợn sống, sau đó hạ lễ xuống thì trời sáng, đem số thịt ấy chia ra cho cả họ và biếu quan sở tại, (mỗi lễ biếu đều 1 cân thịt và 1 cân xôi). Trưa 16, cả họ ở giữa sân đền, cứ theo thứ vị mỗi ông trưởng chỉ vào lễ một tuần rồi ngồi uống rượu ăn xôi, thịt. Đêm 16 tế tạ, quy định phải tế xong trước giờ Hợi.

- Các ngày kị vua thì trước đó một ngày phải tế cáo. Chính lệ tế giữa giờ Tị, chiều tế tạ đều đặt lễ chay ở trên, dưới lễ xôi, thịt lợn, gà. Lễ tổ ngày 5 tháng giêng, dùng 20 con cá chép đều một cân để lễ, rồi chia cho 14 xã bên, mỗi xã một con về thả ở ao làng, còn 6 con thì thả ở ao trước đền Thiên Trường. Bên cạnh lễ cá có lễ tam sinh, tính đủ số mỗi gia đình được một cân thịt.

- Các xã Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ, Lưu Viên, Kim Hưng, Thiên Bồi, Phương Bông, Bảo Lộc, Mai Xá, Hữu Bị, Cảo Môn, Vĩnh Trường, Đông Mặc, Phù Hoa sáng ngày 16 lại rước về. Mỗi xã sắm lễ một con lợn ước 100 cân, lúc về đem cả lợn về (dùng thịt lợn quay).

Ngày giỗ ở đền Cố Trạch.

- Ngày 1 tháng 4 giỗ An Sinh Vương.

- Ngày 1 tháng 6 giỗ Thiện Đạo Quốc Mẫu.

- Ngày 20 tháng 8 giỗ Hưng Đạo Vương.

- Ngày 28 tháng 8 giỗ Thiên Thành Công chúa

truy phong Nguyên Từ quốc mẫu.

- Ngày 24 tháng 4 giỗ Hưng Vũ Vương.

- Ngày 10 tháng 11 giỗ Phạm Ngũ Lão.

Mấy quy định lễ tại đền Cố Trạch:

- Ngày sinh Hưng Đạo Vương và các ngày kỵ quốc mẫu, các vương tử, vương phi, vương tế, vương nữ đều dùng lễ tam sinh.

- Ngày kị Hưng Đạo Vương, trước một ngày làm lễ cáo, lễ xôi, thịt lợn, thịt gà. Sáng ngày 20 xã Tức Mặc dùng lễ tam sinh, lễ ở đền Cố Trạch; xã Bảo Lộc dùng lễ tam sinh lễ ở đền An Lạc, rồi rước chân nhang về đền Cố Trạch. Khi rước vào cuối giờ Thìn, đầu giờ Tị rước bát nhang Vương sang lễ ở đền Thiên Trường, cuối giờ Tị rước về, rồi rước kiệu bát cống từ đền Cố Trạch trở về An Lạc, tế thánh phụ thánh mẫu vào đầu giờ Mùi. Tối ngày 20 kiều thánh lễ trừ thổ ôn; thổ khí, tà quỷ ở đền An Lạc, lễ từ tối đến sáng thì thôi, đến trưa 21 lễ tạ ở đền. Trưa ngày 21 dân Tức Mặc rước Hưng Đạo Vương sang chùa Tháp tế vua Nhân Tông. Sau khi tế một tuần rước trở lại, trời tối thì lễ tạ.

- Truyền thuyết về việc thờ Hưng Đạo Vương: Vương mất ở Kiếp Bạc ngày 20 tháng 8. Đến 26 tháng 8 dân Tức Mặc, Bảo Lộc được phép đặt bát nhang thờ, và bàn việc sửa nơi ở cũ thành đền thờ. Đền Bảo Lộc có hiệu là An Lạc Viên từ, đền Tức Mặc có hiệu là Cố Trạch linh từ. Cả hai đền đều do họ Trần chịu trách nhiệm chính và hàng năm thì có lệ quốc tế. Thời Lê Chính Hoà, cả Thiên Trường và Cố Trạch đều được vua ban tiền cho xây to lên và lệnh ba năm một lần quốc tế. Quốc tế tổ chức vào sáng 20 tháng 8.

 

LỆ LÀNG ĐÔ QUAN, HUYỆN Ý YÊN, NAM ĐỊNH.

Thôn Đô Quan, xã Yên Khang, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định xưa là quán Đổ Phường. Cuối thế kỷ XV đổi quán Đổ thành Đô Quan xã.

Theo thư tịch chữ Hán viết niên hiệu Phúc Thái thứ 5 (1647) thì vào thời Trần, ông Trần Vạn Niên về đây dựng chùa thờ Phật. Con ông Trần Vạn Niên là Trần Nhân Trứ, vốn tính thông minh, có sức khoẻ hơn người, đặc biệt là có tài đánh cờ và gảy đàn nên nhân dân tôn là "Đàn tiên cờ trạng".

Niên hiệu Thiên ứng Chính bình thứ 10 (1241), ông được tuyển giữ chức Thượng Đô túc vệ, sau thăng làm Thân vệ đại tướng quân. Ông có công đánh giặc phương Bắc và phương Nam. Sau theo Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn đánh thắng Ô Mã Nhi ở cửa Đại Bàng và phò ba triều vua Trần đều có công lao đáng kể.

Khi vua Trần Nhân Tông xuất gia ở Yên Tử, ông cáo quan về Đổ Phương, lập am thờ Phật ở phía tây doanh trại. Ông tô tượng Phật, tạo bệ đá hoa sen, và xây dựng cột phướn làm cho cảnh chùa khang trang. Ông đánh đàn Cầm hay nổi tiếng nên nhân dân thường gọi ông là ông Cầm.

Lệ làng Đô Quan còn ghi việc Trần Nhân Trứ có tài đánh cờ và có lần đánh cờ thắng vua Trần Anh Tông được thưởng ruộng ở tổng Văn Luận (Nho Quan, Ninh Bình) và được thưởng ruộng ở vùng Tây Trực (Nam Trực). Hoa lợi số ruộng trên thuộc về làng Đô Quan và việc thu tô trên các cánh ruộng này được bảo tồn lâu dài. Dưới thời Pháp thuộc, các hương lý Đô Quan vẫn phải có trách nhiệm thu tô các vùng này để lo lệ làng, tế lễ.

Khi Trần Nhân Trứ mất, mai táng ở phía tây bắc sông Cầm và khu mộ này nhân dân cũng gọi là khu mả Cầm.

Việc tế lễ hàng năm, Nhà nước cử các quan về lo công việc. Sau vua Trần Minh Tông cấp cho làng Dương Đường (ở phía tây chùa) 36 mẫu ruộng, để thu lợi nhuận làm kỵ nhật hàng năm. Tục lệ này được khắc vào bia đá, nhưng thời Hồng Đức, dân Dương Đường muốn chiếm đoạt số ruộng trên nên đã mài nhẵn văn bia để phi tang. (Theo nhân dân địa phương thì chiếc bia đá bị mòn hết chữ và hoạ tiết, hiện đang dựng dưới gốc cây đa trước cổng chùa).

Những thập kỷ gần đây, việc Nhà nước về làm lễ không còn. Song hàng năm, từ 23 đến 26 tháng 11 âm lịch là ngày kỵ thành hoàng, nhân dân tổ chức đại lễ rất linh đình.

Lệ làng quy định ngày 23 phải bao sái tượng Phật, đồ thờ ở đình và chùa. Trong nhà, ngoài ngõ phải quét dọn sạch sẽ để đón khách gần xa về dự hội. Chiều 23, tế cáo để chính thức được phép tổ chức đại lễ.

Sáng 24, rước kiệu từ đền Đông ra đình và chùa (Đền Đông thờ Bạch Đê và Côn Lang đại vương). Các giáp rước cỗ chay của giáp ra đình làm lễ. Lệ rước cỗ chay có từ lâu đời và được nhân dân nhiệt thành thực hiện. Cỗ chay thường có các món:

- Một đĩa xôi đơm cao vút hình nụ sen (đáy khoảng 20 phân, cao 60 phân).

- Bốn đĩa bánh vừng cạnh 20 phân, dày 10 phân.

- Bốn bát chè đỗ nấu, đánh thật mịn và đổ cao hơn miệng bát.

- Một tấm bánh nén (gạo nếp rang trộn mật, bó và nén như giò, cắt thành khoanh).

- Một nải chuối 30 quả trở lên, 10 quả cam, một quả bưởi.

Các món trên đây đặt thành mâm để ở ngăn trên của kiệu cỗ. Ngăn dưới kiệu cỗ xếp 100 tấm bánh chưng (cạnh 20 phân), 100 tấm bánh dày (đường kính 20 phân). Giáp nào làm cỗ đẹp, ngon thì được làng treo giải thưởng. Giải thưởng thường có độ dăm vuông lụa, vài quan tiền để phân phát làm khước cho dân trong giáp.

Trong ba ngày đại lễ, giáp nào cũng phải biện một kiệu cỗ. Trong xã có 4 giáp, tính ra trong 3 ngày phải có 12 kiệu cỗ như trên đã nêu, phải tốn kém nhiều công sức, tiền của nhưng nhân dân rất hào hứng với công việc, cho đây là trách nhiệm và vinh hạnh của mọi người đối với việc thánh mà lệ làng đã quy định.

Ngày 25 đại lễ. Tại đình và chùa tiếp tục thi cỗ, đồng thời tổ chức tế lễ, rước kiệu, cầu kinh niệm Phật.

Ngày 26 lễ tạ, rước kiệu, rước bát hương về yên vị (đặt ở các ban thờ như cũ).

Ngoài việc tế lễ, hội truyền thống làng Đô Quan còn tổ chức bơi thi trên sông Cầm. Đoạn đường bơi thi dài 1km (có nêu cắm) và các thuyền phải bơi ba vòng trên đoạn sông ấy. Nhân dân Đô Quan và các làng lân cận tụ tập dọc bờ sông, hò reo động viên. Giáp nào về nhất, sẽ được làng cũng như bà con trong giáp thưởng lụa, thưởng tiền.

Lệ bơi thi trên sông Cầm được đông đảo bà con tham gia, cổ vũ khiến không khí ngày hội khá sôi động.

Đánh cờ thi cũng là môn chơi mà dịp hội nào cũng tổ chức. Môn này không chỉ cuốn hút người có tuổi, mà đông đảo các tầng lớp nhân dân trong thôn xã hào hứng tham gia thưởng thức sự đấu trí, vừa ôn lại truyền thống "cờ tiên" mà thánh tổ họ Trần để lại.

Múa rối nước là trò vui thực hiện cả ban ngày và ban đêm, cuốn hút đông đảo bà con trong làng, trong vùng. Từ phông màn trang trí đến đạo cụ, con rối, người điều khiển, âm nhạc tiết mục... đều phải chuẩn bị chu đáo và phải tốn kém. Nguyên xưa Đô Quan có đội rối nước, đã từng biểu diễn nhiều tiết mục như chọi trâu, đánh đu, bắt vịt, múa chạy đàn và một số tích chèo cổ được đông đảo bà con trong vùng, trong huyện hoan nghênh , tiếng tăm vào đến triều đình Huế. Triều đình thời Nguyễn có lệnh điều đội rối Yên Khang vào kinh biểu diễn. Để tránh tốn kém trong vụ việc này, làng Đô Quan đã không nhận, đổ cho làng ổi Lỗi (thôn Uy Bắc) có trò múa rối, do vậy mà khi có lệnh cấp trên điều đội rối vào kinh đô biểu diễn thì ổi Lỗi phải đi thuê... "Đô Quan múa rối, ổi Lỗi mất tiền".

Lễ hội đền chùa Đô Quan cùng với tục lệ liên quan đến việc đền ơn đáp nghĩa, đối với thành hoàng làng Trần Nhân Trứ. Song các tục lệ này có một thời bị gián đoạn. Theo các cụ cao niên ở địa phương: Các ngày hội tới, xã sẽ dần dần tổ chức lại các trò vui trong ngày đại lễ mà xưa ông cha đã làm, để giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc.

 

ĐỀN CHÙA HẠ KỲ VÀ LỄ HỘI

Đền chùa Hạ Kỳ là di tích nằm phía Bắc xã Nghĩa Thịnh, bên bờ sông Đào (xưa là sông Vị) huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

Đền chùa Hạ Kỳ thờ Phật, thờ ngũ Lôi đại vương và tổ khai sáng quê hương.

Theo sách "Thiên la Thiên thượng, Ngũ lôi đại vương thượng đẳng tôn thần sự tích" (Sự tích vị tôn thần thượng đẳng Thiên la Thiên thượng Ngũ lôi đại vương) cùng với truyền thuyết địa phương thì thời Trần Thái Tông ở bộ Cửu Chân, có ông Đinh Nguyên và bà Tạ Thị Đạo hết lòng cứu giúp người nghèo, người bệnh tật. Có lần một cụ già tuổi 80 bị bệnh hủi đến nhà xin ăn. Thấy cảnh tình đáng thương, gia đình ông Đinh Nguyên lấy chăn chiếu cho nằm, đem thức ăn ngon cung cấp và cho ở lại tại nhà. Một thời gian sau, ông già bỗng dưng ra đi, để lại nhiều vàng bạc đền ơn. Tuy được nhiều vàng bạc mà ông Đinh Nguyên không vui, bởi chưa có con nối dõi. Ông bà họ Đinh đem số vàng đó bố thí cho người nghèo. Một hôm, bà Tạ Thị Đạo nằm mơ thấy năm con chim phượng bay tới, rồi bà họ Tạ có mang. Mười ba tháng sau, vào ngày 10 - 8 bà sinh một bọc năm con trai đặt tên là Phong, Vũ, Vân, Điện, Lôi. Khi các ông 18 tuổi thì cha mẹ đều mất, gia đình trở nên khó khăn. Đinh Lôi là con thứ 5 của gia đình, vốn có ý chí nên từ giã các anh đi chu du thiên hạ. Một hôm, ông đi qua huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, thấy dân bị tật bệnh, ông xin ở lại trừ bệnh cho dân. Ông dựng năm lá cờ năm phương, cầu đất trời phù hộ (năm phương gồm giữa là màu vàng, phía Đông màu xanh, phía Tây màu trắng, Nam màu đỏ, Bắc màu đen). Sau khi Đinh Lôi làm lễ, trị bệnh, nhân dân trong vùng được yên ổn, mọi sự lại như xưa thì nhân dân Hạ Kỳ vô cùng cảm phục. Thấy sự việc trên vua Trần khen ngợi Đinh Lôi, ban cho ông thực ấp ở Trang Hạ Kỳ huyện Đại An, cho dân vùng này được miễn sưu thuế để lo việc hương hoả về sau. Đinh Lôi dựng hàng cung ở Hạ Kỳ mưu lợi trừ hại cho dân, được mọi người kính trọng.

Dưới triều Nhân Tông hoàng đế (1279 - 1293) giặc Nguyên sang cướp nước ta. Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn nắm quyền tiết chế tổ chức kháng chiến. Đinh Lôi được tiết chế trọng dụng, cho làm tham tán quân vụ, giúp quân đội đánh giặc lập công lớn.

ít lâu sau, Đinh Lôi qua đời, nhân dân lập đền thờ, triều đình gia phong ông là Thiên La Thiên Thượng Ngũ Lôi đại vương. Câu đối tại đình ca ngợi công lao của ông:

"Cứu dân độ thế linh đan hạ,

Giải dịch trừ ôn trấn ngũ kỳ".

(Cứu dân giúp đời chế thuốc lạ,

Trừ dịch dùng cờ trấn giữ năm phương).

Đình Hạ Kỳ còn thờ tứ tổ có công khai hoang lấn biển mở đất Hạ Kỳ. Đó là các họ Vũ, Nguyễn, Khương và đặc biệt là họ Hoàng. Các tổ về đây mở ra trên 1000 mẫu ruộng, phía Đông giáp Đông Lĩnh, phía Tây giáp Đông Cao, phía Nam giáp Tam Toà, phía Bắc giáp Trạng Vĩnh. Nhân dân các phương rủ nhau về đây lập nghiệp ngày một đông tạo thành làng, thành xã. Các tổ giúp dân trồng cấy lúa lo đời sống vật chất cho dân, lại lập đình, chùa, đền, phủ đáp ứng đời sống tinh thần cho dân nên mọi người rất cảm kích, biết ơn. Do đó khi các tổ qua đời, được nhân dân phối thờ tại đình làng cùng với Ngũ Lôi đại vương. Trong số các tổ thì cụ Hoàng Thiện Tâm đã từng làm Tả tướng, theo thập đạo tướng quân Lê Hoàn bình giặc Tống, khi về hưu ông có nhiều kế sách mở mang cày cấy, dấy lợi trừ hại cho dân. Ngày 10 - 2 năm Mậu Thìn (1028), cụ qua đời để lại ba chi họ: chi trưởng ở tại quê cũ, hai chi thứ ở tại mảnh đất mới khai phá này.

Nhưng việc mở đất lập làng cũng vô cùng phức tạp. Dòng sông Vị Hoàng ngày một to ra, gây sạt lở ngày một nghiêm trọng đến nỗi phải ba lần chuyển làng, tạo thổ cư điền thổ và công trình tín ngưỡng trên quê mới. Nhân dân đã ví công của tổ họ Hoàng rộng lớn như biển.

"Hoàng tướng khai điền công tự hải,

Đinh Vương khước địch đức như sơn".

(Hoàng tướng công mở đất công lao như biển,

Đinh vương chống giặc đức ví núi cao).

Khi Hoàng Thiện Tâm qua đời, được triều đình ban phong nhiều đạo sắc từ thế kỷ XVII, XVIII, XIX.

Hàng năm cứ đến ngày 10 - 8 là ngày thần Đinh Lôi ra đời, nhân dân tổ chức tế lễ ba ngày, giết trâu mổ lợn làm lễ vật.

Ngày 12 tháng giêng là ngày thần hoá và ngày 10 tháng 2 Hoàng Tướng Công hoá đều được tổ chức trọng thể. Giết trâu, mổ lợn, làm bánh dày, bánh nướng, làm lễ vật.

Các ngày 15 tháng 1 và 6 tháng giêng lễ mừng các thần được gia phong cũng được tổ chức trọng thể.

Đặc biệt ngày 15 tháng 3 là ngày khánh hạ. Dịp này thường tổ chức ba ngày (14, 15, 16). Đây là dịp vui mừng của nhân dân nên ngoài việc tế, lễ ở đình, chùa, từ đường, phủ thờ, nhân dân còn tổ chức các trò vui theo lệ làng, vừa để ôn lại quá trình gian lao tạo dựng điền địa, công trình trên quê mới. Hoặc ôn lại lúc sinh thời tướng quân Đinh Lôi cho quân ngày đêm đuổi giặc phải nấu cơm dọc đường... Lệ thổi cơm thi, làm bánh thi, kéo lửa thi... thường được tổ chức hàng năm thu hút đông đảo khách thập phương.

Trò thổi cơm thi: Trước khi vào cuộc thi, làng tổ chức rước "Thổ Công", "Chúa Lúa". Làng chọn hai người mà gia cảnh, tư đức có nhiều điều tốt đẹp, đồng thời phải có năng khiếu làm trò, để đóng vai thổ công và chúa lúa.

Thổ Công đội mũ cánh chuồn, đóng khố, mặc áo dài xanh, thắt lưng xanh, chân đi hia tay cầm quạt phe phẩy. Thổ Công ngồi trên kiệu hoa, trên kiệu có để một nửa thân cối xay, có hai người khiêng kiệu.

Chúa Lúa thì chít khăn mỏ quạ, mặc áo dài, váy ngắn, thắt lưng đỏ, yếm đỏ miệng nhai trầu bỏm bẻm (nam đóng giả nữ) cũng được ngồi trên một chiếc kiệu có nửa cối xay (thớt dưới của cối). Thổ Công, Chúa Lúa ngồi trên cối có trang trí tựa kiệu hoa, rước từ nhà ông Giáp trưởng ra sân trước cửa đền. Tại sân được trồng một cây chuối hột cao to, trên để một bị lúa. Khi ra đến nơi, Thổ Công, Chúa Lúa làm lễ trước cửa đình. Lễ xong, họ công kênh nhau leo lên lấy bị thóc. Công việc này phải làm đi làm lại nhiều lần mới thành công, giống như sự kiện lập làng ở đây phải đến ba lần mới xong. Khi lấy được bị lúa thì ông Thổ Công đưa bị lúa cho bà Chúa Lúa, rồi hai người lắp cối, đổ thóc vào xay. Xay xong sàng sảy như người hàng sáo để lấy gạo thổi cơm thi.

Lệ thổi cơm thi thường trình diễn sau khi thi kéo lửa. Các Giáp cử người dự thi, cử người chuẩn bị cần treo nồi, nồi nhỏ nấu cơm, bó đuốc thổi cơm. Đây là công việc mà theo truyền thuyết địa phương và ý kiến cụ Vũ Viết Vỹ, cụ Khương Văn Táu người thôn Hạ Kỳ thì là trò hồi tưởng cuộc hành quân đánh giặc Nguyên - Mông của tướng Đinh Lôi. Trò này thường kết hợp với thi làm ra lửa. Khi các đối thủ dùng dây tre kéo lửa, thì phải chuẩn bị bùi nhùi, (bùi nhùi bằng tre cạo ra). Khi bùi nhùi bốc khói, một người phải cầm bùi nhùi thổi nhẹ cho ngọn lửa bùng lên, rồi châm vào đuốc và dùng bó đuốc vừa múa vừa hơ vào nồi cơm, đi theo người đeo cần treo nồi. Người thi sẽ đi quanh sân ba vòng trong tiếng trống, tiếng hò reo huyên náo và khi biết là cơm đã chín thì dừng lại, lấy nồi cơm nhỏ đặt trên đĩa đưa trình tế chủ. Giáp nào nấu cơm chín, ngon, xong trước được đưa vào cung dâng thánh là thắng cuộc, được làng treo giải thưởng.

Hạ Kỳ còn có lệ thi giã bánh dày. Cuộc thi này thì cả 5 Giáp thôn Tiền, 5 Giáp thôn Hậu đều tham gia. Theo truyền thuyết trò này vừa có ý nghĩa ôn lại món ăn dân tộc, lương khô của quân đội trên đường hành quân, vừa thể hiện sự tôn quý hạt gạo phải hai sương một nắng làm ra. Lệ này phải chuẩn bị từ ngày 3 tháng giêng. Các giáp cho người lấy thùng sạch ra sông Vị (nay là sông Đào) gánh nước về đổ vào chum. Chum đựng nước để trong phòng, bốn phía quây kín tránh bụi bẩn. Sau khi nước lắng trong lấy vải trắng lọc nước cho thật sạch.

Sáng 11 tháng giêng đem gạo ra sông đãi (sau khi đã nhặt hết hạt đen, thóc, hạt xấu) rồi đem về đổ vào nồi ba mươi, lấy nước sạch ngâm rồi lại gạn khoảng ba lần cho thật sạch. Trước khi đồ xôi phải tráng lại gạo cho chu đáo. Mỗi chõ xôi thường nấu độ ba yến gạo trong nồi ba mươi. Khi xôi chín phải được kiểm nghiệm rồi lấy một ít giã thử, đây là hình thức lau chày tre, cối đá. Chày tre còn phải dùng lòng đỏ trứng gà bôi vào cho bớt dính. Mỗi cối thường có ba người thi nhau giã và vắt bánh. Nếu giã được rồi thì đem vào phòng quây kín, lấy lá chuối non sạch sẽ ủ bánh, cho bánh có màu trắng xanh.

Khi các giáp mang bánh ra đình, phải trình ban giám khảo biết để xem xét chấm giải. Bánh của giáp nào mịn, trắng xanh, đúng quy cách một cân, hai cân hoặc năm cân sẽ trúng thưởng.

Lệ thi giã bánh, thổi cơm ở đình, chùa Hạ Kỳ tuy có phần cầu kỳ nhưng đây là tục lệ rất có ý nghĩa, nhằm ôn lại quá trình vất vả, gian lao để xây dựng và bảo vệ quê hương. Phải chăng đây là nét cần khai thác trong hoàn cảnh xây dựng con người xã hội hiện tại.

 

LỆ LÀNG VÂN CHÀNG XÃ NAM GIANG NAM TRỰC - NAM ĐỊNH

Đền Vân Chàng, xã Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định thờ lục vị tổ sư nghề rèn, cũng là sáu ông tổ có công khai khẩn đất đai, mở đất lập làng. Theo ngọc phả và thơ ca truyền miệng, nhất là bài thơ được ghi thành văn, niên hiệu Tự Đức thứ chín (1856) thì lục vị tổ sư nguyên quán tại vùng Đức La huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh ra đây mở đất lập làng từ thời Trần. Sau 10 năm khai khẩn, cải tạo đồng ruộng, làng xóm được hình thành, dân cư ngày thêm đông đúc, đời sống được bảo đảm, các tổ đem vốn hiểu biết nghề rèn từ quê cũ bày dạy cho dân. Lúc dầu là sản xuất nông cụ phục vụ việc đồng áng, sau còn dạy dân đúc thép, đúc đồng làm đồ dùng và phương tiện sản xuất, nhờ vậy mà đời sống nhân dân ngày càng được ấm no...

Hơn 30 năm sau, các vị tổ mở đất Vân Chàng lại lên thuyền cùng gia quyến trở lại quê cũ Hà Tĩnh để lại niềm nhớ thương, nỗi hàm ân vô cùng to lớn cho dân Vân Chàng, Nam Định. Thời vua Trần Duệ Tông, niên hiệu Long Khánh thứ 2 (1374), nhân dân Vân Chàng bàn nhau lập đền thờ lục vị tổ sư để tỏ lòng uống nước nhớ nguồn. Thời gian đã làm cho ngôi đền cũ thay đổi. Thời gian cũng làm cho nhân dân Vân Chàng phát triển không ngừng, nghề nghiệp mở mang trải rộng khắp cả nước. Hiện nay gần 700 hộ tại quê và nhiều hộ ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải phòng, Bắc Giang, Bắc Ninh làm nghề truyền thống của ông cha vẫn hướng về cội nguồn nhớ tới công ơn của các tổ. Công trình thờ tự xưa bị hỏng đã được tu sửa lại và đặc biệt là bảo lưu những lời lẽ thuỷ chung ghi trên đại tự câu đối như:

"Thuỳ vô cực"

(Công đức lớn lao vô cùng)

"Bách thế dĩ hậu khai vật thành vu chi sư,

Vạn vật khúc thành thông biến nghi dân chi tổ"

(Trăm đời về sau mở mang tạo nên sự việc là nhờ thầy,

Mọi việc đều khó khăn nhưng thành công là nhờ ơn các tổ).

Điều đảm bảo là lệ làng Vân Chàng quy định: hàng năm ngày 15 tháng giêng là ngày các thánh tổ trở về quê cũ, làng tổ chức đại lễ để tưởng nhớ công lao các tổ. Ngày nay trở thành ngày vào đám của Vân Chàng, nên mọi người trong làng phải có trách nhiệm chuẩn bị sửa sang đình sở, dọn dẹp vệ sinh trong nhà, ngoài ngõ, ngoài đường cho việc đón tiếp bà con xa quê về dự hội, nhất là việc phụng nghinh các tổ ra thăm các đền, chùa trong làng được sạch sẽ.

Nhà nhà chuẩn bị lễ vật, chọn gạo, chuẩn bị gà lễ để có cỗ xôi con gà lễ tế thánh.

- Mọi tốp thợ đi làm ăn xa quê, hay bà con chuyển cư đi nơi khác làm ăn đều nhớ về dự hội.

- Làng kêu gọi các tốp thợ, nếu sản xuất được sản phẩm độc đáo, giá trị nghệ thuật cao thì đưa tiến cúng vào đình để tỏ rõ sự phát huy truyền thống. Cây đèn sắt 48 ngọn, ống lệnh đốt nổ như tiếng súng... là hiện vật tiêu biểu được đưa lên dâng trước cửa thánh tổ, vừa là để nhắc nhở con cháu nhớ tới nghề truyền thống quê hương.

Ngày 7 tháng giêng có lệ chợ Viềng. Đây là phiên chợ mang tính chất đặc thù của vùng, vừa liên quan đến nghề rèn Vân Chàng.

Cả năm dân Vân Chàng lo chuẩn bị mặt hàng cho chợ Viềng. (Chợ Viềng xưa họp ở địa bàn này, sau này mới chuyển chợ Viềng về gần chùa Bi): Các mặt hàng như dao, cuốc, cày, bừa, liềm, hái... dùng cho nông nghiệp. Xoong, nồi, xanh, chảo... phục vụ sinh hoạt đều được chuẩn bị đem bán, vừa giới thiệu mặt hàng truyền thống.

Không cứ chợ Viềng ở đây, mà các chợ Viềng khác ở Vụ Bản, Nghĩa Hưng, Mỹ Lộc... các mặt hàng như đồng, nhôm, sắt Vân Chàng, cũng đều có mặt đúng kỳ và phong phú. Việc chuẩn bị hàng hoá để bán trong dịp chợ Viềng đã trở thành lệ làng, một lệ ngẫu nhiên không bắt buộc mà người người, nhà nhà đều tham gia. Và tất nhiên sau dịp hội, mọi người không quên đem hương hoa lên đền lễ thánh tổ, tỏ lòng tri ân công đức.

Bài thơ làm từ thời Tự Đức dưới đây, được các già làng học thuộc. Những buổi nhàn rỗi họ thường đọc cho nhau nghe, lại giảng giải cho con cháu về lai lịch quê hương:

Xã ta cũng đặt Hoa Chàng(1)

Gần ra xa đến ngày càng đông thêm.

Thuyền bè tấp nập xuống lên,

Hải tần một dải đã nên xóm làng.

Bên tây giáp sông Vị Hoàng,

Bên đông giáp biển mênh mang tới trời.

Kênh cừ ngang dọc mới khơi,

Tỉnh điền cứ phép cổ thời phỏng theo.

Mười năm thổ địa ốc nhiêu,

Được mùa của lắm người nhiều vui thay.

Nghề rèn vốn sẵn trong tay,

Mở lò đắp bễ lại bày cho dân.

Cuốc, cày, dao rựa làm dần,

Đúc đồng nung thép chuyên cần dạy con.

Ba mươi năm lẻ đã qua,

Nhớ quê các cụ lại ra thuyền về.

Lênh đênh gia quyến đề huề,

Không cần báo lại, không hề mong chi.

Người thì ở kẻ thì đi,

Đời vua Long Khánh Trần thì nhị niên (1374)

Mười lăm tháng một còn biên,

ở trong thần phả y nguyên rõ ràng.

Cháu con cùng với họ hàng,

Bàn nhau hai chái quay lưng hướng đoài.

Đến năm Khai đại Quý mùi (1403)

Trùng tu gỗ ngói cửa thời trông kênh.

Chữ công to lớn lung linh,

Mười ba gian rộng mông mênh chói loà.

Hàng năm cầu phúc thường là,

Ba năm lệ lớn xướng ca rước mừng.

Mưa dầm nắng dãi bao chừng,

Làm đi sửa lại bia cùng chép ghi.

Tối nay kẻ đến người đi,

Hương hoa sắm lễ quy y một lòng.

Bốn trăm sáu chục năm dòng,

Muôn sông ngàn suối biển đông chảy về.

Rộng dài chép nhặt lời quê,

Để cho hậu thế trông hoa biết chàng./.

 

MỘT SỐ LỆ NGẠCH Ở HUYỆN ĐẠI AN

Đại An còn có tên là Nha Hải, còn gọi là ác Hải, thời Lý gọi là Đại ác. Huyện này gần biển, gần sông lớn. Tục truyền có ba thần sóng rất hung dữ, thuyền bè qua lại thường gặp nạn. Do các thuyền khó trót lọt, bị đắm, xác người trôi dạt, loài quạ, cú bọ qua lại tìm mồi, chúng kêu gọi nhau ở đây nên có tên ấy.

Theo sách "Đại An huyện chí" do tri huyện Đại An Nguyễn Văn Thảo, ghi niên hiệu Khải Định về xã Nghĩa Thịnh cùng với truyền thuyết địa phương do các cụ cao niên Yên Nhân cung cấp thì thời nhà Lý, vua Lý Thái Tông thân đi đánh Chiêm Thành, khi thuyền qua đây có ngự lại. Vua nghe kể sự việc, bèn sai bày hương án khấn cầu trời đất, rồi tuốt gươm chém chết hai thần sóng, còn một thần sóng chạy thoát vào Kỳ Hoa (Nghệ Tĩnh). Từ đó đổi tên huyện thành Đại An.

Đây là huyện có nhiều quan chức, nhưng phát đại khoa thì đến thời Lê mới có.

Huyện này có các tổng sau đây:

- Tổng Đồi Trung Thượng: gồm 5 xã Đồi Hạ, Đồi Trung, Đồi Tam, Dương Hồi, Hùng Nhuệ.

- Tổng Đồi Trung Hạ: gồm các xã Đồi Khê, Đào Lãng, Hải Nhiêu, Đào Khê (nay thuộc Nghĩa Hưng).

Thế kỷ XIX, quan Hoàng giáp Phạm Văn Nghị khi thi đỗ tú tài, cho chữ Đồi có ý là trì trệ, nên viết sớ trình quan tỉnh xin đổi Đồi Trung thành An Trung, Đồi Hạ thành An Hạ, Đồi Tam là Tam Đăng, Đồi Khê là Trường Khê.

- Tổng Thân Thượng: trước còn gọi Đồi Thượng, gồm các xã Thân Thượng, Đông Mậu, Nhân Trạch, Nhân Lý, Phù Đô, Nguyên Tĩnh.

- Tổng Cổ Liêu: gồm 5 xã là Cổ Liêu, Đồng Bạn, Phúc Chỉ, Quảng Cư, Thuỵ Quang.

- Tổng Tử Vinh: gồm các xã Tử Vinh, Lương Xá Hạ, Lương Xá Thượng, Chân Mỹ, Duyên Mỹ, Mậu Lực, Tống Xá.

- Tổng Trạng Vĩnh: tục gọi Bát Chanh gồm các xã Gia Vĩnh, Thời Vụ, Vụ Sài, Đông Cao, Thanh Khê, An Lại, Dương Phạm, Phạm Xá, Thụ ích, Độc Bộ.

- Tổng Vỉ Nhuế: gồm các xã Vỉ Nhuế, Cốc Dương, La Ngạn.

- Tổng Kim Tông: gồm các xã Kim Tông, Thụ Triền, Thôi Ngôi, Tướng Loát, Vĩnh Trị.

- Tổng Hải Lãng: gồm các xã Hải Lãng, Quần Liêu, Chiêu Thắng Hạ, Hưng Nghĩa, Minh Nghĩa, Chiêu Nghĩa, Trang Lãng, Hải Xã, Hưng Phú, Hà Dương, Phù Sa, Tuần Cát Vàng, Phường Thuận Hậu.

- Tổng Thượng Kỳ: gồm xã Thượng Kỳ, Hạ Kỳ, Bình A, Lộng Điền, Đông Ba Thượng, Đông Ba Hạ, Cốc Thành, Lộng Triền, Đông Lĩnh, An Giang.

Một số đặc điểm và tục lệ cổ truyền ở một số địa phương trong huyện:

Xã An Trung còn gọi đồi Trung có hai thôn là Thượng và Hạ, điền thổ gồm 150 mẫu 5 sào 3 thước 6 tấc. Thôn Thượng vì có nhiều người phương Bắc cư trú nên gọi Thạch tỉnh. Ở đây cứ chín phần dân cư sống nghề buôn bán mới có một phần làm nghề cày cấy. Trăm thứ hàng hoá đổ về chợ Đồi, người mua bán đi lại như mắc cửi. Xưa đây cũng là nơi huyện sở của huyện Đại An.

Tục truyền chùa Phúc Lâm ở đây là danh lam nổi tiếng trong phủ. Trong chùa có quả chuông lớn đúc niên hiệu Thuần Phúc nhà Mạc. Sang thời Lê, Nguyễn Chúa ra núi Non Nước (Dục Thuý Sơn), nghe tiếng chuông ngân cho là lạ. Biết vậy, người trong làng phải đục một lỗ thủng trên chuông cho kêu bớt to, tránh bất trắc xảy ra.

Thôn Hạ phong thục thuần hoà, chăm chỉ nghề nông, có lệ đi làm ăn cơm đồng từ lâu đời. Việc học ở đây cũng được biến thành lệ làng, do đó người thi đỗ làm quan có khá nhiều. Họ Trần hiệu Tấn Khanh đỗ Tiến Sĩ. Họ Trần hiệu Nhân Trực chức chuyển vận phó sứ và bẩy cử nhân. Họ Đinh, họ Lê, họ Nguyễn đều có người đỗ đạt, làm chủ sự đất Kinh Bắc và Hải Dương.

Xã Cổ Liêu có các thôn Hoàng Mẫu, Nhân Giả, An Mỹ, Khang Thọ. Các thôn Nhân Giả, An Mỹ, Khang Thọ phong tục thuần hậu. Riêng thôn Hoàng Mẫu thường có nhiều hào trưởng, làm ăn khá giả nhưng thường hay dối trá. Người xưa có câu:

"Đất Cổ Liêu trăm họ anh hào, núi thường mở ra năm cửa" tức là đất Cổ Liêu tuy đẹp, nhưng không được vẹn toàn.

Gần Cổ Liêu là xã Đồng Bạn. Đồng Bạn có nghĩa là nương nhờ nhau. Mùa xuân có lệ tế thần bằng chim đỗ quyên. Các giáp thi nhau tìm người khoẻ mạnh, đầu xuân đi tìm chim đỗ quyên. Khi bắt được thì đem về nấu chín làm lễ tế thần. Ai bắt được chim đầu tiên thì được làng thưởng và tin tưởng năm ấy làm ăn phát đạt.

Xã Phúc Chỉ (nay là thôn Phúc Chỉ, xã Yên Thắng) có ngôi chùa đẹp nổi tiếng. Chùa thờ Phật và thờ Thái tử Trần Nhật Duật. Ông là con thứ sáu vua Trần Thái Tôn, có công đánh giặc Nguyên Mông và trị nổi loạn. Tính ông hay ca hát, trong nhà thường có người ca múa, chơi bời. Ông xuất gia tu hành ở chùa Đệ Tứ, ngoại thành Nam Định rồi lại về tu ở chùa xã Phúc Chỉ. Chùa mà lại là đền thờ, có gò đất lớn trước cửa chùa được trồng nhiều trúc. Trong vườn trúc có núi cảnh bằng đá trắng. Bên cạnh vườn trúc có ao sen trắng rộng chừng hai sào. Nhân dân tôn trọng vườn trúc, ao sen là những cảnh đẹp liên quan đến sở thích lúc sinh thời của thần. Đặc biệt lệ làng Phúc Chỉ trong lễ thần còn quy định: Ba năm một lần làng chọn các đồng tử, thanh tân, tập múa hát những bài mà xưa thần hay hát. Khi làm lễ xong, đội ca múa này sẽ đứng trên bàn, tay cầm biển vung vẩy, vừa múa vừa hát chầu trước ban thờ thần.

- Ngoài việc ca múa phục vụ lễ hội như trên đã nêu, dân ở đây đã có tục tổ chức ca múa, chơi bời phù phiếm. Có thể tục này được duy trì do tiếp thu lệ ca múa thờ thánh từ nhiều đời để lại. Có nơi xưa Trần Nhật Duật ở, phần lớn dân làng làm nghề ca xướng, hoặc ít chuyên tâm làm nghề nông, tính tình phóng khoáng.

Xã Thuỵ Quang: có thế đất hình chiếc đàn, hình chiếc sáo nên xã này ngoài lệ làng tổ chức ca hát tế thần, trong làng còn có nhiều người làm nghề ca múa kiếm sống như Phù Nghĩa, Phúc Chỉ...

Xã Thanh Khê: Điền thổ 402 mẫu 2 sào 7 thước 6 tấc, là xã gần sông, có bến đò sang Bồng Hải. Dân ở đây, ngoài nghề nông, dân còn có nghề buôn bán lợn ở chợ. Khi ra chợ dặn vợ làm mồi và gọi vợ là chị. Người đời làm thơ đùa sự việc buôn bán ở đây như sau:

Trong chốn gia đình khác lại thật.

Ngoài nơi chợ búa chị là hư.

Xã Kim Tung: tục gọi làng Mờm, có đò ngang sang Yên Vệ. Điền thổ 211 mẫu 8 sào, 13 thước. Ở đây có tục làm vải thô, thuỷ sản có rươi và cáy. Thời Lý, vua Thái Tôn đi đánh Chiêm Thành, lúc trở về ghé thăm núi Dục Thuý. Khi thuyền qua xã này, dân thôn làm món chả rươi đem tiến vua. Vua ăn cho là ngon nên đặt là xã Tung Hoàng. Sau vì thế đất giống vật trang trí trên đầu ngựa nên gọi Kim Tung (Tung là loài kim khí trang trí trên đầu ngựa).

Tại đây có đền thờ thuỷ thần(1). Thời Lê, Điền Quận công họ Ngô người Bảo Ngũ vâng mệnh đắp đê Thuỵ Triền (này là Thụ ích). Khi thuyền qua miếu gặp sóng gió thì Điền trỏ vào miếu chửi mắng. Bỗng thấy phía trước xuất hiện năm chiếc thuyền khiêu chiến. Điền quận công vốn am hiểu pháp luật liền niệm chú, tự nhiên có tiếng nổ dữ dội và năm thuyền biến mất. Ngô Điền đưa thuyền đến cửa cống Thụ Triền ban lệnh đắp cống, nhưng đắp đến đâu vỡ đến đấy. Ông bèn cầu khẩn thuỷ thần giúp sức, nhờ đó mà đê được yên. Sau đó ông đắc chí nói to: "Ta đắp được đê rồi, dù đến thần thiêng cũng không phá nổi". Vừa nói xong thì sóng gió nổi lên, đê lại vỡ lở. Điền làm lễ tạ nhưng sóng vẫn tiếp tục làm sạt lở đê. Giận quá, Điền truyền lệnh chặt tre đóng cọc chở đá bỏ kè, chở cả vôi củ thả xuống khiến nước xôi lên. Rùa, giải cá... chết nổi rất nhiều.

Nửa tháng sau Điền quận công bị ốm, người nóng sốt cao độ, ruột gan như bào rồi chết. Nhân dân trong thôn làm ăn cũng gặp khó khăn, trâu, bò, lợn, gà bị dịch bệnh cầu đảo cũng không yên. Bỗng Điền quận công báo mộng cho dân, nhờ nói với chị là bảo mẫu Ngô Phi của vua Lê Dụ Tông xin xuất kinh phí làm ngựa, voi, chiến cụ bằng giấy đốt cho ông để ông giao chiến trả thù. Bảo mẫu nghe em báo mộng cho làm đồ mã đốt đi. Sáng hôm sau, trên khúc sông trước đền thờ Thuỷ thần làng Mờm, sóng nổi lên cuồn cuộn như có trận giao tranh, rồi thuỷ tộc nổi lên đầy khúc sông. Sau đó Điền quận công lại báo mộng cho chị, nói mình giao tranh với thuỷ thần bị bại, xin lập đền thờ thuỷ thần nơi cửa sông để tạ lỗi. Bảo mẫu làm theo ý em thì đoạn sông này yên lặng không thấy sự lạ xảy ra. Từ những sự việc trên, dân trong vùng mỗi khi đi  qua đền thờ thuỷ thần làng Mờm đều phải cúi đầu, ngả nón, ngả mũ kính cẩn bái lạy. Thuyền bè qua khúc sông này cũng tỏ lòng thành kính, cầu thần phù hộ. Dần dần sự sùng bái trở thành lệ của làng Mờm. Ngoài việc tôn kính, lễ vật còn làm cả thuyền chiến, đốt dâng tiến thuỷ thần, cầu mong đê điều được bình yên, không sạt lở.

Đầu tháng ba là ngày đại lễ, nhân dân tổ chức chèo thuyền, rước kiệu. Đặc biệt tổ chức thuyền chiến ở hai phía tiến lại phía cửa đền giao chiến trên sông, kết quả thuyền của thần đại thắng...

Lễ vật thì dùng thịt lợn đen, rượu ngọt. Ngày hôm sau dùng lễ tam sinh, ngày thứ ba lễ vật bằng thịt trâu, thịt bò. Ngoài ra với tấm lòng thành, lễ vật tuỳ ý nhân dân mua sắm, miễn sao phải sạch sẽ.

Lệ làng ở Tướng Loát, Hạc Bổng, Thôi Ngôi:

Trước kia ba làng Tướng Loát, Hạc Bổng, Thôi Ngôi là ba xã, nay ba làng này là ba thôn thuộc xã Yên Trị, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định. Nguyên xưa, đây là vùng đất mà anh em tướng quân Ngô Quý Duật thời Hậu Trần về khai khẩn lập nên làng xã. Ngô Quý Duật, Ngô ái Thường đã cùng các tổ đắp đê, khơi ngòi, mở mang điền địa sinh lợi cho dân, nên khi các vị mất nhân dân vùng này đã lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn.

Bên cạnh việc thờ Ngô Quý Duật, Ngô ái Thường, dân Tướng Loát, Hạc Bổng, Thôi Ngôi còn thờ thần chăn trâu với truyền thuyết như sau:

Tục truyền ba xã Tướng Loát, Hạc Bổng, Thôi Ngôi trước có một nhà sinh hai trai, một gái đi làm thuê, chăn trâu cắt cỏ. Một lần cả ba anh em đang cưỡi trên mình trâu thì gặp một ca nhi nô đùa, vỗ bụng hát. Trâu sợ quá lồng lên, bọn trẻ thì cố níu lấy nhau. Cúi cùng, cả ba đứa bị rơi xuống chết ở vào địa bàn ba xã. Người chết ở xã nào xã ấy mai táng và trở thành phúc thần của xã ấy. Hàng năm đến ngày kỷ niệm đều có tế lễ, nhưng không dùng ca xướng trong ngày lễ.

Lệ xưa ở Tướng Loát, Hạc Bổng, Thôi Ngôi thường tổ chức vào tháng giêng. Tế thần có lệ "Đốt pháo chạy". Pháo được nối ngòi từ quả này sang quả khác và treo trên dây dài trước cửa đền, hoặc treo quanh các cây từ thấp lên cao. Khi đốt pháo nổ truyền hết quả này sang quả khác như chạy trên dây rất đẹp mắt.

Ngoài ra, lệ còn tổ chức cướp cầu. Quả cầu làm bằng gỗ nhe, to như quả dưa, quét màu trắng. Khi tế xong, trai tráng trong làng đứng trước sân bái thần, tế chủ tung quả cầu lên, mọi người tranh nhau vồ quả cầu, họ đuổi nhau cướp cầu và chạy về nhà. Ai thắng cuộc phải làm cỗ khao. Khi lễ thần xong mọi người trong xã kéo nhau vào nhà thắng cuộc ăn cỗ. Lệ này đụng chạm đến kinh tế, nên khi cướp cầu mọi người đều có ý nhường cho gia đình nào khá giả thắng cuộc.

(Lệ này hai xã Hạc Bổng, Thôi Ngôi không có).

 

MẤY LỆ LÀNG VỀ NGHỀ THỦ CÔNG Ở Ý YÊN

Ý Yên nằm ở tả ngạn sông Đáy, phía Tây tỉnh Nam Định. Đây là vùng đất giáp với Hoa Lư (Ninh Bình) cấu tạo địa hình phức tạp: hầu hết là đồng chiêm song lại có đồng màu, có đồi núi độc lập. Đất đai nhiều độ chua, lại bạc màu ảnh hưởng nhiều đến việc cấy trồng, thâm canh đồng ruộng. Từ đặc điểm địa hình nên người ý Yên phải ráng sức mình, vừa chăm chỉ nghề nông, vừa chế tạo tư liệu sản xuất, theo nhu cầu sinh hoạt, dần dần nâng cao đời sống, đáp ứng tình hình hiện tại cho nhân dân.

Đời sống làng nghề, gắn với việc thờ thành hoàng làng là cả tổ nghề, nên đã tạo ra ý thức hệ đối với làng, với nghề. Một số đền thờ thành hoàng dưới đây, với tục lệ hàng năm, phần nào nói lên việc đền ơn đáp nghĩa, ý thức đối với nghề nghiệp với quê hương, dân tộc.

Đền thôn Ninh Xá, xã Yên Ninh thờ ông Ninh Hữu Hưng, nguyên quán tại Trường Yên, Hoa Lư. Ông giỏi nghề mộc, được vua Đinh giao cho trọng trách "Công tượng lục phủ giám sát đại tướng quân", chịu trách nhiệm xây dựng các cung điện Bách Thảo Thiên Tuế, Long Lộc... Ở Hoa Lư. Khi Lê Hoàn giữ ngôi báu, ông phò Lê Hoàn đi du ngoạn và cày ruộng tịch điền, có ghé qua Ninh Xá, La Xuyên. Thấy dân tình nhân hậu ông xin ở lại lập ấp và dạy dân làm nghề mộc. Sau này nghề mộc phát triển, đời sống khấm khá, nhân dân nhớ đến công lao thần tổ đã thiết lập đền thờ và tuân thủ các quy định của làng trong ngày 6 tháng giêng như:

Thi làm ra lửa rồi thổi cơm thi, chọn cơm ngon dâng cửa thánh tỏ lòng nhớ ơn công đức.

Thi làm các sản phẩm đẹp, nhất là các mặt hàng điêu khắc gỗ. Sản phẩm nhỏ như con chim, con thú, chiếc khay thì đem dâng cửa thánh. Sản phẩm lớn thì trưng bày trong dịp hội để quảng cáo làng nghề, hoặc giới thiệu khách về từng gia đình xem và mua hàng.

Tốp thợ nào đi làm xa về làng ăn tết, thì ngày 6 tháng giêng cũng phải ở nhà ra đền lễ tạ, bái yết để tiếp tục một năm mới đi làm ăn.

Trong làng ai làm ăn khá giả, nghề nghiệp giỏi giang được thành nghệ nhân, ông chủ... thì càng phải có ý thức đối với việc thực hiện lệ làng và đóng góp tu sửa đền thờ.

Thôn Tống xá xã Yên Xá huyện ý Yên có đền thờ Thánh tổ nghề đúc, nghề rèn. Đến Thánh tổ thờ Không Lộ Thiền sư, tên thật là Nguyễn Chí Thành. Ông sinh tại Hán Lý, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương. Lớn lên hết lòng lo việc đạo. Ông lại học được nghề rèn, nghề đúc. Năm 24 tuổi ông đến động Am Tiên, Hoa Lư mở cảnh chùa lễ Phật. Năm 43 tuổi ông truyền nghề rèn cho đệ tử, để lo việc rèn đúc đồ dùng, phương tiện cho chùa. Có lần về quê Tống Xá, thấy dân tình nhân hậu, chất phác, nơi đây lại là khu đất có thể dùng làm khuôn đúc, nên ông ở lại dạy dân nghề rèn, nghề đúc. Ông mất năm Giáp Tuất (1154) để lại niềm thương vô hạn cho dân làng nghề Tống Xá.

Nghề đúc đồng Tống Xá ngày càng có uy tín, sau này đúc cả gang, cả nhôm. Lúc đầu cung cấp tư liệu sản xuất nông nghiệp như cuốc, cày. Sau làm các đồ dùng sinh hoạt như nồi đồng, xanh đồng, ấm đồng. Sau làm cả nồi, xoong nhôm. Điều đặc biệt là đúc cả những sản phẩm phục vụ tôn giáo như chuông đồng, khánh đồng, trống đồng...

Hiện nay, nghề đúc Tống Xá phát triển, thực sự là nguồn lợi đối với nhân dân địa phương. Trong xã có 25 tổ hợp tác xã cơ khí, hàng trăm xưởng sản xuất tư nhân và 5 Công ty cơ khí trách nhiệm hữu hạn, sản xuất nhiều loại mặt hàng...

Nhân dân Tống Xá ý thức rõ sự thành đạt là do công Thánh tổ và các tổ nghề kế tiếp nên hàng năm, dịp kỷ niệm 15 - 9 ngoài việc tế lễ, tổ chức bơi chải ôn lại quá khứ của Thánh, nhân dân còn tổ chức các cuộc thi nhằm nâng cao trình độ nghề đúc ở địa phương. Theo thư tịch cổ thì làng tổ chức thi làm khuôn, làm bễ gió. Sau khi các giáp làm xong đưa đến đặt trước ban thờ tổ để tế lễ, rồi đưa ra thực hiện trong 3 ngày. Sau khi thực nghiệm, khuôn, bễ của ai, của giáp nào tốt sẽ được làng thưởng, cho uống rượu lộc trước tượng thánh và ban cho vuông vải đỏ mộc dục thánh (lau tượng) làm khước chung, hay xé nhỏ ban lộc cho từng người.

Lệ làng Tống Xá quy định cho dân phải giúp đỡ nhau cung cách làm ăn, vốn liếng để sản xuất các mặt hàng, nhưng cấm truyền cho con gái (sợ đi lấy chồng tiết lộ nghề nghiệp). Nếu gia đình nào làm bại lộ kỹ thuật làm khuôn, kỹ thuật đúc truyền thống thì bản thân người làm lộ và cha mẹ đều phải khai trừ khỏi hương tịch.

Trong làng có người nghèo thì chức sắc trong làng và mọi người phải tìm cách dìu dắt cho bằng khá. Nếu không, để xảy ra tình trạng quá xấu, nhất là bị chết đói thì lý trưởng phải cách chức, làng sẽ tìm người có năng lực thay thế.

- Một làng nghề khác thuộc xã Yên Tiến huyện ý Yên, với nghề sơn then nổi tiếng, cũng có những điều đáng lưu ý.

Xưa đây là phường Lư Châu đất sa bồi. Nhân dân sống bằng nghề trồng dâu nuôi tằm và trồng lúa nước. Thời Trần Thuận Tông (1390), ông Ngô Đức Dũng làm quan tri huyện Từ Sơn, Bắc Giang cùng em trai là Ngô Ân Ba đem nghề sơn then về đây lập ấp và truyền nghề cho dân sinh sống. Một năm sau, nhiều người trong ấp đã làm được nghề sơn và nghề sơn đã giúp cho dân địa phương có mức sống ngày càng cao.

Thời Hậu Lê, hai anh em ông Dũng lần lượt qua đời vào ngày 12 và 14 tháng giêng, để lại công lao to lớn cho dân. Đây còn là vùng đất mà từ thế kỷ X, vua Đinh đã hành quân qua và tạo Lư Châu thành căn cứ kháng chiến. Sau dân làng lập đền thờ vua Đinh và các tướng tuỳ tòng để tưởng niệm người có công thống nhất đất nước.

Nhân dân địa phương thấy rõ công lao của hai vị tổ nghề đối với dân Lư Châu, không chỉ giúp dân có đời sống khá giả mà nhờ công ơn tổ, một số thợ giỏi vào kinh đô làm, thi thố tài năng được phong chức "Đan thanh công tượng Đội trưởng", hoặc sang thời Nguyễn được tước Cửu phẩm văn giai. Ông Đinh Tư Lâm được vua Minh Trị Nhật Bản cho làm Quản giám xưởng sơn Điền Châu.

Uống nước nhớ nguồn là đạo lý của dân tộc, cũng như của nhân dân Cát Đằng Yên Tiến. Nhân dân địa phương lập đền thờ các tổ nghề sơn bên phía đông đền vua Đinh, để hàng năm đến ngày 12 tháng giêng, 14 tháng giêng mọi người đem hương hoa ra đền làm lễ tổ nghề. Các ngày kỷ niệm bên đền vua Đinh cũng đều mở cửa đền tổ nghề để nhân dân và thập phương tưởng niệm công lao, ân đức.

Lệ làng Cát Đằng cũng quy định trách nhiệm cho mọi người phải gìn giữ bí quyết làng nghề, phải giúp đỡ nhau làm nghề, không để gia đình nào túng đói...

Điều đặc biệt là nhân dân Cát Đằng rất tự hào về nghề sơn truyền thống của mình. Nhiều người hiện làm nghề tại các tỉnh trong Nam ngoài Bắc đã nhập tâm bài ca dao:

"... Làng ta là đất thợ sơn,

Bước ra thiên hạ thì hơn mọi nghề.

Bảo nhau giấy rách giữ lề,

Tổ tiên xây dựng chốn quê gập ghềnh.

Bát cơm sẻ nửa hữu tình,

Giúp nghèo cứu khó, mái tranh êm đềm".

Bài ca dao địa phương Cát Đằng đặt ra là niềm tin, niềm tự hào, nhưng cũng là những quy định nhắc nhở mọi người giữ gìn nghề truyền thống, xây dựng quê hương phồn vinh, hạnh phúc.

 

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ SỰ HỌC Ở TRỰC NINH, NAM ĐỊNH

Theo sách "Nam Trực huyện thông chí", mục đền chùa đề cập tới văn từ trong huyện: Chính tẩm 5 gian, tiền đường 5 gian, tả hữu vu đều 5 gian. Hàng năm cứ đến năm sớm và các tiết xuân đều có tế lễ. Đông chí có lệ đại tế, các vị khoa mục đều đến dự, nhưng phân ra thứ bậc.

