PHÊ
BÌNH BÁO CHÍ
VÀ
PHÊ BÌNH HỌC THUẬT
Trích từ Phê Bình Văn Học Là Gì của Đỗ Lai Thúy
Phê bình văn học, theo tôi, có thể tạm
chia thành hai loại: phê bình báo
chí và phê bình học thuật. Xin
mở ngoặc nói thêm, mọi sự phân chia chỉ là tương đối, kể cả trong khoa học. Cái
đích của sự phân loại này là để nhận thức rõ hơn và sâu hơn một đối tượng vốn
hay khước từ các áp đặt. Ở Việt Nam hiện nay, phê bình văn học nói chung thường
chỉ được hiểu như là phê bình báo chí theo quan niệm của tôi sẽ trình bày dưới
đây, còn phê bình học thuật thì được hiểu như là nghiên cứu. Thực ra, nghiên
cứu (trừ phần khảo cứu) là một từ rộng nghĩa đến rỗng nghĩa, nó
chỉ là một hệ thao tác mà bất cứ khoa học nào, kể cả phê bình văn học, đều cần
đến, như một công đoạn thiết yếu, cho công việc của mình.
Trước đây, trong cuốn Sinh lý học của phê
bình (1930), Albert Thibaudet[7] đã từng chia phê bình thành phê
bình nói, phê bình chuyên nghiệp, tức phê bình của các giáo sư, và phê
bình của các nghệ sĩ. Từ ấy, sự phân chia này của ông đã trở thành kinh điển.
Đến nay nó đã bộc lộ những điểm không hợp lý. Bởi lẽ, nó chú trọng nhiều hơn
đến nhân thân người phê bình và nghề nghiệp của ông ta (người làm báo, giáo sư,
nghệ sĩ), mà ít chú ý đến bản thân phê bình. Chọn sự phân chia phê bình thành
phê bình báo chí và phê bình học thuật, tôi muốn chuyển trọng tâm khảo sát sang
bản thân phê bình. Sự phân loại này dựa trên chính sự phân chia chức
năng của phê bình: phát hiện cái đẹp và xây dựng hệ giá trị
thẩm mỹ. Thực ra, định danh phê bình theo các chức năng này, tôi chưa hoàn
toàn thỏa mãn với các thuật ngữ mà mình đã dùng. Phê bình học thuật thì
còn được, nó chính xác hơn các thuật ngữ phê bình chuyên nghiệp hoặc chuyên
môn, nhưng phê bình báo chí thì vẫn dễ gây hiểu lầm chỉ là phê bình
của các nhà báo hoặc đăng trên báo. Trong khi chưa tìm được một thuật ngữ khác
chuẩn hơn, tôi mong bạn đọc đừng hiểu nó theo con chữ, mà theo chức năng nó đảm
nhận.
Phê bình báo chí có chức năng phát hiện cái đẹp. Nó đưa ra những phán đoán
thẩm mỹ về một tác phẩm, một sự kiện văn học. Đây là loại phê bình giá trị chứ
không phê bình sự thật (quy chiếu về hiện thực), dĩ nhiên không kể
các biến dạng của nó. Phê bình báo chí có thể trước hết do các cây
bút phụ trách chuyên mục "Đọc sách
và phê bình" trên các báo đảm trách, rồi các thầy giáo dạy văn ở đại
học và phổ thông, các nhà thơ, nhà văn thuận tay trái, hoặc các nhà phê bình
tài tử, vãng lai. Phương pháp phê bình của họ chủ yếu là dựa vào cảm
nhận, ấn tượng, trực giác hoặc nhận xét theo hệ giá trị thẩm mỹ hiện hành.
Phê bình báo chí, do chú trọng
đến văn học đương đại, nên dễ tạo ra đời sống xã hội của văn học. Nó là phản
ứng tức thì, là tiếng nói kịp thời của sáng tác văn chương. Một nền văn học
không có tiếng nói của báo chí là một nền văn học chết. Nhưng một nền văn học
mà chỉ có tiếng nói của báo chí thì cũng là một nền văn học chết, tuy rằng chết
theo kiểu khác. Và một khi các sáng tác văn học "sản xuất" ngày càng
nhiều, càng phong phú về chủng loại, thì phê bình báo chí càng trở nên cần
thiết hơn bao giờ hết. Nhà phê bình là người đọc nhanh, đọc chéo tác phẩm, rồi
phát hiện ra những tác phẩm hay, những tác phẩm có vấn đề, "đáng
đọc", đưa ra một vài nhận xét định tính, hướng dẫn người đọc. Như vậy, nhà
phê bình đúng là "kẻ đọc dùm" (Thiếu Sơn) cho người khác, cả ở cái
nghĩa chọn hộ sách cho độc giả, tiết kiệm thời gian và túi tiền cho họ. Nhờ
vậy, tiếng nói của phê bình trở nên có uy tín. Độc giả nói theo, nghĩ theo nhà
phê bình ngày càng đông: một công chúng được hình thành. Công chúng
lại tạo ra dư luận. Và khi dư luận đã tồn tại, nó cần được nuôi dưỡng
và hướng dẫn liên tục bằng những thông tin mới, ngày càng mới, của phê bình.
Tuy dư luận là con đẻ của phê bình, phụ thuộc vào phê bình, nhưng, cùng với phê
bình và công chúng, dư luận là một "thiết chế" văn học có khả năng
tác động mạnh mẽ không chỉ đối với tác phẩm, tác giả, mà cả đối với phê bình.
Phê bình báo chí, do phải cung
cấp món ăn kịp thời, "nóng sốt" và "đến hẹn lại lên" cho
công chúng, nên không thể đi sâu vào tác phẩm. Nó không có nhiệm vụ tìm kiếm
nguồn gốc của cái đẹp mà nó phát hiện được ở tác phẩm, nhất là không có nhiệm
vụ lý giải tại sao như thế là đẹp. Bài phê bình, vì thế, thường dừng lại ở cấp
độ đọc sách, thậm chí điểm sách. Một điều nữa, do gắn liền
với một hoặc vài tờ báo cụ thể, lệ thuộc vào mục đích, tôn chỉ của nó, phê bình
báo chí đôi khi buộc phải nói thế này chứ không nói thế kia, phải nói cái này
chứ không nói cái kia. Hơn nữa, phê bình báo chí cũng rất dễ bị quảng cáo biến
thành quảng cáo, kể cả quảng cáo "vô tư" cho bạn bè, lẫn sự quảng cáo
"chí công" cho bộ máy quyền lực.
Trong những thời kỳ văn hóa -
xã hội ổn định, "những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn
mặt" (Chế Lan Viên), các giá trị thẩm mỹ còn là mẫu mực, thì phê bình báo
chí dễ phát huy hết các điểm mạnh của mình. Các phán đoán thẩm mỹ của nó dễ
đúng và trúng bởi được bảo hộ bằng một hệ giá trị chuẩn. Đồng thời, hệ giá trị
này còn giám sát trở lại nhà phê bình, vừa đo tầm vóc của anh ta, vừa ngăn anh
ta không để dính vào sự chi phối của những yếu tố phi thẩm mỹ. Nhưng trong các
thời kỳ bất ổn, bảng giá trị bị đảo lộn, hệ quy chiếu biến mất, nhà phê bình
lúc này chỉ còn biết tựa vào chính bản thân anh ta hoặc lấy ý kiến số đông làm
ý kiến của mình, tùy vào bản lĩnh của mỗi người. Các phán đoán thẩm mỹ, vì thế,
dễ trở nên lung tung, nhầm lẫn. Khi đó, một người phê bình kém bản lĩnh sẽ
không còn là người hướng dẫn dư luận nữa (bởi, anh ta cũng đang cần được hướng
dẫn!), sẽ bị đám đông nuốt chửng, dìm chết hoặc thả nổi theo những con sóng dư
luận lên xuống dập dềnh. Đây là lúc hơn hơn lúc nào hết, trên báo chí, trong
đời sống văn học, cần đến tiếng nói của một kiểu phê bình khác, phê bình học
thuật.
Phê bình học thuật, thực
ra, không phải đến lúc này mới hình thành. Nó xuất hiện cùng với phê bình báo
chí. Nhưng khi trời trong gió lặng, nó ẩn dưới bề sâu, nó là mạch ngầm của đời
sống văn học. Đến khi có biến động, hệ giá trị thẩm mỹ hiện hành bị đảo lộn,
hoặc giải thể, phê bình học thuật mới nổi lên bình diện thứ nhất của đời sống
văn học, cùng với phê bình báo chí lúc này đang lúng túng, để lập lại trật tự
bằng việc xây dựng một hệ giá trị thẩm mỹ khác hợp hơn với tinh thần
của một thời kỳ văn học mới đang thai.
So với phê bình báo chí, phê
bình học thuật ít được ưa chuộng hơn. Người đọc thì chê là quá nặng nề, kém
thanh thoát, lại khó hiểu bởi những thuật ngữ xa lạ. Nhà văn thì hoặc bực tức
vì mình bị bỏ quên, hoặc vì bị "mổ xẻ" bởi các phương pháp khoa học.
Nhưng phê bình học thuật đã giữ cho quá khứ văn chương mang được tính hiện tại,
đảm bảo được tính liên tục của văn học. Đồng thời, với cách tiếp cận khoa học
của mình, nó miêu tả và lý giải tác phẩm văn học một cách chính xác hơn, sâu
sắc hơn, có lý luận hơn và, do đó, thuyết phục hơn. Và, để làm được điều đó,
phê bình học thuật phải chú ý đến các lý thuyết và phương pháp.
Phê bình học thuật, theo tôi, hiện nay có hai dạng: phê bình thực hành và phê
bình lý thuyết. Phê bình thực hành là vận dụng các thành tựu lý
thuyết và phương pháp đã có vào xử lý những hiện tượng văn học, tác phẩm và tác
giả cụ thể. Người phê bình báo chí có thể biết hoặc không biết đến các lý
thuyết văn học cũng không sao, nhưng người làm phê bình học thuật thì không thể
không biết và nhất là không thể không vận dụng. Bởi vậy, để hành nghề phê bình
học thuật thì không chỉ dựa vào năng khiếu, một thứ của trời cho, mà trên cơ sở
cái vốn tự có ấy, phải học tập, đào tạo và tự đào tạo, tức phải có chuyên môn,
phải thành nhà chuyên môn (dẫu không được chuyên nghề). Tuy nhiên, trên đời này
không có lý thuyết nào có thể ôm trọn được toàn bộ thực tế văn học, cũng như
không có phương pháp nào là chìa khóa vạn năng với mọi hiện tượng văn học.
Chính chỗ này là mảnh đất phần trăm cho những sáng tạo cá nhân của nhà phê bình
thực hành, không biến anh ta thành kẻ lấy tác phẩm sống để minh họa cho những
nguyên lý chết.
Hơn nữa, trong thực tiễn của
phê bình thực hành, đứng trước một thế giới nghệ thuật vô cùng rộng lớn và
phong phú, lại không bao giờ cạn kiệt thẩm mỹ, nhà phê bình luôn cảm thấy giới
hạn của các lý thuyết và phương pháp đang có. Và cảm giác bất lực này càng tăng
lên khi phải đối mặt với những hiện tượng văn học cách tân. Nhà phê bình, một
mặt vẫn phải dựa vào những nguyên lý cũ, mặt khác phải tự mình mày mò xử lý
lấy, tìm ra những nguyên lý mới, khái quát thành lý thuyết mới. Rồi những lý
thuyết mới này, đến lượt nó, lại soi sáng cho những hiện tượng văn học khác,
chí ít là những hiện tượng ít nhiều tương đồng. Phải chăng phê bình lý thuyết
chủ yếu đã ra đời trên một lộ trình như vậy?
Phê bình lý thuyết cũng
còn có thể hình thành theo một con đường khác, không phải từ "dưới
lên" (như đã nói ở trên), mà từ "trên xuống", hay đúng hơn,
"sang ngang" từ triết học, hoặc từ các khoa học xã hội và nhân văn
khác. Như G.Bachelard[8] chẳng hạn. Ông vốn là một nhà triết học khoa học
(khoa học luận) chuyển sang phê bình. Phê bình văn học của Bachelard là sự kết
hợp của triết học về bốn yếu tố cơ bản đất, nước, không khí, lửa của Aristote,
phân tâm học của Jung[9] (lý thuyết siêu mẫu) và hiện tượng luận của Husserl[10].
Và gần đây, một ví dụ khác là J.Derrida. Những nhà phê bình văn học có nhiều
đóng góp về lý thuyết thường được nhắc đến hiện nay là các nhà hình thức luận
Nga với tính tự trị của tác phẩm, tính văn học, vai trò của ngôn ngữ thơ, nghệ
thuật như là thủ pháp, lý thuyết về chủ âm, là Bakhtin[11] với tính đối
thoại, tính đa âm của tiểu thuyết, nguyên lý carnaval, là Barthes[12] với
sự phân tích cấu trúc truyện kể... Tóm lại, với hầu hết các nhà phê bình kể
trên, thì phê bình văn học của họ đã không còn phân biệt nổi với lý luận văn
học nữa. Có lẽ với bất cứ ngành nghề nào cũng vậy, sự phân biệt chỉ ở những tầm
thấp.
Hiện nay, phê bình lý thuyết
rất được coi trọng. Hợp tuyển các công trình phê bình nổi tiếng thế giới đều
không thể vắng mặt những tên tuổi như R. Jakobson[13], M. Bakhtin, R.Barthes,
J. Derrida, M.Foucault[14], T. Adorno[15], H.R. Jauss, W. Iser... Người ta yêu
thích những tác giả có đóng góp về lý thuyết, hoặc những công trình giàu sáng
tạo lý thuyết. Có điều đáng lưu ý là loại phê bình này không nhất thiết phải
viết về những tác giả đương đại, mà chủ yếu là những tác giả đã được khẳng
định, kể cả những nhà văn tưởng như đã "biết rồi, khổ lắm, nói mãi",
như Bakhtin về Dostoievski và Rabelais, Barthes về Sarrasine của
Balzac, không phải để "ăn mày dĩ vãng" mà cốt để làm rõ hiệu quả của
phương pháp mới trên một tác phẩm cũ tưởng đã cạn kiệt thông tin. Như vậy, ở
đây tính thời sự mà người ta vẫn coi như một thuộc tính của phê bình
cần phải được hiểu khác, rộng hơn: không chỉ phê bình các tác phẩm đương đại,
mà cả dùng lý thuyết và phương pháp hiện đại để phê bình những tác phẩm quá
khứ. Bởi, xét cho cùng, làm chết một tác phẩm sống và làm sống một tác phẩm
chết thì cũng như nhau.
Tuy nhiên, cuộc phiêu lưu lý
thuyết của phê bình văn học hiện nay, theo tôi, đôi khi đi quá đà. Phê bình văn
học, xét cho cùng, bao giờ cũng phải lấy nghiên cứu tác phẩm làm trung tâm. Mọi
tìm kiếm lý thuyết cuối cùng cũng chỉ để đưa ra những kiến giải mới cho tác
phẩm. Nhưng, nếu phê bình văn học chỉ là những phiêu lưu lý thuyết thuần túy,
như M. Foucault đọc sách chỉ là làm một cuộc "khảo cổ học tri thức",
hoặc như J. Culler cho rằng phê bình văn học không phải là để tìm kiếm những
kiến giải mới về tác phẩm, mà để tìm hiểu sâu hơn về những quy ước và những
thao tác của một thiết chế, một dạng thức hành ngôn, thì tác phẩm văn học,
vô hình trung, từ mục đích đã trở thành phương tiện, thành một thứ tài liệu,
như số phận trước đây của nó bị hiến trinh cho những nghiên cứu tâm lý hay xã
hội. Hoặc giả những nghiên cứu lý thuyết thuần túy, "lý thuyết vì lý
thuyết" đó đã vượt ra ngoài khuôn khổ của phê bình văn học để đi vào lĩnh
vực lý luận văn học, một bộ môn khác của khoa học văn học.
Phê bình học thuật, như vậy,
đã thực hiện chức năng xây dựng hệ giá trị thẩm mỹ. Đồng thời, nó luôn tìm
kiếm, xây dựng, mở rộng, nâng cao và hoàn thiện các quy phạm này. Cùng với thời
gian, hệ giá trị thẩm mỹ càng trở nên ổn định, vững chắc và chuẩn mực. Đến một
lúc nào đó, nó trở thành khuôn vàng thước ngọc, thành chân lý độc tôn, bó trói
một thực tiễn văn học sống động, luôn tiến về phía trước. Thế là hệ giá trị
thẩm mỹ mới mẻ ngày nào nay đã khô cứng, cũ kỹ và lâm vào khủng hoảng. Lúc này,
phê bình văn học phải chuyển đổi hệ chuẩn (paradigme), phủ định những
quy phạm cũ, để lại xây dựng những quy phạm mới, bảng giá trị thẩm mỹ mới. Ở
đây, có lẽ cần phải nói rõ thêm một điều là phủ định trong phê bình văn học
không phải là bảo nó sai, tiêu diệt nó, mà chỉ là xác định rằng hiện nay nó
không còn đủ lực để giữ vai trò chủ đạo nữa, hoặc trước đây tưởng nó là chân lý
phổ quát thì nay chỉ là cái đúng trường hợp. Bởi vậy, có thể nói, lịch sử phê
bình văn học là lịch sử của những khẳng định và phủ định các quy phạm thẩm mỹ.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Bàng0
- Các bài viết của
(về) tác giả Dương Ninh Ninh0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Thế Duyên0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Xuân Dương0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Đăng Hành0
- Các bài viết của
(về) tác giả Đông La0
- Các bài viết của
(về) tác giả Đỗ Trường0
- Các bài viết của
(về) tác giả Đỗ Hoàng0
- Các bài viết của
(về) tác giả Đỗ Anh Tuyến0
- Các bài viết của
(về) tác giả Bùi Đồng0
- Các bài viết của
(về) tác giả Bùi Công Thuấn0
- Các bài viết của
(về) tác giả Phạm Xuân Nguyên0
- Các bài viết của
(về) tác giả Quách Hạo Nhiên0
Mời
nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
Đinh Như Quang giới thiệu
Tác giả: Đỗ Lai Thúy -
nguồn: vnexpress.net
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét