THAO THIẾT QUÊ NHÀ - Truyện ký Trần Đức Phổ (Canada)

Leave a Comment

 


THAO THIẾT QUÊ NHÀ

 

(Tác giả Trần Đức Phổ)

Ông ngoại tôi sáng sáng thường ngồi bên nồi khoai luộc bốc khói nghi ngút hay ngâm nga cái câu tôi đã nghe đi nghe lại đến thuộc lòng:

“Võng giá nghênh ngang,

không bằng khoai lang với nước chè (trà)”

Tôi thắc mắc hỏi ông:

- Võng giá là gì hở ông?

Ông tôi không trả lời chỉ vuốt râu cười.

Là một miền đất pha cát, có màu sắc và thành phần cấu tạo giống với đất đỏ bazan nên quê tôi thích hợp cho việc trồng mía, đậu phộng, khoai mì, và khoai lang...

Không phải nói phét chứ chẳng xứ nào khoai lang ngon bằng quê tôi. Đúng như câu ca dao:

"Trăng rằm đã tỏ lại tròn

Khoai lang đất động đã ngon lại bùi” 

Chỉ cần ngắm nhìn hình dạng những củ khoai lang mới đào lên đã thấy ngon rồi. Củ không to lắm, thường chỉ dài chừng một gang tay và tròn trĩnh như những chú chuột chù. Màu da hồng sẫm. Vỏ mỏng, trơn láng, không bám nhiều bùn đất. Khi nấu chín có mùi thơm tỏa ra dìu dịu, thoang thoảng. Lớp vỏ dễ bóc. Ruột khoai trắng ngần, ít sùng hà, bùi và bở, hơi ngọt, ăn không ngán. Lúc nấu cần bỏ thêm chút muối cho vị thêm đậm đà.

Mùa trồng khoai bắt đầu từ cuối tháng bảy âm lịch, khi chiều chiều thường hay có những cơn mưa giông. Nhưng trước đó cả mấy tháng, mọi người đã lo chuẩn bị phân, giống. Khoảng tháng hai, tháng ba người ta đã mua dây lang về giâm (ươm mầm) trong vườn cho tiện tưới nước. Phân bón thì cắt các loại lá cây xanh hoặc lấy rơm rạ trộn lẫn với phân bò, phân heo ủ thành đống để sẵn.

Cuối mùa hạ, khi vừa có những trận mưa giông lớn cũng là lúc mọi người đổ xô ra rẫy để trồng khoai. Trước tiên dùng cuốc kẻ những đường thẳng và dài theo về ngang hoặc bề dọc của đám đất muốn trồng làm chuẩn mực. Kế tiếp dùng phân xanh đã ủ rải lên các đường thẳng đó. Đàn ông con trai vun vồng; đàn bà con gái chỉ việc cắm những khúc dây lang cắt ra từ vườn giâm xuống vồng đất.

Sau khi trồng khoảng chừng bốn đến năm tháng là có thể bắt đầu đào khoai về nấu. Qua Tết Nguyên Đán cũng là thời kỳ lá khoai tàn úa, cần phải thu hoạch gấp. Chiều chiều, cả xóm kéo nhau ra rẫy, vỡ vồng đào khoai. Tiếng gọi nhau, tiếng cười nói í ới. Những gánh củ lang tươi nặng trĩu, làm oằn vai các cô thiếu nữ nối nhau trên đường làng. Nhà nào khoai cũng chất thành đụn, thành đống to trong sân.

Đêm đến mọi nhà chong đèn xắt khoai thành từng lát, để rồi sáng hôm sau lại gánh ra dông biển (dải cát dài dọc theo bờ biển, xa mép nước) mà phơi phóng. Có nhiều người muốn cho thuận tiện, đỡ tốn công sức họ làm chòi ở luôn ngoài rẫy để chứa và xắt khoai tại chỗ.

Khoai lát phơi khô, cất trong lẫm trong vại hoặc bồ đựng lúa để dành ăn cả năm. Thỉnh thoảng nếu cần tiền mặt có thể đem vài thúng ra chợ bán. Món khoai lang khô nấu với đường, đậu phộng và dừa nạo cũng là một món ăn khoái khẩu. Ngoài ra, khoai lang tươi còn được dùng làm mứt, nấu chè, tráng bánh, và chà bông trộn đường cũng rất ngon và bổ.

Quê tôi không trù phú như những nơi khác, nhưng người dân chưa bao giờ phải chết đói cho dù là những năm tháng khắc nghiệt trong thời kỳ bao cấp hay năm Dậu 1945. Được như vậy cũng là nhờ những vồng khoai lang xanh mướt kia.

oOo

Hằng năm, mùa mưa bắt đầu từ khoảng cuối tháng tám đến hết tháng mười một âm lịch. Những tháng ấy cũng là mùa biển động. Thuyền bè được kéo cao lên bờ, xa mép nước, lấn sâu vào dông cát trắng, nằm nghỉ ngơi suốt ba bốn tháng liền. Để rồi vào nửa tháng chạp chúng lại trườn mình ra biển đón chào một mùa đánh bắt cá mới, với những tấm lưới đã được tân trang kỹ lưỡng, tinh tươm.

Suốt những tháng mùa đông, bầu trời luôn âm u, xám xịt. Từng đợt gió mùa đông bắc thổi se sắt, cái lạnh như dao cứa vào da thịt, rét buốt. Nhiều cơn mưa áp thấp như trút nước dai dẳng dăm ba hôm cũng chưa ngừng. 

Quê tôi là một làng ven biển nhưng lại có cả rẫy lẫn ruộng. Dù vừa làm nông vừa làm biển nhiều gia đình vẫn nghèo. Một phần do ruộng chua phèn sản lượng thấp. Ghe thuyền nhỏ không ra khơi đánh bắt được. Một phần khác do làm ăn tập thể kiểu hợp tác xã, lương nông dân tính bằng công điểm, giá trị thập. Lương thực dự trữ của người dân chẳng là bao nhiêu. Bởi vậy những ngày cuối năm mưa bão đói kém thường xuyên xảy ra.

Nhà tôi mỗi ngày mỗi người chỉ ăn được một chén cơm vào buổi tối. Các bữa còn lại thay bằng khoai và rau luộc. Món ăn chỉ có mỗi cá mắm kho rim. Thường thì những ngày mưa lụt, trường huyện đóng cửa nên bọn chúng tôi có nhiều việc để làm phụ giúp gia đình.

Để cải thiện bữa ăn bọn trẻ nhóc chúng tôi thường hay xục xạo đi tìm các loại nấm mọc trong lùm bụi, hoặc trong các đống rơm rạ về nấu canh. Lớn lên một chút nhiều đứa đi đào còng rẫy hoặc đi giăng câu đồng bắt cá, bắt chim.

Hầu như bất cứ một đứa trẻ trai choai choai nào ở quê tôi cũng đều biết làm nghề giăng câu. Cho dù việc này cũng khá vất vả và nguy hiểm. Nhưng cứ hễ mưa xuống, khi nước lũ tràn về thì rủ nhau đi thả câu. Vì lúc ấy những con cá trắm cỏ, cá rô phi... từ thượng nguồn sông Vệ, sông Ba Liên theo con nước đục ngầu đổ về miền hạ lưu sông Thoa nhiều vô kể. Có một lần tôi và thằng em con nhà chú đi câu. Tôi trượt chân sém chút bị nước cuốn phăng, may mà bơi được vào một gò đất giữa đồng.

Nếu không đi câu, cũng có thể đi lượm củi rều ven biển. Mỗi lần sau trận lụt lớn, cây cành từ miền thượng lưu trôi ra biển, bị sóng đánh vào bãi. Chúng tôi chịu khó đi nhặt về hong khô để dành đun bếp. Những năm ấy, người đi vượt biển khá đông nên đôi khi có cả xác chết tấp vào bờ. Cứ mỗi lần thấy cảnh người gặp nạn như thế, đồng bào xóm tôi lại chôn cất tử tế. Cũng có cúng bái hương hoa tiễn đưa linh hồn người xấu số.

Những năm bao cấp, tôi còn bé không thể đi biển được chỉ có thể làm ruộng và làm rẫy. Nhà tôi có vài mẫu đất thổ của ông bà để lại, nhưng không có một tấc ruộng nào. Gia đình thuộc thành phần bần nông nên được vận động vào Hợp tác xã đầu tiên. Đọc những cuốn sách viết về nông thôn miền Bắc làm hợp tác xã với những cánh đồng lúa năm tấn, tôi ngưỡng mộ và ham muốn lắm. Ước ao rằng quê tôi cũng làm hợp tác để tôi có cơm ăn cho thỏa thích. Nghe nói địa phương thành lập hợp tác xã nông nghiệp, tôi mừng lắm, cố gắng thuyết phục mẹ ghi danh. Tôi nói với mẹ:

- Ngoài Bắc người ta làm hợp tác xã năm nào cũng bội thu. Tất cả những chi phí sảm xuất nhà nước đều lo, mình chỉ cần đi làm công rồi cuối mùa thu hoạch gánh lúa về thôi.

Mẹ tôi nghi ngờ:

- Dễ ăn như thế sao trong ta nhiều người không chịu vào?

- Chắc là họ có nhiều ruộng quá. Vào hợp tác sẽ bị mất sạch nên họ chống đối thôi!

- Nhưng sao mẹ thấy mấy gia đình tập kết từ ngoài Bắc trở về đây còn nghèo hơn nhà mình?

- Có lẽ do họ ở thành phố, gốc công nhân vô sản mà mẹ! Hơn nữa nhà mình vào hợp tác xã được nhận vài chục mét vuông ruộng phần trăm cũng tốt mà!

Bị tôi làm thuyết khách mẹ đồng ý. Hôm đi ghi tên về mẹ đưa cho tôi tờ giấy vẻ không vui:

- Con đọc đi! Sao họ bắt mình phải xin xỏ?

Tôi cầm tờ giấy đánh máy thấy ghi phía dưới câu khẩu hiệu bắt buộc cho tất cả mọi đơn từ, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, độc lập tự do hạnh phúc là dòng chữ: Đơn Xin Vào Hợp Tác Xã Nông Nghiệp. Tôi cũng ghét hai chữ “đơn xin” nhưng vội an ủi mẹ:

- Họ máy móc làm theo thủ tục thôi mẹ ơi! Đề đơn xin coi như mình tự nguyện tham gia cũng hay hay mà!

Mẹ tôi không nói gì thêm.

Ngày đầu tiên đi làm hợp tác là một buổi sáng mùa hè. Đúng sáu giờ sáng, trong xóm vang lên tiếng keng... keng... keng... của những mảnh kim loại đập vào nhau. Người ta dùng cái búa to gõ vào một quả đạn pháo 175 ly rỗng ruột làm hiệu lệnh kêu gọi mọi người tập trung về ngôi trường tiểu học trước khi xuất phát. Hôm đó có chừng hai chục người cả nam và nữ. Mỗi người đều vác trên vai một cái cuốc. Anh đội trưởng đội sản xuất dẫn tất cả ra cánh đồng trống, trụi trơ gốc rạ. Anh ta chỉ một đám ruộng vừa mới đốt rơm, bề mặt còn loang lổ những vũng tàn tro đen sì, bảo mọi người xuống đấy dàn thành hàng ngang để cuốc đất. Xóm tôi phần đông các gia đình đều làm biển nên không nuôi trâu bò cày. Thỉnh thoảng những đội sản xuất khác có dư thợ cày mới được điều sang phụ giúp. 

Mùa vụ đầu tiên ai nấy đều hăng hái làm việc vì cái hứng khởi được làm ăn trong một mô hình sản suất mới vĩ đại theo chủ trương của cách mạng: Làm ăn tập thể. Cuối vụ đó một ngày công vất vả 10 điểm được chia cho 1.2kg thóc. Nhưng dần dà cán bộ làm việc quan liêu. Chủ nhiệm không bước chân ra ruộng, giao toàn bộ việc đồng áng cho các đội trưởng sản xuất. Ban quản trị ngồi mát ăn bát vàng, cấu kết với thủ kho, kế toán biển thủ ngân sách, phân bón, thóc giống, và tham ô nông sản... khiến người dân bất mãn, bỏ đi làm chuyện khác. Thời hợp tác xã nông nghiệp quê tôi không có cánh đồng lúa vàng trĩu hạt. Không có hình ảnh anh chủ nhiệm được ngợi ca với “bao tiếng thân thương, lời cảm mến” như trong bài thơ của Hoàng Trung Thông. Cánh đồng làng chỉ có những thửa ruộng khô nức nẻ. Những thân lúa gầy ốm, tong teo. Màu xanh của cỏ năng, cỏ lát bao trùm, lấn át cả màu xanh của lúa. Mỗi vụ mùa thu hoạch một ngày công chỉ được vẻn vẹn 5 lạng lúa phơi một nắng, có khi là lúa tươi! Không những thế, đội nào gặp phải tay thủ kho tham ô còn bị trộn cát vào trong lúa cho nặng cân, để ăn chặn số thóc dư nữa! May là quê tôi còn có những vồng khoai lang, khoai mì. Những chiếc ghe mành sơn sớm chiều hăng hái vượt sóng. Nếu không, dân làng đã chết đói hoặc tha phương cầu thực khắp mọi nơi rồi! 

Sự vật cùng tắc biến. Nhờ phong trào đổi mới cải tổ, Hợp tác xã thay đổi cách làm ăn tập thể bằng “giao khoán sản phẩm.” Nông dân nhận ruộng về canh tác, đóng tô thuế cho hợp tác xã và nhà nước. Sự thay đổi này chẳng có gì mới mẻ cả chỉ là quay trở lại cảnh tá điền lãnh ruộng cày thuê như thời phong kiến thực dân mà thôi. Tuy vậy cách làm đó đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Nông dân được chăm bón trên chính thửa ruộng nhà mình làm chủ, nên khác hẳn cái kiểu “cha chung.” Năng suất tăng vọt. Đồng ruộng lại nghe sóng lúa rì rào.

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Chuyện làng văn0

- Kho sách0

- Các bài viết của (về) tác giả Trần Vấn Lệ0

- Các bài viết của (về) tác giả Trần Đức Phổ0

- Các bài viết của (về) tác giả Nguyễn Bàng0

- Các bài viết của (về) tác giả Dương Ninh Ninh0

- Bạn đọc cảm nhận về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl

- Bạn đọc cảm nhận bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl

- Bạn đọc cảm nhận về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 1l

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 2l

 

Mời nghe Kim Yến đọc truyện ngắn

“CÔ” VƯƠNG CƯỚI VỢ của Đặng Xuân Xuyến:

*.

TRẦN ĐỨC PHỔ

Địa chỉ: 819 Kleinburg Dr, London

tỉnh bang Ontario, Canada.

Email: ducphot946@gmail.com

 

 

 

 

.............................................................................................................

- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày 27.02.2024.

- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

0 comments:

Đăng nhận xét