Trong huyện đặt chức Huấn đạo lo việc giáo hoá dân chúng, cai quản các trường tổng sư trong huyện. Các tổng Cổ Nông, Bái Dương, Duyên Hưng, Thi Liệu, Sa Lung, Cổ Gia, Liên Tỉnh, Đỗ Xá, Nghĩa Xá phong trào học đều có sự ganh đua, nhiều địa phương có người đỗ đạt và việc lập văn chỉ cũng đều được các tổng, các xã chú ý. Các tổng xã còn lập hội tư văn để lo việc tế lễ tại văn chỉ, văn từ, lo việc khuyến học cho con em trong vùng.

Huyện Trực Ninh là quê hương của Trạng nguyên Đào Sư Tích và nhiều nhà khoa bảng từ thời Trần, Lê, Nguyễn. Nhân dân trong huyện, trong xã đều lập văn từ, văn chỉ thờ các ông, coi như các bậc tiên hiền để khích lệ sự học quê hương. Riêng Trạng nguyên Đào Sư Tích và thân phụ của ông thì còn được lập đền thờ và khắc bia. Tấm bia đặt tại đền thờ phía trước chùa Cổ Lễ do Tiến sĩ  Ngô Thế Vinh người làng Bái Dương, huyện Nam Trực soạn vào niên hiệu Tự Đức thứ 9 (1856) có ghi: "Khi ấy bốn huyện ở Phủ Thiên Trường đều thuộc về kinh đô, sự giáo hoá thi, thư, lễ, nhạc, nhân hậu, khải, đễ thật sâu rộng, nhuần nhuyễn". Văn bia đề cập tới việc xây dựng đền thờ hai ông và các bậc Tiến sĩ, hương cống trong ấp, được đông đảo văn thân, quan chức, nhân dân ủng hộ. Lại mua ruộng đền giao cho xã lo liệu để hàng năm vào tiết thanh minh, các văn thân đến tế lễ và quét dọn phần mộ. Vào tiết trung thu thì dân xã đến phụng sự.

Bài minh bia có ghi:

"Bến sông Cổ Lễ

Thờ hai hiền tài

Tiến dâng hương hoả

Quân tử đời sau

Nay có đền mới

Mọi người nhớ ghi...".

Bia đền Bắc ở xã Trực Cường, xưa là An Cường thuộc đất Quần Anh ghi việc hội tư văn đáp, dựng đền thờ ở Vĩ Châu, làm nơi phụng sự tiên hiền, nhờ đó mà đạo học dấy lên, văn nghiệp dần dần hưng thịnh. Khoa Quý Hợi - Đặng tiên sinh đỗ Tam trường, mở đầu khoa bảng trong xã. Năm Đinh Mão, Canh Ngọ các ông Bùi, Phạm tiên sinh đều thi đỗ.

Cuối mùa xuân năm Kỷ Tỵ (1809) Tri huyện Hoài An cùng cả hội ghi lại sự việc. Năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) lập bia.

Văn chỉ thôn Hưng Cát, xã Cát Thành, huyện Trực Ninh đã có từ lâu, đến thời Thiệu Trí thứ 3 (1843) lập văn bia ghi 10 vị tiên hiền có công khai sáng và ghi các vị đỗ đạt thời Lê, thời Nguyễn, đồng thời nói sự học hành, nghi lễ ở địa phương. Đáng tiếc là văn chỉ bị phá huỷ. Nhân dân địa phương đã chuyển văn bia về chùa Phổ Quang trong thôn để lưu lại dấu tích của hội văn.

Xã Trực Tuấn có các thôn Nam Lạng, Văn Lãng, Quần Lương, Yên Quần. Xưa các thôn đều có văn chỉ. Song do hoàn cảnh xã hội nên chỉ còn thôn Nam Lạng giữ được khu văn chỉ khá nguyên vẹn.

Văn chỉ Nam Lạng nằm phía trước chùa và bên cạnh đền thờ Quý Minh đại vương. Văn chỉ xây dựng trên khu đất rộng, có hệ thống tường bao chiều dài 21m, chiều rộng 17m. Mặt tiền có hệ thống cổng chính chồng diêm tám mái, hai cổng tả hữu cùng làm mái cong, có tường hoa trụ góc đẹp đẽ quy củ. Hội văn Nam Lạng hài lòng với việc thiết kế nên đề câu đối:

"Dương hồ tại kỳ tả,

Du giả duy vi ngôn".

(Cao ngất ở bên trái,

Người đến phải ngợi khen).

Câu đối tại cổng chính lại rất tự hào việc phụng sự đạo nho ở địa phương:

Văn tại tư hồ á Âu lân bắc, phong trào luân lý gia biệt truyền học thuyết.

Đạo kỳ Nam hỹ hoá trạch danh giáo, Thù Tứ ân chiêm địa trùng khởi thắng quan.

(Việc văn từ đặt ra ở đây, so với châu á, châu Âu, phong trào dạy dỗ cháu con càng cần nêu rõ

Đạo truyền về phương Nam, nối tiếp từ sông Thù, sông Tứ phương Bắc dựng cảnh đẹp nơi đây).

Các bệ thờ được bố trí cân đối theo trục đối xứng. Bệ trên cùng to, cao hơn cả, đặt bát hương thờ Khổng Tử. Bệ được làm bằng đá theo kiểu bành kiệu, phần đế tạo chân quỳ dạ cá. Phần chương hình bán nguyệt cao 2,50m chạm nổi cảnh hai con rồng chầu mặt nguyệt, hai bên có hai con rồng nhao về phía trước như thể vòng tay ngai. Phần đế chạm hổ phù, lá lật hoá long công phu nghệ thuật.

Hai bên bệ thờ Khổng Tử có hai bệ bằng đá có phần nhỏ hơn, quy cách 1,90 x 0,90m. Đây là hai bệ thờ Thất thập nhị hiền và Tam Thiên môn đồ là những học trò xuất sắc của Khổng Tử, do vậy cũng được hội văn Nam Lạng trang trí phù điêu vân ám mặt nguyệt, triện tàu khá hài hoà đẹp mắt.

Bát hương thờ ở đây được gia công kỹ càng và đặt trên kỷ đá chạm chỉ và triện cầu kỳ, thể hiện sự kính trọng của nhân dân địa phương đối với các vị tổ sư dạy chữ.

Hai bên còn có bốn bệ thờ, đặt bát hương các vị tiên hiền, khoa bảng mở mang nền nho học địa phương.

Văn chỉ còn có sập đá, hương án bằng đá, hai đẳng thờ dùng khi tế lễ cũng bằng đá và cũng được đục chạm hoạ tiết, gờ chỉ đẹp mắt.

Ngoài cùng có hai nhà bia, bố cục cân đối bảo vệ cho hai tấm bia ghi lai lịch văn chỉ.

Theo "Văn chỉ bi ký" niên hiệu Tự Đức thứ 23 (1870) thì đây là vùng đất duyên hải. Từ xưa theo điều chính được một nửa, đỗ đạt có Trần tiên sinh, giám sinh thời Lê mở đầu... Tiền nhân có ý dựng văn đàn từ lâu, nhưng mãi đến thời Tự Đức thứ 20 (1867), người trong làng mới bàn nhau tìm đất đẹp dựng bệ gạch, tường đất. Ba bốn năm gần đây mới dùng đá làm bệ, gạch xây tường... là vì tương lai, khiến việc tôn trọng văn học ngày thêm thịnh vượng, theo đạo nho mỗi lúc càng nhiều, để từ chính học mà hưởng phúc lành.

Tấm bia thứ hai có niên hiệu Bảo Đại thứ 9 (1934) lại ghi: "Văn có nơi thờ, quan hệ đến phong hoá của làng quê. Đã dựng văn chỉ làm đẹp tương lai, nay sửa mới để dài lâu bất hủ".

Điều đáng lưu ý là tục lệ để ruộng học điền lấy kinh phí làm giải thưởng, động viên học tập cho con em trong xã. Số ruộng học điền làng để gồm 8 sào, phần sản lượng tuy ít, phần thưởng đơn sơ nhưng đây là điều rất có ý nghĩa. Làng còn để ba sào ruộng nhang đăng cho văn chỉ, để phụng sự nhị kỳ xuân thu tế lễ. Riêng dịp hội làng, năm giáp làm bốn con lợn, bốn mâm xôi để tế thánh(1) và lễ ở chùa. Làm một con lợn, một mâm xôi đưa sang tế tại văn chỉ. Hiện nay không còn lệ tế xôi lợn, nhưng khi lễ Thánh, lễ Phật trong các ngày đại lễ, nhân dân vẫn không quên làm lễ thánh sư, tiên hiền tại văn chỉ. Vấn đề này làm theo tục cổ, song đây cũng là điều nói lên truyền thống tốt đẹp của Nam Lạng.

 

HƯƠNG ƯỚC LÀNG THI

Làng Thi, xã Xuân Hy, huyện Xuân Trường, Nam Định thờ tướng quân Ngô Miễn. Ngô Miễn sinh năm 1371 trong một gia đình hào phú ở xã Xuân Hy, tổng Kim Hoa, phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc, sau thuộc xã Xuân Phương, Xuân Mai, Phúc Thắng huyện Kim Anh, phủ Đa Phúc, tỉnh Bắc Ninh rồi thuộc Vĩnh Yên, Phúc Yên, Vĩnh Phú nay là xã Phúc Thắng, huyện Mê Linh. Ông đỗ tiến sĩ làm quan đến chức thượng thư. Ông đưa dân xuống phủ Thiên Trường, xứ Sơn Nam khai phá lập ra tân ấp đặt tên là Nhật Thi. Khi giặc Minh xâm lược nước ta, Ngô Miễn đã cùng vua quan nhà Hồ kháng chiến đến cùng và cả ông cả bà tuẫn tiết tại cửa biển Kỳ La (1407).

Làng Thi còn có Đỗ quận công, Trần quận công đã kế tiếp sự nghiệp đưa dân làng cựu xuống miền biển phủ Thiên Trường khai hoang lấn biển lập ra các xã Xuân Huyện, Xuân Bảng, huyện Xuân Trường, Nam Định.

Làng Thi ở Xuân Hy với quê cũ có nhiều gắn bó về nhiều mặt. Do đó từ lâu đời quan hệ họ hàng, làng xóm vẫn được duy trì, vẫn kế thừa đức tính tốt đẹp yêu nước, thương dân của tướng công Ngô Miễn. Truyền thuyết nói về làng Cựu có 10 họ, họ nào cũng san bớt người đi lập ấp mới. Lúc đầu mỗi họ cử 4 người đi trước khai khẩn tạo cơ sở ban đầu rồi tiếp tục cử người đi khai khẩn tiếp theo. Mãi 7, 8 năm sau công cuộc khai khẩn thành công mới hình thành ấp Nhật Thi sau đổi là làng Thi xã Xuân Hy thuộc huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định.

Hương ước làng Thi có ghi như sau:

- Điều 1: Cây có gốc nước có nguồn, chim có tổ người có tông, nam phụ lão ấu trong làng nhất nhất phải ghi nhớ công ơn thần khai xã và các liệt tổ. Không được sao nhãng việc hương khói phụng thờ.

- Điều 2: Cụ nào cao tuổi nhất, được tôn là trưởng lão, mọi người trong làng phải biết kính trọng người cao tuổi (kính lão đắc thọ).

- Điều 3: Con đối với cha mẹ phải biết chữ hiếu, ngược lại cha mẹ phải có trách nhiệm đối với con cháu. Trong làng mọi người phải có trách nhiệm giáo dục điều lành cho trẻ. Trẻ nào thông minh, có triển vọng thì làng phải quan tâm, chu cấp thêm tiền gạo, tạo điều kiện cho cháu được học hành, đỗ đạt.

- Điều 4: Hương ước quy định cho phụ huynh và học sinh phải biết tôn trọng thày giáo, giữ thuần phong quê hương. Mọi người trong làng phải chăm chỉ và có sáng tạo trong sản xuất tạo cuộc sống ấm no, phải biết giữ gìn vệ sinh chung, giúp đỡ nhau khi hoạn nạn.

- Điều 5: Làng để một số ruộng cho gánh hát chèo và sẽ hậu thưởng cho ai hát hay, đúng điệu.

- Điều 6: Phụ nữ chửa hoang đẻ con trai làng cho một áo tơ, đẻ con gái làng cho ba vuông vải xanh. Bé trai lớn lên được vào sổ đinh của làng. Người mẹ phải có trách nhiệm nuôi nấng cho con khôn lớn.

- Điều 7: Đối với vùng tân ấp mới khai khẩn, nhiều khó khăn thì họ nào phải giúp họ ấy. Làng phải huy động góp tiền, gạo cho người đi khai hoang lập làng mới, đảm bảo lương thực ăn đủ một năm nhưng phải chia làm bốn đợt, không trợ cấp một lần.

Dưới đây là kết quả mà làng Cựu và làng mới đã thực hiện theo tinh thần hương ước đề ra.

- Bão tháng 5 năm Quý Mão (1903) tân ấp bị bão tàn phá mùa màng, nhà cửa, làng Cựu trợ cấp thóc giống, quần áo, thuốc men để phục hồi kinh tế.

- Bão tháng 6 năm Kỷ Tị (1929) tân ấp lại bị thiệt hại, làng Cựu huy động nhân dân chu cấp thóc giống.

- Cơn bão tháng 8 năm Bính Dần (1986) làng Cựu giúp tân ấp 5 tấn thóc, 2000 viên ngói cho 2 làng (Xuân Hy, Xuân Bảng)

Từ ý thức cộng đồng xã hội và tuân thủ lệ làng, nên những thập kỷ gần đây khi làng Cựu gặp khó khăn, tân ấp sẵn sàng chi viện, cụ thể như sau:

- Trong chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, làng cũ bị bom đạn tàn phá, tân ấp gửi nhiều chiếu và hàng hoá giúp bà con bị nạn và tuy cách xa nhau 200 cây số, chuyển cư đã 600 năm mà đôi ba năm một lần hai quê vẫn cử đại biểu về thăm nhau, ra đền lễ thánh, lễ tổ tỏ lòng ngưỡng mộ.

Lệ làng Thi và một số việc làm tình nghĩa, tuy có sự đan xen giữa nếp cũ và việc làm mới, có nét còn chung chung thiếu cụ thể, nặng về truyền thuyết nhưng dù sao cũng là những quy định, những việc làm mang tính truyền thống, làm đẹp cho phong tục tập quán của hai làng Thi ở Nam Định và ở Mê Linh.

 

LỆ NGẠCH LÀNG ĐỒI TRUNG THẾ KỶ XVIII  Ở Ý YÊN TỈNH NAM ĐỊNH

Xã Đồi Trung xưa gồm 7 thôn: Đồi Thị, Đồi Nam, Thị Tân, Ngoại Thị, Nội Thị, Thị Bắc, Triều Lộc thuộc tổng Đồi Trung. Tổng Đồi Trung gồm các xã Đồi Trung, Đồi Thượng, Hùng Nhuệ, An Trung.

Xã Đồi Trung là xã lớn trong tổng, lợi thế ở đây là khu dân cư thường ở trên các đồi thấp nhỏ, đất đồi được san ra bằng phẳng để làm nhà, làm chợ, làm các công trình tín ngưỡng... nên khi mưa, úng địa bàn này không bị ngập. Chợ Đồi, thuộc thôn Đồi Thị là một chợ lớn trong huyện, do đó lấy thôn chợ Đồi làm trung tâm, các thôn khác như Thị Tân (bến chợ) Nội Thị (trong chợ), Ngoại Thị (ngoài chợ) Triều Lộc (dân làng chài nhờ lộc nước sinh sống) ở xung quanh và dựa vào Đồi Thị để cải tạo cuộc sống. Đồi Thị còn có sông nhỏ chảy qua, dòng sông này xưa thông ra sông Vị Hoàng, thuyền bè đi lại buôn bán đông vui.

Trong văn bia cầu đá làng Đồi niên hiệu Cảnh Hưng (1761) do tri huyện Nguyễn Đình Bình lập có đoạn: "Đại An Đồi Thị hành thương cư cổ chi sở nguyện tàng, Nam nhân Bắc lữ chi sở tất tập" (Chợ Đồi ở đất Đại An là nơi người đi buôn bán, đều muốn lưu lại, người phương Nam khách phương Bắc về đây tụ hội).

Từ đặc điểm tình hình xã Đồi Trung, với điều kiện sống và điều kiện giao lưu văn hoá nên ngày 25 tháng 8 niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 22 (1761) các bậc kỳ lão quan viên, chức dịch xã Đồi Trung, tổng Đồi Trung, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã hội họp tại đình Đồi Thị, bàn việc lập hương ước trong xã. Những điều lệ làng Đồi Trung được cử nhân Nguyễn Thời Vũ, xã trưởng Liễu Kế Hưng, cựu xã trưởng Lý Bằng Đoàn ghi chép đệ trình quan tri huyện Đại An Nguyễn Đình Bình, tri huyện huyện Thiên Bản Trần Đức Thọ sửa đổi, chỉnh đốn và được khắc vào bia đá để lưu truyền cho người trong xã thực hiện.

Bia có chiều dài 2,05m; rộng 1,10m; dày 0,20m đặt trước phủ Đồi. Trên trán bia ghi:

"Hương ước bi ký"

(Bia ghi những điều lệ của làng)

Nội dung văn bia ghi 8 điều của làng Đồi Trung, để mọi người trong xã thực hiện, nhằm củng cố nề nếp ở hương thôn, giúp cho việc trị nước an dân ở cơ sở. Dưới đây là các điều trong hương ước.

Điều 1: Xã có 7 thôn, nhân dân trong các thôn không phân biệt ở lâu hay mới đến ngụ cư, phải lấy điều thuận hoà, thân ái mà ăn ở, cư xử với nhau. Có vui cùng vui, lúc buồn đều san sẻ. Nếu ai có việc làm chia rẽ, mà làng biết sẽ bị phạt từ 5 đến 10 quan tiền hoặc đuổi khỏi xã.

Điều 2: Cả xã có 215 hộ, việc đóng góp của làng, của nước đều phải gánh chịu (không kể các hộ cô đơn).

Con trai đến tuổi trưởng thành phải nộp 2 quan tiền để đắp đê huyện và nộp thuế điền.

Việc làng thì thu mỗi hộ 2 quan tiền. Nếu trong hộ chưa có người thành niên, người quá 50 tuổi, hay tuy đến tuổi thành niên mà là nữ giới, đang phải nuôi dưỡng bố mẹ già yếu thì được miễn trừ.

Ngoài ra mỗi hộ mỗi năm phải đóng 20 ngày công để khơi nước úng ngập tại ngõ, đắp đường nhỏ trong xã, tu bổ đình chùa.

Ruộng đất đã chia cho 450 đinh là 135 mẫu, còn lại 50 mẫu công điền, ai nhận làm phải nộp cho làng mỗi mẫu 4 quan tiền (chức dịch trong làng mỗi người được nhận 1 sào, là thường dân thì mỗi người được nhận 2 sào).

Điều 3: Khi trong xã có việc, thì lấy tiền công thu từ khoản 35 mẫu ruộng, 150 mẫu đầm ao và lệ thuế ở chợ, cầu đò để chi phí các việc sau đây:

- Khi trong dân có việc gả chồng, làng sẽ giúp cho 1 quan tiền. Nhà rể không phải nộp cheo như các làng khác.

- Lấy vợ thì được làng giúp 2 đến 3 quan tiền. Nếu nhà gái đòi hỏi lễ vật thì sẽ bàn bạc mà nâng tiền trợ cấp.

- Sinh con trai thì làng giúp từ 1 đến 2 quan, khi lớn đi học, mỗi năm được giúp 2 đến 3 quan.

- Sinh con gái thì được giúp 1 quan, lớn lên đi học sẽ được giúp 2 quan trong một năm.

- Dựng nhà được giúp từ 1 đến 4 quan.

Việc hiếu: Chức dịch phải thân hành đốc thúc công việc và giúp tiền từ 1 đến 4 quan. Khi cải táng được giúp 1 quan (nếu nhà khá và giàu thì thôi).

- Nghèo khổ, ốm đau, côi quạnh thì giúp từ 2 đến 5 quan và còn thường xuyên trợ cấp. Cấm không được tỏ thái độ khinh bỉ với người neo đơn, khốn khó.

- Con trai đến tuổi thành niên đi lính, mỗi năm được giúp 2 quan. Nếu ở nhà gặp cảnh già yếu, nghèo túng thì làng phải tuỳ cơ mà giúp thêm, đến khi người lính ấy mãn hạn về làng mới thôi.

Trong xã có kẻ trộm cướp, chức dịch phải lên huyện trình quan để bắt giữ cải tạo. Nếu trong xã có kẻ cậy sức mạnh đè nén người khác, mà chức dịch trong tổng, bênh che khi được phát giác thì tên chức dịch đó sẽ bị đánh chết, hoặc đuổi cả nhà đi nơi khác, không đợi sự phân giải của huyện quan.

Kẻ bất lương phải bị phạt từ 2 đến 5 quan, bắt lên trình quan và không bao giờ nhận tên ấy về làng nữa. Về tiền phạt thì bố mẹ và thân thích của kẻ bất lượng phải gánh chịu.

Kẻ nào thông dâm với vợ người khác, sẽ bị phạt 2 đến 3 quan tiền. Dâm phụ nếu đã có con với chồng chính thức thì phạt 4 đến 5 quan tiền, đánh 20 gậy rồi đuổi đi nơi khác.

- Về việc trai gái ăn nằm với nhau rồi mới cưới thì không bắt tội.

Nếu chức dịch phát giác, lợi dụng để bắt phạt gây phương hại đến cuộc sống người dân, thì làng phạt như đối với kẻ dung túng hành động bất lương kể trên.

- Dâm phụ đã bị phạt mà không biết hối cải, lại bỏ chồng con ra đi, nếu người trong xã bắt được, sẽ tuỳ nghi mà đánh chết không tha.

- Nếu người trong xã tụ tập chúng đảng cướp bóc, bất kể ngày, đêm, chức dịch phải trình quan và tróc nã. Nếu chức dịch lơ là, mọi người sẽ tụ hội ở đình bàn định, đánh chức dịch 20 gậy và phạt 4 đến 5 quan tiền.

- Nếu trong xã bị trộm cướp ở phương khác đến thì phải cộng lực vây bắt, giải trình quan trên và phải cung cấp đầy đủ chứng lý, không nên tuỳ tiện đánh nặng, hay đánh chết nhằm tiêu đi mọi sự việc, chứng cớ.

- Người trong xã, nếu đánh chức dịch bị thương, hoặc phá phách nhà cửa của ai thì xã phải xem xét sự tình, rồi viết đơn trình quan phân giải.

- Nếu chức dịch ỷ thế đánh dân, đè nén dân thường thì phạt chức dịch ấy 3 đến 4 quan, rồi mới phân giải và trình quan trên. Kẻ a dua, nịnh bợ chức dịch, mặc họ làm sai thì bị phạt từ 3 đến 4 quan, rồi mới trình quan minh xét.

Điều 4: Xã có 4 cửa cổng, 7 điểm tuần, ngoài đồng có 4 cái quán được phân công phòng giữ như sau:

Cổng của xã có 4 điểm canh lớn, có tuần tráng chịu trách nhiệm mỗi người được xã cấp 2 sào ruộng miễn thuế. Trong xã còn 3 điểm khác, mỗi người chịu trách nhiệm được cập 1 sào 5 thước miễn thuế. Cổng xã mỗi điếm 4 người, trong xã mỗi điếm 2 người canh gác, cuối năm mỗi người được lĩnh 1 quan tiền để ăn tết.

Các điếm canh đều có giếng, có ao để lấy nước ăn và nước rửa. Các quán ngoài đồng cũng đều mỗi nơi có 1 ao, 1 giếng và 3 cây đa, si, sung để lấy bóng mát làm nơi trú, nghỉ cho dân khi đi làm đồng.

Phía đông xã có bãi tha ma, phía Bắc xã có miếu thổ thần, 1 toà quán gió và 2 cây đa, 2 cây si, cấm mọi người chặt phá, để giữ cảnh quan cho nơi nghỉ ngơi, thờ tự.

Mỗi khi nghe tiếng tù và ở điếm tuần thổi liên hồi thì người ở phạm vi điếm nào, phải ra tập trung ở điếm ấy, không được vắng mặt. Nếu thấy tiếng trống nổi lên liên hồi tại đình Đồi Thị, thì cả xã phải đến tập trung đợi chờ chức dịch phân công công việc.

Điều 5: Nhà ở theo từng dong ngõ, các nhà đều có cổng trông ra đường, hai bên đường đều có ngòi tiêu nước. Thổ cư mỗi nhà được 1 sào thì nên nhường lại cho nhà bên cạnh, xin xã cấp đất để thuyên chuyển đến nơi mới và xin trợ cấp ngày công, tiền để vận chuyển cũng như xây dựng. Các nhà gần nhau phải có rào giậu rõ ràng, không được lấn đất, phá hoại của nhau. Phải có biểu hiện bản chất thực thà, yêu thương giữ gìn thuần phong mỹ tục.

Các nhà có giậu tre, cửa cổng đề phòng mọi người tự do đi lại. Các thôn và chung quanh xã đều có ngòi nước và luỹ tre bao bọc, đề phòng chống trộm cướp. Độ vài ba năm tre tốt, xã sẽ thu nguồn kinh phí này để chi dùng. Cấm chặt trộm, tư lợi. Ai vi phạm sẽ bị phạt từ 1 đến 3 quan tiền. Từ xưa, các nhà trong xã đều có giếng nước ăn, gần đây nhiều nhà lấp đi, việc này sẽ ảnh hưởng đến vệ sinh. Năm vừa qua, tại nơi đình Trung, xã đã bàn việc khơi lại giếng để lấy nước dùng, nhà nào không tuân theo sẽ phạt từ 1 đến 2 quan tiền.

Điều 6: Các chức dịch trong xã, đã được cấp ruộng, đất trồng cấy lấy lương ăn. Nếu ai vin cớ sách nhiễu nhân dân, đòi tiền của dân, lười biếng công việc xã sẽ phạt từ 2 đến 5 quan tiền và buộc phải thôi việc.

Lý trưởng và hương sư được cấp 3 sào. Thôn trưởng, thư ký được cấp 2 sào, còn thì đều 1 sào cả. Cuối năm mỗi vị được xã cấp 2 đến 4 quan tiền để ăn tết.

Chức dịch mỗi khi được dân bầu lên, nếu có mở tiệc khai hạ thì phải tuỳ theo hoàn cảnh. Giàu thì làm to, nghèo thì làm nhỏ, cấm mọi người đến quấy quả, đòi chè rượu làm phương hại đến tiền lệ vốn không có.

Chức dịch ngoài việc tuân theo phép nước, không được tuỳ tiện đòi hỏi, quấy quả nhân dân nghèo khó.

Nếu người các phương khác muốn vào nhập cư, phải viết một đơn xin trình bày lý do và hứa hẹn. Chức dịch không được phép đòi lệ lớn lệ nhỏ, chè rượu làm sai trái mất ý tốt về việc săn sóc yêu thương đồng loại trong nước của tiền nhân.

Điều 7: Xã có một chùa và chín ngôi đền miếu.

Chùa thờ Phật Thích Ca và Tứ pháp.

Đền:

+ Một toà thờ công chúa Liễu Hạnh ở bên sông.

+ Một toà ở trước chùa thờ ông Văn Giang về đây lập ấp từ thời vua Triệu. Ông Nguyễn Bình có công xướng xuất người địa phương chống giặc Minh và ông Đoàn Thượng là tướng thời Lý thuộc địa phận thôn Đồi Thị.

+ Một toà thờ Đinh Bộ Lĩnh ở địa phận thôn Thị Bắc.

+ Một toà thờ ông Đội Nhưng chống lại trộm cướp ở thôn Thị Nam.

+ Một toà thờ vua Lê Lợi ở địa phận thôn Thị Tân.

+ Một toà thờ thần núi Tản Viên và quần tiên ở địa phận thôn Ngoại Thị.

+ Một toà thờ Lê Hồng Quốc và hai vị phu nhân. Ông là tướng chỉ huy quân thuỷ thời Lê ở thế kỷ XV, có vợ là Trần Thị Đanh và Trần Thị Ngọc. Hiện có 3 ngôi mộ xây bằng loại gạch cổ nổi hình rồng võng yên ngựa. Đền này thuộc địa phận thôn Nội Thị.

+ Một nhà thờ Thiên quan, vua Thần nông ở địa phận thôn Triều Lộc.

+ Một toà thờ Văn Tuyên Vương (tức Khổng Tử, đời sau tôn phong, nêu lên đạo đức có ý tuyên truyền răn dạy về việc học hành). Thờ các đệ tử của ông tại văn chỉ phía trước chùa.

+ Riêng các điếm tuần, điếm nào cũng có chuôi vồ thờ thần thổ địa.

