ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
TRONG VĂN HỌC CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC
Ở Trung Quốc, nhắc đến "đồng tính luyến ái", nhiều nhà
nghiên cứu hoặc cho đó là một lĩnh vực "nhạy cảm", hoặc cho đó là
dung tục và tầm thường mà bỏ qua, vì thế cuốn sách của Thi Diệp chính là công
trình mang tính "khai sơn phá thạch", mở rộng vô hạn độ phạm vi
nghiên cứu văn học cổ với nghĩa trong khoa học không có đề tài nào là "cấm
kỵ".
Tên đầy đủ và chính xác của công trình nghiên cứu này là Nghiên
cứu viết về đồng tính luyến ái trong văn học cổ đại Trung Quốc, một trong những
cuốn sách được xếp vào bộ "Nhân dân xã khoa tân trước tùng thư" của
tác giả Thi Diệp. Sách dày 650 trang, xuất bản lần đầu vào tháng 11 năm 2008
với số lượng là 3.500 bản. Trong số đó chắc chắn có 2 cuốn đang "lưu lạc"
ở Việt Nam.
Ngay từ lời nói đầu, tác giả (một phụ nữ) với rất nhiều tự tin
đã đưa ra dẫn chứng cho xuất phát điểm của mình bằng tên tuổi của những người
nổi tiếng trên thế giới mà theo bà dù họ sống ở những quốc gia khác nhau, thuộc
những tôn giáo khác nhau, sống vào các thời đại khác nhau, nhưng có một điểm
chung: họ là những người đồng tính. Trong số những tên tuổi được kể ra có:
Socrat, Platon, Sappho, Caesar, Walt Whitman, Oscar Wilde, George Gordon Byron,
Michelangelo, Schubert (giờ đã hiểu vì sao Oshima, anh bạn đồng tính
trong Kafka bên bờ biển lại am hiểu nhạc của Schubert đến vậy),
Tchaikovsky, Mishima Yukio (nhà văn, kịch tác gia nổi tiếng người Nhật Bản),
Bạch Tiên Dũng (nhà văn Đài Loan), Trương Quốc Vinh, Quan Cẩm Bằng, Elton
John...
Dựa trên những công trình nghiên cứu về đồng tính luyến ái đã
có, Thi Diệp một lần nữa khẳng định: rất sớm, từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 4 tr.CN, ở
Hy Lạp cổ đại - ngọn nguồn của văn minh phương Tây - rất thịnh hành đồng tính
luyến ái. Để chắc chắn hơn, tác giả còn trích dẫn một câu của Katchadouria
trong cuốn Cơ sở của hành vi tính dục con người: "Trong số những
người đồng tính luyến ái, có người nghèo cũng có người giàu, có người được giáo
dục đến nơi đến chốn cũng có những người vô tri vô thức, có người có quyền lực
cũng có người chẳng có chút quyền lực nào, có người thông minh và cũng có người
ngu ngốc. Đồng tính luyến ái tồn tại ở mọi dân tộc, mọi giai tầng, mọi chủng
tộc và mọi tín ngưỡng tôn giáo..." Và tất nhiên, không thể thiếu là
câu trích dẫn quen thuộc trong thiên "Hội ẩm" của Platon (câu này
cũng thường được anh bạn thủ thư Oshima viện dẫn): "Nhân loại thời viễn cổ
vốn có ba loại tính biệt là song trùng nam tính (Doppelmann), song
trùng nữ tính (Dopplweib), và nam nữ kiêm tính (Mannweib)".
Những nghiên cứu về "văn học đồng tính luyến ái" hiện
nay không còn xa lạ trên thế giới nhưng ở Trung Quốc (đương nhiên là ở Việt Nam
cũng vậy luôn), nhắc đến "đồng tính luyến ái", nhiều nhà nghiên cứu
hoặc cho đó là một lĩnh vực "nhạy cảm", hoặc cho đó là dung tục và
tầm thường mà bỏ qua, vì thế cuốn sách của Thi Diệp chính là công trình mang
tính "khai sơn phá thạch", mở rộng vô hạn độ phạm vi nghiên cứu văn
học cổ với nghĩa trong khoa học không có đề tài nào là "cấm kỵ". Thi
Diệp đã chỉ ra: hiện tượng đồng tính luyến ái xuất hiện (công khai hoặc uyển
ước) trong văn hiến và văn học Trung Quốc xuyên suốt từ thời Tiên Tần cho đến
thời hiện tại. Hiện tượng này được ghi chép ngay từ trong những văn hiến được
xem là cổ nhất của Trung Quốc như thiên Y huấn trong sách Thương
Thư. Dật sử về vua chư hầu sủng ái mỹ nam xuất hiện đặc biệt nhiều
trong Chiến quốc sách và Tả truyện dưới câu chuyện về những
"bế nhân" (嬖人). Sau đó là những câu chuyện về "nam phong" (男風
hay cũng còn được ghi là 南風) thời Hán; "nam sủng"(男寵), "ưu
đồng" (優童) thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều; "bế thần" (嬖 臣),
"nam sắc" (男色) trong sử của thời Tùy, Đường, Ngũ Đại, Tống, Kim,
Nguyên...
Ở 5 chương đầu, Thi Diệp đã phác lại cho người đọc một lịch
trình văn học đồng tính luyến ái Trung Quốc từ thời viễn cổ cho đến tận thế kỷ
XIX, đặc biệt dành đến 3 chương để nói về văn học đồng tính luyến ái thời Minh
- Thanh và xem đây là trọng tâm của cả cuốn sách. Nếu như trong Kinh
Thi và Sở Từ, những tình cảm đồng giới được gửi gắm uyển ước, kín đáo
xa gần thì đến giai đoạn Ngụy Tấn Nam Bắc Triều, những bài ca vịnh đồng tính
luyến ái và "đồng luyến" đã trở thành trào lưu của thi nhân thời đó.
Nguyên nhân của trào lưu này được giải thích là do sự hưng khởi của "huyền
học". Sĩ phu thời này sùng thượng lý tưởng thẩm mỹ "tự nhiên" và
"phác thực" nên họ theo đuổi đời sống phóng thích, không câu nệ, đề
cao chủ nghĩa duy mỹ, tôn thờ cái đẹp ở con người, của nam lẫn nữ.
Những năm thái bình thịnh thế của thời Đường đã hình thành cho
sĩ nhân đời này phong khí ung dung, khoáng đạt, hào phóng vào bậc nhất trong
lịch sử sĩ phong Trung Quốc. Mặc dù đây là giai đoạn phát triển rực rỡ của thơ,
cổ văn, truyền kỳ, là giai đoạn mà kẻ sĩ phát huy cao nhất những cá tính riêng
cao ngạo và phóng túng nhưng lại thiếu vắng rất nhiều tác phẩm văn học ghi chép
lại đời sống tình cảm đồng tính luyến ái của chính thời đại này. Tác giả đã đưa
ra một suy đoán duy nhất: phải chăng những đề tài mang khát vọng phấn phát lập
thân, hoặc hoài bão kiến tạo sự nghiệp của kẻ sĩ đời Đường đã làm lu mờ đi
những sáng tác về ái tình ủy mị mềm yếu? Nhưng cũng theo tác giả thì tuy thiếu
những tác phẩm phản ánh đời sống tình cảm đồng giới của đời Đường, nhưng lại
không thiếu những bộ sách ghi chép lịch đại sủng hạnh, những câu chuyện kinh
điển về đồng tính luyến ái trong lịch sử trước đó như một cách mượn chuyện thời
trước mà phát huy xa gần, tập trung nhiều nhất là trong Nghệ văn loại
tụ. Ảnh hưởng tiếp theo của nó chính là Thái bình quảng ký của
đời Tống, cũng được tác giả xếp vào một trong những tập chép nhiều dật văn
về đồng tính luyến ái.
Một trong những lý do quan trọng dẫn đến sự bùng phát của rất
nhiểu tiểu thuyết sắc tình (bao hàm cả tiểu thuyết về đồng tính luyến ái) ở đời
Minh, theo Thi Diệp chính là vì sự đột biến của tư tưởng thời đại. Sự ra đời
của phái "Vương học" (học thuyết "tâm học" của Vương Dương
Minh) với quan điểm về "trí lương tri", cho rằng "lương tri
lương năng, ngu phu ngu phụ dữ thánh nhân đồng" khiến cho sĩ nhân đời
Minh "bỗng chốc như tỉnh ngộ, vọt trên mây mù nhìn thấy mặt
trời". Quan điểm này được đánh giá là một cuộc giải phóng tư tưởng về sự
bình đẳng của nhân tính trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc.
Kế thừa Vương Dương Minh, Lý Chí ngoài chủ trương người người
bình đẳng, ông còn tiến thêm một bước nữa khi khẳng định "nhân dục",
cho rằng: "Có nhân dục mới có thiên lý", vì thế ham muốn hưởng
thụ vật chất, mưu lợi cho bản thân chính là thiên tính của con người. Chính
những tư tưởng này đã khiến cho sĩ phong của thời Minh có nhiều biến chuyển dữ
dội mà trong đó thể hiện rõ nhất ở ba phương diện: 1- Sĩ nhân đời Minh
chuộng lợi, thoát ly khỏi hình ảnh "hàn sĩ" cao ngạo trong sạch và
quan điểm "lạc bần" của Nho gia. 2-Sĩ nhân đời Minh phóng túng,
trọng dục. Ngoài sự theo đuổi dục vọng về quyền lực và lợi ích, không che giấu
những truy cầu về tình dục cũng được xem là một nét đặc sắc của sĩ phong thời
này. Những chuyện như tài sĩ danh nhân thích chinh phục ca kỹ, thụ hưởng sắc
đẹp, thường xuyên qua lại chốn lầu xanh, bỏ nghìn vàng mua lại tiếng cười là
những câu chuyện được miêu tả như những chiến tích đáng tự hào... 3- Cuồng
quyến: kẻ sĩ giai đoạn này không còn lấy tu thân, nội tỉnh, sự tiết chế hành vi
theo Lễ như mục tiêu phấn đấu. Đây là giai đoạn mà kẻ sĩ từ chối học làm thánh
nhân, để con người cá nhân được bột phát tự do, đẩy cá tính đi đến tận cùng với
khát vọng "trác nhiên bất quần"... Đây cũng là giai đoạn hưng thịnh
của tiểu thuyết viết về "nam sắc" với Long Dương dật sử, Nghi
Xuân hương chất, Biện nhi thoa... Tác giả viết về đồng tính luyến ái nổi
bật nhất ở thời Minh chính là Phùng Mộng Long.
Đồng tính luyến ái viết một cách công khai, trực tiếp và trở
thành phong khí trong văn học chính là vào đời nhà Thanh với những trọng tâm
là:
1. Đồng tính luyến ái trong thế giới hồ ly tinh (tiêu biểu nhất
là Liêu Trai chí dị, Duyệt vi thảo đường bút ký).
2. Viên Mai - Lịch sử đồng tính luyến ái. Tác giả Thi Diệp đã
đưa ra những dẫn chứng cho thấy con người cá nhân cuồng phóng của Viên Mai,
phân tích những sáng tác mang cảm hứng "nam phong" của ông và mối
tính đồng giới của Viên Mai với học trò Lưu Hà Thường...
3. Phân tích những sáng tác về đồng tính luyến ái trong tiểu
thuyết của Lý Ngư (tác giả của Nhục bồ đoàn). Những tác phẩm của Lý Ngư
được xếp vào loại "đồng tính luyến ái tục văn học" bao gồm cả những
mối tình đồng tính nam và đồng tính nữ. Ba tác phẩm tiêu biểu của ông về đề tài
này chính là: Liên Hương bạn, Nam Mạnh mẫu giáo hợp tam thiên và Thúy
Nhã lầu.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
- Các bài phê
bình, cảm nhận thơ0
- Các bài viết về
chăm sóc sức khỏe0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc
bài thơ TÌNH CHUNG:
Trần Văn Tình giới thiệu
Tác giả: Quách Hiền
- nguồn: baovannghe.vn
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét