(Nguồn ảnh: internet) |
Thư đi thư lại:
ĐI CHÙA HÀ
CẦU DUYÊN
(NGUYỄN BÀNG và DƯƠNG NINH NINH)
Trân trọng chia sẻ cùng bạn đọc “Thư đi thư
lại: ĐI CHÙA HÀ CẦU DUYÊN của tác gia, nhà giáo Nguyễn Bàng với cây viết trẻ
Dương Ninh Ninh về truyền thuyết chùa Hà (Hà Nội) và niềm tin tín ngưỡng: cầu
tình duyên ở chùa Hà trong dân gian.
Cây viết trẻ DƯƠNG
NINH NINH (sinh năm 1995)
(Singapore : 11.07.2016)
Kính
thưa bác!
Hè vừa
rồi cháu có về nhà chơi chừng hơn hai tuần. Một hôm cháu đến thăm bà ngoại,
đang ngồi cạnh bà thì bà bỗng ôm lấy cháu rồi vuốt tóc cháu và âu yếm bảo:
- Quả
mai ba bẩy đương vừa. Cháu bà năm nay đã hăm mốt rồi mà chỉ thấy học và chơi
với mấy đứa bạn từ hồi tấm bé, thế thì biết bao giờ mới có bạn trai và bao giờ
mới cho bà ẵm cháu gọi bằng cụ ngoại? Hay là cuối tuần này bà đưa cháu vào chùa
Hà lễ Mẫu cầu duyên nhé?
May quá,
cuối tuần đó cậu mợ cháu mời cơm ông bà ngoại và cả nhà cháu. Lấy cớ phải giúp
mợ bếp núc, thế là cháu không phải đi cầu duyên nữa. Sang tuần cháu trở lại
Sing rồi.
Biết bác
là người làng Vòng, nơi có chùa Hà được người Hà Nội gắn cho một niềm tin tha thiết
vào hai chữ “tình duyên” nên xin bác cho cháu biết ít nhiều về ngôi chùa ấy
đồng thời cho cháu một lời khuyên có nên đến đó lễ Mẫu cầu duyên theo lời bà
ngoại cháu không ạ?
Nhà giáo NGUYỄN BÀNG
(Sài Gòn: 11.07.2016)
Chào
cháu Ninh Ninh,
(Tác gia, nhà giáo Nguyễn Bàng) |
1/ Chùa
Hà có tên chữ là Thánh Đức tự, cùng với Đình Bối Hà, lập thành cụm di tích Đình
– Chùa Hà. Trước kia chùa Hà thuộc làng Dịch Vọng (tên nôm là làng Vòng), nay
thuộc phố Chùa Hà phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Cháu chỉ
cần hỏi bác Gúc hai tiếng “chùa Hà” thì trong vòng 0,48 giây bác ấy cho gần 2
triệu kết quả, tha hồ mà tìm hiểu. Vì vậy, ở đây bác chỉ tóm lược những nét
chính mà bác đã biết và đôi điều về chùa Hà trong mắt người làng bác.
Làng
Dịch Vọng trước đây có 3 thôn: Thôn Tiền còn gọi là Vòng Tiền, thôn Trung (Vòng
Trung) và thôn Hậu (Vòng Hậu). Người dân Dịch Vọng từ xa xưa chủ yếu là làm
ruộng nhưng mỗi thôn có thêm một nghề phụ: Vòng Tiền trồng rau và trồng hoa,
nổi tiếng với kinh thành là hoa lơ, cải bắp và hoa huệ; Vòng Trung có nghề hàng
xáo chuyên mua thóc về xay, giã, dần, sàng thành gạo sạch rồi đem đi bán khắp
chợ thì quê trong vùng. Đặc biệt là ở Vòng Hậu có nghề làm cốm từ lâu đời, cốm
Vòng được nhân dân đất thành Thăng Long và các vùng miền gần xa ưa chuộng và
ngày xưa, hàng năm được chọn đem vào kinh đô tiến vua.
Chùa Hà
thuộc Vòng Trung, tương truyền được xây dựng từ rất lâu đời trong một xóm nhỏ
không rõ xa xưa tên xóm là gì, có tên là chùa Vồi vì được xây bằng gạch vồ và
lợp lá vồi. Đến đời vua Hy Tông, có hai người buôn gốm quê làng Thổ Hà
(Bắc Giang) sang ở nhờ chùa để bán các đồ gốm sứ ở chợ trong, ngoài thành Thăng
Long. Do buôn bán phát đạt, hai gia đình này tình nguyện công đức số tiền lớn
cùng nhân dân trong xóm xây dựng lại chùa bằng gạch ngói. Hai làng Thổ Hà và
Vòng Trung kết nghĩa, đặt tên xóm có chùa Vồi là Bối Hà. Do đó, người ta mới
dần gọi tên ngôi chùa là chùa Hà như hiện nay.
Còn vì
sao chùa Hà có tên tự là chùa Thánh Đức thì có hai truyền thuyết.
Truyền
thuyết thứ nhất: Vào thời Lý vùng Dịch Vọng đã có nhiều danh thắng nổi tiếng.
Vua Lý Thánh Tông (trị vì 1054 - 1072) lúc 42 tuổi vẫn chưa có con nên đã cầu
tự ở một ngôi chùa ở Vòng Hậu mà sinh ra Thái tử Càn Đức, do đó ngôi chùa này
được gọi là chùa Thánh Chúa để kỷ niệm sự kiện này. Trên đường đi vua còn ghé
qua một ngôi chùa Vồi ở Vòng Trung và ban tiền bạc cho chùa để trùng tu lại, vì
vậy chùa này có tên là Thánh Đức tự. Vua Lý Thánh Tông đột ngột mất năm 50
tuổi, thái tử Càn Đức lên ngôi lúc 7 tuổi, tức là Lý Nhân Tông.
Truyền
thuyết thứ hai: Chùa Hà được xây dựng lên để vua Lê Thánh Tông (trị vì
1460-1497) bày tỏ lòng nhớ ơn các đại thần Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã
cưu mang mình và phế bỏ Lê Nghi Dân để đưa mình lên ngôi vua vào năm 1460.
Tương truyền, Nghi Dân Thái tử có tội với triều đình, không được nối ngôi, kết
bè đảng, đêm bắc thang vào thành Thăng Long đốt cháy cung điện. Vua Lê Thánh
Tông còn nhỏ, phải lánh nạn về một ngôi chùa ở Vòng Hậu. Khi ấy, vua Lê Thánh
Tông cũng lui tới thăm ngôi chùa ở Vòng Trung. Chùa Vòng Hậu có tên Thánh Chúa
và chùa Vòng Trung có tên Thánh Đức do nguồn gốc câu chuyện trên.
Hiện
nay, trước cửa chùa Hà còn có dòng chữ Hán đắp nổi trên cột trụ: "Lê
Triều Chính Hòa tạo dựng" ("Chùa dựng năm Chính Hòa triều Lê").
Có lẽ, đây là lần xây dựng mới của chùa Hà vào đời vua Lê Hy Tông (1675-1705)
“Đất của vua chùa của làng”, hầu như làng nào
cũng có chùa. Vòng Trung quê bác có 3 xóm thì mỗi xóm có một chùa. Vì vậy,
người làng thường chỉ lên chùa ở xóm mình với mong ước cầu bình an, sức khỏe và
mùa màng bội thu hay tìm một chút bình tâm ở chốn không gian tâm linh thanh
tĩnh.
Hồi bác
còn nhỏ chỉ thấy dân làng truyền tụng nhau câu: “Đức Ông chùa Hà, Đức Bà chùa Hương”, ý nói Đức ông chùa Hà rất linh
thiêng. Đức ông là một pho tượng trong số các tượng được thờ ở toà Phật điện
như tượng Tam thế, A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, A Nan Đà.
Nhờ câu truyền tụng này, riêng chùa Hà còn được nhiều người quanh vùng và nhiều
người trong thành Hà Nội đến thăm viếng và cầu lễ vào các ngày ba mươi, mồng
một, mười tư mười rằm. Nhưng tuyệt nhiên, không thấy ai nói tới chuyện chùa Hà
linh thiêng về việc cầu duyên.
Những
năm bác trọ học ở Hà Nội, nghỉ hè, thường về quê chơi vài lần. Hai anh em bác
và một số bạn làng thường rủ nhau ra chùa Hà câu cá. Trụ trì chùa là
một sư nữ đã có tuổi và thêm hai ni cô còn trẻ, cả ba vóc hạc khẳng khiu, vẻ
mặt buồn hiu và rất kiệm lời. Hai cái ao chùa nhỏ bé kín đầy bèo cái,
phải lấy cần câu gạt để hở một vũng nước thả thính rồi mới thả dây câu.
Cá cắn câu thường chỉ là những con mài mại bằng ngón tay trắng mỏng hay
những con cá cờ bằng hai đầu đũa. Năm thì mười hoạ, cả bọn mừng rỡ reo hú
lên khi có người giật được một con rô to gần bằng bàn tay, đen trẫm và gọi
nó là con rô cụ.
Sau
ngày giải phóng thủ đô 1954, chùa Hà vắng bóng người đến lễ và
viếng cảnh, khói hương thưa nhạt dần. Đặc biệt trong CCRĐ đầu năm
1956, mấy mảnh ruộng trước cửa chùa Hà được chọn làm bãi đấu tố và xử bắn
địa chủ cường hào gian ác nên chiều hôm và đêm tối nhiều người có việc phải đi
qua chùa Hà đều cảm thấy rờn rợn.
Trong ba
chùa ở thôn Trung, chùa Hà lớn hơn chùa Tháp đôi chút nhưng bé hơn chùa Thọ khá
nhiều. Vì vậy trong CCRĐ, sư trụ trì chùa Hà không bị hệ luỵ nhưng sư trụ trì
chùa Thọ thì bị quy là địa chủ vì ruộng chùa nhiều, ruộng chùa rộng. Sư ông
chùa Thọ năm đó đã gần sáu mươi được dân thôn rất quý trọng đã bị đem ra đấu tố
vì tội phát canh thu tô bóc lột nông dân nghèo và bị kết án cải tạo 8 năm.
Nhưng may cho ông, mới ngồi tù 2 năm thì có chính sách sửa sai nên được tha
về.
Hai năm
chùa Thọ không có người trụ trì, xóm thôn vắng bặt tiếng chuông sớm mai và
chiều hôm, vườn chùa hoang xơ thành nơi cho trẻ thả trâu rồi lên sân chùa chơi
khăng chơi đáo. Chỉ ngày Rằm, vài vãi già có tâm mới bảo nhau lên quét dọn và thắp
vài nén hương để thần phật đỡ phần cô quạnh. Khi sư ông về lại chùa thì không
có gạo ăn, phải vào trong dân xin, kẻ nhiều người ít, có người còn cho thêm củ
su hào, quả su su và bày cho sư ông cách nấu cháo su hào, cháo su su ăn với
muối trắng. Ruộng chùa đã bị chia quả thực hoặc xung vào hợp tác xã. Giờ chỉ
còn mảnh vườn hoang phế, sư ông tự cởi áo cà sa, cuốc đất trồng rau và vun
trồng lại cây quả. Ít lâu sau, rau vườn chùa đã xanh mướt, cây vườn chùa đã hồi
sinh và cho quả. Từ đấy, người ta thấy sớm mai chiều hôm, sư ông, vẫn như ngày
xưa, khoác chiếc tay nải màu nâu gụ đi trên đường làng, thấy bé con nào cũng
lấy một hai trái cây từ trong tay nải ra cho bé, tuỳ mùa, khi thì quả roi, khi
thì chùm nhỏ nhãn. Số còn lại, nhà sư rẽ vào các nhà thăm biếu các ông già bà
cả hay người đang bị ốm.
Từ năm
1957, không còn tuổi đi câu nữa và cũng không được đi học nữa, bác bắt đầu kiếm
sống xa Hà Nội, không mấy khi về quê nên gần như quên mất chùa Hà. Cho
đến cuối năm 1968, khi chiến tranh leo thang của Mỹ đánh phá ác liệt
nhất, từ vùng quê sơ tán ở miền biển, bác đưa vợ con về quê ăn Tết trong
những ngày tạm yên bom đạn, bỗng nghe từ u bác đến vợ chồng ông anh trai
rồi cả vợ chồng bà chị gái bác đều nói, người ta đồn đại chùa Hà bây
giờ thiêng lắm, ngày rằm mồng một, nhằm các khung giờ máy bay Mỹ ít bắn
phá, người ngoài Hà Nội và cả người tứ xứ, từ quan chức đến sĩ quan
quân đội, công an, viên chức nhà nước đến dân thợ thủ công, người buôn bán nhỏ
và người nội trợ...nườm nượp đổ về chùa Hà cầu khấn. Thôi thì đủ măt xe
comangca, xe volga, xe máy Liên Xô, Đông Đức và Tiệp Khắc rồi xe đạp Mifa,
Diamant, Favorit...và cả người đi xe điện..Dân làng ta được dịp may, rủ nhau
xoay qua nghề bán hương, hoa quả và tiền vàng, ngồi kéo dài non cây số từ dốc
chân Cầu Giấy về sát bên chùa Hà. Mấy ông biết chữ nho cũng ra treo biển “Nhận
viết sớ” cạnh Tam quan chùa. Nhiều nhà nhổ hết rau vườn để trồng hoa bán. Chị
cả bác đang bán gạo bên lề đường bưu điện Cầu Giấy cũng bỏ thúng mủng chuyển
sang công việc mới này.
Sau hiệp
định Paris 1973, bác lại về thăm quê. Lần này nghe người nhà và người làng nói
khác hẳn lần trước:
- Không
biết từ đâu, người Hà Nội lại gắn cho chùa Hà làng ta một niềm tin tha thiết
vào hai chữ “tình duyên”, đi thì lẻ bóng về thì có đôi. Giờ, chùa Hà không chỉ
các quan chức, các cụ cao niên và trung niên đến thắp hương mà đông nhất lại là
các bạn trẻ, các nam thanh nữ tú đến đây cầu duyên. Mấy ông treo biển “Nhận
viết sớ” nay cũng thêm vào hai chữ cầu duyên thành “Nhận viết sớ cầu duyên”,
kiếm khối tiền.
Không
còn lo sợ máy bay Mỹ bắn phá nữa, người ta đến chùa Hà từ mờ sáng đến sẩm tối.
Đông nhất là nơi có ban thờ Thánh Mẫu. Trai gái chen chân nhau dâng lễ cầu xin
Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải xót thương cho vì nay nhân duyên
cho hôn nhân trăm năm chưa đến mà ban cho duyên lành như ý nguyện trong nay
mai, để rồi cho được sinh trai, sinh gái đầy nhà vui vẻ khỏe mạnh, hay ăn chóng
lớn, mãi mãi bình an khang thái.
2/ Xin
bác cho cháu một lời khuyên có nên đến đó cầu duyên không ạ?
Cháu cho
bác một câu thật khó trả lời. Đến hay không là tuỳ vào lòng tin của cháu và cả
lòng tin của bà ngoại cháu về chùa Hà cùng tình yêu thương của bà dành cho
cháu.
Nhưng
như trên đã nói thì chùa Hà có ở quê bác đã cả mấy trăm năm rồi. Suốt mấy trăm
năm ấy, theo các cụ kể thì người làng bác không có chuyện đến chùa Hà cầu
duyên, không phải vì “Bụt chùa nhà không thiêng” mà vì chưa bao giờ có truyền
tụng về sự linh thiêng trong việc cầu duyên ở chùa Hà mà chỉ truyền tụng nhau
câu nói “Đức Ông chùa Hà, Đức Bà chùa Hương”
Dân làng
Vòng, khi trai khôn đến tuổi lấy vợ, gái ngoan đến tuổi tìm chồng thì gia đình
tìm chọn dâu rể cho con cho cháu hoặc nhờ mai mối đánh tiếng hộ và ai cũng
thích chọn vợ chọn chồng theo chuẩn “Gái hơn hai, trai hơn một”, nhiều nhà khá
giả nhưng neo người cần có một nàng dâu đảm để gánh giang sơn nhà chồng thì tìm
cho con một cô vợ hơn chồng đến 5, 6 tuổi. Chẳng thấy ai đem con cháu lên chùa
Hà cầu duyên bao giờ.
Bây giờ
chùa Hà nổi tiếng linh thiêng cầu duyên nhất Hà Nội thì người làng bác cũng lấy
làm vui và tự hào. Nhưng với chùa nhà, người ta chỉ quan tâm xem những ai
được cử vào ban quản lý chùa Hà, người ấy người nọ có quan hệ gì với quan chức
nào trong phường Dịch Vọng và người ta bàn tán xôn xao như sóng dậy mỗi khi có
chuyện hòm công đức bị đánh cắp hay bị móc ruột trộm tiền.
