TỐ HỮU VÀ CÁI CHẾT CỦA NHÀ
THƠ
VŨ HOÀNG
CHƯƠNG
*
Vũ Hoàng Chương (5 tháng 5
năm 1916 - 6 tháng 9 năm 1976) là một nhà thơ người Việt Nam, với văn phong
được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái
Đông Phương. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường
Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Thuở nhỏ, ông học chữ Hán ở
nhà rồi lên học tiểu học tại Nam Định. Năm 1931 ông nhập học trường Albert
Sarraut ở Hà Nội, đỗ Tú tài năm 1937.
Năm 1938 ông vào Trường Luật
nhưng chỉ được một năm thì bỏ đi làm Phó Kiểm soát Sở Hỏa xa Đông Dương, phụ
trách đoạn đường Vinh - Na Sầm.
Năm 1941, ông bỏ Sở hỏa xa
đi học Cử nhân toán tại Hà Nội, rồi lại bỏ dở để đi dạy ở Hải Phòng. Trong suốt
thời gian này, ông không ngừng sáng tác thơ và kịch. Sau đó trở về Hà Nội lập
"Ban kịch Hà Nội" cùng Chu Ngọc và Nguyễn Bính. Năm 1942 đoàn kịch
công diễn vở kịch thơ Vân muội tại Nhà hát Lớn. Cũng năm đó ông gặp Đinh Thục
Oanh, chị ruột nhà thơ Đinh Hùng và hai người thành hôn năm 1944.
Sau Cách mạng tháng Tám
1945, ông về Nam Định và cho diễn vở kịch thơ Lên đường của Hoàng Cầm. Kháng
chiến toàn quốc nổ ra, Vũ Hoàng Chương tản cư cùng gia đình về Thái Bình, làm
nghề dạy học. Đến 1950, gặp lúc quân Pháp càn đến ruồng bắt cả nhà, ông bỏ miền
quê, hồi cư về Hà Nội nơi dạy toán rồi chuyển sang dạy văn và làm nghề này cho
đến 1975. Năm 1954, Vũ Hoàng Chương di cư vào Nam, tiếp tục dạy học và sáng tác
ở Sài Gòn.
Vũ hoàng Chương với Tố Hữu
là bạn nhưng Vũ Hoàng Chương lớn hơn Tố Hữu vài tuổi. Năm 1946 Huy Cận ra bưng
theo kháng chiến dùng thi tài của mình để phục vụ bác và đảng, được sủng ái nên
đã leo lên đến chức Thứ trưởng bộ Văn hóa. Vũ Hoàng Chương không theo kháng
chiến, sau hiệp định Genève năm 1954 di cư vào Saigon tiếp tục nghiệp thơ và
sinh sống bằng nghề dạy học.
Năm 1976, Huy Cận được cộng
sản cử vào Saigon cùng với một phái đoàn gồm có Tố Hữu, Hoài Thanh, Xuân Diệu,
Vũ Đình Liên, ..., với mục đích thăm dò và chiêu dụ các văn nghệ sĩ miền Nam.
Phái đoàn được Thanh Nghị ký
giả (một cộng sản nằm vùng) tiếp đón và tổ chức một đêm "họp mặt văn nghệ”
với các nhân vật gạo cội miền Nam để cùng đánh giá văn hoá hai miền ngõ hầu
thống nhất tư tưởng về một mối. Buổi họp này Vũ Hoàng Chương đã được mời và ông
đã tham dự.
Đề tài được đưa ra là mấy
câu thơ của Tố Hữu đã làm để khóc Stalin chết vào năm 1953. Hai câu thơ đã gắn
liền với cuộc đời và sự nghiệp với Tố Hữu:
“Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười".
Hoài Thanh mời Vũ Hoàng
Chương, một nhà thơ của Miền Nam góp ý. Vũ Hoàng Chương đã yêu cầu cử tọa thông
cảm nếu có chỗ nào thất thố vì ông sợ rằng những gì ông muốn trình bày sẽ làm
tổn thương cái "sáng giá" của đêm họp "văn nghệ đặc biệt"
này. Sau đây là lời của Vũ Hoàng Chương:
“Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí
phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một tình
tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn
càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.
Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được "đóng
khung" tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố Hữu đã xuất thần vận dụng nỗi u
hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm
thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự
nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao... Nhưng thơ không phải chỉ có thế. Xuất
thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ
có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ
hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của
tình tự phổ diễn nên lời. Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép...
Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ Việt
Nam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việt Nam yêu cụ
Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca.
Nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việt Nam có cùng tâm cảnh với mình không, có
chung một mối cảm xúc hay không?
Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục
bát này trong bài "Đời Đời Nhớ Ông", Tố Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai
câu:
“Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin"
Chắc chắn là không có một bà mẹ Việt Nam nào, kể cả Bà Tố
Hữu, mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai
câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau ta đang mổ xẻ. Một tình tự không
chân thực, dù đươc luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng
không phải là thơ đẹp, thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm. Đó chỉ là thơ thợ chứ
không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen
làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi một tuyên truyền nào đó.
Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việt Nam
trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm".
Lời phê bình của Vũ Hoàng
Chương đã gây sôi nổi trong đám thính giả có mặt hôm đó. Muốn phản bác luận
điệu của Vũ Hoàng Chương, có người đã yêu cầu Ông nói về thơ để hòng bắt bẻ này
nọ, nhưng Ông vẫn ôn tồn phát biểu:
“Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên
những tình tự thực. Không chấp nhận loại thơ tình tự hoang. Có khoa học giả
tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn
tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự
thực. Nhà thơ không được láo, nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành
mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý
cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.
“Tôi xin nhắc, sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca. Vì có sự
thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực
cho muôn đời, sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lý cuộc sống".
Tố Hữu không ngờ bị Vũ
Hoàng Chương chê bai là nịnh hót Stalin nên bực tức. Sau đêm đó, Vũ Hoàng
Chương đã bị công an nửa đêm ngày 3/4/1976, tràn vào nhà bắt giam tại khám Chí
Hoà nhốt chung với Bác sĩ Phan Huy Quát (cựu Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa).
Trong nhà tù bị hành hạ, ăn
uống thiếu thốn, bệnh không có thuốc uống nên ông kiệt sức, cộng sản biết ông
sắp chết nên thả về. Chỉ 5 ngày sau đó, ngày 6/9/1976 thì ông qua đời... Việt
Nam đã mất đi một thi nhân tài hoa.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CU TỐ LÀNG TÔI của Đặng Xuân Xuyến:
Ngô Thanh Tuấn giới thiệu
Tác giả: Đàm Ngọc Tuyên
- nguồn: facebook.com/ngoctuyen.dam
Ảnh minh
họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét