CHÂN DUNG
HAY CHÂN TƯỚNG
NHÀ THƠ BẰNG
VIỆT
Tôi không quen ông Bằng Việt, cũng chưa một lần “diện
kiến”, bởi lẽ tôi và ông là hai giai tầng khác nhau.
Ông là con gia đình cách mạng, từ Huế sau khi ra Bắc,
cụ thân sinh thoát ly lên Việt Bắc tham gia kháng chiến, mẹ tham gia hội phụ
nữ, bởi vậy sau ngày Đảng, chính phủ về Hà nội, ông được đi Liên xô học luật.
Còn tôi là học sinh “Hà Nội tạm chiếm”, những năm 60 khó vào đại học, phải đi
lao động Tây Bắc, phấn đấu thành “thanh niên tích cực lao động Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Nếu ông là công dân hạng nhất thì tôi hạng ba, bởi vậy khó gặp nhau.
Tuy nhiên cũng có lần tôi vinh dự được ông nói tới. Đó
là vào năm 1979, nhà thơ Nông Quốc Chấn về làm Giám đốc Nhà xuất bản Văn học
thay nhà phê bình Như Phong.
Sếp cũ vừa đi, sếp mới chưa về tôi đã “vạ miệng” làm
sếp mới nổi trận lôi đình ký quyết định chuyển tôi lên Cao Bằng công tác. Vì
tính chất “trù úm” quá rõ, tôi cương quyết chống lệnh không nhận quyết định.
Lúc đó nhà văn Nguyên Ngọc mới về làm Bí thư Đảng đoàn
Hội nhà văn lóc cóc đạp xe lên Vụ tổ chức Bộ văn hóa xin chuyển tôi về tổ sáng
tác, nhà văn Đào Vũ cũng xin tôi về báo Văn Nghệ… Thật hiếm khi nào Hội nhà văn
“bệnh vực” hội viên mình tích cực như vậy. Tuy nhiên mọi can thiệp đó chỉ làm
sếp mới nổi giận đùng đùng: ”Vận động… anh Nhật Tuấn vận động, lôi kéo Hội nhà
văn…” và khăng khăng không rút lại quyết định.
Những ngày đó chuyện này thành cửa miệng tại các cơ
quan xuất bản, báo chi. Tại Nhà xuất bản Tác phẩm mới, vào một buổi sáng nhà
văn Nguyễn Khải kể chuyện này, nghe xong nhà thơ Bằng Việt buông một câu lạnh
tanh:
”Đi Cao Bằng thì có gì phải làm rối chuyện lên thế?”.
Lập tức Nguyễn Khải trỏ mặt Bằng Việt mắng:
”Vậy mai anh đi nhá!“. - Tất nhiên nhà thơ cười hề hề.
Nhà thơ Bằng Việt hồi trẻ rất đẹp trai, nho nhã như
nhà giáo, nói chuyện nhỏ nhẹ, có duyên làm nhiều cô chết mệt nên “tình sử” cũng
phong phú có khi còn hơn Vũ Quần Phương. Tuy nhiên, chuyện đó cứ để trong dân
gian, chưa nói tới. Thường thường, bác sĩ bỏ nghề y sang làm thơ thì chỉ được
lộc thơ, riêng Bằng Việt bỏ nghề luật vẫn ăn lộc cả “lộc thơ” lẫn “lộc quan” là
thứ “nghề luật” góp phần. Ông đã từng giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân
thành phố Hà Nội, một chức to ở cái thành phố oai nhất nước. Nghe nói khi hay
tin nhà thơ làm Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố, dân oan kéo đến xin
gặp ông nhiều lắm khiến tan sở ông phải “chuồn” cửa sau. Chuyện đó thời nay là
chuyện thường ngày ở cửa quan, ngày xưa cha ông nói “quan thấy kiện như
kiến thấy mỡ”, chắc nay phải đổi thành “quan thấy… dân kiện như lươn thấy
rắn”. Câu này chỉ có nghĩa quan giống như lươn tiết chất nhờn lủi mất mỗi khi
gặp dân oan chứ tuyệt nhiên không dám ví dân là… rắn.
Ngoài chức bên chính quyền, nhà thơ Bằng Việt còn làm
Chủ tịch Hội đồng thơ Hội nhà văn Việt Nam. Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ
thuật Hà Nội, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
Cùng với nhà thơ Hữu Thỉnh, ông là một trong hai hạt
giống đỏ của Đảng trên mặt trận quản lý và lãnh đạo giới nhà văn, nhà thơ vốn
là thành phần phức tạp nhất trong giới trí thức. Chẳng thế mà bất kỳ cuộc hội
thảo thơ nào ở xứ ta, hai ông đều tới cầm càng hội nghị.
Mang trọng trách Đảng tin cậy vậy, Bằng Việt phải “mẫu
mực” cho giới cầm bút noi theo, nghĩa là suốt từ thủa cho ra lò “Bếp lửa”, ông
đã làm không biết bao nhiêu thơ: Những gương mặt - Những khoảng
trời (Some faces and pieces of sky; 1973) - Đất sau mưa (1977)
- Khoảng cách giữa lời (1984) - Cát sáng (1985) – Bếp
lửa - Khoảng trời (Tập thơ) (1986) - Phía nửa mặt trăng
chìm (1995) - Ném câu thơ vào gió (Tập thơ; Flying a verse with
the wind; 2001) - Thơ trữ tình (2002) - Thơ Bằng Việt (Tập
thơ), (2003)…
Làm nhiều vậy nhưng thơ ông tuyệt nhiên không một chút
“tà khí” tức “bàng thống”, “phi chính thống” như nhà văn Huy Phương đã tổng
kết: ”tuyệt nhiên không nghe một tiếng thở dài”. Ngược lại, đôi khi thơ
ông còn quá đà “mácxit hơn cả Đảng”.
Trong bài thơ “Rượu của Nguyễn Cao Kỳ“ có
một chai rượu ông này gửi tới. Tất cả mọi người đều uống kể cả một ông tướng
công an, trừ một anh lính phòng không:
“Đám đông ồn ào
của chúng tôi cứ uống
Anh bạn chỉ ngồi
im, cũng chẳng nói thêm gì,
Và bữa rượu bỗng
dưng thành đắng đót”
Khơi ra chuyện này, người ta thấy nhà thơ có vẻ thông
cảm với anh lính “thù Mỹ ngụy muôn đời muôn kiếp không tan”, cứng ngắc hơn
cả chủ trương hòa hợp dân tộc của Đảng.
Chính vì “phò chính thống”, nhà thơ phải ”tỉnh táo”
như Y Nguyên phỏng vấn Bằng Việt trên báo Thanh Niên.
“Thường thì người sáng tác ít khi “tỉnh” để có thể
phân tích một cách rành rẽ về quá trình sáng tạo của mình, nhưng ông thì ngược
lại, tỉnh táo, thận trọng, khôn ngoan...”
Kết luận vậy thì đau cho nhà thơ biết bao. Tuy nhiên
chính vậy nên ông nhận được khá nhiều giải thưởng:
“Giải nhất về thơ của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội
(1968)
“Giải thưởng dịch thuật văn học quốc tế và giao lưu
văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa bình Liên Xô trao tặng năm 1982.”
“Giải thưởng Nhà nước về văn học (do Chủ tịch nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng, 2001)”
“Giải thưởng thơ của Hội nhà văn Việt Nam (2002)
“Giải thưởng văn học ASEAN 2003 cho tập thơ "Ném
câu thơ vào gió"
"Giải thành tựu trọn đời" của Hội Nhà văn Hà
Nội (2005) cho Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX”
Tuy làm “thơ cung đình” nhưng không phải Bằng Việt
không có thơ hay. Từ “Bếp lửa” còn tỏa nóng đến tận bây giờ tới những bài thơ
tình lãng mạn một thời được chép trong sổ tay nhiều cô cậu sinh viên tổng hợp
và sư phạm văn, được sử dụng nhuần nhuyễn các kỹ thuật điệp ngữ, ẩn dụ và nhân
cách hóa:
“Sương nơi ấy như
triền mây trắng đặc
anh vẫn chờ em
trắng một bến sương.
(Nơi Một Thủa Mùa Xuân Còn Ở Ðó)
”Anh vẫn đợi một
buổi em về thay áo,
đợi một niềm vui
sắc nhọn như mũi kim.”
(Tình Em Ðẹp Mãi Một Bài Thơ)
Nói anh nghe cuộc
tình nào đã lỡ.
con đường nào nức
nở tiếng mưa rơi!
(Nét Buồn Mang Dấu Vết Thời Gian)
Tuy nhiên tính lãng mạn “kiểu Pautopski” nhạt dần theo
tuổi tác, thơ Bằng Việt ngày càng đậm tính “suy tưởng triết học”, có thể do con
người “luật học” trong ông đã lên tiếng.