Hẳn cháu
cũng biết câu ca dao này:
Ruộng
ai thì nấy đắp bờ
Duyên ai
nấy gặp, đợi chờ uổng công.
Đây là
một câu ca dao rất hay về chủ đề tình duyên. Ý muốn nói có duyên thì
tự khắc sẽ đến được với nhau, còn không duyên thì đợi chờ bao lâu cũng
không có kết quả. Cái duyên của mỗi người đã mặc định là thế, vậy thì, có
cần phải đi chùa khấn vái để xin ban cho duyên lành như ý nguyện, đi thì lẻ bóng
về thì có đôi hay không?
Cháu mới
ba bẩy hai mốt, còn quá trẻ lại xinh đẹp, có học và sắp sửa đi làm, chắc cháu
sẽ tự trả lời cho mình một câu tốt nhất.
Cây viết trẻ DƯƠNG
NINH NINH (sinh năm 1995)
(Singapore : 11.07.2016)
Cháu cảm
ơn bác đã cho cháu hiểu thêm những điều không có trong các bài viết về chùa Hà.
Tuy bác không nói thẳng lời khuyên cháu nên hay không nên đi chùa Hà quê bác
cầu duyên nhưng cháu cũng đã hiểu ý bác và tự nhủ sẽ chẳng đi làm gì vì con
đường tình, nó có lối đi riêng của nó và tình yêu, nó có tiếng nói riêng của
nó. Sao phải theo nhiều người đi chung một con đường lên chùa Hà, nói chung một
tiếng nói trong văn khấn và viết chung mấy lời lẽ trong sớ cầu duyên để cầu cho
cái duyên của riêng mình?
Cháu
kính chúc bác luôn vui khoẻ!
VĨ
THANH:
Hơn một
năm sau, tháng 9 năm 2017, Dương Ninh Ninh lấy chồng người Trung Quốc. Trước
khi về nhà chồng bên Thâm Quyến, cô có gửi cho tôi cùng hai nhà thơ Nguyễn Khôi
và Đặng Xuân Xuyến LÁ THƯ TẠM BIỆT. Trong thư, cô có nhắc lại câu: con
đường tình, nó có lối đi riêng của nó và tình yêu, nó có tiếng nói riêng của nó để
chúng tôi khỏi hiểu lầm, cô lấy chồng người Trung Quốc lại là cháu ruột bà chủ
công ty cô đang làm vì không thoát khỏi sự quyến rũ của một gia tộc giàu sang.
Cô cũng
cho chúng tôi biết, người cô ruột của chồng cô, bà Lý Diễm Ninh đang hướng các
cháu “một vài năm tới nên tìm đến một nước trong top 10 quốc gia đáng sống
nhất thế giới để làm ăn sinh sống và để được hưởng mọi tốt đẹp về quyền con
người. Còn một lẽ nữa, ở Trung Quốc chỉ được sinh một con mà nhà họ Lý chúng ta
đang cần có đông con cháu nên cô trông cậy vào sự góp phần này ở hai đứa”.
Cuối
thư, Dương Ninh Ninh viết: cô sẽ tạm dời văn chương chữ nghĩa vì “Với nhiệm vụ mới sắp tới là làm vợ, làm
người phụ tá cho chồng trong thương trường và rồi sẽ làm mẹ những đứa con như
bà Lý Diễm Ninh mong đợi, dẫu cháu chỉ muốn được ở nhà nấu ăn, đọc sách báo,
thơ văn, chăm sóc gia đình như bao người phụ nữ bình thường khác cũng chưa chắc
dễ gì cho được.”
Biết
thế, nhưng tôi vẫn hy vọng Dương Ninh Ninh sẽ đọc lại Thư đi Thư lại về chuyện
Đi Chùa Hà Cầu Duyên này.
Mời thư
giãn với liên khúc GIÃ BẠN
dân ca Quan họ Bắc Ninh, do đoàn dân ca Bắc Nịnh thể hiện:
*
Sài Gòn,
tháng 05/ 2018
NGUYỄN
BÀNG
Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn
Email: bnguyen37@gmail.com
.
........................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác
giả gửi qua email ngày 05.05.2018.
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét