PHONG CÁCH HÁN VIỆT HỖN HỢP
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
*
(Tác giả Trần Đình Sử) |
Văn học trung đại Việt Nam, do bắc thuộc trong
thời gian dài, nhà nước phong kiến Việt nam sau ngày độc lập, vì cần kíp đã lấy
chữ Hán làm công cụ quản lí hành chính và thi cử chọn nhân tài, tạo ra tầng lớp
trí thức hán học, cho nên bắt đầu viết bằng chữ Hán, phải sau thế kỉ XII mới
bắt đầu có văn bản viết bằng chữ Nôm. Từ đó về sau, tình trạng song ngữ tồn tại
mãi cho đến đầu thế kỉ XX, phế bỏ khoa thi Hán học thì mới chấm dứt. Tình trạng
song ngữ kéo dài tám thế kỉ ấy, ưu thế thuộc về Hán văn, đã để lại dấu ân sâu
đậm cả trong trong văn thơ chữ Hán lẫn văn thơ chữ Nôm. Vốn tri thức Hán học
của tầng lớp tri thức đã “ảnh hưởng đến truyền thống văn Nôm và đến cả tiếng
Việt hiện đại” (Nguyễn Tài Cẩn) là một vấn đề lớn cần được làm sáng tỏ .
Ảnh hưởng của Hán văn đối với văn Nôm Việt Nam đã tạo thành
phong cách Hán Việt hỗn hợp của nó. Cách nói này tôi mượn của ông Ưu Thiên Bùi
Kỉ trong sách Quốc văn cụ thể (1932, 1950) . Trong thiên thứ ba của sách này
ông đã bàn đến “Hán Việt hợp dụng thể”. Chữ “thể” trong tiếng Hán cổ, ngoài
nghĩa là thể văn, thể loại văn học, còn có nghĩa là phong cách. Người ta nói
“văn thể” tức là phong cách thể loại. Lại nói “ngữ thể” tức là phong cách ngôn
ngữ. Từ đó tôi dịch chữ của Bùi Kỉ thành phong cách. Trong bài của mình ông
định nghĩa như sau: “Phàm trong một bài văn mà dùng cả lối ta và lối Tàu thì
gọi là Hán Việt hợp dụng thể”.(tr. 133). Ông dẫn chứng lối lục bát và lối từ
khúc, lối song thất với lối biền ngẫu, cổ thơ, các điệu hát thiên thai, thét
nhạc, kịch, tuồng…trong đó văn đều viết theo lối biền ngẫu. Kiến giải của ông
thật thú vị, nhưng ông chưa nhìn rộng ra toàn thể văn học trung đại, cho nên
cái phong cách mà ông nói chỉ giới hạn trong một phạm vi hẹp. Nay tôi mở rộng
ra và trình bày phong cách Hán Việt hỗn hợp như dưới đây.
Sự tồn tại dòng văn học chữ Hán rồi sau đó là chữ Nôm và dòng
văn học chữ Nôm Việt Nam không hoàn toàn tách bạch nhau mà cộng sinh, liên kết
nhau. Tính cộng sinh là một đặc điểm nổi bật. Cộng sinh nghĩa là sự chung sống
cùng nhau lâu dài của hai chủng loại khác nhau theo kiểu hỗ sinh, kí sinh, hội
sinh, ở đây hiểu theo nghĩa hội sinh, hỗ sinh, mà có phần kí sinh.
Trước hết nói về văn học chữ Hán. Chữ Hán ở Việt Nam tuy có
nguồn gốc Trung Quốc nhưng nó là chữ Hán Việt, nghĩa là cùng một chữ Hán đó,
nhưng lại đọc theo cách Việt, và người Việt chỉ biết có một cách đọc đó, không
ai đọc theo kiểu Tàu. Sự khác biệt này bắt nguồn từ hai hệ thống ngữ âm tiếng
Hán và tiếng Việt vừa có phần giống nhau mà cũng khác nhau rất nhiều. Hệ thống
phụ âm và nguyên âm hoàn toàn khác nhau. Hệ thống thanh điệu khác nhau. Ta có
âm đục, họ không có. Ví dụ ta đọc xuân thì họ đọc “chun”, ta đọc vũ thì họ đọc
“yu”, ta đọc báo thì họ đọc “pao”, ta đọc Đường thì họ đọc “Tang”. Đó là chưa
kể, sự đồng âm của tiếng Hán rất nhiều, nhưng âm Hán Việt thì khác nhau nhiều
hơn. Ví dụ một âm “yi” trong tiếng Hán, bao hàm nhiều tiếng đồng âm mà nghĩa
rất khác nhau, đọc sang tiếng Hán Việt thì có rất nhiều âm rất khác, ví như
nhất, dực, diệc, y (học), y (áo), di (dời), y (dựa theo), dĩ, dĩ (đã), nghệ,
dịch, (phiên) dịch, nghị, nghi, ích, ý, …Sự khác biệt cách đọc và ngữ âm đó cho
thấy chữ Hán Việt Nam là một hiện tượng Việt Nam, một sáng tác Hán Việt, không
thể đồng nhất với chữ Hán nói chung. Như thế văn học chữ Hán Việt Nam cũng mang
phong cách Hán Việt hỗn hợp. Đây là điều mà phần đông học giả Hán không thể
hiểu được.
Lại nói về chữ Nôm, một thứ chữ đọc theo âm Việt, nhưng lại
được cấu tạo bằng các yếu tố chữ Hán, trong đó có rất nhiều chữ Hán nguyên mà
văn Nôm chỉ lợi dụng âm đọc Hán Việt của nó hoặc đọc trại đi theo âm Việt, mặc
dù mã chữ vẫn là chữ Hán. Ví dụ các chữ binh, mã, xuân, thu, cách (xa cách)…đọc
nguyên âm, nguyên nghĩa, nhưng nghênh (đón) thì đọc trại thành “nghiêng”, chữ
“đội” nghĩa là đội hình thì đọc trại thành chữ “đòi.” Có nhiều trường hợp dùng
chữ Hán nhưng đọc theo nghĩa Việt, không dính dáng gì nguyên nghĩa chữ Hán. Ví
dụ cai theo chữ Hán là ngôn+hợi, Tàu hiểu là nên, cần, còn chữ Nôm thì chỉ chức
Cai. Chữ “lại”, có nghĩa là bọn nha lại, trong văn Nôm thì dùng chỉ trợ từ, như
lại còn, lại đi. Tỉ lệ loại này trong chữ Nôm rất cao. Như thế ta cũng có thể
nói chữ Nôm là một văn tự Hán Việt hỗn hợp. Nó không thể độc lập hoàn toàn, mà
cộng sinh với chữ Hán. Nói cộng sinh là bởi vì, một người nếu không biết chữ
Hán thì dứt khoát không thể biết được chữ Nôm.
Sự tồn tại song song của văn Hán và văn Nôm trong một nền văn
học dân tộc thì hai thứ chữ ấy không thể chỉ tồn tại bên nhau mà luôn thâm nhập
vào nhau, phối hợp nhau để tạo nên phong cách Hán Việt hỗn hợp. Nghiên cứu văn
học trung đại Việt Nam mà chỉ biết dòng thơ văn chữ Hán với dòng thơ văn chữ
Nôm, mà không chú ý tới sự pha xen, hỗn hợp của chúng như một phong cách thời
đại sẽ là một thiếu sót. Sự hỗn hợp bắt đầu từ trong văn tự, rồi lan sang thể
loại đồng thời thể hiện trong lối văn Hán Việt bất phân cả lời văn và hệ thống
đề tài, chủ đề, nhân vật. Cần chú ý văn học trung đại Việt Nam không chỉ là
“văn sử bất phân”, mà còn là “Hán Việt bất phân” nữa.
Biểu hiện hỗn hợp thứ nhất là thơ tiếng Việt làm bằng các thể
thơ, niêm, luật theo lối Tàu. Thơ quốc âm trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê
Thánh Tông và các bầy tôi, thơ quốc âm Nguyễn Trãi, thơ luật của Bà huyện Thanh
Quan, Hồ Xuân Hương…Đó là thơ Việt, nhưng theo lối Tàu, không phải thuần Việt,
cho nên cũng thuộc loại thơ Hán Việt hỗn hợp. Toàn bộ thơ Nôm Đường luật Viêt
Nam đủ các thể nhỏ hơn như tứ tuyệt, từ khúc, cận thể, cổ thể, cho đến nay đều
là phong cách hỗn hợp.
Cùng loại này còn có văn phú Nôm, lời Việt mà quy cách là của
Hán, do đó cũng là Hán Việt hỗn hợp. Những bài Ngã Ba Hạc phú, Phụng thành xuân
sắc phú tiếng Việt rất sinh động, nhưng quy cách, văn pháp theo Tàu. Nó cũng là
Hán Việt hỗn hợp thể. Các bài Văn tế theo thể tứ lục như Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu hay Văn tế Phan Châu Trinh của Phan Bội Châu đều
thế.
Biểu hiện thứ hai là những bài văn chữ Hán, nhưng làm theo
thể cách Việt, như Thu dạ lữ hoài ngâm của Đinh Nhật Thận, thơ bằng chữ Hán
nhưng làm theo thể song thất lục bát, dài 136 câu. Đây là bài thơ làm khi bị tù
oan, đêm thu nhớ nhà, nhớ quê, nhớ vợ. Chữ Hán ở đây đã phải phục tùng luật thơ
song thất lục bát của người Việt. Các bài thơ chữ Hán khác viết theo thể lục
bát cũng có tình hình tương tự là vừa Hán vừa Việt. Loại này chính là Hán Việt
hỗn hợp thể, là văn học Việt Nam, không phải văn học chữ Hán.
Biểu hiện thư ba là chêm chữ Hán vào các văn bản Nôm như thể
ca trù, bao giờ cũng có một liên thơ chữ Hán thuần tuý. Ví dụ bài hát nói Chí
Nam nhi của Nguyễn Công Trứ, cả bài làm bằng tiếng Việt, nhưng ở gĩưa chen một
câu Hán văn: Nhân sịnh tự cổ thuỳ vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. Hoặc
như bài hát nói Hỏi gió của Tản Đà trong đó chen các câu chữ Hán: Khoái tai
phong dã, rồi: Thử thị Đà giang phi Xích Bích, Dã vô Gia Cát dữ Chu Lang. Nhà
thơ có thể làm toàn bằng tiếng Việt, nhưng cái thú chêm Hán văn khiến họ coi đó
là quy tắc, thể thức của hát nói.
Biểu hiện thứ tư là văn chèo, văn tuồng nhiều đoạn viết theo
thể văn biền ngẫu của Tàu. Ví dụ một đoạn văn giáo đầu của vở chèo Lưu Bình
Dương Lễ do Bùi Kĩ dẫn ra: “Thiều quang văn tĩnh, quân tử vô song, Nước nhà
thuở quốc thái dân an, Khoa trường mở tuyển văn kén vũ. Tôi nhớ xưa tích cũ, Có
hai chàng Dương Lễ Lưu Bình, Bạn đồng song đèn sách học hành, Ba thu lẻ kể cùng
chăn gối. (Có vẻ tình đồng tính?- Trần Đình Sử). Trời thương kẻ tình thâm nghĩa
trọng, Cho chàng Lưu lại chiếm bảng vàng, Nghĩa bằng hữu, đạo vợ chồng, Tình ý
ấy kể chăng chẳng xiết…” Chèo là thể kịch hát Việt Nam, mà văn thì biền ngẫu
lối Tàu. Cho đến ngày nay các thể văn ấy vẫn viết theo lói từ lục, đối nhau
chan chát.
Văn tuồng cũng đặt theo biền ngẫu, thỉnh thoảng đặt chêm thơ
lục bát, song thất. Giọng hát có xướng, bộ, than, vãn, loạn, bắc, Nam, tẩu
mã…Ví dụ đoạn mở đầu vở tuồng Giang tả cầu hôn như sau: “Âu vàng rực rực, Đuốc
ngọc lầu lầu, Trên chín lần sách gót Đương Ngu, Dưới trăm họ vui lòng Hoài Cát.
Gặp ngày khang cát, Diễn tích người xưa, Truyện Chu Du khéo đặt mưu mô, Dùng
Quận chúa để làm mồi cá. Câu lấy Kinh châu thiên hạ, làm cho Lưu Bị cô thân,
Phải Khổng Minh nhập quỷ xuất thần.Cho Triêu Tử cẩm nang diệu kế…” Tất nhiên ở
đây văn biền ngẫu đã được dùng rất sáng tạo, tạo ra lời nói nhịp nhàng, bằng
trắc chan chat. Nhưng vẫn là một lối hỗn hợp.
Biểu hiện thứ năm là từ ngữ Nôm Hán chen nhau. Đó là văn
trong nhiều khúc ngâm , truyện Nôm. Nhiều thể đối và điển cố Hán. Các văn bản
Truyện Kiều, Cung oán ngâm…đều dày đặc chú thích, đó là vì nhiều chữ Hán và
tích Hán. Thử xem một đoạn của Cung oán: “Cầu thệ thuỷ ngồi trơ cổ độ, Quán thu
phong đứng rũ tà huy., Phong trần đến cả sơn khê, Tang thương đến cả hoa kia cỏ
này. Tuồng ảo hoá đã bày ra đấy, Kiếp phù sinh trông thấy mà đau, Trăm năm còn
có gì đâu, Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.” Trong tám câu trên không có câu
nào là không có chữ Hán. Những thệ thuỷ, cổ độ, thế đồ, tà huy, phong trần, sơn
khê, tang thương, ảo hoá, phù sinh, cỏ khâu…Những chữ này không phải là từ
tiếng Việt, và cũng chưa Việt hoá. Nhưng từ Việt từ Hán pha trộn nghe rất hay.
Trong Truyện Kiều, mức độ chữ Hán thấp hơn, nhưng điển cố dày đặc. Thủ dở các
trang đầu, thậm chí mấy dòng đầu của truyện ta bắt gặp các từ ngữ, điển cố Tàu:
trăm năm, tài mệnh tương đố, bỉ sắc tư phong, bể dâu, caỏ thơm, phong tình có
lục, sử xanh. Gia Tĩnh, viên ngoại, gia tư, nho gia, tố nga, mai cốt cách,
tuyết tinh thần…Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà Mậu của nhà thơ Nam Bộ thơ văn cũng
nhiều chữ Hán và điển cố như thế. Văn phong ấy là văn phong Hán Việt hỗn hợp.
Chỉ có loại truyện Nôm bình dân như Trê cóc, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc
Hoa…là mức độ hỗn hợp thấp.
Biểu hiện thứ bảy là văn Nôm nhan đề Hán. Đại Nam quốc sử
duễn ca là một nhan đề Hán của một thiên lịch sử bằng thơ Nôm, Thiên Nam ngữ
lục là nha đề của một trường ca lịch sử dân tộc khác có trước. Một thiên sử Nôm
khác lị có tên Thiên Nam minh giám. Truyện Kiều được gọi là Đoạn trường tân
thanh, người sau gọi lại thành Kim Vân Kiều truyện vẫn là nhan đề chữ Hán. Một
truyện Nôm kể chuyện tình yêu người tiên và người trần gọi là Bich Câu kì ngộ.
Chinh phụ ngâm thì gọi là Chinh phụ ngâm khúc hay Chinh phụ ngâm diễn ca. Cung
oán ngâm khúc cũng là bằng chữ Hán. Tên một vở tuồng là Giang tả cầu hôn. Đây
hầu như là một quy tắc phổ biến. Không khó gì để đăt nhan đề Việt, nhưng thị
hiếu Hán khiến họ không buông bỏ được một thói quen.
Biểu hiện thứ tám là trong sáng tác, nhà văn Việt Nam, không
chỉ văn thơ, mà cả tuồng, chèo, cải lương sau này, không chỉ sử dụng điển tích
thành ngữ Hán, mà thường vay mượn luôn các đề tài, cốt truyện, tích truyện văn
học Hán để sáng tác lại, thể hiện sự cộng sinh cao độ. Các tác phẩm từ Hoa
Tiên, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm khúc, Song Tinh bất dạ,cho đến Phan Trần, Tây
Sương, Ngọc Kiều Lê, Nhị Độ Mai, Nữ Tú Tài, Lục Vân Tiên…đều là sản phẩm của
môi trường cộng sinh ấy. Chỉ có khi chế độ khoa cữ Hán học chấm dứt, cắt đưt
môi trường cộng sinh, thì phong cách văn học mới thay đổi được.
Trên đây là trình bảy những biểu hiện cơ bản của phong cách
Hán Việt hỗn hợp của văn học trung đại Việt Nam, phân biệt với văn học hiện
đại. Chỉ trong văn học dân gian truyền miệng như ca dao, tục ngữ, câu đố,
chuyện cười…là thuần Việt. Còn toàn bộ văn học viết đều mang phong cách trên,
cho nên không thuần Việt. So với văn học Nôm nói trên, văn học chữ Hán, tức Hán
Việt, bao gồm toàn bộ sáng tác bằng chữ Hán và thể loại, phong cách Hán đúng
theo nguyên mẫu của chúng bên Tàu.
Sự hỗn hợp Hán Việt nêu trên có quy luật của nó. Văn học
trung đại Việt Nam cũng giống như các nền văn học trung đại khác trên thế giới
ở vào giai đoạn sáng tác theo nguyên tắc tư từ (rhetoric). Đó là nguyên tắc văn
học làm theo mẫu sẵn và câu sẵn. Mà mẫu sẵn và câu sẵn thì văn học chữ Hán đã
hình thành hoàn thiện từ thời cổ đại đến Đường Tống. Đó là cái kho vô tận để
các tác giả làm theo. Nhưng nói như thế không phải là nói văn học trung đại
không sáng tạo. Nó sáng tạo theo nguyên tắc dùng từ ngữ sẵn, khuôn hình sẵn. Mở
rộng ra là sử dụng các điển cố có sẵn, các tích truyện có sẵn để biểu đạt ý
mới. Cốt truyện Truyện Kiều là có sẵn, nhà văn không sửa lại bao nhiêu, nhưng
cái ý nghĩa mà nó muốn biểu đạt thì lại mới. Do đó nếu so sánh sự giống nhau
Truyện Kiều với truyện của Thanh Tâm tài nhân về mặt cốt truyện thuần túy là
việc làm vô nghĩa, bởi đó chỉ là cái giống bề ngoài. Chinh phụ, cung oán đều là
những môtiv có sẵn, nhưng tư tưởng của những áng văn Việt Nam là mới mẻ, sâu
sắc. Văn học trung đại không đặt ra yêu cầu sáng tạo thể loại mới, từ ngữ mới,
hình ảnh mới như văn học hiện đại, không yêu cầu thể hiện sắc nét cá tính, do
đó cá tính vẫn có nhưng mờ nhạt, không đều. Khó phân biệt thơ Nôm Nguyễn Trãi
và Nguyễn Bỉnh Khiêm là vì thế. Sự sáng tạo ra lục bát và song thất lục bát,
hát nói đều là phát triển, nâng cao, thể thức hoá từ các khuôn âm vốn đã có sẵn
trong ca dao, dân ca tiếng Việt. Hát nói là sự tổ hợp, phối xen của các yếu tố
đã có như lục bát, song thất, đối, câu thơ dài từ tám chữ trở lên. Và một khi
đã hoàn thiện thì nó không thay đổi nữa. Phong cách này chi phối cả chục thế kỉ
văn học Việt cho đến thời cận đại. Nó cho thấy thời trung đại ta chưa bao giờ
có văn học viết thuần Việt. Chỉ đến khi chấm dứt thi Hán học, chữ quốc ngữ xuất
hiện và thông dụng, ảnh hưởng phương Tây tràn vào thì phong cách ấy mới chấm
dứt để chuyển sang một phong cách mới, hiện đại. Chỉ đến lúc này chúng ta mới
có văn chương thuần Việt. Nhiều người cứ tưởng rằng càng cổ xưa thì càng dân
tộc, nhưng lịch sử cho thấy chỉ đến hời hiện đại tính dân tộc của văn chương
mới đạt đến hoàn thiện với một phong cách mới. Đó là phong cách sáng tạo, cá
tính, chống lại mọi sự ràng buộc của các quy phạm (canon) và không ngừng thay
đổi. Nhà văn lúc này phải tự tìm ra cốt truyện của mình, hình thức của mình,
ngôn ngữ của mình để biểu hiện tư trưởng một cách tự do. Quan sát thơ ca và
tiểu thuyết Việt Nam thế kỉ XX thì sẽ thấy thơ ca, tiểu thuyết về quy cách, văn
phong, kiểu thức, phong cách cá nhân luôn luôn thay đổi, cái sau muốn thay cái
trước, tạo ra một chuyển động không ngừng. Tất cả những thay đổi đó đều nhờ vào
chữ quốc ngữ và văn học quốc ngữ. Giá thử không có quốc ngữ mà vẫn cứ Hán Nôm
như các thế kỉ trước thì văn học Việt Nam sẽ hầu như dẫm chân tại chỗ. Chỉ cần
xem sự lưỡng lự của Tản Đà thì thấy rõ. Ông là nhà thơ tài năng xuất chúng,
nhưng không thể thoát khỏi cái truyền thống Hán Nôm mà ông đã đào luyện hầu như
suốt đời. Hiện tượng này giống như văn học Trung Quốc hiện đại. Nhu cầu đổi
thay ngôn ngữ văn học đã xuất hiện từ giữa thế kỉ XIX, ông Hoàng Tuân Hiến đã
nêu ra khẩu hiệu: “Tay tôi viết miệng tôi”, nhưng nhu cầu ấy phải có một phong
trào xã hội rộng lớn thì mới hoá thành thực tế. Thời “Ngũ Tứ”(ngày 4 tháng 5)
năm 1919 chính là phong trào ấy, nó “lật đổ cửa hàng họ Khổng”, đạp nát mọi cũ
kĩ, tiếp nhận phương Tây, “Chủ nghĩa cầm về” những gì cần lấy của văn học
phương Tây, xây dựng nền dân chủ và sáng tạo mới. Nếu họ không chuyển đổi sang
văn bạch thoại, từ bỏ di sản văn ngôn trong sáng tác thì họ không thể có văn
học hiện đại như ngày nay. Văn học Trung Quốc hiện đại là văn bạch thoại.
Nhìn lại văn học trung đại Việt Nam trong thời đại song ngữ,
trong đó mọt ngôn ngữ đã đạt đến quy phạm và một ngôn ngữ đang xây dựng dần
dần, thì trong trạng thái cộng sinh ấy, văn học Việt Nam tuy có tính độc lập,
song phải sống nhờ vào vật chủ là văn học, sử học chữ Hán thì tính độc lập chưa
thể đạt đến cao độ được. Văn học tiếng Việt dù trác tuyết thế nào cũng không
thoát khỏi sự hỗn hợp cộng sinh với văn học Hán.
Lịch sử là một sự chuyển vần tuy rối ren nhưng hầu như có quy
luật. Một khi đã sang văn học hiện đại rồi thì người ta không thể quay về cái
cũ nữa, mặc dù cái cũ vẫn rất trác tuyệt trong phong cách của nó.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến tâm sự về bài thơ ĐỪNG ĐI:
*.
TRẦN ĐÌNH SỬ
Địa chỉ: phố
Nguyễn Huy Tự, phường Bạch Đằng,
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Email: trandinhsu@yahoo.com
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email: khoidinhbang@gmail.com,
ngày 16.04.2021.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn:
internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của
trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
GÓP VỚI TRANG ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Trả lờiXóa(Copy trên facebook của Thái Hạo)
Thái Hạo
11 tháng 6 lúc 01:10 ·
CHUA CHÁT…
Đã 1h sáng rồi nhưng tôi phải ngồi bật dậy để viết mấy dòng này khi đọc thấy cái tút của thầy Trần Đình Sử (hình 1). Vì nó khiến tôi đi từ hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Mở đầu, thầy Sử viết: “PGS Đỗ Ngọc Thống than phiền về nỗĩ giáo viên thiếu tri thức nền. Tôi đồng ý. Cái chính là chương trình giáo dục đai học của ta hỏng”. Tôi ngạc nhiên vì…chương trình giáo dục đại học ở ta chẳng phải do các thầy soạn ra ư! Nói nó “hỏng” một cách vô tư như thế nghĩa là thế nào nhỉ? Hay là các thầy không có liên quan gì đến cái chương trình ấy? Rồi tôi lại tìm lý do để an ủi chính mình: Hay đây là một sự thành thật, một lời thú tội? Như vậy thì cũng thật đáng quý. Hạ mình nhận lấy một “vụ” tày đình như thế (chương trình giáo dục đại học của ta hỏng) phải là người dũng khí lắm!
Tôi vào phần bình luận để xem các thầy nói những chuyện gì. Một lần nữa tôi phải thấy kinh ngạc (không phải ngạc nhiên nữa) khi thầy Sử nói: “Tôi chỉ tham gia xây dựng chương trình lí luận văn học. Toàn do thầy Hà Minh Đức soạn, tôi chỉ thống qua. Toàn bộ khung chương trình đều do ai đó trên bộ soạn”. Thầy Sử không biết ai đã soạn ra khung chương trình?! Nghe như một chuyện hài.
Trong một bình luận khác thầy nói rõ hơn: “Các thầy như thế hệ tôi, là giảng viên chuyên ngành lí luận văn học, không phải ngành giáo dục học, chỉ được giao từng việc, từng lúc, và chỉ làm tròn việc ấy. Không ai có được cơ hội nhìn toàn cục giáo dục. Bây giờ sau khi tìm hiểu giáo dục bốn phương mới nhìn thấy. Trước dây ta chỉ có tư tưởng giáo dục của Liên Xô, Trung Quốc. Mãi sang thế kỉ XXI mới biết giáo dục phương Tây”.
Tôi thấy đúng là thế hệ các thầy dũng cảm quá. Đào tạo giáo viên phổ thông cho cả nước mà không biết ai đã soạn ra khung chương trình giáo dục đại học! Rồi khi bắt tay vào soạn thì “Không ai có được cơ hội nhìn toàn cục giáo dục”. Thế này thì có khác gì người mù mà đi dạy trẻ con cách sử dụng đèn soi!
Các thầy không thể nói vô trách nhiệm như vậy được. Cho dù “không biết ai đã soạn ra khung chương trình đại học” thì khi nhận nó trên tay để kiến thiết toàn bộ đầu ra cho ngành sư phạm, các thầy phải coi nó hay dở ra sao, chỗ nào cần điều chỉnh, thậm chí thấy nó hỏng thì phải đề xuất làm lại hoặc kiên quyết từ chối chứ! Sao lại có thể nói một cách ráo hoảnh như thế được? Tổng chủ biên chương trình mà thầy nói “không có cơ hội nhìn toàn cục giáo dục” và lại còn "soạn hoàn toàn trong tình thế ứng phó" thì quả thật tôi không biết lấy lời lẽ gì để bình luận nữa.
Cái gì đã diễn ra trong nền giáo dục Việt Nam mấy chục năm qua vậy? Để đến nỗi, chúng tôi, những giáo viên được đào tạo bởi những “cây đa cây đề” bỗng một ngày té ngửa ra rằng, chính những bậc thầy ấy lại cũng không biết mình đang làm cái gì và ở đâu! Tôi thấy mình bị xúc phạm. Đây có lẽ là một sự mỉa mai lớn nhất mà tôi từng gặp phải cho đến giờ phút này sau gần 40 năm hiện diện trên cuộc đời và 10 năm làm thầy với đầy những thăng trầm.
Tôi có cái may mắn là được làm một kẻ vô danh tiểu tốt nên bớt được những e dè và ngại ngần để nói cái tiếng nói của cả một người thầy và một người học trò trung thực với suy nghĩ của chính mình. Có thể vì thế mà cũng sẽ ít người giận tôi, ai lại thèm chấp một kẻ quê mùa không danh không phận bao giờ.
Chợt giật mình, mai đây khi cái chương trình "đổi mới căn bản toàn diện" đang tiến hành mà lỡ có sụp đổ, không biết các vị gs Thuyết, gs Thống có lại nói như thế chăng?
Thái Hạo