Riêng đối với việc tôn thờ ông Văn Giang, là ông tổ đầu tiên từ Kinh Bắc về đây lập ấp thời vua Triệu, xã coi đây là vị thuỷ tổ, nên ngày 10 tháng giêng kỷ niệm ông về đây, mỗi nhà góp một bát gạo nếp, một bát gạo tẻ để góp phần làm lễ. Việc này xã xuất tiền mua 3 con bò, 7 con lợn đen to, 7 con cá chép to, 7 vò rượu, làm 7 cỗ chay, 7 lễ tam sinh để nhớ lại người trước có công sáng lập làng, sau có công xây dựng quê hương.

Lễ xong ngoài các mâm chức dịch, còn bày biện các mâm khác để đại diện các hộ đều được ăn uống (một người). Còn oản quả, lộc phật, lộc thánh thì chia đều cho đem về nhà để cả nhà cùng hưởng. Mỗi hộ được nhận 2 cân thịt bò và lợn về nhà làm cỗ cúng gia tiên (theo các cụ cao niên thì để đảm bảo lệ này, số bò, lợn thường phải thịt thêm mới đủ chia).

Ngoài lệ này ra, không còn lệ nào quy định cho dân chịu cả.

Điều 8: Xã có các khoản thu tại chợ trên, chợ dưới về thuế, các khoản ruộng, ao. Năm nào có nhiều thì chi nhiều, có ít thì chi ít. Cấm tuỳ chi lạm bổ, làm phương hại đến sinh kế của nhân dân. Nếu ai cố ý làm trái lệ, sẽ bị phạt từ 3 đến 10 quan tiền.

Khoản thu ở chợ: Chỉ thu theo định lệ 5 hay 6% của số bán được. Nếu người bán bị ế, tồn đọng thì không được cưỡng chế đòi lệ.

Cầu đò thì tuỳ người, tuỳ việc để thu, tránh gây sự sợ hãi cho người qua lại. Cốt đủ lương cho người phục vụ mà thôi.

Chợ dưới có 10 hàng lều lợp ngói, chợ trên có 5 hàng lều lợp ngói. Ai mở hàng ở đó thì thu tiền theo tháng, ngoài ra thì tuỳ theo hàng hoá mà thu. Người mới đến bán hàng ở chợ, dù hàng to, hàng nhỏ xã cũng miễn từ 6 tháng không thu.

Chợ mở mỗi tháng 15 phiên, họp vào các ngày chẵn. Mỗi phiên có 7 người làm việc (5 người giữ trật tự, 2 người thu lệ phí).

Lệ thuế chiểu theo số bán để thu, cấm thu vượt hạng của làng. Người giữ trật tự phải làm việc hết sức mình, không được để xảy ra trộm cắp, cướp giật tài sản. Nếu để xảy ra xã sẽ phạt từ 1 đến 3 quan.

Nếu nhân việc trộm cướp để nhặt nhạnh kiếm lợi thì ngoài việc chịu phạt, còn phải bồi thường cho chủ, không được chần chừ, tiếc của để răn dạy người sau được đúng mực. Ngoài ra còn phải trình báo lên quan để phân giải chịu phạt.

 

PHỦ GIẦY - TỤC LỆ QUA THƯ TỊCH, BI KÝ

Từ trên năm trăm năm nay, tục thờ bà chúa Liễu Hạnh đã song song tồn tại cùng đạo Phật, đạo Nho, tín ngưỡng thờ thành hoàng, thờ danh nhân, danh tướng, đạo Thiên Chúa cùng các tổ mở đất, lập làng, khai sáng nghề thủ công.

Tâm thức dân gian coi mẫu Liễu Hạnh như một tấm gương "duy trinh", "duy hiếu" của phụ nữ Việt Nam. Tâm thức dân gian tôn vinh mẫu Liễu Hạnh vào hàng "tứ bất tử Việt Nam", sánh với Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử tiên ông, Tản Viên Sơn Thánh là những bậc thánh thần đạo cao, đức trọng từ buổi bình minh lịch sử.

Thư tịch, bi ký xưa ghi nhận hiện tượng nữ thần Liễu Hạnh là một sự kỳ lạ, khoa học khó lý giải. Song hình bóng bà chúa Liễu qua nhiều thập kỷ, thế kỷ như cây tùng, cây bách che chở cho đệ tử, nhân dân và những người nặng lòng tin, thừa nhận sự linh nghiệm.

Điều đặc biệt, cũng là điều khó lý giải là đông đảo phụ nữ, quan chức, kể cả tầng lớp trí thức, khoa bảng đã kính tin, do đó mà diện mạo thời Liễu Hạnh công chúa khá phong phú, đa dạng. Nó đã góp phần bài trừ xu hướng "vọng ngoại", mà luồng gió mới phương Tây đưa vào không phù hợp với bản chất dân tộc.

Thư tịch, văn bia, tục lệ về bà chúa Liễu có rất nhiều, cũng là những điều khó nói. Xin nhường lời người xưa trong "Thiên Hương phủ từ tự điền bi ký", "Bản huyện tập phúc phả tự điền bi", cùng bia "Nhị xã hoà hội phụng sự bi ký", văn bia "Khải Định lục niên xuân", "Vân Cát phủ từ tự điền bi ký".

Tiên Hương phủ từ tự điền bi ký.

Phục duy:

Tiên Hương thánh mẫu tối linh thần nữ dã, bản quốc nhân tâm sùng ngưỡng gia phụng miếu tự xứ xứ hữu chi. Ngã Thiên Bản tiên chúa đản sinh địa dã. Lê triều Trịnh Thái phi hữu thiết Hoa trượng hội tạ Mẫu ân dã, đệ niên tam nguyên hội đồng huyện dân truy diễn dĩ kỷ niệm. Huyện hào đẳng sinh hồ kỳ hậu thụ chỉ ký đa, sở hữu tư điền nhất mẫu bát cao ngũ xích trí vi tự điền giao sở tại nhận canh.

- Cửa Khổng xứ

- Đồng Sau xứ

- Đồng Nẻo xứ

- Đồng Thường xứ

- Bên Chợ xứ

     Khải Định thập niên ngũ nguyệt nhị thập cát nhật.

     Vụ Bản huyện Tri huyện Đặng Huy Hoàn cung soạn.

Tam nguyên sơ nhị cáo yết lang nhất phòng, tửu nhị bình. Sơ tam chính tế ngưu nhất đầu, suy nhị bản, lang nhất phòng, tửu nhị bình.

Dịch nghĩa:

Bia ghi việc ruồng thờ tự ở đền phủ Tiên Hương(1)

Kính nghĩa:

Thánh mẫu Tiên Hương là vị nữ thần rất thiêng liêng, ở nước ta lòng người tôn sùng, nhà kính miếu thờ chốn nào cũng có. Tại đất Thiên Bản là nơi Tiên chúa đản sinh. Từ thời Lê, Thái phi nhà Trịnh đã đặt ra gậy hoa để tạ ơn mẫu. Hàng năm cứ đến hội tháng ba nhân dân dẫn lại tục ấy để kỷ niệm.

Huyện hào chúng tôi sinh ra sau này, hưởng phúc đã nhiều, có số ruộng tư một mẫu tám sào năm thước đặt làm ruộng phục vụ việc kính thờ, giao cho sở tại nhận lấy cày cấy.

Số ruộng rải rác tại các xứ:

- Xứ Cửu Khổng

- Xứ Đồng Sau

- Xứ Đồng Nẻo

- Xứ Đồng Thường

- Xứ Bên Chợ

Ngày tốt, ngày 20 tháng 5 niên hiệu Khải Định năm thứ 10 (1925).

Tri huyện huyện Vụ Bản Đặng Huy Hoàn kính viết

Ngày 2 tháng 3, lễ cáo yết dùng cau một buồng, rượu hai vò.

Ngày 3 tháng 3, chính tế dùng bò một con, xôi hai mâm, cau một buồng, rượu 2 vò.

Bản huyện Tập Phúc phả tự điền bi

Ngưỡng duy:

Thiên tiên Thánh mẫu tối linh thần nữ dã, ngã Thiên Bản lục kỳ chi nhất dã. Nhân tâm kỷ niệm sùng bái, điện miếu phụng sự thâm thịnh mãn Việt điện hỹ. Huyện Tập Phúc phả sinh ư thuộc địa, cận kiến linh quang cửu triên hồng huống. Ư Minh Mạnh niên gian, tiền nhân xuất gia tư, mãi điền tử đăng cúng vu Vương Mẫu linh từ, tiền kinh quý xã hợp hành nhận biện, cụ hữu biển ngạch, tằng vô bội vi, đãn lịch niên đa mộc biển đố hoại, nhưng thử hội hợp chiếu nguyên điền nhất mẫu ngũ cao linh, thỉnh giao quý xã trí vi tam nguyệt sơ tam thánh hoá nhật cung biện thịnh soạn nhất cụ, nội trần viên bính nhất bách phẩm, trư nhất đầu giá nhị thập quán, hoa quả phẩm vật tuỳ tâm thức đô kính ý.

Dư huệ giá cụ biếu thái bản phả, thứ biểu thành tâm

Bảo Đại ngũ niên thất nguyệt cát nhật

Ấp sĩ Trần Lê Thăng cung tả văn tự.

Dịch nghĩa:

Bia cúng ruộng phục vụ việc thờ tự

của hội Tập Phúc trong huyện

Kính nghĩ:

Thiên tiên Thánh Mẫu là vị thần rất thiêng, một trong sáu sự lạ ở đất Thiên Bản. Lòng người kỷ niệm sùng bái đền miếu thờ phụng nghiêm trang khắp cả cõi Việt. Hội Tập Phúc chúng tôi sinh ra ở đất này, được gần ánh sáng, đã từng thấm nhuần ơn lớn.

Khoảng niên hiệu Minh Mạnh trước đây, tiền nhân đem của nhà ra mua ruộng cúng vào đền thờ Vương Mẫu, đã được quý xã nhận làm có biển nêu việc chẳng hề sai trái. Thế nhưng trải qua nhiều năm biển gỗ mục nát, hội vẫn chiếu theo nguyên số ruộng cũ hơn 1 mẫu 5 sào, xin giao sở tại dùng vào việc ngày kị thánh mồng ba tháng ba, lễ có một mâm cơm thịnh soạn, gồm bánh dầy 100 phẩm, lợn 1 con giá chừng 20 quan tiền và hoa quả tuỳ tâm cốt lấy điều thành kính mà thôi. Ngày tốt tháng 7, Bảo Đại thứ 5 (1930). Người trong xã Trần Lê Thăng viết.

Nhị xã hoà hội phụng sự bi ký:

Thiên Bản Vân Cát, tiên chúa sở sinh cố trạch dã. Bản xã linh nhi tự chi. Mục kim lâu đài tồi thác thê thương, nghiễm nhiên nhất linh từ dã. Thái La xã ấp vũ tương vi giáp tiếp, tòng lai tuế cửu xu bái kỳ đảo nhất nhược bản ấp chi từ Tưởng phù thần phúc vô tư, a hộ chi công lượng bất thiểu hỹ. Niên tiền cai xã viện mục trùm trướng đẳng tương giữ mưu viết thần chi vi đức kỳ thịnh hỹ hồ, tiên chúa tối linh từ dã, nhận đảo nhi gia tự chi huống ư giáp tiếp giả hồ? Nhưng hiệp giữ bản xã ước đệ tế như nghi. Vãng thất bát cửu tam nhật, tòng tiền lệ hữu cung phụng nhưng dĩ y nhật tuyển xuất phu tựu từ đồng bản xã nhân các cáo tế khi cụ phục xu bái hoà hội dĩ chiêu phụng sự chi kiền hoà hiếu chi định ư thị vi thuỷ.

Cái minh thần tướng cát tế chi, phi siểm kiêm chi lân bàng hữu lai vãng chi đán tịch, bỉ thử hữu thân tị chi tình, tương thần chi giám chi. Ư dĩ quân tập hoà bình chi phúc kỳ tương bất tại hư hồ. Gian cử hành dục thọ kỳ truyền nãi đăng chi thạch.

Thi vi ký.

Minh viết:

Bồng Hồ phi viễn

Thắng tích do truyền

Sùng từ ngập lập

Tú lĩnh đương tiền

Linh thạch như tân

Huân cao y tích

Nghiễm hồ nhược lâm

Thẩn chi cảm dịch

Quyết hữu ấp lý

Di chi vi lân

Thử tâm thử lý

Lai vãng tương thân

Thần chi điếu hỹ

Cật nhĩ phúc hồ

Viên lặc tư bi

Vĩnh thuỳ bất hủ!

Tự Đức vạn vạn niên chi thập tuế Đinh Tị, trọng hạ nguyệt trung cán lập bi ký.

Bản hương Vân Song cư sỹ soạn.

Dịch nghĩa:

Bia ghi việc cùng phụng sự hội của hai xã:

Vân Cát Thiên Bản là nơi có nhà cũ sinh ra Tiên chúa. Sở tại do thấy thiêng thì thờ. Hiện tại lâu đài xiêu vẹo, bùi ngùi với chốn linh từ. Xã Thái La là đất tiếp giáp với xã sở tại, từ xưa tới lệ phụng sự vẫn coi như đền làng vậy. Nghĩ rằng thần vốn vô tư phù hộ không riêng đâu cả. Trước đây xã này đã đem trùm trưởng Viên chức bàn với sở tại, đức lớn của thần rất tốt, đền Tiên chúa cực anh linh, người lễ nhà thờ, ở khắp nơi còn được huống chi tại nơi lân cận, nên có ước với nhau, hàng năm cứ tới ngày kỵ mồng 3 tháng 3 thì tới làm lễ, đến ngày 7, 8, 9 ba ngày ấy theo lệ cũ có cung phụng thì đưa người tới đền nói cho nhau biết về các đồ tế lễ, rồi cùng nhau phục vụ hội để nêu sự kính thành. Lấy đó làm đầu của tình hoà hiếu, nói rõ điều thần ban sự tốt lành, đó chẳng phải là điều siểm nịnh thánh thần, mà để cho người qua lại trông vào coi cảnh hương lân vui vẻ hoà bình hưởng phúc trên ban. Phải chăng không xuất phát từ đây, do vậy khắc vào đá để ghi lại.

Nay viết bài ký.

Bồng Hồ nào phải đâu xa,

Dấu xưa tốt đẹp, thực là nơi đây!

Ngôi đền cao ngất mây bay,

Non xanh như vẽ trông đầy cỏ cây.

Thiêng liêng còn đến hôm nay,

Khói nhang thờ phụng tháng ngày đông vui.

Nghiêm trang khi bước tới nơi,

Vọng cầu ai dám buông lơi kính thành

Làng ta lân cận mái tranh,

Với nơi sở tại cũng tình anh em.

Lấy tâm lấy lẽ suy xem,

Lại qua gần gũi thân quen là thường

Thần minh soi xét thiện lương,

Ban cho phúc lộc thọ trường trăm năm.

Khắc bia để lại điều răn,

Làm gương mãi mãi xa gần coi qua.

Ngày giữa tháng 5 năm Đinh Tị, niên hiệu Tự Đức muôn muôn năm, năm thứ 10 (1857) người làng là Vân Song cư sỹ soạn lời văn.

Khải Định lục niên xuân

Vụ Bản huyện đồng cung trí lệ điền tiền tại Vân Cát, tục hiệu phủ Giày bi ký.

Vân Cát thần nữ Thiên Bản lục kỳ chi đệ nhất kỳ dã. Thần hồ tai tam thể hoá sinh, lịch triều ba cổn, vi thiên muội, vi chúng Mẫu, vi tiên phật thần thánh, anh thanh linh tích, truyền kỳ phả lục tái chi tường hỹ. Thị hương tương truyền vi giáng tường cố trạch, đệ niên chính nguyệt trân kỳ tụ hoá như thiên thị, xuân tam nguyệt hoa trượng bài tự như quần tiên hội, nhất thì quan thân sỹ nữ tứ lai chiêm bái kỳ lệ bất ức, Vân Tiên nhị từ lược đồng. Nguyên thị hương tiền hợp hậu phân (An Thái xã Vân Cát thôn) nhất nhi nhị, nhị nhi nhất dã.

Án Hoa hội triệu tự Trịnh chúa Thái phi thuỷ, Lê trung hưng niên gian, kỳ vu Tiên Thánh linh từ, hậu quả như kỳ sở nguyện. Nhân tấn chuẩn miễn dân huyện tuấn trúc Hà thành, dân huyện thịnh tư công đức cải cúc tháp vi hoa trượng bài liệt thành tự. Đệ niên nguyệt cung trị Tiên Thánh kị tuần cung hành tạ lễ, đồng lai tuần tập cửu dĩ thành phong. Đại bản triều Tự Đức niên gian, cai xã dĩ dân đinh hy thiển, khoản đốt bất chu, nhượng giao nguyên lệ Tiên Hương xã nhận hành. Hất kim tài đắc lục thập dư niên do hách hách thiên tại nhân nhĩ mục gian hỹ!

Khải Định tam tứ niên gian quý tổng thăng thụ chánh bát phẩm, sung Bắc kỳ tư vấn nghị viên lĩnh chánh tổng Trần Quân Khắc Kiệm, thương dữ y xã chức sắc kỳ dịch, tư dữ bản huyện tâm cứu chánh phó tổng lý dịch đẳng, đồng huyện thoả thuận chư điều lệ cụ hữu bản quan phê áp y lệ chiểu tuân, tiền lệ bài liệt hoa trượng vu y xã linh từ, thứ cộng mộc thần hưu nhi đôn kính ý. Bản huyện mưu đồng từ thuận tình ký trình đệ bẩm, thừa bản tỉnh. Đốc bộ đường Phạm tướng công thương tư quý toà, chuẩn duyệt thi hành.

Lễ vân hữu kỳ cử giả mạc phế yên, kỳ tư chi vị dư. Y, thị cử dã, khả dĩ quan thế vận, khả dĩ bốc nhân tâm, tuy thế đạo hữu long ô, nhi thần quyền dũ hiển, ức vạn niên thuỳ chi bất hủ.

Viên đăng vu thạch dĩ thọ kỳ truyền.

Tứ Tân Sửu khoa đệ tam giáp đồng tiến sĩ, nguyên Hải Phòng Đốc học Nguyễn Văn Tính bái soạn.

Dịch nghĩa:

Mùa xuân niên hiệu Khải Định thứ 6 (1921)

Cả huyện Vụ Bản tiến cúng tiền ruộng lệ

Ở Phủ Vân Cát, tục gọi là Phủ Giày(1)

Vân Cát thần nữ là một trong sáu sự lạ ở đất Thiên Bản(1). Thần ở đây ba độ hoá sinh các triều phong tặng là em của trời, là các mẹ, là thánh thần tiên phật, thiêng liêng để dấu sách vở ghi truyền sự lạ rõ ràng. Làng này là nơi ứng giáng điềm lành có nhà ở cũ.

Hàng năm cứ đến mùa xuân tháng giêng, hàng hoá tốt đẹp các nơi tụ hội như chợ trời, tháng 3 có lệ gậy hoa bày chữ như hội quần tiên, bấy giờ quan lại, trí thức, học trò, trai gái... bốn phương chiêm ngưỡng vẻ đẹp có tới ức vạn người, ở hai đền Vân Tiên đều thế cả.

Vốn làng này trước chung nhau, sau mới chia ra (trước là thôn Vân Cát nằm trong xã Yên Thái(2)), một là hai, hai cũng là một vậy. Tục "hội gậy hoa" có từ việc vị Thái phi của chúa Trịnh là vì thời Lê Trung Hưng cầu ở đền Tiên Thánh, sau đó ứng nghiệm như điều nguyện ước, nên tâu lên trên miễn cho dân huyện việc đắp đê khơi nước ở Hà Thành. Dân huyện nhớ công ấy bèn đổi mai cuốc thành gậy kéo chữ, hàng năm cứ đến kỳ lễ kị thì kính cẩn làm lễ tạ, tại hợp chụm đầu, lâu ngày thành lệ. Khoảng năm Tự Đức triều ta, Vân Cát nghĩ rằng dân đinh thưa ít, lo việc không nổi bèn đem nguyên lệ giao cho Tiên Hương nhận làm. Tới nay hơn 60 năm còn có mọi người biết cả.

Vào quãng năm Khải Định thứ 3, thứ 4 (1918, 1919) người quý tổng thăng thụ chánh bát phẩm, nghị viện tư vấn xứ Bắc Kỳ, chánh tổng Trần Khắc Kiệm thương lượng với chức sắc kỳ dịch xã ấy có lời với lý dịch và chánh phó tổng mới cũ của cả huyện, thoả thuận về các điều lệ, có chữ có dấu của huyện quan phê đóng, lấy đó chiếu tuân lệ trước làm lệ gậy hoa ở đền xã ấy. Ngõ hầu cùng đội ơn thần, đẹp tốt với ý kính thờ. Trong huyện bàn bạc thống nhất ký kết trình quan Đốc bộ đường bản tỉnh Phạm tướng công thương lượng với toà sứ chuẩn duyệt thi hành.

Sách Lễ Ký có câu "những việc đã được cử hành rồi, thì chớ có bỏ đi nữa!" là ý như thế. Ôi việc này căn cứ vào đó có thể hiển vận trời lòng người, tuy rằng thế cuộc có điều thịnh suy, nhưng thần quyền thì vẫn rõ, dù cho muôn vạn năm sau cũng không mất hết đi được.

Nay cho khắc vào đá để truyền lại lâu dài. Cho đỗ đệ tam giáp Tiến sỹ khoa Tân Sửu Đốc học Hải Phòng Nguyễn Văn Tính lạy viết.

Vân Cát phủ từ tự điền bi ký

Phục Duy Vân Cát Thánh Mẫu tối linh thần nữ dã. Bản quốc nhân tâm sùng ngưỡng, gia phụng miếu tự xứ xứ hữu chi tối thịnh dã. Ngã Thiên Bản tiên chúa đản sinh cố trạch dã Lê triều Trịnh Phái phi hữu thiết hoa trượng hội tạ mẫu ân dã. Đệ niên tam nguyệt hội đồng huyên nhân truy diễn dĩ kỷ niệm. Huyện hào đẳng sinh hồ kỳ hậu, thụ chí ký đa, sở hữu tư điền nhất Mẫu bát cao trí vi tự điền giao sở tại chi Vân Cát xã nhận canh dĩ cung dệ niên tam nguyệt thánh hoá nhật, đồng huyện tế phẩm. Viên chí vu thạch dĩ truyền vĩnh cửu.

Chí như thánh tích tường tại dân chi phả chí quốc chi tự điển, bất cảm dĩ văn tự chuế.

Kỳ điền xứ sở tự cận kế hậu

- Nhất sở Bảo Ngũ xã tứ giáp thôn, lục cao, đông cận bản huyện điền, tây cận dịch lộ, nam cận tiểu lộ, bắc cận Bảo Ngũ điền.

- Nhất sở tại Bảo Ngũ xã, tứ giáp thôn, tam cao, đông cận tha ma, tây cận bản huyện điền, nam cận bản huyện điền, bắc cận Bảo Ngũ điền.

- Nhất sở tại Đồng Lải xứ tứ cao, đông cận Cao Phương xã Trần Phổ điền, tây cận bản xã Kỳ giáp điền, nam cận Cao Phương xã Trần Phổ điền, bắc cận Trần Trọng Khôi điền.

- Nhất sở tại Đồng Mông xứ nhị cao, đông cận Trần Phổ tộc điền, tây cận Trần Gia Tặng điền, nam cận Trần Duy Cửu điền, bắc cận Kỳ giáp điền.

Đệ niên tam nguyệt sơ tam nguyệt cáo yết, lang nhất phòng, tửu nhị bình, sơ tứ nhật chính tế ngưu nhất đầu giá ngân tam thập lục nguyên, suy nhị bàn mỗi bàn thập đẩu, lang nhất phòng, tửu nhị bình.

Khải Định thập niên ngũ nguyệt nhị thập cát nhật

Vụ Bản tri huyện Đăng Huy Hoàn cung soạn. Vụ bản huyện hào đẳng bái chí.

Dịch nghĩa:

Bia ghi việc ruộng thờ tự đại đền Phủ Vân Cát(1)

Cúi trông:

Thánh Mẫu Vân Cát là vị nữ thần rất thiêng vậy! Lòng người nước ta sùng bái, nhà kính, miếu thờ, nơi nào cũng có rất là tốt đẹp. Đất Thiên Bản ta có nhà cũ nơi sinh ra Tiên Chúa, tại thời Lê có Trịnh Thái phi đặt ra "hội gậy hoa" để tạ ơn Mẫu. Hàng năm cứ đến tháng 3 người cả huyện tổ chức diễn lại để kỷ niệm việc xưa.

Huyện hào chúng tôi, một lũ sinh sau, nhờ phúc đã nhiều, có một Mẫu tám sào ruộng tư đặt làm tự điền giao cho xã sở tại Vân Cát nhận cày cấy phục vụ lệ ngày thánh hoá.Nay khắc lời vào đá để truyền mãi mãi.

Còn như sự tích nhà thánh thì tại phả chí trong dân, tự điển của nước ta đã chép rõ, không dám mạo muội dài lời!(1).

Xin ghi chép rõ ràng về số ruộng đó ở dưới đây:

- Một thửa 6 sào ở thôn Tứ giáp xã Bảo Ngũ, phía Đông gần ruộng trong huyện, phía Tây giáp đường quan, phía Nam giáp đường nhỏ, phía Bắc giáp ruộng Bảo Ngũ.

- Một thửa 3 sào ở thôn Tứ giáp xã Bảo Ngũ, phía Đông giáp bãi tha ma, phía Tây giáp ruộng trong huyện, phía Nam cạnh đường nhỏ, phía Bắc gần ruộng trong huyện.

- Một thửa 3 sào ở thôn Tư giáp xã Bảo Ngũ, phía Đông gần ruộng Bảo Ngũ, phía Tây giáp ruộng của huyện, phía Nam giáp ruộng của huyện, phía Bắc giáp ruộng Bảo Ngũ.

- Một thửa 4 sào tại xứ Đồng Lải, phía Đông giáp ruộng Trần Phổ xã Cao Phương, phía Tây giáp ruộng Kỳ giáp trong xã, phía Nam giáp ruộng nhà Trần Phổ xã Cao Phương, phía Bắc giáp ruộng của Trần Trọng Khôi.

- Một thửa 2 sào ở phía Đông Mông, phía Đông gần ruộng họ Trần Phổ, phía Tây gần ruộng Trần Gia Tặng, phía Nam gần ruộng Trần Duy Cửu, phía Bắc gần ruộng Kỳ giáp.

Hàng năm ngày 3 tháng 3 có lệ cáo yết, lễ dùng một buồng cau, hai bình rượu. Ngày 4 chính tế, lễ dùng một con bò giá tiền 36 đồng(1), xôi hai mâm, mỗi mâm 10 đấu gạo, cau một buồng to, rượu hai vò.

Ngày tốt, ngày 20 tháng 5 niên hiệu Khải Định năm thứ 10 (1925)

Tri huyện huyện Vụ Bản Đặng Huy Hoàn kính viết lời

Các huyện hào huyện Vụ Bản ghi việc.

Sách "Tiên Hương linh từ" in tháng 12 niên hiệu Thành Thái Quý Mão (1903) còn ghi lịch trình lễ hội phủ giầy như sau:

Ngày 4 tháng 3 năm Quý Mão (1903), giờ Mão mọi người vâng mệnh Thánh Mẫu vào đền Sòng, kính rước thánh giá xuất du. Trên đường đi đến giờ Ngọ thì tới Ninh bình, rồi đến Tang Giã (đền Dâu). Khi đến đền Dâu đã thấy cờ quạt, chiêng trống nghênh đón. Sau đó đám rước tiếp tục vào đền Sòng. Khi đến đền Sòng thì trời tối và phải đến giờ Tuất mới đến Sòng Sơn.

Giờ Mão ngày 5 rước Mẫu hồi cung, xe loan đệ tam Thánh Mẫu đi sau. Nhân dân, thanh y đồng tử xiêm y rực rỡ theo hầu, cổ vũ tới hàng vạn người. Giờ Dậu về đến Ninh Bình, dừng chân ở đền Ninh Phong.

Ngày 6 rước Thánh Mẫu từ Ninh Phong vượt bến Non Nước, đi đến đâu sở tại cũng sẵn sàng kiệu võng đón rước, các thần tại các địa phương cũng được rước ra nghênh đón. Sau đó rước Mẫu về qua Côi Sơn, rồi rước về Vân Hương.

Ngày 8 tháng 3 lễ tạ, sau đó đệ tam thánh Mẫu lại được rước về Sòng Sơn yên vị.

Trên đây là lịch trình đám rước in trong sách phủ Tiên Hương. Còn truyền thuyết và một số thư tịch khác lại nói: quá trình rước còn phải rước lên chùa Tiên Sơn (núi Gôi), rước đến phủ Quảng Nạp là nơi thánh Mẫu giáng sinh lần đầu. Riêng ở Phủ Giầy thì rước ra lăng, rước lên đền Thượng, rước ra chùa Tiên Hương, chùa Báng.

Lễ hội Phủ Giầy từ xưa đến nay vẫn được bảo tồn. Có thời kỳ không mở hội, song do ấn tượng sâu sắc của nhân dân, vào dịp từ 3 đến 8 tháng 3 nhân dân địa phương huyện Vụ Bản, nhân dân tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá và nhiều người trong cả nước vẫn kéo về Phủ Giầy lễ Mẫu theo tâm thức là về với ngày gỗ mẹ, "Tháng ba giỗ mẹ" một cách tự giác, bột phát.

Ngoài dịp tháng 3 hội Phủ Giầy, ngày 7 tháng giêng là ngày chợ Viềng. Chợ Viềng là tập tục lâu đời đối với địa bàn Nam Định. Chợ Viềng thuộc huyện Mỹ Lộc, chợ Viền Hải Hạng thuộc huyện Nghĩa Hưng, chợ Viềng Nam Giang thuộc huyện Nam Trực, chợ Viềng Phủ Giầy, huyện Vụ Bản đều họp ngày 8 tháng giêng. Nhưng không khí, mật độ người đi chợ, hàng hoá cây cảnh, đồ tiêu dùng bằng mây, tre, đồng, nhôm, sắt, không đâu nhiều bằng chợ Viềng Phủ Giầy Vụ Bản. Quan niệm dân gian đi chợ Viềng về với đất thánh, việc mua bán không tính toán sự đắt rẻ, cốt mua lấy may vừa là kỷ niệm đầu xuân về "quê mẹ". Món hàng đặc sản, hấp dẫn hơn cả vẫn là thịt bò thui trong chợ Viềng và trong hội Phủ Giầy. Hàng trăm con bò được giết thịt trong dịp này, phần lớn nhân dân về đây đều cố mua dăm, ba lạng thịt bò lấy lộc. Việc mua thịt bò ở Phủ Giầy có nhiều ý kiến khác nhau, song theo chúng tôi thì đây là món thịt được chăn nuôi, ăn thức ăn sạch sẽ. Thịt bò lại ngon, dễ tiêu và đặc biệt là món lễ vật không thể thiếu để cúng Mẫu, trong ngày đại lễ 3 tháng 3, mà văn bia Phủ Giầy đã đề cập.

 

LỆ LÀNG DƯƠNG XÁ, HƯNG NHÂN, THÁI BÌNH

Hưng Nhân, Thái Bình vốn là quê cũ của nhà Trần. Nhưng do hoàn cảnh xã hội, nhà Trần đã thiên di sang Tức Mặc, Thiên Trường. Do nạn ngoại xâm nên nhiều thập kỷ dân làng phải phiêu bạt xa quê tìm đất lành để trú ngụ làm ăn, khiến vùng đất Hưng Nhân nhiều chỗ bị hoang hoá.

Thời Trần Dụ tông có ông Trần Hoà ở vùng Dương Xá phủ Thiên Trường (nay là thành phố Nam Định), kết bạn với ông Đặng Huy Lương là người cùng làng. Hai ông thấy mảnh đất Hưng Nhân, Thái Bình ven sông màu mỡ, lại tiện việc làm nghề chài lưới nên rủ nhau đem gia quyến sang đó khai khẩn. Công việc khai khẩn ngày một thành công, nhân dân Dương Xá kéo nhau sang khai hoang ngày càng nhiều, nên hai ông bàn cách lập làng. Làng Dương Xá được ra đời, ruộng đất ngày càng được mở mang, người kéo về ngày càng đông đúc.

Đến niên hiệu Thiệu Phong năm thứ 6 (1346), các ông nghĩ Hưng Nhân là quê cũ của các vua Trần nên bàn định lập đền thờ và hàng năm đến ngày kỷ niệm, dân làng hội tụ làm giỗ cúng đức vua. Lễ vật trong ngày kỵ thường dùng cá sống để tế. Các loại cá trôi, mè, chắm, chép, lành canh, cùng các thứ rau dại như rau má, rau ngổ, rau cần, đều dùng để làm lễ vật tưởng lại buổi hàn vi của nhà Trần.

Tục thờ cúng này được các thế hệ sau giữ gìn làm theo. Sau này nhân dân lập đền thờ các vua Trần có phối thời các ông Trần Hoà và Đặng Huy Lương. Lại chọn ngày 25 tháng 5 là ngày các ông về mở đất là ngày khánh hạ để tổ chức tế lễ các vua, các tổ.

Tương truyền các ông tổ họ Trần: Trần Lý (là Chép), Trần Kinh (Lành Canh), Trần Thừa (tên tục là Trôi), Trần Cảnh (tên tục là Chắm), Trần Liễu (tên tục là Mè) nên khi lễ xong đem các loại cá sống đó phóng sinh ra sông. Các loại rau, bánh trái, cơm tám, xôi, bánh gai, bánh tẻ thì ăn.

ở Dương Xá các lệ trong năm còn được thực hiện như sau:

- Cuối năm lễ tạ thuỷ thần, thổ thần, thổ công vào chiều 30 tháng chạp, dùng lễ xôi gấc, thịt lợn. Lễ tạ ở đền thờ họ Trần và các tổ lập làng dùng cá tươi làm gỏi. Việc lễ này do các vị trưởng chi đứng đầu, chịu trách nhiệm tổ chức. Đầu giờ Hợi lễ tiễn quan đương niên dùng xôi gấc và gà trống.

- Sáng mồng một tết (đầu giờ Tý) lễ đón đương niên mới, dùng bánh chưng và rượu nếp. Sau đó về xông nhà.

Sáng ngày 1 đến hết ngày mồng 2 tết, các nhà đem cá tươi ra lễ tổ ở đền, rồi thả xuống ao đền. Từ ngày 4 đến ngày 10 trong làng ra lễ vua và lễ tổ, cầu khấn để trong năm gặp nhiều may mắn, đi làm xa được thuận lợi.

- Mỗi khi gặp các tiết xuân thu và các ngày kị, nhân dân tụ hội ở đền để lễ và hưởng bánh dày giò cùng uống rượu cúc theo tục cũ.

- Từ thời Lê về trước, hàng năm vào ngày 20 - 25 tháng chạp, các ông trưởng chi hội nhau về từ đường đại tông ở Khang Kiện vừa làm lễ vừa thăm hỏi bà con họ hàng. Nhưng từ thời Gia Long trở lại đây đã thôi hẳn lệ này.

- Trong năm khi đi làm ăn ở xa về, nếu dư dật có thể làm lễ tạ thuỷ thần, lễ xong quẳng bánh dày và đổ rượu nếp xuống sông.

- Ai làm nghề chài, phải có trách nhiệm giúp đỡ lẫn nhau, không để ai bị đói rét, để tỏ nghĩa đồng tông và còn khuyên giúp nhau làm tròn việc thuế và phu dịch mà tổng lý thu, sức.

- Hàng năm vào tết Đoan Ngọ, thì dân làng làm bánh khúc để tế lễ đền, lễ xong thì nhà nào cũng mang về nhà đủ số mỗi người một chiếc và ăn ở nhà, không ai được ăn hai hay ba cái, vì cho đó là điều xấu, trong năm sẽ có sự không may. Còn ai bị người khác ăn mất phần là điềm báo sẽ được sống lâu. Lệ này cũng không được tồn tại lâu dài, vì việc làm bánh khúc thường phiền phức, nên sau này lễ vật có sự tuỳ nghi không câu lệ như trước.

Lệ làng Dương Xá do Quảng Xương Hoà Liễu tiến sĩ Ngô Chuyết Phu soạn, lý trưởng Hồ Sơn ký ngày 30 tháng 6 niên hiệu Đồng Khánh thứ 2 (1887) là tục lệ đề cập tới nếp sống làng chài, đậm tình nhân ái của cư dân hạ lưu sông Hồng Thái Bình - Nam Định.

 

TỤC LỆ VÀ BIA CÔNG ĐỨC ĐỀN THỜ VUA ĐINH TIÊN HOÀNG TRIỀU TRƯỚC

Đền thờ vua Đinh ở xã Trường Yên, huyện Hoa Lư là một trong tổng thể di tích Đinh - Lê hoà nhập với cảnh quan kỳ tú. Di sản văn hoá quý hiếm này còn lại nhiều bi ký, tục lệ liên quan đến đời sống tâm linh của địa phương cũng như cộng đồng dân tộc. Xin trích dịch bài ký và bài minh văn bia tại đền thờ dưới đây, cũng là những khía cạnh liên quan đến tục lệ đối với một công trình thờ một ông vua anh hùng từ thế kỷ X.

Bài ký:

"Có công với dân thì được thờ. Vua đời trước nội trị ngôi đoan chính trên chín bệ, mà nước nhà sáng rõ pháp độ, chế tác lễ nhạc, công đức nhuần thấm đến dân ta sâu xa. Có công với thiên hạ rất lớn đời sau không thể quên vậy. Người sau dõi nhớ xây dựng miếu đền, xuân thu bốn mùa báo đáp.

Kể từ trời Nam dựng nước, khởi đầu là Kinh Dương Vương, có điềm sinh trăm trai làm tổ tiên Bách Việt, rồi đến Hoàng đế Đinh Tiên Hoàng, ứng vẻ thuỵ rồng vàng, khởi từ động Hoa Lư, dấy trăm vạn quân nghĩa, bình mười hai sứ quân đất đai, nhân dân đều là sở hữu. Khi thiên hạ mới định, liền sáng chế nghi thức triều đình, định lập quân lữ, điển chương văn vật tốt đẹp khả quan, vua ở ngôi chính thống của nước Việt ta bắt đầu từ đó. Trải đến các triều vua nối tiếp, cai trị cũng noi theo khuôn phép tốt đẹp quy mô rộng lớn của triều Đinh. Công đức thật đáng nêu. Vì có công lớn nên dù lâu mà không quên, có đức thịnh nên báo mà rất hậu. Triều xưa tới nay trong khu có chín mẫu sáu sào miếu thổ, mở rộng miếu đền để phụng thờ. Nước đảo dân cầu linh ứng rõ rệt, luỹ tiến gia phong là thượng đẳng thần nêu vào tự điển và cấp "Dưỡng tế điền" tám mươi mẫu để tôn sùng việc phụng thờ. Có thể nhân theo lệ cũ mà dấy lời văn tốt đẹp.

Lớn thay, thánh triều, thánh thiên tử đức thịnh, bậc thượng thánh giữ gìn nếp trung hưng, ở ngôi tôn chính trong cương vực, đem hiếu trị thiên hạ. Thực trông nhờ Đô Nguyên suý tống quốc chính Thượng phụ Bình An Vương cùng lòng phò giúp, dựng lại nhà vương làm yên trong nước, khôi phục kinh thành lấy việc hiếu làm trọng, dõi nhớ nguyên thánh triều trước công đức to lớn cấp cho bảy mẫu "Dưỡng vị điền" dâng lên là có ý hậu với việc dấy lên nối tiếp người giúp cho chóng thành công, có đề đốc Bùi Thời Trung, quý trọng sự nghiệp của Tiên đế, xuất quân bản bộ tôn tạo, tu sửa đền là ngụ ý kính cẩn.

Hoằng Định năm thứ 7 (1607) vâng mệnh tế quan Tổng Thái giám coi chế độ cung môn là Văn Lý hầu Trần Tĩnh kính khải bẩm lên xin được phê chuẩn cho việc cấp cho các hạng người ở xã Trường An thượng trong huyện làm phu sái tảo phục vụ hương khói, phàm các dịch sưu sai được đình miễn. Như thế là trông nhờ việc đối đãi to lớn của chúa thượng. Song một quốc gia hưng thịnh thì lăng miếu cũng cần hậu bái sùng trọng, tự điển đã được cử hành, tế điền cũng được tăng cấp. Thế mới biết đế vương thời xưa có công đức với dân cho nên được báo đáp lại như thế chẳng phải là một sớm một chiều góp lại, hầu để mở ra mạch nhân hậu muôn vạn, kéo dài nếp quốc gia triều Lê muôn vạn năm, giữ gìn hàng triệu thứ dân yên ổn muôn vạn năm. Công đức ấy sau trước cùng với trời đất vô cùng vậy!

Nay quan viên và lớn nhỏ trong xã lập bia đá đã xong, xin khắc chữ vào để lại lâu dài".

Bài minh rằng:

Nước Việt chính thống

Kể từ Đinh Hoàng

Rồng vàng ứng thuỵ

Điềm hiện đế vương

Hoa Lư dấy nghĩa

Dẹp xứ quân cường

Thiên hạ vừa định

Việc khác chưa xong

Triều nghi mới chế

Hiệu [Vạn Thắng Vương](1)

Quân lừ bèn định

Võ lực phô trương

Sáng nghiệp phép rộng

Có nhiều phép hay

Khuôn phép để sau

Thánh triều huy hoàng

Ơn thấm sâu rộng

Đời mãi không quên

Tiền triều thờ đẹp

Thượng đẳng rõ ràng

Năm giữ lễ bái

Đền miếu huy hoàng

Ruộng tế tăng cấp

Rực rỡ khói nhang

Lớn thay thánh triều

Đất có muôn phương

Hiếu trị thiên hạ

Lễ làm kỉ cương

Thực nhờ chủ suý

Giúp đỡ hết lòng

Vâng làm đương thứ

Nối tiếp phép thường

Cho ruộng để tế

Bảy mẫu mùa chiêm

Cho phu quét dọn

Một xã lý hương

Thần đem đức báo

Ai hay sức cường

Đền miếu tu sửa

Phong Quận đoản đương

Dâng lời khải bẩm

Rất mực tín thành

Mong thần cẩm thấu

Giáng phúc tốt lành

Mỗi người được tốt

Muôn thuở thọ lâu

Trên dưới già trẻ

Phúc dài mừng thọ

Dân vui nhân thọ

Nước vững kim thang(1)

Muôn năm chịu lộc

Thịnh vượng mãi sau

Công đức tốt đẹp

Với đất trời lâu.

Ngày tốt tháng 8 Mậu Thân, triều vua Hoằng Định năm thứ 9 (1609).

Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Hữu Thị Lang bộ Lễ kiêm đại học sĩ viện Đông Các, Nghĩa Khê hầu, trụ quốc Dương Đông, Linh Kiệt Nguyễn Phong Thuần khanh soạn tả.

- Ngoài bài ký ghi công đức và lệ ngạch từ thế kỷ XVII. Sang thời Nguyễn, được cụ thể về việc tế vua cũng như tập tục địa phương:

+ Tế cửu khúc: Từ thời Tự Đức về trước, 9 khúc ca tụng công đức vua Đinh đều bằng chữ Hán, sau ông Phạm Văn Nghị diễn Nôm để khi đọc cho mọi người cùng hiểu. Tế cửu khúc thì tế vào ngày sinh không tế vào ngày kị.

+ Ngày sinh có tế tam sinh trâu dê lợn, tam ngư (cá chép, cá trôi, cá mè) và hoa quả, rồi lễ đến sơn thần, thổ địa, thuỷ bá. Dân làng ai đánh được cá to trong năm thì đem thả xuống ao đền, để đến ngày lễ vớt lên làm lễ. Lễ xong ai cũng được bánh dày và hoa quả mang về nhà.

+ Ngày kị dùng lễ bằng xôi gà và cá, không dùng thịt lợn hay các chế phẩm bằng thịt lợn, lòng, tiết lợn. Các thứ nấu xào đều dùng dầu vừng để chế. Tế vua ở trong đền và cửa đền, tế quân sĩ ở sân phía phải như lễ chúng sinh ở chùa vậy. Lễ quân lính thì lễ cơm, xôi, bánh quả. Ngày lễ này không được ai qua lại đền vua Lê, nếu có việc thì đến ngày hôm sau mới sang (hai ngày).

Trước ngày kị một ngày thì dùng hoa quả cáo kị ở sơn lăng và ở đền.

+ Tế vọng tổ thì tế ở phía bờ sông Hoàng Long. Lệ này thường tế vào trước ngày sinh vua một ngày, trùng với việc cáo tế ở đền.

Trước vọng tổ thì dùng bánh chay và hoa quả. Lễ xong đổ rượu xuống sông và ném một phần bánh trái hoa quả xuống sông, sau đó ném theo năm cục đá. Tương truyền tiên tổ vua sống bằng nghề cá, ném đá xuống sông để nhớ lại việc táng mộ ở dưới sông. Tương truyền khi táng mộ phụ thân dưới sông xong, Bộ Lĩnh lên bờ gặp một cụ già, cụ già nói hỏng việc rồi đó. Bộ Lĩnh hỏi lại: Hỏng rồi thì chữa làm sao? Cụ già bảo số trời đã định.

Ngày sinh và ngày kị đều có lệ rước kiệu ra bến đò Trường Yên để rước nước, nước này đem đổ đầy vào một cái choé đưa về giữa sân để tế trời đất, tế trời đất xong thì mang choé nước đó vào trong đền dùng để ban phước cả năm. Ban phước thì lấy nước này vẩy vào áo ông chủ tế bồi tế và mọi người đến lễ.

(Sách Liên động di biên - Phạm Văn Nghị viết).

Tại miếu thờ các xóm, mỗi miếu có từ năm sào đến một mẫu ruộng để làm lễ, các đền chùa cũng có năm sào.

Tại xã Trường An thượng, hạ còn có học điền, ai đến tuổi đi học (con trai) được cấp thêm một sào ruộng.

Số ruộng để cấp học bổng có mười mẫu, để tạo điều kiện cho con em trong xã theo đuổi học tập.

Để bảo vệ đường làng, nam giới từ 18 đến 45 tuổi mỗi năm phải đóng mười ngày công đi đắp đường và khơi thông ngòi nước. Con gái không phải chịu lệ.

Đàn ông đến 60 tuổi được vào sổ hương lão và làng ban cấp cho 10 vuông nái, từ 70 tuổi trở lên làng sẽ làm lễ mừng thọ. Đàn bà từ 80 trở lên làng mừng thọ. Bất kể cụ ông hay cụ bà từ 80 trở lên, mỗi năm làng cấp cho ba thùng gạo.

Con gái đi lấy chồng phải nộp cho làng hai thùng thóc nếp và hai đấu rượu, khi về làm dâu làng cấp cho một thùng thóc nếp và một con gà trống. Ai thi đỗ thì làng cấp cho một sào ruộng và mừng hai thùng thóc nếp, một đấu rượu.

Làng có đám hiếu thì Lý trưởng phải đến đốc việc tang lễ và cấp cho tang chủ hai thúng thóc, một đến bốn quan tiền. Các lý dịch không được ăn uống ở nhà hiếu.

Ai có việc hiếu hỉ làng đều phải có nhiệm vụ quan tâm thể hiện tình nghĩa hương thôn.

- Thường các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu hàng tổng tổ chức vào đám. Đây là dịp đồng bào cả nước kéo về dự hội rất đông vui và thời gian thường kéo dài từ 3 đến 5 ngày. Ngày 10 tháng 3 có lệ kéo chữ. Các chữ không ấn định bắt buộc, miễn sao để nội dung đẹp đẽ, cầu mong cho quốc thái dân an là được.

- Lễ diễn cảnh "cờ lau tập trận" cũng được chuẩn bị và biểu diễn trước cửa đền rất vui vẻ. (Trước kia biểu diễn tại cửa Hang Trâu, xứ hậu Đường). Ban tổ chức phải chọn người đóng vai Đinh Bộ Lĩnh (ít người tình nguyện đóng vai ngày vì sợ hậu quả không tốt). Chọn trẻ trong đội hình diễn tập, đồng thời trang bị y phục, chuẩn bị mũ lá, bông lau để diễn tập như lúc sinh thời vua Đinh đã từng làm.

- Để thực hiện lệ này, còn phải chuẩn bị trống cái, trống con, thanh la, nạo bạt để đánh khi vào trận cũng như hiệu lệnh thu quân.

Trong diễn tập còn có lời hát của "Đinh Bộ Lĩnh" cùng "chư tướng" về sự nghiệp cờ lau tập trận và cuối cùng có lời hát tạ:

Trần ai ai biết ai đâu,

Hoa Lư có đám trẻ trâu anh hùng.

Cờ lau tập trận vẫy vùng,

Làm cho mầm Lạc, chồi Hồng vẻ vang.

Một số tục lệ cùng bài ký trên văn bia thế kỷ XVII tại đền vua Đinh, thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước cũng như nhân dân địa phương đối với một ông vua anh hùng, đồng thời nói lên mỹ tục của miền quê Hoa Lư lịch sử.

 

HƯƠNG ƯỚC XÃ VÂN LÂM, TỈNH NINH BÌNH

 (Tri huyện Yên Sơn Khương Duy Thành soạn, chánh tổng Vũ Lâm Chu Văn Huyên, xã trưởng Vân Lâm Chu Văn Huyến ký. Sách do ông Đỗ Trung Hới người Vân Lâm giữ).

Xã Văn Lâm có đền thờ các vua Trần Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông. Đền cũ gọi là "Bảo điện Thái Vi", xây theo kiểu nội công ngoại quốc từ niên hiệu Bảo Phù, khi Thánh Tông lánh nạn quân phương Bắc. Do thời gian, công trình xưa không còn, thời Nguyễn có sự tái lập. Năm Gia Long thứ tư (1805) đem thiêu tượng gỗ (bốn vị) đúc thay bằng tượng đồng. Năm Minh Mệnh lại đúc tượng bốn vị hoàng hậu cho việc thờ tự được hoàn mỹ.

Hàng năm đến ngày sinh vua Thánh Tông, cả tổng Vũ Lâm đến đền làm lễ. Quan tuần phủ thay mệnh triều đình xuống đốc thúc công việc.

Dân xã Ô Lâm có tục góp mỗi nhà một đấu gạo nếp để làm lễ "tổ đức" (coi Trần Thánh Tôn như ông tổ). Sau khi tế lễ, nhân dân thụ lộc tại 20 gian giải vũ. Điều lệ còn quy định:

Lễ ba vua Trần Thái Tông, Nhân Tông, Anh Tông thì tổng phải cùng lo liệu công việc với hàng xã.

Phần lễ vật cũng được ghi rõ:

Lễ chay dùng 5 thứ hoa, 5 thứ quả, 5 thứ bánh.

Lễ mặn dùng tam sinh (bò, dê, lợn), tam ngư (cá chép, cá quả, lươn), tam tửu là rượu trắng (bạch hoa tửu) rượu vàng (kim cúc tửu), rượu đỏ (tang thực tửu).

Lễ cáo và lễ tạ đều dùng cá quả. Về thời gian lễ cáo phải làm khi trời chưa sáng, lễ tạ làm khi trời tối hẳn. Lễ sinh nhật làm lúc giờ ngọ, lễ kỵ nhật làm vào giờ mùi.

Lễ vua Trần Thánh Tôn làm 5 ngày còn các vị khác đều làm 3 ngày.

Đối với dân xã thì nam giới từ tuổi trưởng thành đến già đều được đến đền ăn uống.

- Lễ vọng tổ: Kị nhật vua Trần Thánh Tôn mới có lệ vọng tổ. Lễ này làm tại lầu vọng tổ (tầng trên). Lễ vật gồm thịt lợn, thịt gà, cá chép, xôi, rượu. Sau khi bái lậy trên lầu thì xuống dưới lầu làm lễ bái vọng. Lễ này cử hành vào đầu giờ Tý (nửa đêm). Người chủ tế mặc áo đại hồng, đầu không đội khăn mũ gì, đi chân đất.

- Hàng năm, ngày vua thánh Tôn sinh thì trong xã cấp cho nam giới đến độ tuổi đi học (6 tuổi) 1 thùng lúa thơm và 1 quan tiền, trích ở số thu được từ 30 mẫu ruộng đền, việc này nói lên ân nghĩa của đức vua đối với dân làng.

- Ngày lễ khánh hạ: Dùng tam sinh, tam ngư để lễ. Nhân ngày này có lệ vọng lão ở đền. Ai 50 tuổi sẽ được vọng lão. Người vọng lão phải đóng 1 thùng thóc, 5 cân thịt cùng 30 đồng tiền. (Các năm sau đến đền không phải nạp gì cả).

- Từ niên hiệu Quang Hưng ất Mùi (1595) còn có lệ rước trên thuyền, từ chùa thờ công chúa Hưng Thánh về lễ ở đền, rồi hôm sau rước về chùa.

Lại có tục rước vua Trần Thánh Tôn từ vườn Am lên thuyền ra đền Thái Vi. Đến thời Gia Long, gió bão làm cho chùa ở vườn Am đổ cùng với việc ruộng đất không còn đủ số, nên tục lệ có phần giảm bớt.

Con gái đi lấy chồng đóng 1 quan tiền và 5 vuông vải thêu vào đền để cầu "Phúc tuệ lưỡng toàn".

Người đến tuổi 70 được làng cấp 1 quan tiền và 1 thùng thóc để động viên, bồi dưỡng lúc tuổi già. Khi mất làng viếng 5 vuông vải hồng sắc, giữa vuông vải thêu chữ "Phúc" để treo ở nhà.

Tục lệ xã Vân lâm liên quan đến các Hoàng đế nhà Trần. Đây là nơi vua tu hành, đặc biệt là Thánh Tôn Hoàng đế, nên phần lệ ngạch được đặt ra rất chu đáo. Ngay đơn vị chịu trách nhiệm đối với đền thờ, lệ ngạch cũng không riêng chỉ có hàng xã lo liệu, mà hàng tổng phải có sự quan tâm, hàng huyện phải có phận sự đóng góp với xã trong việc tổ chức kỷ niệm. Nhà nước đối với di tích này cũng có sự quan tâm đặc biệt về vật chất cũng như các hình thức tổ chức khác. Nhưng do điều kiện thiên nhiên, hoàn cảnh xã hội nên công trình điện thờ cùng với lệ ngạch ở Vân Lâm bị mai một khá nhiều. Thiết tưởng, lệ làng Vân Lâm cần được các ngành, các cấp quan tâm, phục hồi tuỳ theo phần việc, để cho việc tổ chức tham quan du lịch ở đây thêm phần đậm đà bản sắc dân tộc.

 

TƯ ƯỚC ĐỀN PHÚC AM, THỊ XÃ NINH BÌNH

Tư ước đền Phúc Am là những quy định riêng đối với việc thờ cúng quan Hành khiển Trương Hán Siêu của làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh, phủ Trường Yên, đạo Thanh Bình (nay là thị xã Ninh Bình) do đốc học tỉnh Ninh Bình Đỗ Thời Viêm viết ngày 24 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ 3.

- Trương Hán Siêu sinh ngày 25 tháng 11 năm Giáp Tuất (1274) tại làng Phúc Thành. Ông là danh tướng thời Trần, có nhiều công lao với đất nước, với các vùng quê gặp hoạn nạn bởi giặc ngoại xâm. Do đó một số nơi ở Sơn Nam Hạ có đền thờ ông, coi ông như vị tổ có công xây dựng quê hương, (Cao Đà, Trầm Hương, Khê Dầu).

Đền Phúc Am lúc đầu còn nhỏ, thời Hồ và các đời sau vẫn có sự tu chỉnh. Thời Trịnh Doanh đền làm bề thế hơn cả. Hiện nay đền thờ được tu chỉnh và đang có kế hoạch tôn tạo đẹp đẽ hơn lên.

Ngày 24 tháng 11 làng làm lễ cáo yết tại miếu Khổng Tử và đền thờ Trương Hán Siêu. Lễ dùng lợn đen, gà trống mỗi nơi một con. Ngoài ra còn có rượu vàng, xôi trắng, bánh dày, trầu cau.

Ngày 25 tháng 11 chính kỵ, lễ tam sinh.

Ngày 26 tháng 11 lễ tạ, dùng lợn đen, gà trống, bánh dày.

Lễ vật ở cả miếu Khổng tử và đền Phúc Am đều như nhau. Đêm 25, 26 có hát chèo, hát bài "Thái bình ca ngũ thư".

Ngoài ra, ngày 25 còn tổ chức rước nước, tưởng lại khi xưa mẹ ông ra bến sông này tắm, rồi sinh ra ông, khoảng giữa trưa mới bế về, do đó giờ cử hành lễ vào đầu giờ ngọ. Trước đây lệ làng dùng người hướng dẫn công việc tế lễ là vị hương thân cao tuổi nhất xã.

Từ niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 10 (1749) Minh Đô Vương Trịnh Doanh và quan trấn thủ đạo Thanh Bình Ngô Lập Công về tế lễ. Lần quốc tế này rất trọng vọng và cũng từ đó Ngô Tướng Công quy định việc tế lễ ở đền Phúc Am cho cả tổng phải chịu trách nhiệm.

Ngoài việc kỷ niệm ngày sinh, ngày khánh hạ (ông từ quan về quê) 14 - 8 và ngày kỵ ông mất đều phải tế lễ chu đáo.

