VÌ SAO CÓ SỰ ĐÁNH GIÁ KHÁC NHAU VỀ VAI TRÒ CỦA TRIỆU ĐÀ - Tác giả: Nguyễn Hải Hoành (Hà Nội)

Leave a Comment

 

VÌ SAO CÓ SỰ ĐÁNH GIÁ KHÁC NHAU

VỀ VAI TRÒ CỦA TRIỆU ĐÀ

*

(Tác giả Nguyễn Hải Hoành)

Người Việt Nam từ xưa đã có đánh giá trái ngược về vai trò của Triệu Đà đối với dân tộc ta. Một quan điểm cho rằng Triệu Đà là người sáng lập vương triều chính thống đầu tiên của Việt Nam, một quan điểm khác cho rằng Triệu Đà là kẻ đầu tiên xâm lược Việt Nam, bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc. Hai quan điểm này hiện vẫn đối chọi nhau, không bên nào chịu thua.

Trong quá trình tìm hiểu vấn đề trên, tôi nhận thấy mấu chốt ở chỗ cái gọi là “người Việt” (Việt nhân, chữ Hán viết là 粤人 hoặc 越人) có phải là người Việt Nam hay không.

Trước hết nói qua về “Người Việt” là tộc người sống ở vùng Lĩnh Nam, và tộc Hoa Hạ sống chủ yếu ở vùng Trung Nguyên. Hai vùng này cách nhau bởi dãy Ngũ Lĩnh hiểm trở. Trung Nguyên, còn gọi Hoa Hạ, là tên gọi chung vùng trung-hạ lưu Hoàng Hà, là vùng đất thiêng, nơi sinh ra nền văn minh Trung Hoa. Người Trung Quốc xưa nay đều coi Trung Nguyên là Trung tâm thiên hạ, coi chính quyền cai trị Trung Nguyên là chính quyền Trung ương, nhiều sử sách viết theo quan điểm của chính quyền này.

Trong lịch sử Trung Quốc, các thế lực tranh giành quyền lực đều muốn chiếm được Trung Nguyên. Chính quyền Trung ương dường như được “Trời” trao cho quyền đánh chiếm (gọi là “bình định”) bất cứ vùng lãnh thổ nào xung quanh Trung Nguyên. Thời gian 230 TCN – 221 TCN, Tần Thuỷ Hoàng đánh chiếm 6 nước xung quanh, dù vô cớ giết hàng triệu nhân mạng nhưng lại được coi là có công “thống nhất Trung Quốc”.

Tiếp đó năm 218 TCN, nhà Tần cho quân đánh Lĩnh Nam. Chiến dịch Lĩnh Nam mở ra một thời kỳ lịch sử quan trọng đối với các bộ tộc xưa nay định cư ở vùng này (gọi gộp là “Bách Việt”) cũng như đối với cá nhân Triệu Đà.

Triệu Đà người Hà Bắc vốn là tướng nhà Tần, theo chủ tướng Đồ Thư (sau chết trận, thay bằng Nhâm Hiêu) đánh Lĩnh Nam, năm 214 TCN chiếm được Lĩnh Nam, Nhâm Hiêu được phong Nam Hải Uý, cai quản toàn bộ vùng Lĩnh Nam, Triệu Đà làm Huyện lệnh Long Xuyên. Sau khi Tần Thuỷ Hoàng chết (210 TCN), Trung Nguyên bắt đầu rối loạn. Năm 206 TCN, nhà Tần bị nhà Hán diệt.

Lợi dụng tình hình rối loạn của chính quyền trung ương, Triệu Đà sau khi tiếp quản chức Nam Hải Uý do Nhâm Hiêu trao lại, năm 205 TCN chiếm thêm hai quận Quế Lâm và Tượng quận (đều trên đất Trung Quốc). Năm 204 TCN, Triệu Đà tự xưng Triệu Vũ Vương, thành lập nước Nam Việt tức Nam Việt quốc 南 越 国 hoặc 南 粤 国. Đà làm vua cho đến khi chết (137 TCN). Nam Việt Quốc thời Triệu Đà có 60 vạn dân, gồm người Việt tộc (越 族 hoặc 粤 族) và người Hoa Hạ tộc (từ Trung Nguyên di cư tới).

Nhà Hán (chính quyền mới lập ở Trung Nguyên) coi nhà Triệu là chính quyền cát cứ địa phương và luôn tìm cách “bình định”. Nam Việt quốc của nhà Triệu tồn tại 93 năm với 5 đời vua, năm 111 TCN bị nhà Hán diệt.

Ngày xưa hai chữ Hán 粤 và 越 hoàn toàn như nhau về ý nghĩa và âm đọc, do đó nhiều người hiểu lầm từ “người Việt” tức “Việt nhân” (粤人 hoặc 越人) là người Việt Nam. Thực ra đó là người tộc Hoa Hạ (sau này gọi là tộc Hán) ở Quảng Đông, tức người Quảng Đông, một tập hợp bộ lạc thuộc tộc Hoa Hạ nhưng nói tiếng Quảng Đông (mà người Trung Nguyên nghe không hiểu). Theo định nghĩa hiện nay, đó là tập hợp 3 đại dân hệ Hán tộc là Quảng Phủ, Triều Sán và Khách Gia: 粤人即广东汉族人,主要由广府、潮汕和客家三大汉族民系组成. “Người Việt” là thành phần chính của dân nước Nam Việt.

Tóm lại, sách sử Trung Quốc (và cả Việt Nam) nói Nam Việt quốc là nước của người Việt, Triệu Đà là vua Nam Việt quốc thì dĩ nhiên là vua của người Việt rồi.

Vấn đề ở chỗ “người Việt” ấy là người Hoa Hạ Quảng Đông, họ nói tiếng Quảng Đông (là một phương ngữ của tiếng Hán) và dùng chữ Hán. Thủ lĩnh của người Việt Lĩnh Nam là Lữ Gia (?-111 TCN) thuộc tầng lớp trên của xã hội vùng này, từng học ở Trung Nguyên, rất giỏi chữ Hán. Khi thành lập nước Nam Việt (204 BC), để tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, Triệu Đà đã mời Lữ Gia làm Thừa tướng. Lữ Gia trung thành phò nhà Triệu, khôn ngoan cho con cháu mình đều kết hôn với quan lại nhà Triệu. Khi quân Hán chiếm Phiên Ngung, Lữ Gia đưa vua Triệu Kiến Đức chạy trốn không thoát, cả hai bị quân nhà Hán giết (212 BC).

Sách sử Trung Quốc nói cương vực Nam Việt quốc có cả Bắc Bộ và Trung Bộ Việt Nam nhưng chưa hề nói có người Việt Nam nào làm quan trong triều đình nhà Triệu suốt 93 năm tồn tại.

Sách “Nam Việt quốc sử” nói thời Triệu Đà, phần lớn Quảng Châu còn là biển, Biểu đồ “A Historical Sketch of the Landscape of the Red River Delta. Sự tiến hoá lịch sử của đồng bằng châu thổ sông Hồng” do Tana Li (ĐH quốc gia Australia) công bố· cũng cho thấy 2000 năm trước tỉnh Thái Bình còn dưới mực nước biển. Như vậy lấy đâu ra làng Đồng Sâm với bà Trịnh Thị Phương Dung – bà vợ Việt Nam của Triệu Đà?

Theo ông Vũ Thế Khôi, chữ Hán chỉ vào Việt Nam sau khi Triệu Đà chiếm Âu Lạc (tức Việt Nam) của An Dương Vương. Từ đây suy ra Việt Nam thời Triệu Đà chưa thể có người giỏi tiếng Hán và chữ Hán tới mức có thể làm quan trong triều đình nhà Triệu. Hiển nhiên Lữ Gia là “người Việt” với ý nghĩa là người Hán Quảng Đông chứ không thể là người Việt Nam.

Mong rằng sẽ có nhiều người phản biện lại mấy ý kiến thô thiển nói trên.

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Các bài viết về Chuyện làng văn0

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 1l

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 2l

 

Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn

"CÔ" SƯỚNG CƯỚI VỢ của Đặng Xuân Xuyến:

*

NGUYỄN HẢI HOÀNH

Địa chỉ: phố Lê Thánh Tông, phường Phan Chu Trinh

quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.   

 

 

 

 

 

  ........................................................................................

- Cập nhật từ email: quanboyman1992@yahoo.com.vn ngày 19.01.2022

- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại. 

0 comments:

Đăng nhận xét