(Nhà văn Nguyễn Quang Thân) |
HỘI THỀ
tiểu thuyết lịch sử
hay PHẢN LỊCH SỬ
“HỘI THỀ” là tên cuốn tiểu
thuyết của Nguyễn Quang Thân, do NXB Phụ Nữ ấn hành đầu năm 2009, viết về giai
đoạn cuối cùng của nghĩa quân Lam Sơn sau trận đại thắng quân Minh ở Chúc Động,
Tốt Động, Chi Lăng.
Năm 2010, tiểu thuyết “Hội Thề” của Nguyễn Quang Thân được
Hội nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng hạng A cuộc thi tiểu thuyết (2006-2010) có 247 nhà văn dự
thi. Xin quý vị vào http://goole.com, đánh từ
khóa “Hội Thề” sẽ hiện ra mấy chục bài báo ca ngợi hết lời cuốn sách
này của Nguyễn Quang Thân.
Đầu năm 2009, khi ra hiệu sách, chúng tôi đã toan mua cuốn này,
nhưng thử
đọc bốn dòng đầu: “Trời đất xám xịt, cùng
một màu, dồn nén và bất trắc. Hai người cưỡi ngựa phi nước đại trên con đường
mòn giữa bãi ngô. Ngô uốn lượn bí ẩn như cái bẫy đang chờ sập xuống…”,
chúng tôi bèn tặc lưỡi: Viết tào lao, năm 1427, năm Lê Lợi tiếp nhận sự đầu
hàng của Vương Thông, cũng là năm diễn ra các sự kiện của cuốn tiểu thuyết này,
thì Việt Nam ta làm gì đã có cây ngô mà Nguyễn Quang Thân dám tả như thế? Hư
cấu kiểu này, khác gì tác giả tả cảnh đầu thế kỷ thứ 15, Nguyễn Trãi và người
vợ lẽ của ông là Nguyễn Thị Lộ vừa uống cà phê vừa hát ca ra ô kê (!)
(Nhà thơ Trần Mạnh Hảo) |
Xin quý vị vào http://google.com, đánh từ
khóa “Ngô” sẽ tìm thấy trong từ điển mạng Wikipedia nói về nguồn gốc cây ngô
như sau:
“Ngô, bắp hay bẹ (danh pháp khoa học:
Zea mays L. ssp. mays) là một loại cây lương thực được thuần canh tại khu vực
Trung Mỹ và sau đó lan tỏa ra khắp châu Mỹ. Ngô lan tỏa ra phần còn lại của thế
giới sau khi có tiếp xúc của người châu Âu với châu Mỹ vào cuối thế kỷ 15, đầu
thế kỷ 16.”
Nên nhớ cây ngô sinh ra từ Trung Mỹ, sau khi Christopher Columbus
(1451-1506) tìm ra Mỹ Châu, cây ngô mới được các lái buôn mang về trồng tại
châu Âu rồi lan tỏa ra khắp thế giới. Năm 1427, khi Phạm Vấn băng qua bãi ngô
ven sông Hồng theo cách tả phi hiện thực của Nguyễn Quang Thân, người tìm ra Mỹ
châu 24 năm sau mới sinh, thì cây ngô sao có được ở đại lục Âu-Á hả trời?
Viết truyện lịch sử trước hết phải tôn trọng sự thật lịch sử, tuy rằng cần
phải có hư cấu mới thành tiểu thuyết; nhưng việc hư cấu ra cây ngô khi nó chưa
có mặt trên cõi Việt Nam như tác giả “Hội Thề” đã viết thì chỉ là sự hư
cấu phi hiện thực.
Trong “Hội Thề”, tác giả cũng từng hư cấu ra bao nhiêu thứ phi lịch
sử.
Ví dụ khi tác giả viết về bà Nguyễn Thị Lộ vào năm 1427: “Lê Lợi nhìn bà đại học sĩ (tức Nguyễn Thị
Lộ)…”. Xin thưa, chức đại học sĩ của bà Lộ mãi đến mười năm sau mới có, khi
sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua
thích vợ của thừa chí Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ gọi vào cung làm lễ nghi học
sĩ”…
Ở trang 324, tác giả tả cảnh người dân Thăng Long ăn mừng đại thắng quân
Minh dưới Khuê Văn Các. Thưa rằng, Khuê Văn Các do Tổng trấn Bắc hà Nguyễn Văn
Thành xây từ năm 1802, tức là tác giả đã bịa ra Khuê Văn Các trước khi nó được
xây dựng tới 375 năm; bó tay!
Trang 307, tác giả tả Vương Thông cưỡi ngựa chạy trên đường Cổ Ngư. Thưa
hơn ba trăm năm sau sự kiện này đường Cổ Ngư mới được dân ba xã quanh Hồ Tây
đắp nên, làm gì có đường cho quân Minh phi ngựa lúc đó?