Ở bàn thờ ông, chúa Trịnh đề câu đối:

"Thế sự thăng trầm quân mạc vấn,

Nhân tình phù huấn tử đương vi"

(Việc đời thăng trầm ông đừng hỏi đến,

Tình người thân ái thì phải nê làm).

- Ngày khánh hạ 14 - 8 cũng được tổ chức rất chu đáo, theo trình tự: ngày 13 - 8 lễ cáo yết, ngày 14 - 8 chính tế, ngày 16 - 8 lễ tạ. Mọi người trong tổng đến tuổi thành niên đều đóng 1 đồng và 1 bát gạo nếp, để làng lo làm cỗ tam sinh cúng tế và khi lễ xong ra về mọi người đều có một cặp bánh dày nhỏ, một miếng giò lộc thánh. Buổi trưa 16 - 8 các thân hào, trùm trưởng hội tại bái đường thụ lộc.

Sở dĩ có lệ góp tiền, gạo là làng muốn mọi người có trách nhiệm và nhớ lại lòng nhân đức của ông đối với quê hương. Đó là sự việc ông giúp nhân dân địa phương 200 quan tiền và 100 mẫu ruộng ở phía Tây làng.

- Ngày kỵ thánh phụ mồng 10 - 7 lễ vật dùng 1 đôi cá quả, 1 đôi cá chép.

- Ngày kỵ thánh mẫu ngày 2 tháng giêng lễ bánh gai, chả cá trắm cá chép.

Ngày kỵ 12 tháng giêng là ngày ông mất. Lễ vật dùng cỗ chay đặt bên trên, có thêm bánh dày, bánh gai, bánh mật. Dưới bày cỗ thịt lợn đen, thịt bò, dê, gà và cá chép. Lệ này cũng tổ chức ba ngày (11 lễ cáo, 12 lễ chính và 13 lễ tạ). Những người nho học trong tổng đều phải tụ hội tại đền để làm lễ. Khi lễ cử hành, người vào lễ đứng hai bên như sau:

Các nho sinh và người nho học trong tổng đứng theo hàng và theo tuổi ở phía bên phải.

Các nhà chức sắc hàng tổng sắp hàng ở phía bên trái.

Khi tế xong mọi người phải vái bốn vái rồi mới trở ra.

Các thôn xã phụ cận như An Đăng, Đại Đăng, Phúc An, Phúc Chỉnh, Phúc Trì, Cổ Loan, Bích Đào, Khương Lộc mỗi nhà trong xã đều được lộ theo lệ 10 mẫu ruộng kỵ, 10 mẫu lễ ngày sinh, năm mẫu tục khánh hạ.

Phàm các ngày tế lễ ông, đều phải lập bàn thờ tại sân để tế trời đất với ý nghĩa trời che, đất chở mới nên người.

 

TỤC LỆ NGHỀ LÀM ĐÁ LÀNG NHỒI, THANH HOÁ

Làng Nhồi còn gọi là làng Nhuệ thuộc xã An Hoạch, huyện Đông Sơn, trấn Thanh Hoá (nay thuộc xã Đông Hưng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá) là nơi có nghề đúc đá từ lâu đời.

Hương ước do lý trưởng xã An Hoạch Lê Văn Thuyên, phó lý Nguyễn Xuân Hoà, cử nhân Trần Thế Đức viết năm Đồng Khánh thứ hai (1887) ngày 15 tháng 2:

- Tổ nghề đục đá là Lê Khắc Phục (giỗ ngày 15 tháng giêng). Năm ất Hợi (1275) Lê Khắc Phục dạy 5 họ Lê, Trần, Đỗ, Dương, Nguyễn làm nghề. Khi ông từ Mường Mai về đây là ngày 10 tháng giêng. Do vậy từ ngày 9 đến 16 là ngày mở hội của làng. Ngày nay cả hai xã An Hoạch và Phù Lưu đều làm lệ. Ngày 9 làng Phù Lưu rước đến đền làng Nhồi, sáng 11 rước về, khi rước đến thì rước theo một đôi cá chép, một thủ lợn, lúc rước về thì mang thủ lợn về, còn cá chép đem thả xuống ao. Khi thả cá xuống ao xong, phải hái lấy một chùm hoa hồng đặt lên kiệu để rước. Khi hái ông Lý trưởng Phù Lưu đi thẳng đến khóm hồng, ông Lý An Hoạch lấy mảnh lụa đỏ chùm lên đầu ông Lý Phù Lưu, ông Lý Phù Lưu đưa hai tay ra hái hoa, nếu hái được chùm từ hai hoa trở lên là may mắn cho cả làng, có thể gặp may khi đi xa làm ăn, nếu hái được một hoa thì không tốt cho việc trong năm đi xa làm ăn và chỉ nên chọn người từ 30 tuổi đến 40 cho đi xa làm ăn, lấy ý tam thập nhi lập (30 tuổi trở đi là biết tự lập).

Cuối năm mọi người về làng, dân xã ai có nghề giỏi thì được ông Lý Phù Lưu chọn làm đồ thờ như bát, đĩa, khay, cây đèn... để dâng lên miếu thành hoàng, sau đó ông Lý lại chọn ra vài thứ để đầu năm đem sang miếu An Hoạch làm lễ gọi là lễ "hiến xảo" (dâng đồ khéo). Lễ này thường thực hiện vào các ngày 2, 4, 6 của tháng giêng. Nếu khi lễ, ông chủ tế thấy có giọt nước rơi vào mặt thì coi như cả năm cày cấy được mùa, làm ăn ngành nghề gặp may mắn. Dân xã An Hoạch kể từ 10 tuổi trở lên, nếu là con trai thì được tổ phụ truyền nghề. Ngày nào bắt đầu học nghề (dĩ nhiên là phải chọn ngày tốt có sao thiên đức) thì gia đình phải làm lễ xôi gà tại đền, rồi mới về học nghề.

Sau này, khi lớn lên, nếu định đi làm xa thường đem ra đền lễ vật, trong đó có trầu cau, còn thì tuỳ nghi ở tấm lòng, lễ xong xin miếng trầu lộc ăn ở trước nhang án. Nếu ăn thấy đỏ tươi là làm ăn sẽ phát đạt, lễ này gọi là lễ "khất lộc" (xin lộc). Ngày về làng nếu phát tài thì làm lễ tạ, hoặc làm lễ hiến xảo. Ngoài lễ dâng thông thường, tuỳ tâm có thể dâng đồ làm to đẹp nhiều công không có quy định, như cây quán tẩy đá, phương đá, ngai đá... theo sự hướng dẫn của ông tiên chỉ.

Đầu năm, cả xã làm lễ thế nào tuỳ ý, còn tư nhân có thể làm lễ "khất xảo" (xin khéo) với người mới học nghề, hay lễ "khất lộc" với người làm nghề cuối năm về làng, nếu có đồ làm đẹp thì dâng lên đền gọi là lễ "hiến xảo". Sau khi lễ xong, ông tiên chỉ sẽ ban cho một đấu gạo nếp, một cân thịt lợn của làng còn tinh khiết, đem về làm lễ tạ ơn gia tiên tại nhà. Thường lễ tiên tổ với lệ khất xảo, hiến xảo hay khất lộc, tạ lộc như ở ngoài đền. Nhìn chung mọi người thường hay nhờ thầy chọn ngày tốt để lễ, rồi mới xuất hành. Cách tính ngày phải dựa vào sao Thiên đức, Thiên hành, Thiên phúc, Thiên tài...

- Trong xã ngày 9 tháng giêng làm lễ cáo, thường sắm một đôi lợn nhỏ và một đôi gà trống, xôi gấc, chầu rượu, (xôi 10 cân, lợn một con 30 cân, gà trống mỗi con 1,5 cân). Lễ xong đem chia thịt biếu tiên chỉ, lý trưởng, biếu đại khoa, biếu đại xảo (thợ khéo nhất làng), phần thịt và xôi còn lại mời cả kỳ hào, thân lão, chức dịch cùng ăn.

- Ngày 10 tổ chức khánh hạ, thì lễ tam sinh, hoa quả và phóng sinh cầu phúc. Phóng sinh theo lệ là phải mua chim trời về thả đủ 10 con, cá chép nhỏ 10 con thả ở sông cái. Ngày 10 tháng giêng mở chèo hát, hát bài "xã dân phong phú, gia hương thuận hoà" do các hương thân viết nên từ cuối năm trước, hoặc do đầu năm các vị ấy khai bút viết nên. Chèo hát ba ngày từ 10 đến 12, còn ngày 13, 14 làm lễ dâng sao cầu phúc. Ngày 14 lễ cáo kị vào buổi chiều cho đến tối. Tối 14 sẽ chồng kiệu, sáng 15 làm lễ tế thiên địa bách thần ở trên một khu đất làng đã định sẵn và quét dọn từ năm trước, làm lễ rước thần ra đó. Nhưng phải chọn là nơi gần nước chảy, do tiên chỉ xin lễ từ trước một tháng. Có thể năm trước và năm sau cùng một chỗ, có thể khác chỗ. Lễ từ giờ Mão đến giờ Thìn thì rước về đền. Cả làng ra lễ bái vào. Buổi chiều, giờ Ngọ (đầu giờ) làm lễ giỗ, chủ tế vào dâng đồ khéo của cả làng, khi dâng đồ này thì rước từ nhà người làm về đền bằng một kiệu bành. Khi rước về đến sân đền, vị tiên chỉ cùng người thụ dịch (giúp việc) mang xuống, nếu thấy có giọt nước ở đồ hiến xảo thì cả làng năm này sẽ làm ăn tấn tới, người chủ hiến dâng đồ khéo được làng cho một cân thịt thủ và 5 cân xôi gấc. Người chủ sự hội cả tốp thợ cùng ăn, hay chia phần về nhà tuỳ ý. Khi dâng đồ khéo xong thì đọc văn, rồi kèn sáo hành lễ. Hành lễ xong thì đọc văn lễ tạ. Buổi chiều từ giờ Mùi sang đến ngày hôm sau thì dâng lễ khất xảo hay hiến xảo tuỳ nghi, tuỳ tâm không có quy định gì khác.

Ngày 16 lễ tạ của làng và lễ sơn thần, giang thần.

- Cuối năm lễ vào ngày 22 tháng chạp, lễ tất niên vào ngày 24 hay 25 tháng chạp, chiều 30 trừ tịch lễ xôi gà, dân làng đem đất ở trước sân đền về hoà vào nước, bôi lên cửa nhà mình để đề phòng trộm cướp. Lệ làng còn quy định đối với người học nghề và trưởng thành như sau:

- Ai học nghề được dân xã giúp đỡ cho hai thùng thóc.

Đến tuổi thành niên con trai được cấp hai sào ruộng và một sào ruộng khuyến học, con gái không có ruộng. Nếu đến tuổi mà lấy chồng ở làng thì được cấp hai sào ruộng, đi lấy chồng phương khác thì thôi.

- 60 tuổi thì lên lão.

- Từ 70 tuổi trở đi làng cấp cho cả lão ông hay lão bà đều mỗi người 5 vuông vải và hai thùng thóc vào ngày 14, 15 tháng chạp.

- Nếu đi học đỗ đạt thì ngoài việc lễ thành hoàng, còn làm lễ ở đền ông tiến sĩ Lê Dị Tài là nhân tài quê hương.

- Đàn bà trước khi đi lấy chồng phải đến lễ ở hòn Vọng Phu trên núi Nhồi.

 

LỆ NGẠCH ĐỀN CỜN

Đền Cờn, xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An được xây dựng từ cuối thế kỷ XIII bên bờ sông Mai. Di tích này nổi tiếng từ xưa và được các triều đại Trần, Lê, Nguyễn quan tâm một cách đặc biệt. Phải chăng Tống Thái Hậu, cùng các công chúa đã được nhân dân ta đồng cảm, ngưỡng mộ bởi cùng chung chiến hào kháng chiến chống đế quốc Nguyên Mông, cùng quan niệm về đạo lý làm người. Do vậy mà Thái hậu cùng công chúa là người Tống, mà người đời coi như người Việt, hay nói cách khác là nhân dân ta đã Việt hoá nhân vật, coi Thái hậu như tấm gương cho hậu thế soi chung.

Đối với làng Cần Hải hay làng Càn, làng Cờn sau đổi là Phương Cần thuộc xã Quỳnh Phương là nơi thi hài của Tống Thái Hậu và ba vị công chúa trôi dạt vào, được dân làng mai táng, thiết lập đền thờ thì di tích được xây dựng cùng với lệ ngạch tế lễ được quy định khá nghiêm ngặt.

Theo ngọc phả "Đại Càn quốc gia Nam Hải Thánh Mẫu" và văn bia tại đền Cờn thì đền được xây dựng năm 1276 bằng tre, tranh để thờ Tống Thái Hậu, sau đó được từng bước nâng lên.

Niên hiệu Hưng Long thứ 20 (1312) Trần Anh Tôn đi đánh Chiêm Thành khi đến đây được Tống Thái Hậu báo mộng, tỏ thiện chí, phò giúp nhà Trần đánh giặc. Sau khi đánh thắng quân Chiêm, Anh Tôn Hoàng đế nghĩ đến giấc mộng lúc chinh nam, bàn phong cho thần thờ tại đền Cờn là "Quốc gia Nam Hải đại Càn thánh vương" và cấp kinh phí cho xây dựng đền bằng ngói.

Năm 1470, vua Lê Thánh Tôn cho xây dựng lại đền với quy mô lớn, tạc tượng, đúc chuông và triều đình đứng ra tu sửa công trình thờ tự.

Cảnh Trị nguyên niên (1663) đền tiếp tục được trùng tu, dựng bia, sắm đồ tế khí làm nên công trình thờ tự.

Cảnh Hưng thứ ba mươi (1769) đền đài tiếp tục tu sửa đẹp đẽ thêm lên.

Đến năm Gia Long, nhà Nguyễn lại tiếp tục tu sửa đền thờ, giữ gìn vẻ uy nghi mà người xã tạo dựng.

Để việc phụng sự được chu đáo, triều đình đã ban tặng sắc phong, quy định lệ ngạch cho làng phụng sự. Dưới đây là văn bia tạo lại đền Cờn. Bia tạo lệ niên hiệu Cảnh Trị tam niên quy định cho đền Càn xã Hương Cần huyện Quỳnh Lưu phủ Diễn Châu như sau:

"... Từ trước đến nay, trong thôn không phân biệt là quân hay dân các hạng, mọi người phải phụng sự việc lễ tiết hương khói và việc tu chỉnh nội miếu.

Chức sắc và mọi người phải tuân lệnh Đại Quốc Chính Nguyên soái, thái thượng phu nhận lệnh chỉ của thánh vương (Lê Huyền Tông 1663 - 1671) cho phép y theo lệ cũ của tiền triều, bản thôn làm dân tạo lệ phụng sự đền miếu.

Đại Càn quốc gia Nam Hải vị thánh vương, có sự linh ứng rõ ràng, được ghi lại từ thời gian trước. Trong thôn phải lược kê hương hoả phụng sự cùng với thuế nông nghiệp, thuế buôn bán, nghề ngư chu cấp cho đền miếu và lễ tiết. Quan lại không được sách nhiễu tạp dịch như bắc cầu, đắp đê đập, vận chuyển khơi sông đối với dân tạo lệ".

Văn bia còn có bài minh tạm dịch như sau:

"Thánh Mẫu trời nam

Miếu Càn hương khói

Vâng mệnh bề trên

Xã thôn truyền mãi

Từ quan đến sãi

Ca ngợi thái bình

Được hưởng phúc lành

Nhờ thần phù hộ

Dân càng được mùa

Đi thuyền thuận lợi

Muôn vật tốt tươi

Xóm làng đẹp mới

Trăm đời không đổi

Cảnh sắc người xưa

Phúc lộc có thừa

Ngàn xưa để lại...".

Lệ phụng sự tại đền:

Lệ này kéo dài từ 15 tháng chạp đến 15 tháng giêng.

- 15 tháng chạp: lễ phát tích

- 16 tháng chạp: bốn giáp rước thánh lên chùa

- 17 tháng chạp: rước thánh về đình, ở lại đình ba ngày hai đêm

- 20 tháng chạp: rước thánh về đền

- 21 tháng chạp: chạy "ói" lệ này sẽ rước bốn ngai (bố mẹ con bà) dùng tàn, tám quạt khởi hành từ đền rước ra bãi biển. Sáng ra lại rước thêm hai voi, hai ngựa, bốn cỗ kiệu. Đi đầu đám rước là ông Thủ chỉ đền, và bốn ông đứng đầu hàng giáp. Đám rước đến khu bãi biển gần hòn núi (còn gọi là hòn ói) thuộc làng Phú Lương (cách làng Cờn 4km) thì làng này làm lễ "khất lưu" sau đó làng Phương Cần làm lễ "phụng nghinh" tượng trưng đón bốn vị về đền. Lệ này tương ứng với truyền thuyết là bốn vị chết ở bãi Phú Lương, dân làng Càn thấy vậy mai táng...

Sau lễ phụng nghinh, rước tứ vị về đền tế, lễ...

- Ngày 6 tháng giêng tế lớn. Các giáp phải thay nhau thực hiện lệ. Khi tế làm thịt 5 trâu, 5 lợn (để cả con).

- Ngày 7 tháng giêng: tế bánh (bánh dày làm bằng xôi, giã đóng khuôn to như chiếc thùng gánh nước). Mỗi xuất đinh đóng bốn chiếc bánh tế.

- Từ ngày 8 - 15 tháng giêng tiếp tục tế lễ ở đền trong đền ngoài và tổ chức các trò vui như đấu cờ người, tổ tôm điếm, đánh đu, đặc biệt là bơi chải trên sông Mai trước cửa đền.

Lệ múa hát chầu trước cửa thánh:

Lệ này phải hát những bài ca ngợi công đức, hoặc các bài thơ của các danh nhân qua đây làm thơ kính dâng trước cửa đền (người hát chầu phải tập luyện chu đáo).

Một số lệ quy định cụ thể:

Việc thực hiện lệ từ năm Cảnh Thịnh thứ 6 tháng 1 ngày 3 (1798) cũng được ghi bằng văn bản cho các quan viên chức đẳng và dân thôn thực hiện như sau:

- Một là: Lễ sóc vọng ngày xuân, thu tế tự, các quan viên phải nghiêm chỉnh, lễ rồi mới được ra ngồi; tên nào mặc áo ngắn là thất lễ phải phạt 5 quan tiền cổ.

- Một là: Tế rồi, khi ngồi ăn uống phải ra hai nhà tả hữu. Tên nào xắn tay áo, quần tụ ăn uống ở trung điện và nhà ca vũ phải phạt 10 quan tiền cổ.

- Một là: Đến ngày múa hát, bốn ông phải thay nhau chầu chực đèn nhang, múa phải nghiêm chỉnh, trong sự thể ai đường đột xông vào, không có nhiệm vụ phải phạt 10 quan.

- Một là: Nhảy múa hát thì quan viên nhiêu nam, thủ từ nhà bên trái, quan giám định nhà bên phải, ai chạy qua lại bị phạt 6 quan tiền cổ.

- Một là: Quan viên yết tế, phường vạn tạ lễ. Các quan viên chức sắc phải mặc nghiêm chỉnh. Ai mà đi lại ăn uống, mặc áo ngắn ra vào điện thờ đường đột phải phạt 3 quan tiền cổ.

- Một là: Ngày sóc vọng quan viên các chức phải trai giới, áo quần nghiêm chỉnh, không thế thì phạt 6 quan.

- Một là: Ngày thường quan viên chức sắc phải mặc áo dài đen mới được vào nhà ca múa, đi đường đột ra vào phạt 6 quan tiền cổ.

- Một là: Ngày thường nhân dân đến yết lễ đã có người ứng tiếp lễ. Không có việc mà người ứng tiếp lễ phải phạt 6 quan tiền cổ.

- Một là: Ngày thường người canh phải tề chỉnh khăn áo đèn hương. Ai mặc áo ngắn vào đền phải phạt 3 quan.

(người coi đền giữ bản lệ này làm bằng)

Một số lệnh chỉ của nhà Lê đối với đền Cờn:

- Ngày 22 - 8 - 1750 Lê Hiến Tông lệnh chỉ cho đạo Nghệ An phải có trách nhiệm đánh giặc khi chúng vào cướp phá đền.

- Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 20 ngày 16 tháng 7 (1759) sức cho quan huyện Quỳnh Lưu báo cho dân khi nuôi được con trâu bò nào béo phải dành cho việc tế lễ tại đền Cờn.

- Ngày 3 tháng 9 niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) và ngày 10 tháng 10 niên hiệu Chính Hoà thứ 5 (1684) nói việc dân Phương Cần có trách nhiệm cúng lễ nên được miễn đi lính và miễn thuế má, lao dịch.

Ngoài các lệnh chỉ trên, đền Cờn còn được nhà Lê, Nguyễn cấp 32 đạo sắc phong, được Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng bằng công nhận di tích lịch sử - văn hoá, chứng tỏ đây là di tích tiêu biểu và lệ ngạch mà địa phương hoặc các cấp đề ra cho dân tạo lệ Phương Cần tuy có phần nặng nề, song cũng là vấn đề bổ ích để nghiên cứu, khẳng định vị trí đền Cờn trên mảnh đất xứ Nghệ.

 

TỤC THỜ THẦN CÁ, THẦN SÓNG VÀ TẾ SỐNG TRONG YẾN LÃO Ở MAI BÁNG, NGHI THUỶ, TỈNH NGHỆ AN

Mai Báng thuộc xã Nghi Thuỷ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An nay thuộc phường Nghi Thuỷ, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Hiện còn ngôi đền thờ thành hoàng: "Nhập nội tư mã An phủ sứ Lê Khôi", cùng lục tộc lập làng, đặc biệt là thờ thần sóng, thần cá.

Qua hàng chục năm chiến tranh, đền thôn Mai Báng bị hư hỏng phải làm lại, sửa chữa nhiều lần. Song công trình trùng tu còn có nhiều hạn chế, thiết nghĩ cần được tu chỉnh nhiều hơn, để nội dung lịch sử và đền thờ được hài hoà, thể hiện đạo lý đền ơn đáp nghĩa của dân tộc.

Theo cụ Võ Văn Hoè 81 tuổi và các cụ cao niên trong thôn Mai Báng thì khu bãi biển này xưa kia hoang vu sau nhờ tướng quân Lê Khôi đem sáu họ từ miền ngoài vào lập thành làng chài ven biển. Các họ Lê, Trần, Nguyễn, Võ, Đặng và Hoàng hoặc ở phía Bắc, hoặc trong Cẩm Xuyên về dưới sự bảo trợ giúp đỡ của tướng Lê Khôi. Lúc đầu làm nghề đánh cá, sau khai khẩn thêm những chân cồn cát tạo thành ruộng để sản xuất lương thực. Sau này dân cư đông đúc thêm, đời sống no đủ, nhân dân nghĩ đến công lao của tướng Lê Khôi và sáu dòng họ bước đầu mở nghiệp nên đã thiết lập đền thờ, bốn mùa hương khói phụng sự.

Các già làng rất nặng ân tình với vị khai quốc công thần Lê Khôi. Lịch sử, truyền thuyết ghi lại những đợt quan nhập nội thiếu uý Lê Khôi đốc quân vào Tân Bình - Thuận Hoá (1434). Hoặc khi làm An Phủ xứ Nghệ An (1437), Lê Khôi đã am hiểu và nán lại trên vùng biển này, người đã giúp đỡ nhân dân rất nhiều về cung cách làm ăn. Nhân dân cũng không thể quên ơn nên đã vượt mọi khó khăn xây dựng đền miếu một cách đẹp đẽ:

"Miếu mạo trùng quang kim đống trụ,

Thiên hoàng trường điện cổ giang sơn"

(Đền miếu sửa sang sơn cột mới,

Đền xưa tồn tại cùng đất trời núi sông).

Người làng Mai không chỉ ấm no mà còn hiển đạt về nhiều mặt, trong đó có việc thi cử học hành:

"Vũ lộ cập thời mai hoá phượng,

Phong vân hữu hội bảng đăng long".

(Mưa móc kịp thời cây mai hoá chim phượng

Gió mây gặp hội rạng rỡ tên trên bảng vàng).

Các cụ già làng Mai cũng rất tự hào về tập tục chất phác của quê hương. Dù no dù đói bà con trong họ ngoài làng có sự đùm bọc giúp đỡ nhau. Nốc (thuyền) gặp may đầy mướn cá, bớt chút ít san sẻ cho nốc thua thiệt. Nhà đầy vò gạo vui lòng cho nhà đói vay. Nét đẹp quê hương hay nói cách khác đi là mỹ tục trong lòng, được nhân dân thực hiện từ lâu đời và đã đúc kết thành thơ:

"Bách chiến gian nan phụ tử binh,

Lịch dương trung ngoại thụ đan thanh.

Hoan châu chi miếu thiên thu tại,

Truyền đạo thuần hương đệ nhất danh".

(Trăm giận gian nguy quân và tướng vẫn như cha với con,

Nhiều đời thay đổi tiếng tốt vẫn còn đây.

Miếu cũ Châu Hoan ngàn năm còn lại,

Lưu truyền mỹ tục xóm làng có một không hai)

Trong đền hiện có long ngai, bài vị thờ Nhập nội tư mã Lê Khôi, có bát hương thờ sáu ông tổ có công lập làng Mai Báng. Bát hương thờ thần sóng, đặc biệt, còn có ban thờ bộ xương cá voi. Bộ xương này nhân dân tìm thấy ven biển từ lâu đời rồi đem bày trong đền để thờ, sau này còn sơn son làm cho bộ xương bền và đẹp. Theo nhân dân địa phương thì cá voi là loại cá có nghĩa, hiền lành đáng được tôn thờ làm gương cho hậu thế.

Hàng năm, dịp đầu năm và nhất là ngày 11 - 2 kỷ niệm Tư mã Lê Khôi, nhân dân tế lễ, ôn lại lịch sử lập làng Mai Báng.

Ngày 12 - 2 dân làng sắm lễ cầu ngư (lễ cá) mong cho trong năm ra khơi, vào lộng gặp may, thần cá voi xua đuổi cá vào lưới, vào chà cho dân chài làng Mai được mùa cá.

Ngày 13 - 2 dân làng làm lễ tại cửa lạch, cầu mong "thần sóng" phù hộ cho dân làng được tai qua nạn khỏi, ngày ngày làm nghề được mưa thuận gió hoà, bình yên vô sự.

Dịp này nhân dân chuẩn bị khá chu đáo, kiệu thánh, kiệu tổ đều rước ra biển làm lễ, tạo không khí rất vui vẻ.

Ngoài việc rước, tế lễ làng còn tổ chức đánh cờ tướng, tổ tôm điếm, đánh đu, thi đọc thơ, làm thơ... tạo không khí ngày hội rất sôi động.

Nhưng đặc biệt hơn cả vẫn là lệ yến lão và hình thức tế sống các lão làng thượng thọ.

Lệ làng quy định ai đến tuổi 80 thì được làng tổ chức yến lão. Để chuẩn bị công việc này, làng và con cháu các dòng họ có người thượng thọ phải bàn bạc, chuẩn bị cỗ cúng tại đền: chuẩn bị oản và thịt để khi kết thúc chia phần cho cả làng. Nhiều thì chia nhiều, ít thì cắt nhỏ chia phần, miễn là có lấy may, không ai thắc mắc.

Sáng sớm (từ 11 - 13/2) con cháu các họ theo kế hoạch của làng, rước người được thượng thọ ra đền làm lễ. Mọi người lễ thánh xong còn phải đến trước các cụ được thượng thọ (ngồi chiếu giữa) vái hai vái.

Riêng con cháu làm lễ trước bàn thờ thánh, trước ban thờ "thần ngư", "thần sóng" và các tổ xong thì xin làng rước cụ nhà mình về nhà làm lễ tế sống.

Gia đình bày hương án, bát hương cùng với cỗ bàn, trầu, rượu lễ vật... rồi lấy ghế tựa trải khăn đỏ để cho cụ ngồi (nếu một cụ đến tuổi thì bày một ghế, còn nếu một người đến tuổi, một người quá tuổi đã được làm lễ thượng thọ thì bày hai ghế, mời cả hai cụ cùng ngồi).

Người được làm lễ thượng thọ sẽ ngồi vào ghế trước hương án, cho con cháu quỳ lạy phía trước. Sau khi con cháu nội, ngoại có mặt đầy đủ để làm lễ, một người thay mặt họ đương, hoặc gia đình đọc bài văn chúc thọ. Bài văn này được chuẩn bị chu đáo, nói rõ lai lịch, đoạn trường vất vả mà các cụ vượt qua để nuôi dạy con cháu thành người. Đọc văn chúc thọ xong, mọi người lần lượt vào vái, trong khi đó thì chiêng, trống, pháo nổ vang rền.

Sau khi làm lễ, con cháu mang quà biếu các cụ và chúc các cụ mạnh khoẻ, sống lâu. Sau đó con cháu hạ cỗ, lần lượt theo thứ bậc ngồi uống rượu và chúc mừng lẫn nhau rất vui vẻ.

Lệ lễ thần ngư, thần sóng và tế sống các cụ thượng thọ là tục lệ từ lâu đời trên vùng biển Nghệ An. Với những điều kiện thiên nhiên, môi trường đánh bắt cá chưa chủ động nên yếu tố tâm linh, cầu may còn nặng nề. Song bản chất mộc mạc, chung thuỷ, đạo lý uống nước nhớ nguồn đối với thần tổ và các cụ cao niên, tổ chức tế sống là hình thức phù hợp với bản sắc dân tộc rất đáng khích lệ.

 

TÂN ƯỚC XÃ VÂN CHÀNG, HUYỆN CAN LỘC, HÀ TĨNH

Đền Vân Chàng, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh thờ ông Đỗ Từ Bình, làm quan trấn thủ Hoá Châu năm 1362 và Uy Giản Hầu. Hai ông làm quan trấn trị vùng này. Thấy điều kiện đất đai chai sạn, núi đồi cần được khai phá và đổi cách sống của dân cư ở đây, công chúa Huy Châu là vợ Uy Giản Hầu đã khuyên dạy dân làm nghề rèn, nghề dệt. Nghề rèn ở đây phát triển dần, làng xóm đông vui nên các chức sắc trong làng lập ra hương ước cho dân thực hiện, tạo phong tục tập quán tốt đẹp.

Thời Lê Cảnh Hưng hương thôn sắc mục trên dưới trong xã, xét thấy trước đây thể lệ có phần chênh lệch so với thực tại, người nghèo không chịu đựng nổi, trong khi kiếm ăn được bữa sớm, mất bữa chiều, dưới nói trên, trên ỷ dưới, ép buộc chẳng biết kêu ai, đi đâu một bước đâu có dễ dàng, vợ con cha mẹ ràng buộc không nỡ để mặc, nỗi niềm đó dân khó có thể nói ra. Cấm nói, cấm ăn, cấm mặc, khổ cực mọi bề trời xa chẳng thấy. Nay xin quy định các điều lệ nhẹ nhàng để mọi người còn có thể làm được.

- Quy hoạch làng xóm: xóm có hai đường chính, gồm có 4 cổng, dựng 4 điếm để trông coi. Việc trông coi giao cho tuần đinh, mỗi tối mỗi điếm cử ba người, trai tráng trong làng luân phiên nhau mà gác, ai có việc thì phải nhờ người khác gác thay, ai ốm đau thì nghỉ không phải gác bù.

Bốn mặt làng phải trồng nhiều tre gai, găng gai làm luỹ. Ngoài luỹ đào ngòi nước, ngòi rộng tối thiểu 2 trượng, luôn có nước ngập đều để ngăn giữ kẻ gian. Lại khơi hai dòng nước lớn ở hai đường chính thông với ngòi chung quanh để tiêu nước dễ dàng. Các xóm đều phải đắp đường rộng một trượng, ngòi nước rộng một ngũ để đi lại và tiêu nước ứ.

Chung quanh chợ không được dựng nhà to, mà chỉ được dựng nhà nhỏ quay vào chợ để bán hàng. Mặt ngoài đường thì được dựng nhà to để ở. Chợ họp mỗi tháng 15 phiên vào ngày chẵn, những người trong xã bán hàng thì không phải nộp lệ phí chợ.

Ai đến tuổi trưởng thành ra ở riêng, xã cấp cho một sào ruộng để làm nhà ở và nửa sào để làm ao, nếu ai đất chật quá có thể nhường bán lại cho nhau, xã sẽ cấp cho 1,5 sào ra nơi khác để ở.

Ai đến ở nhờ thì sẽ cấp cho nửa sào đất để làm nhà ở, lúc đi tuỳ thích muốn bán nhà lại cho ai thì bán, nhưng bán đều phải trả cho xã 10 quan tiền, còn nếu thuê dân trong xã trông nom thì tuỳ ý, xã không ngăn giữ. Các nhà đều phải có ranh giới rõ ràng để phân biệt, ngăn ngừa sự tranh chấp bất hoà.

Thuế, lệ thu được đều sung công quỹ để chi dùng (không kể quy định của các phường hội).

Nhà ai có con gái đi lấy chồng, không được thách cưới tiền tài quá cao, để đến nỗi đeo nợ cho con. Thách tối đa không quá 20 quan, nếu quá xã sẽ phạt 10 quan. Con gái đi lấy chồng thì đóng lại cho xã 2 quan để tu sửa đường xá và 100 miếng trầu mời quan viên, nếu nhà nghèo thì không phải nộp 2 quan. Nhà khá giả tuỳ ý có thể nộp 20 quan vẫn chấp nhận.

Nhà ai có con trai cưới vợ giàu có thì tuỳ ý lo liệu, còn nhà nghèo khó thì phải tuỳ theo hoàn cảnh không được quá gượng để mang nợ cho con, cho mình, tiếng tăm phù phiếm không hay. Xã trưởng và các hương thân phải có quyền ngăn chặn, không để quá ra rồi mới nhắc. Nếu việc để xảy ra, xã trưởng bị hội đồng hương lý phạt 5 đến 10 quan tiền.

Ma chay phải thật sự phù hợp, nếu có giàu sang cũng nên vừa phải, mỗi mâm không quá 1 chai rượu, nếu trong việc xảy ra say sưa, cãi cọ ẩu đả nhau, xã trưởng bị phạt từ 10 đến 20 quan tiền, nếu ai say quá cũng bị phạt từ 5 đến 10 quan tiền. Cỗ mở to quá, ăn uống chê bai kẻ nghèo, xã trưởng hay người xã trưởng cử ra trông coi giải quyết, phải phạt từ 10 đến 15 quan tiền. Cỗ bàn giỗ chạp các việc xảy ra say sưa, bê tha đánh đấm, chê bai miệt thị người dân cùng quẫn, phải phạt từ 10 đến 15 quan tiền.

Các đường ngõ của xã đều có trồng cây, khi bán đi dùng tiền này để chi vào việc xây sửa cầu cống, điếm gác.

Hai đầm nước gồm 3 mẫu 5 sào, ai đấu cố thả cá phải nộp tất cả là 35 quan trên năm, 6 ao nhỏ gồm 4 mẫu ai đấu cố phải nộp 60 quan trên năm.

Có 6 dãy lều chợ, khoán cho người đấu thầu mỗi tháng 25 quan, cả năm thì 350 quan.

Ngoài ruộng thần, phật có 50 mẫu ruộng công, cho ai nhận làm, mỗi sào một năm phải nộp 3 quan.

Ai đến thuê đất của làng, mỗi sào nộp 20 quan, chỉ phải nộp một lần, từ sau không phải nộp nữa và không có kỳ hạn.

Các khoản phạt khác như con gái chửa hoang, bố mẹ phải nộp 10 quan, trai đã có vợ thông dâm với gái đã có chồng, thì trai gái ấy phải phạt mỗi người 20 quan và trình huyện quan giải quyết.

Trai chưa vợ thông dâm với gái chưa chồng có chửa, hoặc đã đẻ nếu lấy nhau thì thôi, không lấy nhau làng phạt mỗi người 20 quan và bố mẹ 10 quan.

Nhà ai có người trộm cướp, cậy mạnh lấn yếu thì tuỳ theo mức độ để xử phạt từ 10 đến 50 quan và trình quan trên giải quyết minh bạch. Người can tội trộm cướp làng mà bắt được, gia đình trộm cướp phải phạt từ 50 đến 100 quan mới cho về và để quan trên giải quyết, nếu quan trên bắt đi luôn, không bắt nộp phạt thì làng phải giam giữ đã, đợi nộp phạt xong mới cho quan giải quyết.

Ai làm ăn phương khác khá giả, hay ở địa phương khá giả, đóng góp tiền của thì tu sửa đường xá và điếm canh, giếng nước.

- Khao vọng: con trai được biên vào sổ đinh của làng và ai sinh con trai, làng sẽ cấp cho 2 quan tiền và 2 đấu gạo nếp, gọi là tiền khuyến học. Đến tuổi trưởng thành lấy vợ ở riêng thì ngoài việc cấp đất là 1,5 sào, xã còn cấp cho 5 quan tiền và 2 thùng thóc tẻ. Lúc cưới vợ cấp cho 3 quan, đi làm nghề cấp cho 2 quan.

Ai đến tuổi 60 thì vọng hương ẩm 1 lần là 2 quan tiền, 1 thùng thóc và 200 miếng trầu, 3 đấu gạo rượu.

Nhà ai có việc hiếu xã cấp 3 - 5 quan, nếu nhà giàu trội thì thôi, việc này chỉ thực hiện đối với bậc trung trở xuống.

Phường dệt, thêu mỗi năm phải đóng cho làng 10 quan và 5 thùng thóc nếp, để làm việc khi họp làng. Phường thợ rèn mỗi năm đóng cho làng 20 quan và 10 thùng thóc nếp để họp làng.

Hiệu lệnh:

- (Tiếng chuông trống mõ trong xã) ở đình làng và chùa nếu có 3 hồi 9 tiếng thì dân xã phải ra nhận việc. Khi làng có việc thì đánh trống ở đình (đình thờ thiên quan và thổ thần) khi có việc sưu thuế bàn bạc các sự... thì đánh 3 hồi 9 tiếng, còn việc hội họp các chức sắc thì đánh 1 hồi 3 tiếng. Các trạm gác nghe thấy phải đánh theo (4 trạm gác mỗi trạm một tuần và một vị câu đương để tiếp tiến đi xa) nếu có việc gấp đánh trống thì phạt 5 quan. Khi xã có việc, các câu đương phải đánh mõ ở 4 trạm và 4 điếm, để dấy lên tiếng gọi của làng thêm rõ rệt, ai quên không làm việc sẽ phải phạt 5 quan.

- Tuần phòng: Trai tráng phải gác cuối năm đều được cấp 1 quan tiền.

Tuần đinh mỗi tháng được 1 quan tiền và nhận 3 sào ruộng cấy nếu không làm thì phải trả lại.

Câu đương được nhận 4 sào.

Gác đồng ruộng nhận 4 sào.

- Răn cấm: cấm phá cây cối ở đền, đình, chùa, nếu phạm phải phạt 1 - 10 quan.

Để thất hoả phạt 1 - 10 quan.

Con đường từ cầu Mai trở về phía nam đến địa phận núi Ngọc và từ cầu Mai trở về phía bắc giáp địa phận Quỳnh Lâm, Trung Lương xây 2 quán gió lớn, để đi về có chỗ nghỉ chân và truyền tin, không được ai tự ý phá hoại. Nhà cửa, cây cối giếng ao ở đó, ai vi phạm phải phạt từ 1 - 5 quan.

Địa mạch từ bờ kênh đến cửa miếu có một long mạch chuyển tiếp, ai đào lấp mạch đất này, làng sẽ phạt từ 20 - 40 quan.

Ngày 10 tháng 8 năm Cảnh Hưng 42 (1781) tri huyện Can Lộc Nguyễn Đình Bá soạn thảo. Xã trưởng Đoàn Văn Khuê, cựu xã trưởng Lê Duy Hùng, hương lão Đoàn Liêm ký.

 

HƯƠNG ƯỚC THÔN PHÚ PHONG - HƯƠNG KHÊ - HÀ TĨNH

Các chức sắc hương thôn dịch mục, già trẻ thôn Phú Phong tổng Chu Lê huyện Hương Khê sau khi đã bàn bạc, viết nên bản hương ước này để thay cho bản hương ước thời Lê không còn phù hợp nữa. Dù sao, dân chúng đã được an cư, thấy cảnh thái bình, trên ra trên, dưới ra dưới không còn đảo lộn như thời trước nữa, do vậy viết nên bản hương ước cùng kính trình huyện đường quang phê duyệt, để dân chúng chiểu đó thi hành.

Nay kính trình

Đã duyệt - Huyện quan Đoàn Tiến Lãng.

Ngày 25 tháng 2 năm Thiệu Trị thứ 4 (1844).

Cử nhân Ngô Văn Hằng soạn.

Hương lão cử nhân Thái Duy Bạch viết.

Lý trưởng Thái Bá Xuân, thủ chỉ Lê Văn Hài, cựu lý trưởng Nguyễn Văn Thuyết ký.

1. Việc của chức dịch:

Thôn có 5 giáp, thuộc dải ven sông phía trên giáp địa phận xã Phú Gia, dưới giáp địa phận xã Xuân Lũng. Mỗi giáp đặt một giáp chỉ để lãnh đạo công việc do lý trưởng và tiên chỉ của thôn giao.

Việc làng thì đánh trống ở đình chung.

Việc đền chùa thì đánh chuông.

Việc tổng thì gõ mõ, giao cho các chức thủ hiệu ở thôn.

Chức dịch trong xã: ngoài 1 lý trưởng, 2 phó lý, thứ ký, thủ quỹ, chánh phó hương hội ra, còn có các vị tiên chỉ, hương lão, hương thân, hương mục, các vị này đều có ruộng từ 1 sào đến 4 sào, các tuần đinh ở 2 điếm mỗi tuần từ 1 đến 3 sào.

2. Việc của dân làng:

Khơi ngòi đắp đường, giúp nhau khi có các việc hiếu hỷ bần khốn, chưa có nghề nghiệp làm nghề, vay thóc lúa ăn, đi học. Cử 5 nhà là một khóm, nếu trong 5 nhà này không giúp được nhau, gây gổ, các việc bất hoà, không nói thật, thì sẽ bị phạt từ 1 - 10 quan.

Mất gà không tìm thấy, phạt bằng 2 con gà (nhà mất không phải phạt).

Mất lợn, mất trâu bò cũng thế, cứ phạt gấp đôi.

Phàm các vật đều tính lên gấp đôi, bốn nhà kia liên đới phải chịu phạt.

Đánh nhau phải phạt gấp đôi tiền chữa bệnh.

Chửi nhau gây bất hoà phạt 1 quan.

Gặp tai nạn lờ đi phạt 5 quan đến 10 quan.

Không dám bênh vực điều phải, sợ cường quyền phạt 5 quan.

Không nuôi bố mẹ, đánh chửi bố mẹ phạt từ 10 đến 20 quan.

Chửi rủa, đánh trả chức dịch, phạt từ 2 - 10 quan.

Ném đá giấu tay, việc phát giác phạt từ 10 - 20 quan.

3. Các điều cấm, răn:

Trong thôn có một khu rừng, ai cũng phải bảo quản, nếu chặt phá, đốt cháy sẽ bị phạt tuỳ theo thiệt hại.

Ở hai đầu sông có cây cối, nhà cửa nếu để đốt phá, liên quan đến dân cư thì phải phạt từ 10 - 100 quan.

Trong thôn có 25 mẫu công điền, để chi các việc của thôn, ai cấy phải trả tô trước mỗi sào một năm 2 thùng thóc, nếu không trả trước quyết sẽ không cho cày cấy.

Trong xã có các luỹ tre, vầu; ai tuỳ tiện chặt phá sẽ phạt mỗi cây tre 1 quan, 1 cây vầu 10 tiền.

Cấm cãi cọ nhau gây bất hoà, ngoài việc gửi lên quan giải quyết xã thôn phạt từ 1 - 5 quan.

Việc tế lễ lấy thành kính làm chính, nay lễ mai lễ làm nhàm tai quỷ thần, lại phỉ báng người khác phạt từ 1 - 5 quan.

Con gái đi lấy chồng, có con hay chưa có con bị goá bụa, cấm ai đến gạ gẫm, mua chuộc. Nếu vi phạm phạt từ 10 - 20 quan với nam giới, từ 5 - 10 với nữ giới và đuổi khỏi làng.

Ai học hành tiến đạt, học đỗ cao, thôn thưởng 1 quan, đỗ cao nữa thưởng 2 quan, dần đến 10 quan.

Gái đi lấy chồng nộp tiền "lan nhai"(1) 2 quan, nếu gia cảnh nghèo khó thì nộp 1 đấu xôi và 100 miếng trầu.

Trai lấy vợ làng cấp cho từ 2 - 5 quan.

Ai chia rẽ nghèo khó sang giàu, phạt từ 2 - 10 quan (với chức dịch), từ 1 - 5 quan (với dân chúng).

Trong nơi đình sở có việc làng, nếu ai ở nhà mà không đến, phạt từ 5 tiền đến 2 quan.

 

LỆ LÀNG THU XÀ, XÃ NGHĨA HOÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

- Làng này cách tỉnh lị Quảng Ngãi 10km về phía Đông. Tại đây, có chùa và đền thờ Quan Vân Trường, Thiên Hậu. Cửu thiên huyền nữ, Quan Âm bồ tát. Công trình này được dân Phúc Kiến làm to đẹp, trang trí công phu. Tính ra từ năm 1821 đến nay đã nhiều lần tu sửa.

- Làng Thu Xà có từ lâu, do người ở Quảng Trị đến sáng lập vào thời chúa Quốc. Qua nhiều lần phiêu bạt, thời Gia Long một số người Hoa và Việt, nhất là gia đình ông Từ Chân về tái lập. Do vậy mà đền thờ chúa Quốc thờ cả các tổ (6 vị ở Quảng Trị và 5 bố con Từ Chân) ngày lễ 5 tháng 5. Lễ dùng bánh dày và xôi gà. Lễ Chúa Quốc còn được kỷ niệm riêng vào ngày 2 tháng 2. Khi lễ chúa Quốc và các tổ, dân làng mỗi nhà đóng 1 đấu gạo nếp để làm lễ. Lễ dùng bánh dày, bánh nướng, bánh bao, lễ xong mỗi nhà sẽ có một cái bánh lộc mang về nhà để biếu người nhiều tuổi nhất trong nhà. Chùa Thu Xà còn gọi là chùa Ông vừa thờ Phật, thờ thần tổ nên sau khi lễ thường đem phần để trên cao nhất thả xuống sông.

- Mỗi năm vào mùa thu, người trưởng làng phải đem lễ vật và rắn đến nơi đầu sông làm lễ thả rắn. Rắn phải bắt từ trước để đến ngày 9 tháng 9 thì làm lễ thả xuống sông. Nếu thả mà rắn không chịu bơi ra, mà bơi vào bờ thì năm đó nước to, báo hiệu sẽ mất mùa, thì phải làm "lễ tạ" với thuỷ thần để cầu cho dân làng yên ổn.

Lễ vật làm theo khi làm lễ thả rắn gồm: lúa nếp rang nổ, cốm và bánh cốm...

Làng quy định về nhà cửa của dân như sau:

- Ai cũng phải có nhà ở, bếp nước đầy đủ. Làng phải lo giúp đỡ cho tư nhân xây dựng và hướng nghiệp cho dân biết cách làm ăn, tạo cuộc sống trong gia đình phải có mức sống no đủ, không được để ai đói khát, ảnh hưởng đến làng.

Hàng năm ăn tết từ 28 tháng chạp đến 16 tháng giêng.

Riêng ở đền, hàng tháng mọi nhà phải dâng 1 cây nến để làm lễ giải hạn nhương tinh trong ngày rằm.

- Ở chùa mỗi nhà mỗi năm phải dâng 1 đấu dầu.

Làng quy định thời gian cưới vợ vào tháng 1 tháng 2 (tức vào giữa mùa xuân) và tháng 9 tháng 10 (mùa thu đầu đông).

Lễ vật trong lễ cưới phải có bánh dày, bánh chưng.

Quy định y phục mặc áo xanh nhạt như màu lá chuối non (cho cô dâu), áo màu hồng (cho chú rể), chàng rể phải có nhẫn để trao cho cô dâu và cô dâu phải hứa chung thuỷ đối với chồng. Trong một năm nếu cô dâu có lỡ để rơi cái nhẫn là điều báo hiệu cô dâu sẽ gặp phải điều bất hạnh khó tránh, phải hết sức đề phòng tránh điều xấu tự đến.

Kiêng cưới vào ngày sinh của chồng hay vợ.

Làm việc gì cũng phải kiêng ngày tuổi sinh của chồng hay vợ.

Làm nhà ở phải chọn đất phía sau cao và không làm vào mùa xuân, hạ và thu.

Mỗi năm mỗi người trong nhà phải trồng một cây to (cây sống lâu năm).

Tết đến mỗi nhà phải có mấy giò lan để ở cửa.

Đầu năm không ăn cá, mùa hè không ăn chim.

Xin xăm chỉ xin vào đầu năm.

Lễ tiên tổ phải ra thắp hương ở chùa đền trước ngày chính kị.

Làm nhà cưới vợ, làm việc gì lớn phải lễ thần đương niên, bằng bánh bột trắng không có mỡ, thịt...

Khi nhà ai có việc lớn, làng phải giúp cho mỗi nhà một đấu gạo. Làng còn khuyên không uống rượu vào mùa hè, không ăn rắn vào mùa thu.

Không làm việc gì vào ngày 14.

Thắp đèn trong 15 ngày đầu năm không được để tắt đèn.

Nhà nào ngày tết cũng uống rượu ngâm với quả ké (sao khô ngâm rượu) nhưng uống rượu thì ngâm với bánh chay vào buổi chiều, buổi sáng, không ăn chay từ ngày 1 đến 10 tháng giêng (đối với người lớn).

Tháng 1 đến tháng 3 không ăn thịt trâu.

Tháng 4 đến tháng 8 không ăn thịt chó.

Nhà nào cũng phải có giếng nước hoặc 4 đến 5 nhà một giếng nước ăn cho hợp vệ sinh.

Mỗi năm làng phải làm 1 cái đèn giấy to thắp ở đền, qua ngày 15 tháng giêng ai có tiền nhiều thì làng sẽ bán cho mang về. Khi mang được đèn về thì phải khao làng và làng sẽ có lễ mừng.

Trai 18 tuổi mới được lấy vợ, gái 16 tuổi mới được lấy chồng.

Con lấy vợ, lấy chồng khi ở riêng sẽ được làng khuyến khích gấp cho 1 lạng bạc. Hàng tháng con phải đóng góp tiền để nuôi bố mẹ, không được thờ ơ khinh bỉ bố mẹ, nếu thờ ơ khinh bỉ sẽ bị làng phạt từ 3 đến 5 lạng bạc và đánh phạt từ 5 đến 20 roi.

Trên đây là lệ làng viết năm Thành Thái thứ 6 (1894) do Tiều viên Chu Nhuế viết.

Lệ làng Thu Xà có những đặc thù riêng của đồng bào Hoa và Việt vùng Quảng Trị, còn đậm màu sắc nguyên thuỷ. Song, chắt lọc trong lệ làng Thu Xà, sẽ rút ra được nhiều khía cạnh thể hiện tính nhân ái, vai trò trưởng làng đối với khối cộng đồng dân tộc, cần được tiếp tục nghiên cứu.

 

LỆ LÀNG AN VĨNH, HUYỆN BÌNH SƠN,

TỈNH QUẢNG NGÃI

 (Theo gia phả họ Vũ do ông Vũ Huy Cận 88 tuổi, quê ở làng An Vĩnh huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi giữ).

Họ Vũ nhiều đời làm lý An Vĩnh, gia đình ông ở làng An Vĩnh, ra đảo Lý Sơn làm ăn, đến đời thân sinh ông là Vũ Huy Hiền (năm 1969) là 12 đời. Đảo Lý Sơn thuộc khu quần đảo Hoàng Sa.

Dân An Vĩnh ra đảo từ thời chúa Nguyễn gồm có họ Nguyễn, họ Vũ, họ Hà, họ Mạc hơn 20 gia đình nên ở đảo Lý Sơn mới có phường An Vĩnh. Tuy ra đảo nhưng nhân dân vẫn lệ vào xã An Vĩnh của huyện Sơn Tịnh. (Ông Lý ở An Vĩnh thu thuế cả ở đất liền lẫn ngoài đảo).

Trong xã An Vĩnh có đền thờ chúa Nguyễn Phúc Chu (chúa Quốc), hàng năm cứ đến ngày 10 tháng giêng thì làm lễ chúa. Lễ vật gồm các chép 10 con, xôi 10 cân, thịt lợn 100 cân để lễ trời đất và lễ chúa. Lệ làng quy định: ai ở phường An Vĩnh đều phải đóng góp tiền để làm lễ.

- Dân đảo Lý Sơn mỗi nhà phải có 2 thuyền (1 thuyền lớn và 1 thuyền nhỏ) để 1 thuyền đi và 1 thuyền ở lại, nếu không ông lý không cho đi. Trong lúc lễ nếu cá bị chết là không may, nhân dân phải đề phòng tai nạn, phải dè chừng mọi việc trong gia đình.

- Dân ở Lý Sơn ra Hoàng Sa, Trường Sa 4 tháng một lần, nhưng chuẩn bị lương thực và các thứ nước nôi thuốc men cho trọn 6 tháng. Nếu đi về bị thua thiệt thì ông lý ở An Vĩnh đất liền kêu miễn dịch với quan trên.

- Ai ra đảo đều phải có nhiệm vụ giúp đỡ nhau, mỗi khi ra đảo về, bán đổi đi nếu được 10 phần thì 2 phần để vào công quỹ, khi có điều tai biến thì ông lý lấy đó ra để chi phí (xã không lấy 2 trên 10 đó để chi việc riêng của ông lý). Từ thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1748) thì nhà Nguyễn cử người ra chỉ đạo trực tiếp khai thác hai quần đảo. Ban đầu là quan bồi thần Ngô Văn Du đem 10 thuyền gồm 50 người ra cùng dân An Vĩnh chỉ đạo khai thác, song ba năm đầu đều do dân làng An Vĩnh và Ngô Văn Dụ tự chia nhau hưởng. Ba năm này triều đình chỉ cho 10 thuyền của Du và 20 thuyền của dân khoảng 30 gia đình, mỗi gia đình một năm, số tiền khoảng 50 thùng thóc, tính ra mỗi gia đình ăn gạo phải 30 tháng mới hết. Từ năm thứ tư tức quãng năm 1752 thì xã thu mỗi nhà (nếu không bị thất thoát) mỗi năm 20 thùng thóc. Từ thời chúa Nguyễn Gia Long mới chính thức có 10 đội quân, mỗi đội 10 người ra khai thác ở hai quần đảo và trụ tại đó. Song dân vẫn được khai thác bình thường và bán lại cho hai đội thuyền lấy tiền chi dùng.

- Từ năm 1750 nhà Nguyễn đã cho Nguyễn Đức Trường đem quân đóng ở Trường Sa và Nguyễn Du Vũ đem 50 người đóng ở Hoàng Sa để quản lý đảo và bảo vệ cho dân. Thường thì từ tháng 10 âm lịch, ngoài đảo đem 10 thuyền về Lý Sơn và chuyển về kinh những sản vật mà công khố Nhà nước quản lý.

- Ai có nhà ở đảo Lý Sơn đều có nhà ở làng An Vĩnh đất liền, ai không có nhà ở đất liền thì không được ra đảo. Mỗi gia đình một nửa số khẩu ở đất liền, một nửa ra đảo, ai chuyển 2/3 ra đảo thì phải phạt và bắt quay lại, cả năm không cho ai ra đảo nữa.

- Ai có con lấy chồng lấy vợ đều được phường giúp đỡ, lấy vợ được 10 quan tiền, lấy chồng được 5 quan (nếu lấy chồng ở làng khác).

- Ai có con trai được phường giúp đỡ 10 quan. Đến tuổi đi học phường giúp 5 quan.

- Ai từ 55 tuổi thì không được ra khơi.

- Từ 60 tuổi thì được lên lão, lên lão thì đóng vào phường xã một quan tiền để lễ vua, lễ thành hoàng Nguyễn Phúc Duệ (ông Phúc Duệ được vua Phúc Thuần phong làm thành hoàng).

- Các hải sản yến sào, đồi mồi nếu nhà nào có không bán cho chúa thì sẽ đuổi ra khỏi phường không cho ra khơi nữa.

- Lễ chúa Nguyễn Phúc Chu từ 10 đến 12 tháng giêng bằng cá chép từ ao nhà nuôi để lễ.

- Lễ ông Lý Nguyễn Phúc Duệ thì lễ xôi thịt lợn vào ngày 5 tháng 5 âm lịch. Lễ trong hai ngày 5 và 6.

- Ai khai thác được nhiều hưởng nhiều, ít hưởng ít, không được ăn chặn của nhau, nếu ai có hành vi xấu, ông Lý sẽ tâu lên triều đình hành tội, lưu đày từ 10 đến 20 hoặc tử hình.

- Ai nghèo khó trong phường phải hết sức giúp đỡ, nếu ông Lý lờ đi, sẽ bị huyện quan trách phạt, hoặc đầy đi khổ sai ở xứ khác.

- Hàng năm để ra 2 tháng giúp nhau sửa nhà sửa cửa, nếu ai nhà cửa không vững để cho bố mẹ vợ con ở, sẽ cấm không được ra khơi.

- Thuyền bè của ai không tốt, lương thực không đủ, vũ khí không đủ (thời Lê Hiển Tông trở đi mới có trang bị vũ khí) sẽ không được ra khơi.

- Trước khi ra đảo, phải lễ ở nơi thờ vua, thờ thành hoàng và hứa làm đủ 5 điều:

- Với bố mẹ lo đủ ăn đủ mặc.

- Với vợ con nhà cửa đã làm đầy đủ.

- Với triều đình tuân theo luật lệ.

- Với bạn làm, phải chân thật và giúp nhau khi hoạn nạn.

- Với bản thân phải cẩn trọng khi làm việc và không ăn chơi sa đoạ. Khi ra đến đảo phải tế trời đất, hải thần, phong thần, thiên quan rồi mới đi làm.

Trên đây là những quy định của một làng chài Quảng Ngãi. Cuộc đời của họ gắn với biển khơi, may rủi, song các điều khoản mà làng đề ra thiết nghĩ là những sự ràng buộc cần thiết, không chỉ lợi cho Nhà nước trong việc quản lý hải sản quý hiếm, mà còn lợi cho từng nhà, từng cá nhân. Điều đặc biệt là củng cố sự đoàn kết hương thôn, tính cộng đồng xã hội.

Lệ làng An Vĩnh Quảng Ngãi còn nói lên sự quan tâm của Nhà nước đối với làng nghề đặc biệt, bám trụ sản xuất trên quần đảo đặc biệt, vừa thu lợi, vừa là vị trí tiền tiêu của Tổ quốc.

 

LỆ LÀNG VÂN HOÀ, XÃ SƠN LONG, HUYỆN SƠN HOÀ, TỈNH PHÚ YÊN.

Xã Vân Hoà có ba ấp là Bình Trị, Bình Điền và Phước Hậu (từ huyện lỵ Đồng Xuân đi về phía Tây 20 dặm đến xã Phúc Đức, lại 2 dặm đến thôn Phú Thành, lại 1 dặm đến thôn Cự Phú, lại đi 5 dặm đến thôn Vân Hoà, từ đây đi về phía Tây suốt đến địa giới 2 nước Thuỷ Xá và Hoả Xá. Hai bên đường là trại sách của người Man, núi khe hiểm trở, có nhiều nạn cọp).

Làng có 2 miếu (miếu gọi là dinh), dinh ông thờ bản cảnh thành hoàng Mai Đức Phương giỗ ngày 5 tháng giiêng, dinh bà thờ Thiên thánh Mẫu Yana.

- ấp Bình Trị: Buôn bán và làm vườn (trồng mít là chủ yếu và cam quýt).

- ấp Bình Điền: làm ruộng.

- ấp Phước Hậu: trồng thuốc lá, săn thú rừng (săn bằng bẫy, lưới không dùng nỏ hay súng bắn).

Ông Mai Đức Phương người ở Thanh Hoá vào lập ấp, dân làng thờ làm thành hoàng. Ban đầu ông dạy dân trồng "mít tố nữ" cho dân Vân Hoà, sau các nơi trong tỉnh Phú Yên đều lấy giống mít Vân Hoà về trồng.

Lệ làng quy định cho các hộ: mỗi năm một hộ sẽ đóng vào công quỹ một đồng, để dịp 25 tháng chạp làng làm lễ kỷ niệm ở miếu Ông, ai không đóng sẽ bị làng phạt, không nhận là dân làng nữa, tiền phạt là 20 đồng. Nếu biết lỗi nhận phạt và đem lễ: 1 quả mít, 1 đấu gạo nếp, 1 gà lễ tại miếu Ông thì làng xá tội.

Làng Vân Hoà thuộc huyện Sơn Hoà, là một huyện mới được thành lập dưới thời Thành Thái (1899). Đất đai Vân Hoà và nhiều xã trong huyện rất phù hợp với việc trồng mít. Việc trồng mít ở Vân Hoà còn được ông tổ Mai Đức Phương bày dạy cách trồng và cung cấp giống mít do đó đã đem lại lợi nhuận cho địa phương. Đây cũng là loại cây lưu niên trở thành đặc sản của địa phương, được nhân dân trong vùng, trong tỉnh ưa thích tìm mua. Từ nguồn gốc cây "mít tố nữ" nên lệ làng quy định cho dân phải có ý thức bảo tồn giống mít, phải trân trọng giống mít, đưa sản phẩm vào cuộc sống đời thường, cũng như đời sống tâm linh. Do vậy mà làng định lệ.

- Trai làng lấy vợ, phải cùng vợ trồng một cây mít kỷ niệm lại quê.

- Gái làng đi lấy chồng xa quê, phải cùng chồng trồng một cây mít trước khi rời quê về nhà chồng.

- Khi có công việc trong nhà, kể cả việc làng, việc họ nếu làm cỗ đều phải có món mít xào. Nếu không có coi như bất kính.

- Lễ vật dâng ở đền, miếu phải lưu ý sản phẩm địa phương là mít, ngoài ra có thể dùng thêm chuối, cam quýt.

Sơn Hoà là địa bàn người bản xứ và người Hoa ở đan xen, nên đối với các vị thần người Hoa người Việt đều có ý thức tôn trọng như nhau. Ngày 4 tháng giêng tổ chức lễ ở miếu Bà Tiên Thiên Thánh Mẫu Yana. Ngày 5 tháng giêng lễ tại miếu ông Mai Đức Phương và cả các ngày lễ tạ, người Hoa, người Việt đều được lễ như nhau. Việc dâng lễ thì người Hoa thường dâng thêm một đấu dầu thơm và một cái đèn lồng có chữ "tứ thông bát đạt".

- Việc thu thuế ở chợ vào tháng cuối năm sẽ dùng vào việc lễ ông Thành Hoàng.

- Trong làng nếu ai túng thiếu quá, làng phải có nhiệm vụ giúp đỡ vực dậy, không được để cho họ phải bỏ đi nơi khác, nếu làm không nổi, ông trưởng làng sẽ bị làng cách chức, tìm người khác lên thay.

- Khi săn được thú dữ ở rừng, người ấy phải làm lễ ở miếu Ông để tạ ơn.

- Năm nào được mùa dân làng phải làm bánh dày, bánh chưng để lễ tạ vào ngày 10 tháng 10 âm lịch, mất mùa thì lễ cầu.

- Trước khi làm giỗ bố mẹ ở nhà, phải ra lễ cáo ở đền Ông, lễ trước ngày chính kị 1 ngày, rồi mới về nhà làm giỗ.

Lễ Thánh Mẫu: làm bánh gạo rang tẩm mật rồi nén vào hoa quả cùng bánh bao. Một phần bánh gạo rang tẩm mật cúng xong, đem thả xuống sông.

- Cưới con thì bố mẹ phải ra lễ thánh Mẫu, xin sợi tơ đỏ về buộc vào tóc cho con gái và con gái lấy một sợi se lại để quàng vào cổ cho chồng. Trước khi cưới một ngày, đôi nam nữ phải thưa chuyện với bố mẹ: xin hứa với gia đình và thề ở miếu Ông, miếu Bà là không bao giờ tái giá, sẽ ăn ở hoà thuận trăm năm.

- Đẻ con trai hay con gái cũng đều phải trồng 1 cây không nhất thiết là cây gì, chăm cho cây tốt cũng như chăm cho con lớn khôn.

Một số lệ làng của xã Vân Hoà trên đây quy định về việc cư dân Việt hay Hoa sống trên địa bàn đều có quyền như nhau, tôn kính thần thánh, tổ tiên, thành hoàng như nhau. Đặc biệt nói về tục lệ trồng và sử dụng sản phẩm của cây đặc sản địa phương, việc đùm bọc, giúp đỡ dân làng cùng tiến lên đạt cơm no áo ấm.

Điều đáng quan tâm là tục lệ quy định trồng cây khi xây dựng gia đình, khi sinh con cái trên mảnh đất bán sơn địa đã có một ý nghĩa rất lớn, không chỉ kế thừa truyền thống mà còn nói lên trách nhiệm người dân đối với vùng núi rừng là phải vun trồng giữ màu xanh nguyên thuỷ.

Lệ làng Vân Hoà do Lê Văn Thuận viết lại năm Duy Tân thứ 2 (1908), tuy không phải là lệ gốc khi lập làng, nhưng cũng là những luật lệ phù hợp với bản sắc, đạo lý dân tộc cần nghiên cứu trân trọng.

 

LÀNG HOÀ AN, XÃ HOÀ AN, HUYỆN AN PHƯỚC, TỈNH THUẬN HẢI.

 (Lệ làng do tú tài Ka Nhi và Si La viết năm Tự Đức thứ 20 (1867)).

- Dân làng có hơn 36 hộ người Chăm.

- Tết Ka Tê người Chăm ăn vào đầu tháng bảy theo lịch Chăm (lễ Bơn Ka tê cử hành vào ngày 1 tháng 7). Tết này tại các đền Đông đền Tây và tại các xóm đều rất sùng bái, làng An Hoà cũng như các làng khác ở huyện An Phước (huyện này do chúa Nguyễn Phúc Chu đặt năm 1967) đều coi trọng tết Ka tê.

Hàng năm vào cuối tháng 6, lúc tắt trăng, ông từ đền, là người Raglay và ông từ người Chăm (người Raglay và Chăm thường ở lẫn với nhau hoặc lấy nhau) mang các đồ quý của Quốc vương ban cho làng thuở trước, cùng gà, chim, xôi, thịt lợn, hoa quả xuống miếu Đông xin thần được làm lễ Ka tê. Tối đến thì cử hành âm nhạc, múa may khoe quần áo theo âm điệu Kam pơ long trọng (miếu Đông và miếu Tây đều lễ như nhau).

Sáng 1 tháng 7 người Chăm làm thịt gà trống, đồ xôi trắng, nấu chè bột sắn làm cỗ cúng tại nhà, khi mặt trời lên cao 2 con sào (ước nửa buổi sáng) thì rước thần từ miếu Tây về miếu Đông. Miếu Tây thờ Thánh Mẫu Pô - I - Nư Nagar, miếu Đông thờ vua. Trước khi rước tại 2 đền đều làm lễ mở cửa, chủ tế bối tế (thầy cả, thầy nhì) nói lịch sử vua.

Sau đó thầy cả làm lễ tắm tượng rồi lấy nước này té vào người lễ, ai hứng được thì năm ấy sẽ được may mắn, các vật của các nhà đưa đến đền (tháp) để lễ, lại xin xuống để ăn và mang về. Lễ này cử hành từ nửa buổi sáng đến nửa buổi chiều.

- Hội này kéo dài từ 1 tháng 7 đến 15 tháng 7, tức từ khi trăng mọc đến lúc trăng tròn, ý nói lúc khí dương đang thịnh sẽ gặp điều may, lành. Ba ngày sau 1 tháng 7 thì mọi người ra lễ đền và chúc các chức sắc, từ ngày tháng 4 đến tháng 10 hay 11 thì lễ ở nhà và mời mọc nhau ăn uống.

- Trong 3 ngày ở đền thì con gái, con trai có nghề đều đến xin khéo, (xin thần phù họ cho giỏi nghề, lắm việc), tổ chức ngâm thơ vịnh cảnh, xin xăm rất vui vẻ.

Cuộc vui kéo dài hàng tuần, các nơi đến nhà nhau ăn uống vui vẻ như tết Nguyên đán của người Kinh. Trai gái ăn uống, cùng nhau hò hẹn kết duyên đôi lứa.

- Lấy nhau thì hứa cùng nhau chỉ 1 chồng 1 vợ, gái thì không tái giá ở vậy nuôi con, trai nếu không có con trai thì mới lấy vợ khác, nhưng từ 50 tuổi mới được lấy vợ kế. Còn sớm hơn thì phải được vợ đồng ý.

- Ai có đồ vật gì khéo thì trưởng làng đem đồ ấy dâng lên quốc vương. Quốc vương nhận thứ ấy, lại ban lại cho làng và cá nhân đưa về kỷ niệm.

- Con gái có lễ trình quần áo trước khi đi lấy chồng và hứa hẹn với thầy cả (lễ trình y phục gọi là Pơh Akha rao).

- Tất cả các ngày lễ đều phải lễ trời, đất rồi mới lễ đến vua đến thánh.

- Bố mẹ không bắt buộc các con, nhưng bố mẹ đồng ý mới được lấy nhau.

- Bố mẹ có đồng ý, trai gái yêu nhau phải trồng một cây ở đâu đó, cây có tươi tốt bền vững, thầy cả mới lễ trời đất và làm lễ ở đền (tháp) cầu đảo cho đôi lứa tốt lành.

- Cưới về nhà thì bố mẹ phải có nhà riêng cho con cái ở.

- Việc cưới xin tuỳ nghi giàu nghèo mà làm.

- Nơi ở thì chọn chỗ có dòng nước chảy lại.

- Làm việc gì lớn thì làm vào từ khi trăng mọc đến lúc trăng chưa tròn.

- Không ai được bắt rắn và ăn thịt rắn.

- Khi trong bản có người đau yếu túng thiếu quá, người trùm phải lo việc, báo với thày cả tụ hội dân lên đền (như ở đình tại miền xuôi người Kinh ở) để bàn cách giúp đỡ.

- Việc thuế má, cống nạp cho triều đình, do dân bàn, nếu đủ ăn thì nộp, không đủ ăn thì xin khất lại hoặc kêu với quan trên miễn trừ cho.

- Ngày tết mỗi người trong nhà phải khuyên nhau trồng lấy một cây nhỏ ở trong vườn.

- Trước nhà ở phải có nước, nếu không thì phía đông phải có nước, hãy ở vào nơi có con suối nước chảy lại không ở vào chỗ nước chảy rẽ ra hai bên.

- Khi gia đình có người già mất phải trích quỹ chung ra giúp, việc giúp này còn tuỳ theo gia đình nghèo, giàu mà giúp nhiều, ít tuỳ tâm.

Qua phong tục tết Ka tê của người Chăm Thuận Hải, tục thờ thần và các việc cưới xin, trồng cây, quan tâm người già, người đau yếu khó khăn thể hiện quan hệ làng xã có sự ràng buộc chặt chẽ, sự quan tâm và trách nhiệm cụ thể đối với từng gia đình mà trùm bản thay mặt dân phải chịu trách nhiệm.

Phong tục tập quán người Chăm Thuận Hải và một số nơi đồng bào kinh miền xuôi, có những nét tương đồng về nghi thức hành lễ, lại có nét giống nhau về quan điểm. Phải chăng còn chứng minh bản chất các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam đã có sự dung hợp, đồng nhất và rất đạo lý, giàu nhân ái.

 

TỤC CŨ Ở LÀNG NÚI HÒN SAM, XÃ VĨNH TẾ, CHÂU ĐỐC, AN GIANG

- Làng núi Hòn Sam cách thị xã Châu Đốc 5km, núi cao 237m, chung quanh núi có đường mòn đi lại. Nơi đây có vùng Bẩy núi thường gọi là Thất Sơn có miếu bà chúa Xứ, Vĩnh Tế giang thần miếu.

- Lễ bà chúa vào ngày 25 tháng 4 hàng năm.

- Lễ Sơn thần ngày 1 tháng 10.

- Lễ Thuỷ tổ họ Chu, họ Nguyễn, họ Bùi vào ngày 26 tháng 4. Tương truyền dân các họ này ở vùng Quảng Trị đến, từ thời chúa Sãi (1630).

- Bà chúa Xứ là vị thần về đây sớm nhất, nên ngày kị 3 tổ 26 tháng 4 đều phải rước lễ từ đền Tam tổ về đến núi bà chúa Xứ, mãi sang chiều 27 mới rước về. Lễ bà chúa và tam tổ bằng ngô trắng đồ với gạo nếp. Mỗi năm 4 gia đình chịu việc làm lệ, sang năm lại 4 gia đình khác.

- Ngô đồ: Gồm có ngô trắng, gạo nếp, đậu xanh, hành mỡ. Ban đầu tế trời đất, sau đó đến tế chúa Xứ và thần tổ.

Tế xong mỗi gia đình phải được một bát đem về làm lộc, nếu năm nào làm lệ chia ra không đủ mỗi nhà một bát, thì bốn gia đình này phải phạt một quan tiền và quét đền Tam tổ 30 ngày liền.

- Trước tôn thần tổ làm thần hoàng, sau tôn Thoại Ngọc Hầu, là người tôn sùng bà chúa và giúp dân làm thành hoàng thứ 4. Lễ Thoại Ngọc Hầu thì lễ tam sinh vào ngày 5 tháng 5.

- Lễ Thoại Ngọc Hầu ngoài việc làm cỗ tam sinh còn lễ bánh dầy, bánh mật và hoa quả. Lễ xong chia mỗi nhà 1 bánh dầy và 1 bánh mật.

- Mộc dục bà chúa Xứ vào nửa đêm 24 rạng 25. Thay áo mới cho bà chúa, còn áo cũ xé ra cho mỗi người một mảnh mang về làm khước. Nước mộc dục (tắm tượng) giành cho khách thập phương lấy chai đem về để uống, truyền thuyết địa phương cho nước này chữa được bệnh nan y ở cõi đời.

- Ngày 25 rước bát nhang Thoại Ngọc Hầu đến miếu Bà. Lễ bà chúa còn dùng chè đậu, xôi ngô là sản phẩm trong vùng do chúa ban cho để lễ.

- Ngày 26 lễ cầu an và xin xăm (thẻ), nếu được xăm tốt thì làm lễ tạ, nếu xấu thì ngày hôm ấy làm lễ giải hạn, hay sau đó hành lễ giải tuỳ nghi.

- Ai túng thiếu thì làm lễ trước miếu Bà xin vay tiền và đến đó nói với người chủ sự ở miếu nhặt lấy 1 đồng. Khi làm ăn phát đạt thì lễ tạ và có thể trả là 10 đồng, hoặc 100 đồng tuỳ ý.

- Nếu ai hiếm con cũng đến lễ Bà để xin con, lễ thì dùng các thứ ngô, đỗ để lễ, tiền 1 đồng, cá 1 con, chim 1 con. Cá và chim thì phóng sinh đi.

- Khi người làng sinh con trai thì được ông Lý ban cho 1 quan tiền và 100 hạt ngô.

Mấy điều ghi trong hương ước đền Núi Sam do cử nhân Nguyễn Văn Tuế viết năm Tự Đức thứ 10, lý trưởng Trần Nguyễn Dư, cựu Đội trưởng Chu Xuân Hiệp ký tên, tuy mộc mạc song cũng là những điều đề ra giúp dân có nếp sống thuỷ chung, giữ gìn kỷ cương, giữ gìn đạo lý ăn quả nhớ người trồng cây.

Nhân dân vùng Bảy núi sống gần biên giới Cămpuchia, người Kinh, người miền núi sống lẫn lộn, việc tin ở bà chúa đất là điều tất nhiên và tuy có những điều hương ước ghi nặng về mê tín, song nó phản ánh thực sự đời sống tâm linh địa phương. Lễ vật cũng dùng sản phẩm tại chỗ mà đất núi rừng làm ra. Hương ước làng núi Hòn Sam ít nhiều sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về mảnh đất, con người miền Tây Nam Tổ quốc.

 

THAY CHO LỜI KẾT

"LỆ LÀNG VIỆT NAM TRONG TÂM THỨC DÂN GIAN" là tập sách đề cập tới tục lệ một số làng xã trong phạm vi hẹp, hoặc tập tục mang tính chất vùng bao gồm nhiều thôn xã thuộc 12 tỉnh trong cả nước. Có tục lệ quy định mọi thành viên trong cộng đồng phải tuân thủ việc giữ gìn trật tự trị an thôn xóm, bảo vệ cây cối, mùa màng, chấp hành nếp sống, kỷ cương. Có tục lệ ngặt nghèo đối với các thành viên làng nghề, nhằm giữ gìn bí truyền đối với nghề truyền thống, đề phòng nghề nghiệp phát triển tràn lan, ảnh hưởng đến đời sống quê hương. Có tục lệ định trách nhiệm con cái đối với cha mẹ, vợ con khi thoát ly gia đình ra đảo, ra khơi làm ăn. Hoặc quy định tục lệ phụng sự đối với thần, phật, các anh hùng dân tộc, các tổ lập làng, tổ dạy nghề, dạy chữ... để cho nét đẹp quê hương không bị mất đi, hay nói khác là giữ tính "Chân - thiện - mỹ" của dân tộc...

Những tài liệu, thần phả, gia phả, bi ký, truyền thuyết có liên quan đến tục lệ ở 36 địa phương khác trong nước đang tiềm ẩn chưa được khai thác, để ôn lại những hương sắc cổ xưa, giúp việc thực hiện hương ước làng văn hoá ngày nay thêm hiệu quả. Việc nghiên cứu lệ làng phải dày công, cực nhọc, mà công việc của chúng tôi làm được cũng chỉ chiếm một phần nhỏ.

Hy vọng "LỆ LÀNG VIỆT NAM TRONG TÂM THỨC DÂN GIAN" sẽ được bạn đọc gần xa đón nhận để đọc, để nhớ lại những điều xưa của ông cha, giúp ta nhìn lại mình, nhìn lại quê hương xứ sở của mình, từ đó mà gạn đục khơi trong, vững vàng đứng giữa thời mở cửa lộng gió, xây dựng cuộc sống gia đình ấm no, đời sống tinh thần, văn hoá tiên tiến trên cơ sở giữ gìn bản sắc dân tộc.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Việt Nam phong tục - Phan Kế Bính Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1990.

2. Làng Việt Nam, một số vấn đề về kinh tế - xã hội - Phan Đại Doãn, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1992.

3. Văn hoá làng và làng văn hoá, văn hoá học đại cương và cơ sở văn hoá Việt Nam. Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996.

4. Hương ước và quản lý làng xã - Bùi Xuân Đính, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998.

5. Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994.

6. Phương Đình dư địa chí - Nguyễn Siêu, Nhà xuất bản Sài Gòn, 1959.

7. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1972.

Cùng nhiều tài liệu địa chí, ngọc phả, văn bia, truyền thuyết, sưu tầm, nghiên cứu ở các địa phương trong nước.

 



 

(1) Phía nam đền, cùng một khu nội tự có ngôi phủ tương tự như đền, thờ Mẫu Liễu Hạnh công chúa.

(1) Dát Dâu: Dát có nghĩa như là dốc núi, vực núi (Dát Dâu rất sâu, rất thẳm).

(2) Có người còn gọi sông này là sông Võ Cố, tướng chống giặc Minh ở thể kỷ XV.

(1) Tổng Quyển Sơn gồm 14 thôn: Quyển Sơn, Phù Thuỵ, Thanh Nộn, Bút Trại, Đồng Sơn, Phú Viên, Lạt Sơn, thôn 1 Phù Vân, Phù Cường...

(1) Bài phú này được sao chép, cùng với bài văn tế bằng chữa quốc ngữ cho mọi người đều biết.

(1) Sách do ông Dương Văn Vượng cán bộ hán nôm Bảo tàng Nam Hà phiên âm - dịch nghĩa.

* Nam Sang: là địa danh cũ của huyện Lý Nhân.

(1) Trò chạy gậy: Hai tổng cờ y phục, khăn màu đỏ cầm cờ thần đứng đầu, tiếp đến các trai làng, gái làng mặc đồng màu, thắt lưng vải đỏ, tay cầm gậy dài 2m vừa chạy vừa dơ ngang, dơ dọc, hay dùng gậy đâm xiên bên trái, bên phải theo lệnh cờ hiệu, chạy quanh sân đình ba vòng rồi dẫn quân chạy vào phía sau đình, tượng trưng quân đội của thánh phụ luyện tập võ nghệ...

(2) Giằng bông: Cây bông làm bằng tre. Đoạn tre dài 0,60m được vót hai đầu thành những búi lồm xồm như bông. Sau khi mọi người trai làng của các giáp tập trung theo hàng trước cửa đình làm lễ vái thánh thì tế chủ tung cây bông ra sân mọi người tranh giành cướp cây bông. Mỗi khi có người cướp được thì tất cả ồ lại giằng co kéo về phần mình, giành phần thắng trong tiếng trống, tiếng hò reo của bà con trong sân.

1 Dân Hoài Cát: nhờ hai vua hiền nên sống yên vui.

2 Người Đường Ngu: nhờ vua hiền nên no ấm, tuổi cao.

3 Trò chơi ném nhưỡng bằng gỗ trên đường.

4 Chín chục mùa xuân tươi đẹp.

5 Ý nói tám nghìn năm là một mùa xuân, một mùa thu thời Thượng cổ.

* Chắc chép lầm, các tài liệu khác ghi ông sinh 10 - 12 - 1226.

(1) Việt Điện U linh chép: Thời kỳ đầu nhà Trần ở địa phận sao Chẩn có dải khí trắng bốc lên. Thần Tản Viên tâu lên nạn ngoại xâm. Thượng đế hỏi ai xuống hạ giới quét dải khí trắng sẽ cho mang theo phi thiên thần kiếm, cờ, ấn, tam bảo của Lão tử, ngũ tài của Thái công. Bấy giờ Thanh Thiên đồng tử xin đi.

(1) Toàn thư bản ký 6 quyển: Khi Vương sắp mất dặn con hoả táng, lấy ống tròn đựng xương, ngầm chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất trồng cây lên...

(2) Dịch theo "Trần triều hiển thánh chính kinh tập biên" in tháng 8 năm Kỷ Hợi niên hiệu Thành Thái 11 (1899) tại đền Cố Trạch, xã Lộc Vương, ngoại thành Nam Định.

(1) Tại huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh cũng có làng Vân Chàng và cũng làm nghề rèn truyền thống.

(1) Truyền thuyết: Thuỷ thần là thần thuỷ tế Đặng Tưởng Công tức Quốc công Đặng Dung, tướng thời Giản Định Hậu Trần.

(1) Quý Minh đại vương thời vua Hùng thờ tại đền Nam Lạng.

(1) Đền phủ Tiên Hương: Chữ này nên hiểu như chữ đền Cung Vua tại phường Hồng Hà Cọc 5 Quảng Ninh vậy.

Phủ Tiên Hương là từ liền như Cung Vua.

(1) Vốn chữ ở bia viết chữ giày, nghĩa là dày đặc, dày dạn, ngược với nghĩa chữ mỏng. Song trước các bản dịch có viết chữ này, là do theo người thời nay sử dụng Quốc ngữ, nguyên trước không viết chữ dày là dày dép này.

(1) Sáu sự lạ tức Thiên Bản lục kỳ. Theo Đốc học Hà Nội Khiếu Năng Tĩnh:

+ Liễu Hạnh công chúa ở Vân Cát từ năm Đinh Tị (1557) đến năm Đinh Sửu (1565) họ Lê tên Thắng.

+ Ngô Thị tên tự là Ngọc Đài ở Bảo Ngũ, vợ Trịnh Tráng (1623 - 1657).

+ Đền Tam Danh: ba anh em Sừng, Sỏ, Sát ở Bảo Ngũ.

+ Đền thờ Lã Gia (năm 111 trước Công nguyên) ở Vân Côi. Ông là tướng thời Triệu có công đánh Hán.

+ Cường bạo đại vương ở Bối Tuyến. Ông hiển thánh để lại vết chân bên mộ.

+ Điền Quận Công là em Ngô Thái Phi đền ở Bảo Ngũ niên hiệu Vĩnh Khánh (1729 - 1732) ông đốc đắp đê Kim Tông (Ngọc chấn Yên Trị, Ý Yên) chống nhau với Đặng Thuỷ thần bị chết, hiển thánh ở quê xin chị báo thù.

(2) Dịch là xã Yên Thái khi trước gồm có thôn Tiên Hương và Vân Cát ở trong đó.

(1) Nguyên văn là Vân Cát phủ từ, tức nghĩa là đền phủ Vân Cát, không do người dịch viết sai.

(1) Phả chí: Quyển sách ghi chép

Tự điển: Lệ ngạch thờ cúng, thường lệ ngạch thì hay chép thành sách. Toàn câu ý nói về nguồn gốc tiên nữ tốt đẹp, đã có nhiều sách viết rồi, tại đây không đề cập nữa.

(1) Theo báo Đông Pháp giá cả ở Bắc Kỳ ngày 15 tháng 5 năm 1925, một đồng mua được 5 cân thịt bò, thịt lợn 7 cân, gạo thường 20 cân.

(1) Ba chữ vạn thắng vương trong móc là đoán đọc.

(1) Kim thang: tức kim thành trang trì, thành vàng, hào nước nóng thì khó lòng phá vỡ được. Toàn câu ý nói sự kiên cố.

(1) lan nhai: lát đường

0 comments:

Đăng nhận xét