“Ngày sống vội,
tuần sống vội, năm sống vội
Tuổi hoa niên,
trung niên, kế tiếp tuổi già
Chong chóng quay,
rút cuộc được gì?
Được chuyển động –
làm bù nhìn của gió…”
(Nhớ Trịnh)
Các nhà văn ta, về cuối đời như Nguyễn Khải, Nguyễn
Đăng Mạnh… hoặc cuối chức như Nguyễn Khoa Điềm… thường “tái nhận thức” tức
“nhận thức lại” để xí xóa đi phần nào “tính Đảng” quá đà trước đây. Bằng Việt
cũng vậy, trong Hội thảo thơ ở Hải Phòng, ông nhắc các nhà thơ không thể thoát
lý xã hội:
“Tôi nghĩ, đã là một thành viên, đồng cam cộng khổ với
cộng đồng loài người, thì nhà thơ không thể thoát ra khỏi xã hội, vì vậy, khó
có thể tuyệt đối hóa thiên chức của thơ mà chỉ nói đến thiên nhiên thôi sao?”
Tuy nhiên cái yếu tố “xã hội” trong thơ ông không mang
những trăn trở, vấn nạn lớn của dân tộc mà lại lại giống như Y Nguyên đã phỏng
vấn:
”Người ta vẫn nghĩ thi sĩ thường lãng đãng, vẩn vơ
trên mây trên gió, nhưng ông lại rất cập nhật thời sự. Cập nhật đến độ có thể
biến những cái tưởng như không thơ thành thơ, như chuyện ô nhiễm môi trường khu
du lịch sinh thái, chuyện xây cầu vượt, chuyện cấm đăng ký xe máy, chuyện làm
phim kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long...?”
Mới đây hồi tháng 8 - 2011, ông phát biểu trên mạng
một câu động trời:
“Nếu không tha bổng cho Cù Huy Hà Vũ thì đấy là một sự
ngu xuẩn”
Tất nhiên nếu cán bộ thường nói ở bàn nhậu thì chẳng
sao, nhưng đây hẳn một ông “quan văn” cỡ bự. Nghe nói sau đó cán bộ an ninh đã
gặp ông. Tất nhiên nhà thơ sẽ giải thích cho nhà an ninh vì sao phát biểu vậy.
Chắc đồng chí an ninh đã quán triệt tình thế của nhà thơ đứng giữa Đảng và dân
không thể không thông cảm với lời phát biểu của ông Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn
học nghệ thuật Hà nội. Có thể thấy Bằng Việt cũng như thơ ông luôn bị kéo co
giữa một bên là nàng thơ và một bên là đồng chí chính trị viên.
Trên blog của mình, nhà thơ Thủy Hướng Dương có kể lại
cuộc nhậu sau ngày Bằng Việt trúng cử Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật
Hà Nội, nhà thơ có ứng tác:
“Anh biết anh là
người đến muộn
Bia uống vừa xong,
bưởi vẫn còn thèm
Em đừng nghĩ là
anh thất bại
Bia anh còn liếm
được nữa là em!”
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến có mặt lúc đó đề nghị đổi
chữ ”bia” thành chữ “thơ”:
“Thơ anh còn liếm
được nữa là em…”
Vậy là “thơ anh” quá… sạch…, sạch đến nỗi có thể… liếm
được. Tới đây chợt nhớ bài “Mùa sạch” của thi sĩ Trân Dần:
“Anh vẫn tìm em
qua phòng triển lãm sạch
Qua khu sứ quán
sạch
Qua sớm mai trường
Đảng sạch
Qua Bộ Công nghiệp
nặng sạch…”
Nay thì xin thêm: ”thơ sạch”.
Nhà thơ Xuân Sách đã dựng chân dung Bằng Việt:
“Nhen lên một bếp
lửa
Mong soi gương mặt
người
Bỗng cơn giông nổi
đến
Mây che một khung
trời
Đất sau mưa sụt lở
Mầu mỡ trôi đi đâu
Còn trơ chiếc guốc
võng
Trăng mài mòn canh
thâu.”
*.
NHẬT TUẤN
(tên thật: Bùi Nhật Tuấn)
Địa chỉ: (đang cập nhật)
Email: (đang cập nhật)
Điện thoại: (đang cập nhật)
- TRẦN ANH QUÂN giới
thiệu -
- Cập nhật từ email:
quanboyman1992@yahoo.com.vn ngày 16.04.2021.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang
Đặng Xuân Xuyến.
0 comments:
Đăng nhận xét