‘KIẾP
SỐNG NHỌC NHẰN
LÒNG
CỨ THẮM TƯƠI’
Một tư thế phát ngôn
Thường
thì khi làm một bài thơ, hoặc khi dựng một tập thơ, nhà thơ bao giờ cũng bắt
đầu bằng việc xác lập cho mình một tư thế trữ tình, tư thế cất lời.
Nhà
thơ đứng ở vị trí nào sẽ có một tầm nhìn, trường nhìn và một tiếng/giọng nói
tương ứng.
Ở
vị trí là kẻ đang yêu, sẽ lên tiếng về tình yêu. Trong vị trí là một kẻ sĩ, sẽ
lên tiếng về thời thế. Nếu chọn vị trí là thường dân sẽ lên tiếng về thân phận
và tâm tình của chúng sinh...
Tập
thơ của Nguyễn Thành Phong có 63 bài, chia làm 9 phần được đánh dấu chữ số La
Mã, tuy không gọi thành tên, nhưng người đọc có thể đọc ra được chủ đề của
mỗi phần.
Tôi
định làm công việc gọi tên các chủ đề này, nhưng suy cho cùng, trong thơ, chủ
đề/ đề tài không hẳn quan trọng. Điều quan trọng nhất là với các chủ đề ấy,
liệu có những bài thơ hay không, và từ đó chụm thành một gương mặt tinh thần
thi sĩ nhất quán hay không, hay chỉ là những mảnh ghép rời rạc, tán loạn, bất
định?
Với
một suy xét như vậy, đọc vào Nguyễn Thành Phong, thấy gợi lên những điều đáng
ngẫm.
Số
lượng 63 bài. Liệu có phải tính theo tuổi mụ, năm nay tuổi anh đã 63, đã đi qua
một hội của mệnh người?
Tôi
cũng chưa hỏi nhà thơ về việc chọn con số 63 này, nhưng tôi ngờ nhà thơ có ý đồ
tạo dựng một sinh mệnh thơ.
Tuổi
63, “Lục thập nhi nhĩ thuận”, nghe được mọi điều của thiên hạ theo cách vô
chấp. Tuổi 63 là tuổi thực hành Đạo mà mình lựa chọn...
Thêm
nữa, cứ nhìn vào các địa chỉ được viết về, hoặc ghi chú dưới mỗi bài, thấy tác
giả là người đi nhiều, nhìn ngắm nhiều, sống trải nhiều, nghĩ cảm nhiều.
Cái
sự đi này, trước hết được giải thích bằng công việc của một nhà báo mà anh có
mấy chục năm lăn lóc với nó. Nhưng còn lý do nữa, do cái máu xê dịch ở con
người này, như câu thơ anh hé lộ: “Một ngày bỗng thèm muốn/ Bước chân
đi la đà/ Cỏ cây xanh màu cũ/ Tang bồng sông núi xa” (Những gánh nặng…).
Đi
qua những không gian xê dịch ấy, nhà thơ không chịu khép mình vào nội giới, mà
luôn mở lòng, cộng hưởng với những khung cảnh lớn của thiên nhiên, những vấn đề
lớn của đất nước, những ưu tư lớn về thời thế và nhân thế trong sự cộng hưởng
với nỗi niềm thân thế.
Mở
đầu tập là bài thơ “Đêm ngồi ngã ba sông”, nặng nỗi suy tư
về lịch sử, về đất nước. Bài thơ bộc lộ một tư thế “ngồi” vọng tưởng, ngồi
trong “đêm”, ở một không gian “ngã ba sông” – Một hình ảnh có tính biểu tượng
về sự phân vân. Như thế, chủ thể đã chọn một điểm tựa, một không gian,
thời gian tốt nhất để tập trung nghĩ ngợi.
Cái
tư thế trữ tình này được trở đi trở lại với các biến thể khác, trong những
không gian khác như Ba Vì, Xứ Thanh, Cao Pha, Nam Bộ, biển đảo... Khi ấy, cảm
thức về Tổ quốc, về dân tộc và lịch sử lại có cơ hội sống dậy.
Những
lúc này, nhà thơ đã lựa chọn và duy trì một tư thế phát ngôn thuộc con người
công dân, con người kẻ sĩ trước thời cuộc.
Ở
một đối cực khác, gần như ngược với những không gian lớn, kỳ vĩ trên kia, chủ
thể trữ tình vẫn là kẻ sĩ ấy thôi, nếm trải trong những không gian nhỏ, có khi
riêng tư, trong các trường hợp tự nhiên, tự nguyện hoặc bất đắc dĩ: nhà mình
hoặc nhà giam.
Khi
đó, thơ của Nguyễn Thành Phong dường như rẽ về hai hướng: lên tiếng về nhân
thế, tức những câu chuyện thuộc nỗi đời ấm lạnh; và rút vào thân thế, cái tôi
cá thể với những cảm xúc thanh xuân hoặc những phút đốn ngộ về một lẽ sống, một
cách thế người…
Cho
dù rất phong nhiêu, có phần bề bộn, nhưng trên những đường nét chính, nhân vật
trữ tình trong toàn bộ thơ Nguyễn Thành Phong chủ yếu hiện lên như một kẻ sĩ.
Vâng,
kẻ sĩ là một cách nói có từ xưa, dùng để chỉ loại người trí thức, hoặc mang tư
cách trí thức đi giữa cuộc đời.
Phẩm
giá số một của trí thức là luôn đặt mình giữa lòng đời sống, suy tư và lên
tiếng về các vấn đề của đời sống, coi sự sống rộng lớn là mối bận tâm tha thiết
và thường trực nhất của đời mình. Những người như thế luôn mắc bệnh quan hoài
về số phận đất nước, con người…
Đêm
ta ngồi giữa ba dòng sông sâu
Nghe
nước thở mấy ngàn năm vẫn thở
Nghe
nước kể chuyện những đời người
Cay
đắng và vinh quang
Kiếp
sống nhọc nhằn lòng cứ thắm tươi
(Đêm ngồi ngã ba sông)
Và
đây nữa:
“Đi
đi suốt làm thành số phận
Khắp
địa cầu đâu cũng dấu dân ta
Ngực
lặng cúi trong cơ hàn xa khuất
Mắt
trĩu buồn đau đáu hạt sương sa…”
(Sao vẫn còn người Việt ra
đi…)
Đó
chính là những biểu hiện sống động của tiếng nói kẻ sĩ mà nhà thơ chuốc lấy,
buộc vào, tự nguyện, như một lựa chọn.
Chính
vì đặt mình vào vị thế ấy, thật tự nhiên, người thơ trữ tình này tự tố cáo mình
trong một câu thơ gan ruột: “Kiếp sống nhọc nhằn lòng cứ thắm tươi”.
Tôi
cho rằng, bản thân nhà thơ Nguyễn Thành Phong cũng không thể ngờ câu thơ như
một tự họa bản mệnh thi sĩ của chính mình. Nó là một bản mệnh gồm hai mặt: Cuộc
sống mà người thơ đã lâm vào và sức sống mạnh mẽ, tự tại của chủ thể, theo đó
mà nới rộng ra cùng với cõi nhân gian và đất nước.
Sống trải “nhọc nhằn”...
Thơ
chẳng qua là một phóng chiếu của đời sống tiểu sử và tinh thần phức tạp, bí ẩn
của người nghệ sĩ vào câu chữ.
Nói
về kiếp sống trải nhọc nhằn trước hết nói đến thân phận người nghệ sĩ. Về
phương diện này, nếu nhìn vào đời sống mưu sinh cụ thể, không thấy nhà thơ nói
gì nhiều. Cái khổ ở đây là cái khổ tinh thần. Nỗi khổ bị hàm oan, bị xúc phạm,
bị làm hại.
Trong
tập thơ này, có một chùm thơ được ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt: những ngày
nhà thơ bị tạm giam vì một lý do vu vơ không đâu, như một cạm bẫy, như một tai
họa. Thế là sinh ra một loại… “thơ tù”.
Trong
thơ ca Việt Nam, có một dòng thơ tù đủ loại. Tù chính trị. Tù dân sự. Tù chính
khách. Tù thường dân. Tù có hạn. Tù vô thời hạn. Tù chính đáng. Tù hàm oan…
Không
cần thiết và cũng không nên so sánh. Nhưng 11 bài thơ của Nguyễn Thành Phong ra
đời trong tình thế đặc biệt này đã gói ghém không ít điều khác lạ.
Nhà
thơ tự ngẫm đời mình: “Anh là một người trai từng trải/ Bỗng có ngày non dại
dưới mây xa” (Có một chút
dịu dàng).
Người
ở trong hoàn cảnh đó, cũng bị nỗi nhớ về cuộc sống thường nhật vây khốn, cũng
có thao thức dày vò, cũng có “nạn hữu”, cũng những chiêm ngắm rất nhân bản, ấm
áp tình người…
“Con mèo nhỏ” là một câu chuyện
bằng thơ kể về con mèo được bạn tù nhặt từ bãi rác về nuôi và bàn nhau
đặt tên cho nó với ngụ ý yêu quý và thương xót: “Công Tằng Tôn Nữ Phạm Thương”.
Thì ra, trong những nơi tưởng như lòng người có thể sắt lại vẫn ấm lên lòng
thiện bản nguyên quý giá.
Cũng
trong chùm thơ “nằm mà” này, có một bài thơ rất đỗi tinh khôi: “Đêm nằm
nghe mưa…”.
Nếu như “Đêm ngồi ngã ba sông” là nỗi niềm cảm khái nhuốm màu bi tráng về đất
nước và lịch sử dân tộc, thì “Đêm nằm nghe mưa” rút vào yên tĩnh
nội tâm, nối thân phận mình với mênh mang vũ trụ:
“Mưa
xa mưa xa mưa xa
Một
đời dài như cơn gió
Bàn
chân từng hạt mưa nhỏ
Khi
khoan khi nhặt về gần…”
Tuy
nhiên, nhà thơ không khoét sâu vào nỗi khổ cá nhân. Tư thế kẻ sĩ không cho phép
mình nhấm nháp nỗi khổ đời tư, mà bao giờ cũng hướng mạnh mẽ ra với tha nhân,
với cộng đồng.
Đó
là nỗi nhọc nhằn của đất nước trong nỗi nguy nan rình rập của ngoại bang nơi
biển đảo. Tiếp nữa là nỗi khổ của một “Đất nước không bình yên”, của những điềm
báo và thực trạng diễn ra trên đất nước này: Đại dịch, dị quan, người bỏ nước ra
đi bỏ mạng, những số phận không gặp may trong cuộc sống thường ngày.
Một
loạt bài thơ trong chùm thơ thế sự (Một tin buồn, Đất nước không bình yên, Dị quan, Sao vẫn còn người Việt
ra đi...; Người lính trẻ, Đại dịch, Chợ chiều, Cờ tàn, Trẻ con đừng sinh ra) khi thì là tiếng thơ phẫn uất, khi lại là
nỗi xót thương, có khi là một lời kêu cứu.
“Dị quan” là một bản cáo
trạng đanh thép về những kẻ tha hóa trong giới cầm quyền đã tác oai tác quái
lừa dối và hùa nhau hãm hại dân lành.
“Trẻ con
đừng sinh ra” là một nỗi buồn đau khi xã hội người lớn không thể là chỗ có đủ an ninh
và yêu thương để chở che những đứa trẻ lớn lên...
Thơ
ca Việt Nam ở mọi thời, nhất là thời loạn, có một truyền thống thơ phản biện,
thơ tranh đấu, những câu thơ “tuẫn tiết” (như cách nói của nhà thơ Nguyễn Duy).
Mỗi
người một cách và với những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm giống
nhau, tiếng thơ của họ mang ý thức xã hội mạnh mẽ, đảm nhận trách nhiệm tự
nguyện vì dân vì nước.
Vì
thế, đó là những tiếng nói có khi hào sảng, bi tráng; cũng có khi phẫn uất,
thống thiết; thậm chí có cả những tiếng thở dài.
Trong
những trường hợp như thế này, bàn về nghệ thuật thi ca gần như là một điều xa
xỉ. Hay nói cách khác, nghệ thuật thi ca chính là cái hào khí, hùng khí, phẫn
khí mà các bài thơ tạo dựng. Thơ thế sự Nguyễn Thành Phong đã có được cái hùng
tâm tráng chí đó.
Người
thơ sống trải nhọc nhằn. Đất nước và nhân dân này sống nhọc nhằn. Những phận
người sống nhọc nhằn. Nhưng với một tinh thần “phải sống”, họ biết vượt
thoát, khẳng định tư thế làm người.
... “lòng cứ thắm tươi”
Trong
những khổ đau, bầm dập, kể cả đau đớn thân xác, con người ta có nhiều khả năng
thay đổi. Vượt thoát đạt tới cảnh giới tự do nội tâm. Đó là chỗ đến của bậc
thánh nhân. Phản kháng và thù hận. Đó là chỗ đến của thường nhân.
Còn
khi con người ta cứ hướng về sự sống tươi xanh với một niềm tin nồng nhiệt, với
một hy vọng khỏe khoắn, thì đó thường là chỗ đến của các thi nhân. Thi sĩ
Nguyễn Thành Phong là thế.
Khi
đất nước hiện lên trong tâm thế bi tráng, pha chút bùi ngùi, người thơ như thể
ngộ ra: “Một kiếp sống chỉ tính bằng chớp mắt/ Cũng lộng lẫy huy hoàng trời
nước giao nhau” (Đêm ngồi ngã
ba sông).
Khi
những người lính từ chiến trận trở về cuộc sống thường ngày, biết bao nhiêu số
phận khốn khổ, đảo điên, ly tán..., cho dù họ phía bên này hay phía bên kia,
nhưng cuối cùng vẫn còn đây một an ủi và hy vọng: “Bọc trăm trứng vẫn hồng
trong tâm tưởng/ Khắp địa cầu giăng mắc mịt mờ xa...” (Những nhà thơ chiến trường).
Trường
Sa nhọc nhằn và thăm thẳm như thế, trong cảm nhận của nhà thơ vẫn vững chãi,
thân thuộc tự ngàn đời: “Trưa ngồi dưới bóng phong ba/ Rưng rưng tôi gọi:
Trường Sa làng mình...” (Trường
Sa làng mình).
Thơ
Nguyễn Thành Phong thích theo đuổi những cảm hứng lớn, những không gian kỳ vĩ,
cao rộng, khoáng đạt. Nào là “Ba Vì ôm ngã ba sông”, nào “Ngùn
ngụt gió Cao Pha”, nào “Trời biên tái bay đầy mây trắng/ Và dịu lành xanh mắt thẳm
Hương Sơn” (Nợ gì với
Hương Sơn).
Mấy
câu thơ viết về “Những hàng dừa nước” trên quê hương
Nam Bộ thật hào sảng: “Như đội quân kỳ/ Những lá cờ biểu trưng cho sức sống/
Xanh ngút ngàn dọc các triền kênh rạch/ Châu thổ Cửu Long Giang tràn tầm mắt”...
Đọc
những vần thơ này, khiến tâm hồn được chan hòa với thiên nhiên, đất trời thoáng
đãng, hào phóng, mạnh mẽ. Bao nhiêu những quẩn đọng bụi bặm thường ngày như
được gột rửa sạch.
Đó
là đối với hình hài đất nước. Còn đối với nhân thế? Ở cõi trần ai này, sự
sống chuyển dời, tốt xấu chen nhau, được cùng với mất... Lắm khi con người rơi
vào cõi hư vô, hoang mang.
Bỗng
nhiên nhà thơ dựng lên câu thơ kết bài như một niềm ru vỗ: “Trong lòng
ta yên tĩnh và đắm đuối/ Nơi bắt đầu những rộn rã đấy thôi” (Từ mình).
Bài
thơ “Nhớ phố” gói một trạng thái khát khao về tiếng của sự sống ngoài kia với biết
bao hình ảnh đẹp đẽ, chan hòa màu sắc và động cựa. Bài thơ không ngả về phía
than thân trách phận hay buồn khổ đắng cay, mà chồi lên một hy vọng chắc khỏe:
“Phố hiểu thế phả chút mùi thật nhẹ/ Cho ta thở căng tràn xua ăm ắp tối tăm
xa”...
Nếu
để ý kỹ, việc sắp xếp chín phần trong tập thơ này đã gợi lên ý niệm về một hành
trình tâm tưởng: Chuyện đất nước - chuyện nhân quần - chuyện trong nhà giam -
chuyện trở về nhà/về quê. Mỗi một phần có những đặc sắc riêng, và có những thi
phẩm vượt trội riêng.
Trong
phần cuối cùng của tập thơ (VIII và IX), tôi thật sự tâm đắc những bài
thơ: Đưa mình xe đạp đi chơi,
Dưới mái hiên quê, Đầu năm ra ngõ; Ừ, giêng.
Đó
là những bài thơ được ra đời gần đây nhất, tức sau khi người thơ đã đi qua
những tao loạn kiếp người. Như đã đi qua lửa và nước. Lúc này, tâm thái của
người thơ thật thư nhàn, thong dong, như buông bỏ những chuyện xưa buồn để sống
hiện sinh hài lòng trong thực tại.
Thì
ra thi sĩ đã xem chốn quê nhà, xóm làng, nơi mà từ đó ra đi, trưởng thành, nhung
nhớ và ân nghĩa như một chốn dung dưỡng, che chở, xoa dịu những đắng cay.
Khung
cảnh dưới mái hiên quê thanh bình yên ả làm sao: “Lá khô cũ vun thêm
vào đống rấm/ Trong vườn xưa khói ấm thơm nồng/ Nghe rét ngọt giữa chiều đang
trở gió/ Cây âm thầm chuyển nhựa cuối ngày đông” (Dưới mái hiên quê).
Thi
phẩm “Ừ, giêng” dãi ra một khúc ru, tự ru mình, an nhiên, tự tại, một niềm hạnh phúc
được tiết chế: “Ừ giêng, cỏ đã xanh mềm/ Và hoa hồng trước cửa thềm đã khoe/
Anh đang đứng lặng yên nghe/ Bao nhiêu xao xuyến rung về phía em”…
Thì
ra, chỉ có làng quê với những không gian thương mến như hiên nhà, ngõ quê, bờ
ruộng, đồng làng mới là những nơi an trú tin cậy, không cạm bẫy, không phải dè
chừng.
Trong
số những kẻ rời làng, sống đời ở phố, có lẽ thi sĩ Nguyễn Thành Phong là một
trong số ít những kẻ yêu làng, nặng lòng với làng nhất. Hồi hưu, về làng thôi.
Không được chơi cờ với trẻ con thì vác cần câu cá. Thỉnh thoảng nhung nhăng
đường làng bờ ruộng hít thở gió thơm hương lúa hoặc nằm khểnh mái hiên nghe
mưa... Một dáng dấp tao nhã như các bậc ẩn sĩ thuở nào.
Chưa
hẳn được tròn vai như thế, nhưng cái ý hướng của thi sĩ Nguyễn Thành Phong đã
ngả về phía ấy. Cũng là một trong những cách ứng xử mang tinh thần kẻ sĩ. Phía
cuối con đường của một “kiếp nhọc nhằn” là vậy, “lòng cứ thắm tươi”…
*
NGÔ
VĂN GIÁ
(Bút
danh khác: Văn Giá, Chung Sơn, Thuần Vũ)
Địa chỉ: Khoa Viết Văn,
Đại học Văn Hóa
103
Đê La Thành, Đống Đa, Hà Nội.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ messenger facebook Nguyễn Đình Văn ngày 11.08.2021.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ
nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
Học hàm học vị chỉ là đồ trang sức rẻ tiền!
Trả lờiXóa