Tiền thân của tiểu thuyết “HỘI THỀ” là kịch bản phim truyện “HỘI THỀ ĐÔNG
QUAN” của chính tác giả, đã được giải nhất cuộc thi kịch bản phim truyện trong
cuộc thi viết kịch bản phim mừng 1000 năm Thăng Long. Trớ trêu thay, kịch bản
giành giải nhất này không được dựng thành phim vì như tác giả trả lời
phỏng vấn nhà văn Nguyễn Quang Lập báo “Sài GònTiếp thị” như sau:
“Chỉ nghe nói dựng phim “HỘI THỀ
ĐÔNG QUAN” là một việc nhạy cảm, không được phép, thế thôi”
Trong (Ma chiến hữu): Nhà văn Bảo Ninh từng tiết lộ sở dĩ kịch bản “HỘI THỀ ĐÔNG QUAN” không được dưng
phim là do “nhậy cảm”: “một người trong
ngành văn hoá cho biết rằng, có nhiều lý do lắm ạ, mà lý do thấy rõ nhất là
“tính nhậy cảm”. Hội Thề, tuy là hội thề để đem lại hoà bình, nhưng vẫn
liên quan đến đại thắng của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, mà
như thế thì… không có lợi.” Thì ra là thế!
Từ kịch bản phim truyện rất hoành tráng tả cảnh chiến thắng oai hùng (rất
cứng) của Lê Lợi trước quân Minh, tác giả đã sửa cho “mềm” hơn khi triển
khai thành tiểu thuyết.
Có lẽ, vì muốn tiểu thuyết “Hội Thề” “mềm” hơn kịch bản phim “HỘI
THỀ ĐÔNG QUAN”, để khỏi bị chê là “nhậy cảm”, hợp với quốc sách “16 chữ
vàng” hơn mà Nguyễn Quang Thân đã bị nhà văn Trần Hoài Dương chê là “Hội thề
nhằm bôi nhọ nghĩa quân Lam Sơn và ca ngợi giặc Minh” trên web lethieunhon.com
được trannhuong.com đưa lại, khiến thiên
hạ mới chú ý đến cuốn sách này? Sau tết Nguyên đán, nhà văn Hoàng Tiến đã cho
in bài “Sáng tác cần tôn trọng lịch sử", phê bình “Hội Thề” một cách khá khoa học, nghĩa là
mọi kết luận đều có dẫn chứng:
“Tóm lại, một cuốn sách như thế mà
trao giải nhất về tiểu thuyết, thì Ban chấm giải cần xem lại. Có chịu sức ép ở
đâu không? Ban giám khảo có công bằng trong giám định không? Đọc có kỹ không?
Trình độ Ban giám khảo thế nào?
Tôi cũng có một suy nghĩ như nhà văn Trần Hoài Dương…”; nghĩa là “Hội thề” ca ngợi giặc Minh và hạ bệ nghĩa quân Lam Sơn…
Tôi cũng có một suy nghĩ như nhà văn Trần Hoài Dương…”; nghĩa là “Hội thề” ca ngợi giặc Minh và hạ bệ nghĩa quân Lam Sơn…
Từ hai bài viết của Trần Hoài Dương và Hoàng Tiến, người ta mới chú ý đến
tiểu thuyết “Hội Thề”.
Chúng ta đều biết, trong các giặc phương Bắc xâm lược từ Ân, Thương, Tần,
Hán , Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh …xâm lược nước ta thì quân Minh là thứ
giặc tàn bạo nhất, độc ác, gian hiểm nhất.
Minh Thành Tổ (Chu Đệ ;1402-1424) đã sai các tướng Chu Năng, Trương
Phụ, Mộc Thạnh cầm đầu đoàn quân viễn chính sang xâm chiếm Đại Ngu, đã đánh bại
nhà Hồ và bắt cha con Quý Ly đưa về Trung Quốc, sau khi nhà Hồ sụp đổ, ông đã
đặt Bố chính ti để cai trị đất Đại Việt.
Khi đoàn quân viễn chinh sắp lên đường, Thành Tổ ra lệnh cho tướng Chu
Năng:
“Một khi binh lính vào nước Nam, trừ
các sách vở của đạo Phật và đạo Lão, còn thì mọi sách vở, văn tự, cả những dân
ca, sách dạy trẻ (…) đều phải đốt hết, một mảnh, một chữ cũng không chừa. Những
bia nào Trung Hoa xây dựng từ trước thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy cho hết…”
- Minh Thành Tổ[4]
- Minh Thành Tổ[4]
Lịch sử Việt Nam ( sách giáo khoa) dạy học trò viết:
“Quan lại nhà Minh thi hành chính
sách triệt để cướp bóc, vơ vét chỉ trong 6 tháng xâm lược, quân Minh đã cướp
của nước ta 235.900 con voi, ngựa, trâu bò; 13.600.000 thạch thóc; 8.670 chiếc
thuyền và nhiều vàng bạc, châu báu đem về Trung Quốc. Chính quyền đô hộ tăng
thuế ruộng đất lên gấp ba lần (bằng cách bắt ghi một mẫu thành ba mẫu) so với
thời nhà Hồ. Tất cả nghề thủ công, buôn bán, v.v. đều bị đánh thuế. Chính quyền
đô hộ kiểm soát việc sản xuất muối, nắm độc quyền buôn bán muối. Người đi đường
chỉ được phép mang nhiều nhất là ba bát muối. Nhân dân còn phải cưỡng bức đi
khai thác vàng, bạc, mò ngọc trai dưới biển, khai thác lâm thổ sản, các hương
liệu quý, đi lao dịch. Nhiều người còn bị bắt làm nô tỳ, hoặc bị bắt đưa về
Trung Quốc, phục dịch bọn quan lại nhà Minh. Năm 1407, Trương Phụ bắt đem về
nước 7.700 thợ thủ công. Nhiều thầy thuốc, thợ thủ công, dân phu, phụ nữ, trẻ
con, đào hát, phường nhạc cũng bị bắt đem về Trung Quốc.
Quân Minh còn cướp ruộng đất của nhân dân
chung quanh trại của chúng, biến thành đồn điền giao cho quân lính cày cấy.
Đồng thời, các quan lại nhà Minh còn ráo riết
thi hành chính sách ngu dân, đồng hoá dân tộc.
Trong suốt hai mươi năm đô hộ nước ta
(1407-1427), chính quyền đô hộ nhà Minh đã thực hiện nhiều chính sách và biện
pháp từ tinh vi đến trắng trợn nhằm xoá bỏ quá khứ đấu tranh, dựng nước và giữ
nước bất khuất của dân tộc ta, thủ tiêu những di sản văn hoá truyền thống tốt
đẹp của nhân dân Đại Việt để chiếm đóng vĩnh viễn đất nước ta. Nhà Minh nhiều
lần đốt sách vở, kể cả sách học của trẻ em, phá huỷ các bia đá. Tháng 8 - 1418,
chính quyền đô hộ tịch thu những sách còn sót lại đem về nước. Nhiều tác phẩm
có giá trị về văn hoá, nghệ thuật, lịch sử, quân sự về thời kỳ lịch sử từ thế
kỷ XIV trở về trước đều bị cướp hoặc bị thiêu huỷ, trong số đó có bộ Đại Việt
sử ký gồm 30 quyển của Lê Văn Hưu, Vạn Kiếp bí truyền, Binh thư yêu lược của
Trần Quốc Tuấn, Tử thư thuyết của Chu An, các bộ luật Hình thư, Hình luật của
nhà Lý, nhà Trần, Việt sử cương mục của Hồ Tông Thốc, v.v.. Năm 1414, chính
quyền đô hộ mở trường học ở phủ, châu, huyện để tuyên truyền, nhồi nhét tư
tưởng mê tín với đội ngũ giáo viên là những thầy cúng, thầy chùa, thầy phù
thuỷ, đạo sĩ. Chúng bắt nhân dân Đại Việt ăn mặc theo phong tục tập quán người
Hán. Năm 1414, cấm con trai, con gái không được cắt tóc ngắn, phụ nữ phải mặc
áo ngắn, quần dài."
“Bình
Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi từng viết:
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới
chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm
đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch
mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;"
Sách “Việt thử thông giám cương mục” từng viết: “Giặc Minh đi đến đâu chém giết thả cửa, chất thây người làm núi, rút
ruột người cuốn vào cây, rán thịt người lấy mỡ, làm nhục hình bào lạc để mua
vui, mổ bụng người có thai, cắt tay của mẹ và con để dâng cho giặc…”. Sách
“Đại
Việt sử ký toàn thư” viết: “…Những
người sống sót bị bắt hết làm nô tì và bị đem đi bán mà tan tác bốn phương…”
Sách “Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn” viết: “Theo Lê Qúy Đôn thì “đời nhà Hồ mất nước,
tướng nhà Minh là Trương Phụ lấy hết sách vở cổ kim của ta gởi theo đường sông
về Kim Lăng và sau đó nhà Lê ra sức thu thập, nhưng mười phần còn được bốn năm
phần”. Tướng giặc Vương Thông còn cho quân phá chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh
để lấy đồng đúc vũ khí đàn áp nhân dân ta…” (tr.13)
Lạ thay, hai tướng giặc là Thái Phúc và Vương Thông được Nguyễn Quang Thân
mô tả trong “Hội thề” là những kẻ rất nhân từ, hào hoa phong nhã, mã thượng,
hết lòng thương quý dân Đại Việt, như thể hai kẻ hung thần này chợt biến thành
hội viên hội từ thiện quốc tế vậy.
Thái Phúc từng là đô đốc trấn thủ thành Nghệ An, tội ác mà ông ta và binh
lính quân Minh gây cho vùng Hoan Ái quả tình không bút nào tả xiết. Thái Phúc
đã quy hàng nghĩa quân Lam Sơn vì ham sống sợ chết. Nhờ sự độ lượng và động
viên của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Thái Phúc đã giúp nghĩa quân một số việc ví như
tham gia kêu gọi đầu hàng một số thành trì quân giặc chiếm đóng.
Việc tác giả “Hội thề” mô tả Nguyễn Trãi và Thái Phúc kết giao thân tình
kiểu Bá Nha, Tử Kỳ là hư cấu quá đà, không logic; rằng trong hàng ngũ nghĩa
quân, Nguyễn Trãi rất cô đơn, chỉ có Nguyễn Thị Lộ là vợ lẽ và Thái Phúc là bạn
tâm giao để bớt nỗi u uẩn bị số đông tướng lĩnh võ biền vô học của Lê Lợi tẩy
chay. Nên nhớ Nguyễn Trãi từng đậu tiến sĩ, đạo “chính danh” ông thuộc làu làu,
không có kiểu ông ngồi trong thuyền đánh cờ huynh huynh đệ đệ cá mè một lứa với
kẻ hàng tướng như Nguyễn Quang Thân mô tả. Lạ hơn nữa, quân hồi vô phèng hơn
nữa là hình ảnh Nguyễn Trãi, một chính nhân quân tử, nhân vật số hai của khởi
nghĩa Lam Sơn lại nhường “khoang mũi ấm cúng luôn có nến thắp sáng” trên thuyền
cho Thái Phúc chơi gái…Thái Phúc còn tâm sự với “người bạn” tri kỷ Nguyễn Trãi
về đức tính nhân từ rất ư đạo đức của một tướng sĩ Trung nguyên như sau: “Thú thực với huynh, mười năm đánh nhau hết
Thanh hóa đến Nghệ An, đệ không hề biết mùi đàn bà…Kẻ làm tướng có thể cướp một
thành, diệt một nước nhưng không được o ép liễu yếu đào tơ…” (tr.23). Với
một đội quân xâm lược tàn bạo hơn quân Nguyên như giặc Minh sang cướp nước ta
từ năm 1407-1927, cướp của giết người, hãm hiếp đốt phá hãi hùng như thế mà lại
có một vị tướng từ bi như Phật sống thế này thì hỏi Nguyễn Quang Thân đang viết
chuyện lịch sử hay phản lịch sử đây?
Nguyễn Quang Thân tả tiếp bằng cách bộc bạch nội tâm nhân vật Nguyễn Trãi:
Có vẻ cảm động vì mối tình cao đẹp của hàng tướng Thái Phúc với một cô ca kỹ
ông ta cứu trên đường đi thuyết phục Mộc Thạnh trở về. Nguyễn Trãi bèn nhớ đến
cảnh các tướng lĩnh nghĩa quân Lam Sơn (phái võ biền vô học - theo cách gọi của
Nguyễn Quang Thân) như Phạm Vấn, Lê Ngân, Lê Sát, Nguyễn Chích…nghĩa là đa số
các anh hùng quê Thanh Hóa dự hội thề Lũng Nhai (trừ bốn vị Nho sĩ Bắc Hà khoa
bảng là Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lưu Nhân Chú…) đều là bọn
tướng vô đạo, khác hẳn vị hàng tướng nhà Minh Thái Phúc rất thanh cao này, bằng
những từ thóa mạ như sau: “Họ dũng mãnh
trên trận tiền, có thể cầm giáo xông vào doanh trại chém đầu tướng giặc, lúc
lên cơn có thể sai lính bắt vào lều những cô thôn nữ ngây thơ để chiếm đoạt
trinh tiết của họ. Khi có lệnh chúa công phải giữ nghiêm quân kỳ, họ có thể tự
tay chém đầu những kẻ phạm tội cướp hay hiếp, những cái tội chính họ đã từng phạm
không ít lần nhưng được bộ hạ giấu nhẹm cho mà thôi. Họ không đủ lòng bao dung
để nhìn người khác hạnh phúc, không đủ lòng nhân để rung động trước một yểu
điệu thục nữ, không đủ liêm sỉ để tự răn mình…” (tr. 24)
Sao Nguyễn Quang Thân lại dám nhét vào đầu Nguyễn Trãi những ý nghĩa vô
cùng bậy bạ, “phủ nhận sạch trơn” tính nhân văn và tính chính nghĩa của tướng
lĩnh Lam Sơn, trong khi lại ca ngợi tướng giặc là hiền nhân quân tử, là nhân
bản, nhân tình, là thương dân Việt, chưa từng hãm hiếp một cô gái nào suốt gần
hai mươi năm tham chiến? Vậy thì để giặc Minh đồng hóa nước ta, cai trị dân ta
cho rồi, cớ gì phải dùng bọn “tướng lĩnh Lam Sơn” quá ư vô đạo, vô luân, vô
học, phi nghĩa kia “giải phóng”? Thế này là thế nào hả trời?
Trong cuốn tiểu thuyết viết rất kém này, Nguyễn Quang Thân luôn dùng các
nhân vật làm cái loa phát ngôn của mình. Không, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Tư Tề,
Lê Sát, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân, Nguyễn Chích…không thể nghĩ như thế, không
thể nói như thế, không thể làm như thế …Tất cả tâm trạng, ý nghĩ của hầu hết
nhân vật trong cuốn sách này đều bị bàn tay thô kệch của tác giả áp đặt một
cách vô lối và phi lý…Từ đầu đến cuối sách, mặc dù tác giả tả Lê Lợi, Nguyễn
Trãi và nhiều nhân vật khác, nhưng tất cả chỉ là hình nộm, chỉ là chiếc loa vô
hồn, tất cả chỉ còn một nhân vật nói năng vung vít, đánh tráo thiện ác, địch
ta…là chính Nguyễn Quang Thân…
Rất nhiều trang tác giả nhét vào mồm, vào đầu Nguyễn Trãi những lời thóa mạ
độc ác tướng lĩnh Lam Sơn, thậm chí còn dùng Nguyễn Trãi làm phát ngôn cho Mao
Trạch Đông (tác giả câu nói nổi tiếng: Trí thức không bằng cục phân) khi quy
kết tướng lĩnh Lam Sơn căm thù trí thức bằng những lời rất Nguyễn Quang Thân
như sau : “Là người từng sống nhiều năm
với chúa công và tướng lĩnh Lam Sơn, ông biết họ không thuộc dòng thi thư, niềm
vui của họ là tuốt kiếm ra. Dưới mắt họ những kẻ ham đọc sách chỉ là một lũ
thầy cúng thầy mo hay vẽ chuyện lung lạc chúa công và tướng sĩ. Phạm Vấn đã
nhiều lần lén nhổ nước bọt khi ông đọc thơ. Lê Sát từng nói khi biết chúa công
giao một cánh quân lớn cho Trần Nguyên Hãn: “Đưa lính cho cục phân chó ấy thì
nó nướng sạch”. Sát nhiều lần mắng mỏ mấy ông đồ coi sổ sách quân lương: “Ngữ
các ông không bằng cục phân…”…(tr.29)…Còn đây là sự khinh rẻ, thóa mạ các
tướng lĩnh Lam Sơn của Nguyễn Thị Lộ, vợ của Nguyễn Trãi: “…Bọn người vô học trong cái triều đình không
ngai…” (tr.40)…
Theo sử, Lê Lợi tuy ở chốn thôn dã nhưng ngài vừa luyện võ vừa đam mê kinh
thư, nghĩa là văn võ song toàn, trí dũng toàn tài. Các tướng lĩnh quê Thanh Hóa
của ngài tuy học không cao, nhưng cũng có đọc sách, tuy là tướng võ nhưng mưu
lược hơn người, hầu như cầm quân đi là chiến thắng…Họ, những tướng lĩnh cùng
quê với Lê Lợi là những người trọng chữ thánh hiền, không bao giờ dám khinh rẻ
thi thư, càng không căm thù trí thức đến nỗi phải mượn lời của kẻ sinh sau mình
500 năm là Mao Trạch Đông để nguyền rủa trí thức …Nguyễn Quang Thân viết như
thế này mà dám gọi là tiểu thuyết lịch sử ư?
Đây là đoạn Nguyễn Quang Thân, sau khi lên án sự vô đạo, vô học, vô văn hóa
của tướng lĩnh Lam Sơn, bèn tả hàng tướng nhà Minh Thái Phúc là con người cao
cả, tuyệt vời nhân nghĩa và bao dung, hào hoa phong nhã, ngay cả một gái điếm
(ca kỹ) mà viên tướng giặc này còn nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa,
thông qua tâm trạng của nàng ca kỹ: “Từng
là kỹ nữ chốn kinh kỳ, cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm, đã qua vòng tay
nàng không biết bao nhiêu đàn ông trẻ có, già có. Nhưng nàng không thương lấy
được một người. Cho đến lúc nàng được gặp ông qua bản vắng. Thoạt tiên, nàng
không biết ông là người phương Bắc. Ông nói với nàng tiếng Đại Việt lớ giọng
Nghệ, giọng nói ông thô lậu nhưng chân thành, rắn chắc. Ông nhận miếng trầu
nàng têm mời. Ông dắt nàng xuống cầu thang gỗ. Bàn tay ông ấm áp, tin cậy. Rồi
ông cõng nàng qua suối….Ông ấy yêu nàng, chăm sóc nàng như một công tử tốt bụng
lại hào hoa, phong nhã, chẳng chút thô lậu võ tướng…” (tr. 68)
Thông qua mối tình của hàng tướng Thái Phúc và mối tình của Vương Thông với một cô gái Việt ta có cảm tưởng đám tướng giặc Minh này đều là những chàng Kim Trọng sang Đại Việt để làm từ thiện, để cứu vớt chúng sinh, để khai hóa, để làm phúc cho dân tộc Việt Nam, chứ không phải sang đây để cướp nước, cốt đốt sách, hãm hiếp con dân Đại Việt như chính sử của ông cha ta từng viết. (Nguyễn Quang Thân tả Vương Thông trước ngày đầu hàng Lê Lợi, nửa đêm, bế người yêu là thiếu nữ Đại Việt từng là vợ y lên ngựa, tặng hết châu báu cho nàng, dắt theo hơn 200 kỵ binh thiện chiến mở đường máu vượt qua mấy vòng vây của quân Lam Sơn để mang người yêu Đại Việt về trả cho cha mẹ nàng. Cuộc phá vòng vây máu của tình ái, của cao thượng, của nhân từ hết mực và cao cả sáng trưng chính nghĩa Trung nguyên này của tướng giặc Vương Thông đã thí mạng hơn trăm lính quân Minh và bằng ấy lính Đại Việt....)
Hình ảnh hàng tướng Thái Phúc còn hiện ra qua ngòi bút Nguyễn Quang Thân là
một người giàu lòng nhân ái, không bao giờ giết chóc hoặc hành hạ tù nhân Đại
Việt. Tác giả kể rằng khi Thái Phúc là vị tướng dẫn một đoàn tù rồng rắn gồm
toàn bộ triều đình nhà Hồ và những người tài giỏi của Đại Việt bị bắt sang
Trung Quốc, thấy Nguyễn Phi Khanh đi bộ mang nặng kiệt sức ngã lên ngã xuống,
tướng giặc này đã tìm một con ngựa gày gò mời người cha Nguyễn Trãi cưỡi ngựa
mà đi vào chỗ chết cho sướng. Thật là nhân đạo thay! Trong khi, qua ngòi bút Nguyễn
Quang Thân, nghĩa quân Lam Sơn thường chém đầu tù hàng binh: “Họ thường chặt đầu tù binh tế cờ…”
(tr.199). Cảnh tác giả tả tướng Lê Sát chém đầu mấy người tù binh xem ra thật
tàn ác và rùng rợn. Cảnh tác giả tả nghĩa quân Lam Sơn chém tù binh là hàng tướng
Thôi Tụ trước thành Đông Quan để cảnh cáo Vương Thông thật là cảnh man rợ hết
chỗ nói. Trong khi Vương Thông, cũng qua ngòi bút tác giả bắt được tù binh
Nguyễn Thống, kẻ vừa bắn trật tướng Minh Sơn Thọ, lại được đối đãi quá tử tế và
tha mạng cho về. Thật là hai bức tranh trái ngược: Quân Minh càng nhân đạo bao
nhiêu thì nghĩa quân Lam Sơn càng man rợ, tàn bạo bấy nhiêu.
Đây là hình ảnh các tướng Thanh Hóa của Lê Lợi mà Nguyễn Quang Thân nhét
vào mồm Trần Nguyên Hãn, xem ra các tướng cùng Lê Lợi ăn thề thưở Lũng Nhai chỉ
là một bọn thổ phỉ không hơn không kém: “Một
đống của cải gái đẹp tha hồ chia nhau cướp phá hiếp giết cho thỏa mãn mười năm
nhịn thèm” (tr 253)…
Chúng tôi xin trích những lời Nguyễn Quang Thân phỉ báng, bôi nhọ tận cùng
các tướng lĩnh Lam Sơn (trừ có bốn tướng khoa bảng Bắc Hà: Nguyễn Trãi, Trần
Nguyên Hãn, Lưu Nhân Chú, Phạm Văn Xảo) thông qua các nhân vật hình nộm mà
Nguyễn Quang Thân dùng làm loa phát ngôn cho mình, như sau: “Ta đâu có lạ cái máu dê của các người” (tr.84)… “Lê Sát là kẻ học mọn”…”đôi mắt hơi nhỏ bộc lộ tính khí cố chấp,
nhiều dục vọng và có chút gì đó thô bạo” (tr.96,97)… “bụng hẹp như trôn kim”…(tr103)… “Đám công thần can trường dũng cảm nhưng ông biết là vô học, nhiều khi
vô đạo, hễ ông quay gót là giở trò ngu ngốc cho thỏa cái bất kham của họ”
(tr.111)… “Bọn Vấn, Sát, Ngân vẫn thường
thả cửa cho quân tướng lạm dụng đồ tế nhuyễn của riêng tây của giặc Ngô và cả
của dân chúng khi tràn vào chiếm lại cái thành phố giàu có nào đó…”
(tr115)… “Lê Sát rút gươm lia mấy đường, máu
phun lên xối xả. Ba cái đầu lâu lăn lóc dưới đất. Đám lính hầu thất sắc, nhớn
nhác…”(tr117)… “Tranh nhau chiến lợi
phẩm” (tr134)… “Bọn Sát, Ngân thù
ghét, miệt thị Trãi, Hãn ra mặt” (tr136)… “Đưa tất cả về Thanh cho bà lớn…Dặn chôn chặt cất kỹ và khâu miệng bọn
gia nhân lại…Ta lột được của thằng Hoàng Phúc. Nó lạy như tế sao, nói là vật hộ
mạng truyền từ đời cụ kị nhà nó. Ha ha. Bây giờ viên ngọc sẽ hộ mệnh cho họ
Phạm này…” (tr.170)… “Tôi thì chôn
sống hết lũ chuyên khua môi múa mép, cái lũ trí thức không bằng cục phân ấy”(tr.171)…
“Ta nhường họ phần thanh cao, chỉ xin
phần thô tục” (tr.172)…“Nó chịu hàng
thì tôi bú buồi cho các ông” (tr173)…“Viên
tùy tướng đứng cạnh con ngựa Thôi Tụ đang cưỡi, lia đường kiếm đánh xẹt. Chưa
ai kịp nhìn, đầu Thôi Tụ đã lăn lóc dưới đất, vọt ba tia máu làm đỏ rực đám cỏ”
(tr.183)… “Các tướng lén cho ngựa thồ
vàng bạc lấy của địch về nhà”(tr.199)
…“Kẻ vô học tham lam”…” đám vô học” (tr200)…“Cứ
có lợi thì chuyện xấu xa mấy người ta cũng làm”(tr.201)…. “Đôi mắt thăm dò sắc như dao và nham hiểm của
Phạm Vấn”(tr219)….”v…v…và v…v…
Chúng tôi tin rằng, cuốn sách này có thể sẽ được Trung Quốc dịch in, biết
đâu sẽ được giải thưởng lớn từ Bắc Kinh vì nó phục vụ đắc lực cho chiến lược
“16 chữ vàng”…của những hậu duệ Minh Thành Tổ, Trương Phụ, Vương Thông…hôm nay.
Lê Tư Tề con bà vợ cả Trịnh Thị Lữ với Lê Lợi là một tướng Lam Sơn văn võ
song toàn, một con người theo Nguyễn Quang Thân mô tả là học trò cưng của
Nguyễn Trãi, có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, một người chí tình chí nghĩa,
thấm nhuần tinh thần đạo lý Nho gia: “trai thì trung hiếu làm đầu”. Thế mà, lạ
thay, Nguyễn Quang Thân đã nhét vào đầu Lê Tư Tề một ý nghĩ đại bất hiếu, đại
nghịch, “phủ nhận sạch trơn” cha mình - một anh hùng dân tộc, chỉ vì Lê Lợi
trót mắng con trai trưởng vì tội dám đánh em ruột cùng cha khác mẹ là Lê Nguyên
Long, như sau: “Tư Tề dần dần hiểu ra.
Ông biết sau lưng mình từ lâu người ta đã có những âm mưu hắc ám. Vua cha bận
trăm công nghìn việc đâu có thì giờ tĩnh tâm để phân biệt phải trái, chính tà…”
Cái ý nghĩ quá bậy bạ này Nguyễn Quang Thân nhét vào đầu Lê Tư Tề không
phải ngay sau khi ông bị vua cha Lê Lợi mắng, mà đã qua nhiều ngày “từ từ ông
hiểu ra”…Nghĩa là sau khi ông nghiền ngẫm rất lâu mới đi tâm sự với Nguyễn Trãi
và cho cha mình là kẻ “không phân biệt được phải trái, chính tà”, tức là Lê Lợi
qua sự lên án của người con trưởng, chỉ là tên hôn quân bạo chúa…
Ý nghĩ vô đạo này dứt khoát không thể có trong đầu Lê Tư Tề một con người
tôn sùng cha mình như Trời Phật, một người coi trung là hiếu, coi hiếu là
trung, thà có ai chặt cổ ông, ông cũng không dám nghĩ xấu về cha mình như thế
…Bằng kết luận này của Nguyễn Quang Thân áp đặt vào nhân vật Tư Tề, dù tác giả
có ca ngợi Lê Lợi bằng nhiều trang sách cũng chỉ là công cốc mà thôi. Sao một
vị anh hùng dân tộc, suốt mười năm nằm gai nếm mật với tài cao đức lớn có lòng
dân ủng hộ, với bao hi sinh, mười năm kháng chiến (không có sự giúp đỡ hết mình
của Liên Xô, Trung Quốc, lại chưa có đảng lãnh đạo) mà vẫn đuổi được giặc Minh,
dành lại nước cho chúng ta hôm nay, lẽ nào Nguyễn Quang Thân lại chơi xỏ ngài,
vu cho ngài là một người có bộ óc bã đậu, một kẻ tiểu nhân vô học vô luân không
phân biệt được phải trái, chính tà…đến như thế này ư?
Lê Lợi người từ bé đã ham mê tập võ nghệ và ham mê đọc sách thánh hiền theo
sử chép, chẳng lẽ lại hiện ra dưới ngòi bút Nguyễn Quang thân như một anh cu
trâu mù chữ, như một chú mõ làng láu cá, đê tiện khi hau háu nhìn bà Nguyễn Thị
Lộ bằng cái nhìn đầy dục tính, mê đắm một bà vợ thuộc cấp theo tác giả tả là
khá xấu và già, lúc đó đã ba mươi bảy tuổi, như sau: “Lê Lợi nhìn bà đại học sĩ giống như khi ông muốn xé một con gà luộc bốc
hơi nghi ngút…” (tr.11)…Đây phải chăng là hình ảnh vua Lê Lợi: “Ông (tức Lê Lợi) đói cồn cào, chạy vô bếp
kiếm một miếng cơm cháy. Trong một khắc ông không còn là minh chủ, mụ (tức mụ
bếp) quýnh lên còn ông thì làm (làm tình) vội làm vàng, sợ mấy thằng thị vệ
nhìn thấy, nhanh như con gà trống…” (tr.12)
Với những hình ảnh trên, dù tác giả đã để nhiều trang ca ngợi Lê Lợi, thì
chỉ bằng sự quy kết của Lê Tư Tề rằng Lê Lợi là kẻ “không phân biệt được phải
trái, chính tà”, thì quả tình Nguyễn quang Thân đã phủ nhận công việc chính
nghĩa sáng ngời của nghĩa quân Lam Sơn là cứu nước, giành lại độc lập dân tộc
đã bị nhà Minh cướp mất suốt hai mươi năm, đồng thời tô son trát phấn cho hai
viên tướng giặc là những nhà nhân đạo chủ nghĩa, những chính nhân quân tử…Có
phải bằng việc này, Nguyễn Quang Thân muốn đánh tráo chiến tranh chính nghĩa và
chiến tranh phi nghĩa theo một câu thơ rất sai có xuất xứ từ bên Nga: “Trong
mọi cuộc chiến tranh, bên nào thắng thì nhân dân cũng bại”. Không, ngàn lần
không, năm 1427, sau mười năm kháng chiến, vua Lê Lợi đã chiến thắng giặc Minh
xâm lược; chiến thắng của Ngài cũng chính là chiến thắng của đất nước và của
nhân dân Đại Việt. Nhờ đó mà chúng ta còn có một nước Việt Nam hôm nay.
Cùng với Lê Lợi, Nguyễn Trãi là một nhân vật chính trong “Hội Thề”. Nguyễn
Quang Thân đã dành nhiều trang ca ngợi công đức Nguyễn Trãi. Trong chương gần
chót có tên “Tứ hải giai huynh”, Nguyễn Quang Thân đã hạ bệ nhà đại trí thức
của nước Việt xuống hàng phải nói là quá ngớ ngẩn. Xin chứng minh.
Trang 263, Nguyễn Quang Thân tả cuộc đối đáp của Nguyễn Trãi, Trần Nguyên
Hãn với hàng tướng Thái Phúc, y từng khoe đã rước Nguyễn Phi Khanh lên ngựa để đi
cho đỡ cực trên đường bị bắt đi đầy sang Trung Quốc:
“Nguyễn Trãi cười buồn hỏi:
- Thân phụ tôi nói gì?
- Người nói: Mang thân kẻ
đi đày tôi mới hiểu thế nào là câu “tứ hải giai huynh đệ”. Ở đâu cũng có thể
gặp người có nhân. Ngài ít tuổi hơn nhưng xin cho tôi được gọi ngài là anh tôi.
Ôi giá như đức Khổng Khâu nói tứ hải giai huynh thì thiên hạ đã thái bình…”
…
“Nguyên Hãn ha hả: - Hay!
Giá như người Ngô các ông đừng ỉ thế mà biết nói “thiên hạ giai huynh” như ông
dượng của tôi thì hay biết mấy”…
….
“Mắt Nguyễn Trãi mờ đi.Ông thì thầm như đang nói mê: “Tứ hải giai huynh ! Thật chí lý. Thế nhưng mấy người làm được vậy?” (tr.265)
“Mắt Nguyễn Trãi mờ đi.Ông thì thầm như đang nói mê: “Tứ hải giai huynh ! Thật chí lý. Thế nhưng mấy người làm được vậy?” (tr.265)
Nguyễn Quang Thân sao dám mang cái bất cập của mình mà gán cho cha con
Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi. Câu thành ngữ: “Tứ hải giai huynh đệ” không phải
là câu của Khổng tử mà là một câu ngạn ngữ cổ Trung Hoa. Theo cuốn “Từ điển thành
ngữ, tục ngữ Hoa Việt dày 1156 trang, do Lê Khánh Trường-Lê Việt Anh dịch- GS.
Lê Trí Viễn hiệu đính, NXB Văn Hóa và Thông Tin 1998, trang 808 định nghĩa như
sau: “Tứ hải chi nội giai huynh đệ”: Năm châu bốn biển đều là anh em. Hết thảy
mọi người đều nên giúp đỡ lẫn nhau, như người một nhà. Năm châu bốn biển đều là
anh em: tứ hải giai huynh đệ”
Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn là những người thông kim bác
cổ, không đời nào các ông lại nhầm câu thành ngữ trên là của Khổng Khâu. Vả,
các vị trí thức lớn Đại Việt trên không ngu dốt đến mức bỏ đi một từ trong câu
ngạn ngữ kia để thành: “Tứ hải giai huynh” vừa vô nghĩa, vừa ngầm phục vụ cho
mộng bá chủ thiên hạ của các hoàng đế Trung Nguyên. “Tứ hải giai huynh” chỉ có
nghĩa là: “bốn biển đều là anh” hay “bốn biển đều là của anh”. Nếu cả ba vị
trên đều tâm đắc với câu ngạn ngữ cụt đuôi trên, tức là họ đã mắc mưu Thái
Phúc, kẻ vừa bịa ra lời Nguyễn Phi Khanh để lừa dân Việt: “Bốn bể đều là anh
hai Hoa Hạ, bốn biển đều là của anh hai Đại Hán” để truyền chỉ mệnh lệnh thiên
triều: Bốn bể đều là của hoàng đế Trung Hoa, dưới gầm giời này không chỗ nào
không thuộc quyền trẫm”. Như vậy, có khác nào chính Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn
Trãi, Trần Nguyên Hãn đã nhờ Nguyễn Quang Thân công khai tuyên bố với bàn dân thiên
hạ rằng: Nước Việt Nam ta muôn đời chỉ là thuộc quốc của Trung Hoa. Như thế này
có phải là phản “Bình Ngô đại cáo” hay không?
Thông điệp “Tứ hải giai huynh” mà Nguyễn Quang Thân dùng các nhân vật trên
để phát ngôn có phải là tư tưởng chủ đề của tác phẩm “Hội Thề” vừa được Hội nhà
văn Việt Nam trao giải thưởng hạng A chăng?
*.
Sài Gòn chủ nhật 13-02-2011
TRẦN MẠNH HẢO
Địa chỉ: Số nhà 220/22
phố Hồ Văn Huê,
quận Phú Nhuận, thành phố Sài Gòn
Email:
hungdimy@yahoo.com
.
........................................................................................
- Cập nhật từ email: ngocthai1948@gmail.com
ngày 08.09.2015
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét