NHẠC CÁCH MẠNG 1946 ĐẾN 1975 - Tác giả: Lê Thiên Minh Khoa (Vũng Tàu)

Leave a Comment
(Ca sĩ: Việt Hoàn, Đăng Dương và Trọng Tấn ; Nguồn ảnh: internet)
NHẠC CÁCH MẠNG
1946 ĐẾN 1975
*
NHẠC CÁCH MẠNG 1946-1954
(Tác giả Lê Thiên Minh Khoa)
Từ tháng 9.1945, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công đến cuối năm 1946, khi Pháp đã đổ quân vào Nam bộ, Lưu Hữu Phước và nhóm Hoàng Mai Lưu vẫn tiếp tục sáng tác nhiều ca khúc yêu nước và cách mạng: Đoàn quân du kích (Bài hát của quân du kích Nam bộ - 23.9.1945), Đoàn quân địch vận (1945 - lời: Phòng địch vận khu X), Đoàn quân ma (1945), Bóng người núi Lam (1946), Vượt trùng dương (1946), Lục quân Trần Quốc Tuấn (1945), Hướng đạo cứu quốc Việt Nam (Hướng đạo hành khúc- 1946)… Hướng đạo cứu quốc Việt Nam sau này trở thành Hội ca chính thức, hát trong nghi lễ của Hội Hướng đạo Việt Nam.
Trong thời điểm này, những nhạc sĩ thuộc nhiều dòng nhạc khác nhau đã tuôn về một dòng sông âm nhạc chung và viết lên những ca khúc giá trị: Hoàng Quý với Tiếng gọi non sông (10.1945); Việt Lang với Chiều Yên Thế (10.1945); Lê Yên với Kỵ binh hành khúc (Ngựa phi đường xa - 1945); Nguyễn Xuân Khoát với Tiếng chuông nhà thờ (1946); Phan Huỳnh Điểu với Giải phóng quân (1945 - sau đổi tên thành Đoàn vệ quốc quân), Mùa đông binh sĩ (1946), Những người đã chết (1946 - thơ Tế Hanh) và Tạ Thanh Sơn với Nam bộ kháng chiến (1946) trở thành nhạc hiệu của Đài phát thanh Nam Bộ. Đáng ghi nhận là Văn Cao với một loạt ca khúc cách mạng viết chỉ trong năm 1945: Bắc Sơn, Chiến sĩ Việt Nam, Bài ca chiến sĩ hải quân, Không quân Việt Nam Và Đỗ Nhuận cũng với một loạt ca khúc đỏ viết trong hai năm 1945 - 1946: Bé yêu Bác Hồ, Ngày Quốc hội, Tiếng súng Nam Bộ, Đường trường vô Nam, Đoàn lữ nhạc (1946). Hầu hết ca khúc cách mạng viết trong hai năm đầu Cách mạng Tháng Tám thành công, 1945 và 1946 có giai điệu: nhịp đi, nhanh, hùng, mạnh.
(Nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi)
Sang năm 1947-1948, sau ngày “Toàn quốc kháng chiến", 19.12.1946, khi chiến sự bùng nổ khắp ba miền, các nhạc sĩ bước vào “trường kỳ kháng chiến” với những bài ca xung trận. Năm 1947, Nguyễn Đình Thi với Người Hà Nội; Lương Ngọc Trác với Mơ đời chiến sĩ, Lô giang và Lời thề quyết tử; Việt Lang với Những hình bóng qua; Văn Cao viết Làng tôi và bản trường ca đầu tiên của tân nhạc Việt: Trường ca Sông Lô, Nguyễn Đình Phúc với Chiến sĩ sông Lô và trường ca thứ hai của tân nhạc Việt: Bình ca, v.v…
Đến năm 1948, Văn Cao với Ngày mùa; Đỗ Nhuận với Áo mùa đông; Lương Ngọc Trác với Trường chinh ca (lời Lê Minh); Huy Du với Sẽ về thủ đô; Bùi Công Kỳ với Ba Đình nắng (lời Vũ Hoàng Định); Nguyễn Văn Thương với trường ca Bình Trị Thiên khói lửa; Lưu Hữu Phước với ca khúc hợp xướng Ngọn cờ dân chủ, Việt Lang với 5 ca khúc giá trị trong một năm: Đoàn quân đi, Bài ca Quốc tế lao động, Mùa không biên giới, Thu trên sông, Đàn xuân… Hơi trái với giai điệu của hai năm trước đó (1945 và 1946), hầu hết ca khúc đỏ viết trong hai năm này thường có giai điệu: chậm vừa, thong thả, nhẹ nhàng, tình cảm, có khi dịu dàng, tha thiết… với ca từ là ngôn ngữ trong sáng, giản dị mà điêu luyện, giàu hình tượng văn chương mang nội dung trữ tình, lãng mạn hơn, như dòng nhạc tiền chiến, mà sau này các nhà nghiên cứu gọi là lãng mạn cách mạng. Một trong những cách giải thích cho sự khác biệt nầy là trong hai năm sau, các nhạc sĩ đã “điềm tĩnh” bước vào “trường kỳ kháng chiến”, vẫn nhiệt tình yêu nước nhưng đã qua rồi cái tâm trạng hồ hởi, sôi nổi, nhiệt huyết “bốc” lên như hai năm đầu vừa mới được tận hưởng không khí tự do, được sống trong  một đất nước độc lập, dân chủ.
Xu hướng nhạc cách mạng đã hình thành từ 1930 với Cùng nhau đi hồng binh của Đình Nhu và thành cao trào từ 1941-1945. Nhưng phải đến khi xảy ra cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954), cùng với những nhạc sĩ đã viết ca khúc “nhạc đỏ” từ trước, nhiều nhạc sĩ thuộc dòng nhạc hùng, nhạc lãng mạn đi theo kháng chiến, sáng tác những ca khúc mới thì dòng nhạc cách mạng mới thực sự định hình và phát triển thành nhiều giai đoạn sau này theo  biến chuyển của tình hình lịch sử xã hội Việt Nam. Các ca khúc “nhạc đỏ” mới có giai điệu hùng tráng và nội dung động viên, cổ vũ tinh thần yêu nước, yêu Tổ quốc, đồng bào, yêu lý tưởng cộng sản, phục vụ sự nghiệp kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, phục vụ sự  nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và từ năm 1949, do hoàn cảnh lịch sử đã tập trung cao độ vào đề tài kháng chiến chống Pháp:
(Nhạc sĩ Đỗ Nhuận)
Ở miền Bắc, Đỗ Nhuận viết Du kích sông Thao (1949), Hành quân xa (1953); Văn Cao đã sửa lời Bến xuân (viết chung lời với Phạm Duy) thành Đàn chim Việt và viết Tiến về Hà Nội (1949); Từ Phác viết Tiếng hát quay tơ (1949); Lê Yên viết Đoàn kỵ binh Việt NamTrận Đoan Hùng (1949), Bộ đội về làng (thơ Hoàng Trung Thông - 1950), Chiều hậu phương, Lúa mới; Hoàng Vân viết Hò kéo pháo (1953); Tô Hải với Toàn dân kháng chiến trường kỳ, Chiến sĩ khu Ba; Hồ Bắc với Làng tôi (1949), Bên kia sông Đuống (thơ Hoàng Cầm - 1950), Gặt tay nhanh (1952), Giữ mãi tuổi xuân (1954); Hoàng Hà với Vui lên đường (1949), Hò dân công (1952), v.v…
Tham gia kháng chiến, Phạm Duy viết nhiều ca khúc nổi tiếng về  đề tài cách mạng: Chiến sĩ vô danh, Bà mẹ Gio Linh,  Xuất quân, Chinh phụ ca, Gươm tráng sĩ, Thu chiến trường, Đường về quê, Nợ xương máu, Bao giờ anh lấy được đồn Tây (sau đổi thành Quê nghèo), v.v...
Ở miền Trung có Lời người ra đi, Con trâu kháng chiếnBà Ba kháng chiến của Trần Hoàn; Đoàn vệ quốc quân, Có một đàn chim của Phan Huỳnh Điểu; Du kích Ba Tơ của Dương Minh Viên; Tự túc của Dương Minh Ninh; Đánh giặc tăng gia của Văn Cận; Ai xây chiến lũy (1949), Vượt trùng dương (1952) của Nguyễn Văn Tý; Bước chân chiến sĩ của Vân Đông; Chuyến tàu trăng, Bảo vệ hòa bình, Đố cờ, Hoa bên suối của Trương Quang Lục, v.v
(Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước)
Còn ở miền Nam, một lớp nhạc sĩ trẻ hơn như Hoàng Việt với Thành đồng Tổ quốc (1949), Ai nghe chiến dịch mùa xuân (1950), Mùa lúa chín (1951), Tin tưởng (1951), Đêm mưa dầm (1951), Lên ngàn (1952), Nhạc rừng (1953); Nguyễn Hữu Trí với Tiểu Đoàn 307 (1950 - phỏng thơ Nguyễn Bính); Trần Kiết Tường với Anh Ba Hưng; Quốc Hương với Du kích Long Phú (1949), Cô gái Vĩnh HanhĐoàn người đi tòng quânTầm Vu (viết cùng Đắc Nhẫn - 1951)… Lưu Hữu Phước và nhóm Hoàng Mai Lưu tham gia Nam bộ kháng chiến đóng góp vào những ca khúc như: Cô gái Củ Chi (1947), Bài hát Đoàn thiếu nhi nghệ thuật (1948), Thanh niên ca (1950), Em yêu chị Ray-mông (1950), Xuân Việt - Trung - Xô (1954), Ðoàn quân maCa ngợi Hồ Chủ tịch, Hăng-ri Mác-tanh (Henri Martin), Cả cuộc đời về ta và ca khúc hợp xướng Đông nam Á châu (1947)
Cuối giai đoạn, không khí hào hùng và tinh thần lạc quan, tự hào bởi chiến thắng Điện Biên Phủ vẻ vang của nhân dân, dân tộc đã ùa vào hàng loạt ca khúc có giá trị viết năm 1954, trước, trong và sau chiến dịch này: Trên đời Him Lam, Chiến thắng Điện Biên của Đỗ Nhuận; Quê tôi giải phóng của Văn Chung; Hát mừng anh hùng Núp, Ngày về (thơ Chính Hữu) của Lương Ngọc Trác; Ta lớn lên (thơ Tố Hữu) của Nguyễn Xuân Khoát; Lá cờ tháng Tám của Phan Thanh Nam; Buổi sáng trên đồng nội của Trần Tất Toại; Hòa bình trên đất nước ta của Nguyễn Mạnh Thường… Thật thú vị khi Sẽ về thủ đô (1948) của Huy Du và Tiến về Hà Nội (1949) của Văn Cao được viết rất sớm, nhưng lại dự cảm được không khí hùng tráng, niềm vui ngút ngàn thắng lợi của năm 1954.
(Nhạc sĩ Trần Hoàn)
Song song với những ca khúc chiến đấu, tình cảm lãng mạn vẫn còn là nguồn cảm hứng chủ đạo trong các tình ca, như: Em đến thăm anh một chiều mưa, Tạ từ (1947), Tiếng chuông chiều thu (1948) của Tô Vũ; Lời người ra đi (1948), Tìm em, Sơn nữ ca (1950) của Trần Hoàn; Dư âm (1950), Mùa hoa nở của Nguyễn Văn Tý; Nụ cười sơn cước (1947) của Tô Hải; Ngày về (1846) của Hoàng Giác; Tình quê hương (1946), Những hình bóng qua (1947), Mùa không biên giới, Thu trên sông, Đàn xuân (1948) của Việt Lang; Tiếng hát quay tơ (1948) của Tử Phác; Ánh trăng mùa thu (1947 - ca khúc đầu tay); Tình nghệ sĩ (1947), Đường về Việt Bắc (1948),  Lá thư (1949) của Đoàn Chuẩn; Bên cầu biên giới, Khối tình Trương Chi, Cây đàn bỏ quên, Tình kỹ nữ, Chú Cuội, Tiếng đàn tôi, Đêm xuân, Tiếng bước trên đường khuya của Phạm Duy, v.v…
Bên cạnh đó, các nhạc sĩ đã dùng nhạc để diễn tả những bài thơ lãng mạn của các nhà thơ: của Lưu Trọng Lư (Tiếng thu, nhạc Phạm Duy); của Nguyễn Bính (Cô lái đò, nhạc Nguyễn Đình Phúc); của Nguyễn Nhược Pháp (Ði chùa Hương, nhạc Trần Văn Khê); của Hữu Loan (Những gác chuông giáo đường, nhạc Huy Du),
Cũng theo giọng điệu trữ tình của dòng nhạc tiền chiến nhưng với chủ để tình yêu quê hương như: Quê em miền trung du (1949) của Nguyễn Đức Toàn; Làng tôi (1947), Ngày mùa (1948), Tình ca trung du của Văn Cao; Con kênh xanh xanh (1949) của Ngô Huỳnh; Lá xanh (1951) của Hoàng Việt, Nương chiều (1947); Gánh lúa (1949) của Phạm Duy…
(Nhạc sĩ Hoàng Việt)
Một đề tài sáng tác mới nữa của các nhạc sĩ là ca ngợi Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam mà giới nghiên cứu sau này gọi là chính ca. Đỗ Minh viết Chào mừng Đảng Lao động Việt Nam (1952); Lưu Bách Thụ viết Biết ơn cụ Hồ (9.1945); Hoàng Việt và Minh Trị viết Mong Bác Hồ vào Nam; Hoàng Hà viết Thanh niên làm theo lời Bác (1953); Lưu Hữu Phước viết Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1948 - lời Nguyễn Đình Thi); rồi cũng Ca ngợi Hồ Chủ tịch của Đỗ Nhuận. Đặc biệt, nhạc sĩ chuyên viết ca khúc thiếu nhi Phong Nhã đã viết Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng (1946) được phổ biến rất sâu rộng, v.v...
Ca sĩ nhạc đỏ nổi tiếng thuộc thế hệ này là Trần Khánh, Trần Thụ, Mai Khanh, Thương Huyền..., trong đó Nghệ sĩ Nhân dân Quốc Hương với một giọng hát giản dị, đầy nhiệt huyết mà nhiều thế hệ ca sĩ đã chịu ảnh hưởng, là một tên tuổi lớn trong nền tân nhạc cách mạng Việt Nam nhiều giai đoạn sau. Nhiều ca khúc cách mạng được ông thể hiện đầu tiên, và cũng nhiều ca khúc gắn với tên tuổi ông như: Tình ca (Hoàng Việt), Bình Trị Thiên khói lửa (Nguyễn Văn Thương), Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí)...

NHẠC CÁCH MẠNG 1954 -1975
“Nhạc đỏ” cùng với nhạc dân ca, truyền thống là những thể loại âm nhạc được phát trên đài phát thanh, các phương tiện thông tin đại chúng, được trình diễn trong các buổi sinh hoạt, hội diễn văn nghệ từ năm 1954 đến năm 1975 ở Miền Bắc và vùng giải phóng Miền Nam
Trong giai đoạn 1954-1975, với quan điểm văn nghệ phục vụ chính trị, âm nhạc ở Miền Bắc và vùng Giải phóng Miền Nam sáng tác theo phương châm: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến  thắng, với các đề tài phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược lúc đó: chống Mỹ cứu nước ở hai miền và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, trong đó đề tài thứ nhất, âm nhạc có nhiều ca khúc thành công hơn.
(Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu)
Lúc đầu, trong hai năm 1955-1956, tiếp tục niềm tự hào, lạc quan trong ca khúc 1954, là tiếng ca vui tự do khi miền Bắc được giải phóng được ngân lên với cung bậc mới: Lời ca thống nhất (1955) của Trần Quý; Liên khu Năm yêu dấu (1955), Tình trong lá thiếp (1955) của Phan Huỳnh Điểu; Bài ca cách mạng tiến công (1956) của Đỗ Nhuận; Tiếng hát biên thùy (1956) của Tô Hải; Ca mừng đời ta tươi đẹp (1955) của La Thăng; Ca mừng chế độ ta tươi đẹp (1955) của của Xuân Oánh; Hát mừng quê ta (1956) của Lê Lôi; Mẹ yêu con (1956) của Nguyễn Văn Tý và Ánh sáng trên cầu Việt Trì (1956) của Hoàng Hà, v.v...
Sau đó, khi Tổng tuyển cử thống nhất Tổ quốc theo Hiệp định Genève không được thực hiện, đất nước bị chia cắt dài lâu, từ cuối năm 1956 đến đầu năm 1958 nội dung ca khúc là tình cảm nhớ thương quê hương day dứt của người con miền Nam ra Bắc tập kết như các ca khúc: Tình ca (1957), Tình ca 2 (1958), Quê mẹ (1958) của Hoàng Việt; Quê tôi (1957 - Lưu Cầu); Quê tôi miền Nam (1957 - Phan Huỳnh Điểu); Câu hò bên bờ Hiền Lương (1957 - Hoàng Hiệp - Đằng Giao); Bài ca hy vọng (1958 - Văn Ký), v.v...
Chuyển qua thời đoạn 1958-1960, Miền Bắc vừa đã hoàn thành kế hoạch ba năm (1954-1957) khôi phục kinh tế thắng lợi và bước vào thời kỳ mới: cải tạo Xã Hội Chủ Nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Những thành tựu đạt được trong kế hoạch 3 năm sau này (1958-1960) cùng với những thay đổi lớn về văn hóa, kinh tế, xã hội của miền Bắc trong sáu năm (1954-1960) đã tác động sâu sắc đến văn nghệ sĩ nói chung, nhạc sĩ nói riêng. Hòa nhập với cuộc sống của nhân dân, họ đã viết nên nhiều ca khúc giá trị phản ánh được cuộc sống mới và biểu hiện được tâm tư, tình cảm, khát vọng của nhân dân. Không khí hồ hởi, niềm tin yêu, tinh thần lạc quan trong cuộc sống dựng xây được các nhạc sĩ đưa vào các ca khúc sáng tác trong ba năm này. Năm 1958 là Mời anh đến thăm quê tôi, Biết ơn Võ Thị Sáu của Nguyễn Đức Toàn; Tiến bước dưới quốc kỳ của Doãn Nho; Tiếng hát trên tiền tiêu Tổ quốc của Thái Quý; Nhớ đàn xe nước của Vân Đông; Lời ca gởi Nọong của Nguyễn Tài Tuệ và Lướt sóng ra khơi của Thế Dương trở thành bài hát chính thức của  quân chủng Hải quân Việt Nam, v.v….
Sang năm 1959, không gian nghệ thuật trong ca khúc mở rộng hơn: Từ trên đỉnh núi của Nguyên Nhung; Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó của Nguyễn Tài Tuệ; Kể chuyện người cộng sản của Trần Hoàn; Trước ngày hội bắn của Trịnh Quý; Lướt sóng ra khơi của Thế Dương; Dấu chân trong rừng của Vĩnh An; Đêm thao thức của Kpa Pùi; Sao em chưa về của Lê Lan… Đến năm 1960 là: Xa khơi của Nguyễn Tài Tuệ; Việt Nam ta đang mùa hoa của Vũ Trọng Hối; Việt Nam quê hương tôi của Đỗ Nhuận; Cánh diều miền Bắc của Văn An, v.v…
(Nhạc sĩ Thái Cơ)
Trong mấy năm này (1958-1960), các nhạc sĩ đã đi thực tế sáng tác, sống, làm việc cùng nhân dân và viết lên những ca khúc về ngành nghề của họ: Con trâu sắt (1958) của Trần Chương; Hò kiến thiết (1958) của Thái Cơ; Tiếng còi thi đua (1959); Quà tháng năm (1960- lời Thế Bảo) của Hồng Đăng, v.v…
Sau phong trào Đồng khởi (1959), nhất là từ năm 1960, khi Mặt trận Giải phóng Miền Nam chính thức thành lập, Miền Nam bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ với sự chi viện của Miền Bắc, nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu, giải phóng Miền Nam là đề tài chính của âm nhạc thời đoạn này. Nhiều ca khúc “đi cùng năm tháng" ra đời, biểu hiện tâm tình, khát vọng của nhân dân và phản ánh những sự kiện anh hùng của thời đại. Với phương châm văn nghệ phục vụ chính trị, mà quan trọng hơn tấm lòng vì nhân dân, dân tộc, tự nguyện nhận trọng trách về mình, với một đội ngũ hùng hậu, nhiều thế hệ, nhiều vùng miền, các nhạc sĩ Việt Nam đã bám sát nhiệm vụ chính trị của từng thời điểm để sáng tác những ca khúc giá trị và kịp thời cho cách mạng giải phóng dân tộc. Có thể thấy những cao trào của kháng chiến chống Mỹ cũng là những thời điểm ca khúc cách mạng Việt Nam nở rộ, vút cao: 1960, 1965, 1972, 1973 và 1975.
(Nhạc sĩ Vĩnh Cát)
Năm 1960, khi Miền Nam bắt đầu vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, bài hát Giải phóng miền Nam (1960 - Huỳnh Minh Siêng) ra đời và trở thành ca khúc chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Quốc ca Cộng hòa miền Nam Việt Nam, mở đầu cho hàng loạt sáng tác về đề tài chống Mỹ cứu nước trong những năm đầu chống Mỹ.
Sau đó, cũng trong năm 1960 nhiều ca khúc được viết kịp thời: Bạn ơi! Hãy nghe Bến Hải tâm tình của Vĩnh Cát; Cánh diều miền Bắc của Vân An; Việt Nam đang mùa hoa của Vũ Trọng Hối; Việt Nam quê hương tôi của Đỗ Nhuận… Sang năm 1961 là: Bài ca may áo của Xuân Hồng; Hà Hội - Huế - Sài Gòn của Hoàng Vân; Trăng sáng đôi miền của An Chung; Nhớ (thơ Thanh Hải) của Lê Yên; Tổ quốc tôi trên 10 năm đã lớn của Hồng Đăng, v.v…
Năm 1962, ca khúc nở rộ hơn với Những ánh sao đêm của Phan Huỳnh Điểu; Giờ hành động của Lưu Hữu Phước; Nắng ấm về trên Tổ quốc của Trần Khánh; Tiếng hát Mơ Nông Tipri của Nhật Lai; Tình em của Huy Du - Ngọc Sơn; Quê Hương ơi! Ta sẽ về của Trần Kiết Tường; Nhớ về quê mẹ của Vân Đông; Trên đường ta đi tới của Bửu Huyền; Khúc ca Hơ Rê của Văn Ngọc
Sang năm 1963-1964, khi phong trào cách mạng lên cao thì ca khúc cách mạng ở cả hai miền cũng bay bổng theo. Năm 1963 là: Hành khúc giải phóng của Lưu Hữu Phước; Xuân chiến khu của Xuân Hồng; Lời ca không tắt của Tô Hải; Qua sông của Phạm Minh Tuấn; Gởi anh đi đầu quân của Nguyễn Đình Phúc; Nhớ (thơ Nguyễn Đình Thi) của Hoàng Vân; Quê hương anh là biển cả của Tường Vi; Chiếc đàn môi của Nguyên Nhung; Bài ca chiến thắng của Trần Kiết Tường; Ta là chiến sĩ giải phóng quân của Văn Lưu - Triều Dâng; Chim hót trên đồng đay; Dòng nước quê hương của Nguyễn Văn Tý, Bế Văn Đàn sống mãi (thơ Trinh Đường) của Huy Du, v.v…
(Nhạc sĩ Hoàng Vân)
Cao điểm của ca khúc thời đoạn năm năm này là năm 1964 với nhiều ca khúc tỏa ra cả ba chủ đề: xây dựng đất nước, chống Mỹ cứu nước ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Về chủ đề xây dựng đất nước, có các ca khúc: Từng bước đi vững chắc của Văn Chung; Tôi là người thợ lò của Hoàng Vân; Những người con gái đồng chiêm, Bám biển quê hương của Phạm Tuyên; Tiếng hò trên đất Nghệ An của Tân Huyền, v.v…
Về chủ đề chống Mỹ cứu nước ở cả hai miền trong năm 1964 có: Tiễn anh lên đường của Nguyễn Văn Tý; Chiếc khăn tay, Hành quân đêm (lời Trí Thanh) của Xuân Hồng; Sẵn sàng chiến đấu, Thanh niên ba sẵn sàng của Lưu Hữu Phước;  Anh vẫn hành quân (thơ Trần Hữu Thung), Tôi ca mãi đời anh của Huy Du; Miền Nam ơi! Chúng tôi đã sẵn sàng của Lưu Cầu; Nhớ anh giải phóng quân của Nguyễn Đình Phúc; Vui mùa chiến thắng của Văn Chừng - Lam Lương; Tiếp lương ra tiền tuyến của Phương Giao, v.v…
(Nhạc sĩ Huy Du)
Cũng trong năm 1964, vào ngày 5 tháng 8, sau sự kiện vịnh Bắc bộ, Mỹ mở Chiến dịch Mũi Tên Xuyên (Opeation Pierce Arrow) không kích phá hoại miền Bắc do Hải quân Mỹ thực hiện. Hòa cùng tiếng nổ của hỏa tiễn, pháo phòng không, súng máy, trường bắn máy bay của bộ đội, dân Mỹ quân là tiếng hát kịp thời động viên, ca ngợi chiến công của họ: Đánh đích đáng của Ngô Sĩ Hiền; Phi đội ta xuất kích của Tường Vi; Giữa biển trời Xô viết - Nghệ An của Hồ Bắc; Hành khúc không quân Việt Nam của Văn Cao; Không cho chúng nó thoát của Hoàng Vân; Bay trên bầu trời Tổ quốc của Xuân Giao..
Từ năm 1965, Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược, chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ và đồng minh vào tham chiến ở miền Nam, đồng thời leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng các chương trình quy mô và dài ngày hơn có các mật danh là Chiến dịch Flaming Dart (Hỏa Tiêu - 07 đến 11.02.1965) và Rolling Thunder (Sấm Rền - 02.3.1965 đến 31.10.1968) huy động một lực lượng hải và không quân hùng hậu ném bom với ý đồ hủy hoại hoàn toàn miền Bắc. Cùng với tiếng bom rền và đạn pháo phòng không nổ tung trên bầu trời miền Bắc, âm nhạc cũng ngân lên điệu kèn xung trận vừa hùng tráng, vừa thiết tha.
Năm thứ hai miền Bắc trực tiếp đánh Mỹ (1965), nhiều ca khúc ra đời trong ý chí “tiếng hát át tiếng bom” kiên cường: Quảng Bình chiến thắng của Phạm Tuyên; Em bé Bảo Ninh (thơ Nguyễn Văn Dinh) của Trần Hữu Pháp; Bài ca sông Nhật Lệ của Nhật Lai; Trên biển quê hương của Đức Minh; Tiếng hát sông Lam của Đinh Quang Hợp; Thanh Hóa anh hùng của Hoàng Đạm; Hà Tây quê lụa của Nhật Lai; Mỗi bước đi thêm yêu Tổ quốc của Tân Huyền; Hai chị em, Bài ca giao thông vận tải, Nổi trống lên đi núi rừng ơi của Hoàng Vân; Tên lửa về bên sông Đà của Hoàng Tạo; Bài ca đảo Bạch Long Vĩ của Vũ Ngọc Quang; Chào sông Mã anh hùng của Xuân Giao, Nhịp cầu sông Mã của Lê Xuân Thọ, Chưa hết giặc ta chưa về, Thề quyết bảo vệ Tổ quốc, Bạch Long Vĩ đảo quê hương của Huy Du, v.v
Còn ở Miền Nam trong năm này (1965) cũng được mùa ca khúc với nhiều  bản nhạc “nổi tiếng một thời”: Cô gái vót chông của Hoàng Hiệp; Ra tiền tuyến của Phan Huỳnh Điểu; Tôi người lái xe của An Chung; Giết giặc Mỹ cứu nước của Hoàng Việt; Bài hát giải phóng quân của Lưu Hữu Phước; Mỗi bước ta đi, Hát mừng quê ta giải phóng của Thuận Yến…
(Nhạc sĩ Trọng Loan)
Chiến tranh càng lan rộng, bài hát hay càng nhiều. Năm 1966, nhiều “bài ca không bao giờ quên” đã ra đời: Múa hát mừng chiến công của Nguyễn Văn Tý; Hành khúc binh đoàn gang thép, Rạch Gầm dậy sóng của Lưu Hữu Phước; Ngọn đèn đứng gác (thơ Chính Hữu) của Hoàng Hiệp; Đường ra mặt trận (thơ Chính Hữu) của Huy Du, Bài ca thanh niên miền Nam thành đồng của Hoàng Việt; Yêu biết mấy những con đường của Phạm Tuyên; Cô gái mở đường của Xuân Giao; Về đây với đường tàu của Lưu Cầu; Người Châu Yên em bắn máy bay của Trọng Loan; Những cô gái quan họ của Phó Đức Phương; Bài ca Hà Nội của Vũ Thanh; Biển gọi của Nguyễn Kim; Tiếng hát pháo binh của Huy Du; Vàm Cỏ Đông (thơ Hoài Vũ) của Trương Quang Lục, v.v…
Sang năm 1967, có thêm nhiều ca khúc nổi tiếng của các nhạc sĩ nổi tiếng: Chiếc gậy Trường Sơn của Phạm Tuyên; Tiếng đàn Ta Lư, Ơi dòng suối La La! của Huy Thục; Tiếng chày trên sóc Bom Bo của Xuân Hồng; Bài ca năm tấn của Nguyễn Văn Tý; Tải đạn ra chiến trường của Thanh Anh; Quân reo quê mẹ Quảng Trị anh hùng của Trọng Loan; Rừng xanh vang tiếng Ta Lư của Phương Nam; Tiếng nói Hà Nội (thơ Cảnh Trà) của Văn An; Cả nước hướng về Hà Nội của Trọng Bằng, v.v...
Bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Chiến dịch đã mang lại cho quân và dân Việt Nam một xung lực mới, một khả năng mới và củng cố niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng ngay trong những ngày tháng cam go, ác liệt nhất. Sự kiện này được các nhạc sĩ ghi lại bằng những ca khúc rất thời sự kịp thời mà rất có gía trị về nghệ thuật - tư tưởng, trở thành những bài ca truyền thống cách mạng sau này: Bão nổi lên rồi của Trọng Bằng; Chào anh giải phóng quân, chào mùa xuân giải phóng, Tiếng còng giải phóng, tiếng còng chiến thắng của Hoàng Vân; Sài Gòn quật khởi của Hồ Bắc; Cô gái Sài Gòn đi tải đạn của Lư Nhất Vũ; Nổi lửa lên em (thơ Giang Lam) của Huy Du; Đất quê ta mênh mông (thơ Bùi Minh Quốc) của Hoàng Hiệp; Tây Nguyên mừng đón thơ Bác của Doãn Nho; Bài ca đường 9 của Huy Du; Bài ca thành Huế của Đào Việt Hưng; Bài ca người nữ tự vệ Sài Gòn của Phạm Minh Tuấn; Người Đà Nẵng của Phan Ngọc; Đưa anh đi hái măng rừng của Hoàng Tạo; Anh ở đầu sông em cuối sông của Phan Huỳnh Điểu và Chia tay hoàng hôn (thơ Hoài Vũ), một tình ca bất hủ của Thuận Yến, Những năm kế tiếp, chiến trường trở nên ác liệt hơn, ca khúc càng hùng tráng hơn và đi sâu vào lòng người hơn. Chỉ kể ra vài bản hùng ca trong từng năm này đã trở thành bất tử trong lòng người dân Việt Nam. Năm 1969 là: Tiến lên chiến sĩ đồng bào (thơ Hồ Chí Minh) của Huy Thục; Vui mở đường của Đỗ Nhuận; Theo lời Bác gọi (lời Lê Kỳ Vân) của Nguyễn Xuân Khoát…
(Nhạc sĩ Doãn Nho)
Năm 1970 là Dáng đứng Việt Nam (thơ Lê Anh Xuân); Trên đỉnh Trường Sơn ta hát  của Huy Du; Tiếng hát những đêm không ngủ của Phạm Tuyên; Bài ca phụ nữ Việt Nam, Huyền diệu của Nguyễn Văn Tý; Như hoa hướng dương (thơ Hải Như) của Tô Vũ; Thành phố hoa phượng đỏ (lời Hải Như) của Lương Vĩnh; Bến cảng quê hương tôi của Hồ Bắc; Bác cùng chúng cháu hành quân của Huy Thục; Cái dốc nó cao của Nguyễn Trọng Tạo,…
Rồi đến năm 1971 là: Tiến lên thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh của Văn Ký; Cùng hành quân giữa mùa xuân của Cẩm La (Hoàng Hà); Đi tới những chân trời của Xuân Giao; Bài ca đường 9 (thơ Xuân Sách) của Huy Du; Người con gái sông La (thơ Phương Thúy), Năm anh em trên một chiếc xe tăng (thơ Hữu Thỉnh) của Doãn Nho; Màu áo chú bộ đội,  Em đi làm tín dụng của Nguyễn Văn Tý, v.v…
Đỉnh cao của cuộc chiến là Chiến dịch Xuân - Hè 1972 (Việt Nam Cộng hòa gọi là Mùa hè đỏ lửa, Mỹ gọi là Easter Offensive) và sau đó là Chiến dịch Linebacker I (từ tháng 5 - 10.1972) và Chiến dịch Linebacker II (từ 18 - 30.12.1972) của Mỹ cho không quân và hải quân, phong tỏa, bắn phá, oanh tạc không giới hạn toàn miền Bắc với ý đồ hủy diệt hòng làm tê liệt ý chí chiến đấu và khả năng chi viện cho Miền Nam, mà thắng lợi hoàn toàn thuộc về Việt Nam: Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Trong năm này, 1972, nhiều khúc ca vui vang lên ở cả hai miền Nam, Bắc hát mừng chiến thắng: Ca hát mừng chiến công của Nguyễn Văn Tý; Hà Nội niềm tin yêu và hy vọng của Phan Nhân; Hà Nội Điện Biên Phủ, Hà Nội những đêm không ngủ của Phạm Tuyên; Cả nước hướng về Hà Nội của Trọng Bằng; Từ mặt đất thân yêu của Tô Hải; Hành khúc ngày và đêm của Phan Huỳnh Điểu; Ta tự hào lên đi, ôi Việt Nam (thơ Hoàng Trung Thông) của Chu Minh; Biết mấy tự hào Tô quốc ta của Phạm Đình Sáu; Tây Nguyên chiến thắng của Doãn Nho; Xóm làng theo bước chân anh của Trần Kiết Tường; Những bước chân chiến thắng của Tân Huyền; Rừng núi Tây Nguyên chiến công hoa nở của Chu Minh; Xe qua cầu Tùng Cốc của Nguyễn Trọng Tạo, v.v
(Nhạc sĩ Văn An)
Thắng lợi của Chiến dịch Xuân - Hè 1972 và Trận Điện Biên Phủ trên không 1972 đã đưa đến Hiệp định Paris 27.01.1973 với Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam được quốc tế chính thức công nhận và kiểm soát hầu hết vùng nông thôn Miền Nam. Niềm vui quá lớn nên tràn đầy và kéo dài suốt hai năm trong âm nhạc. Năm 1973 là: Cả Hà Nội hành quân của Lê Lôi; Gẩy đàn lên hởi người bạn Mỹ, Thấy chăng anh cảng của chúng tôi của Phạm Tuyên; Ta ra trận hôm nay của Văn An; Lời ru trên nương (thơ Nguyễn Khoa Điềm) của Trần Hoàn; Em ở nơi đâu của Phan Nhân; Tiếng đàn bầu (lời Lữ Giang) của Nguyễn Đình Phúc; Tôi lắng nghe sông Đà gọi Thác Bà của Nguyễn Đình Tấn; Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa của Nguyễn Văn Tý; Giải phóng quân, Nhớ của Phan Huỳnh Điểu, Tiếng hát trên quê hương giải phóng của Phạm Đình Sáu...
Năm sau, 1974, niềm vui lớn lắng đọng lại trong hành khúc và lắng sâu trong cả tình ca: Chiến sĩ vô danh (lời Dân Thanh) của Trần Kiết Tường; Tiếng người vang mãi trên đường hành quân của Phan Khắc Vinh; Quảng Ngãi đất mẹ anh hùng của Trương Quang Lục; Chú lính đường dây của Phạm Huy Thưởng; Tình em biển cả của Nguyễn Đức Toàn; Đêm nay anh ở đâu của Phan Huỳnh Điểu; Đất nước Bác Hồ và cuộc hành quân không nghỉ, tổ khúc ba bài của Nguyễn Trọng Tạo, v.v
Điểm đỉnh của ca khúc giai đoạn này là năm 1975. Trước, trong và sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh, với một dàn hợp ca hát mừng đất nước thống nhất: Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng của Phạm Tuyên; Đất nước trọn niềm vui của Hoàng Hà; Trên đường hạnh phúc (thơ Tạ Hữu Yên) của Vân An; Tiếng hát từ thành phố mang tên Người (thơ Đăng Trung) của Cao Bách Việt; Bài ca thống nhất của Võ Văn Dị; Ngày thống nhất Bác đi thăm của Phạm Tuyên; Mùa Xuân trên thành phố Hồ Chí Minh của Xuân Hồng; Tổ quốc chưa đẹp thế bao giờ (thơ Tố Hữu) của Nguyễn Văn Thương; Chiều nay biển hát của Hồng Đăng, liên khúc hoành tráng Đường tàu thống nhất của Nguyễn Trọng Tạo và hai ca khúc hợp của Nguyễn Văn Thương: Dân ta đánh giặc anh hùng, Tiến lên toàn thắng ắt về ta, v.v
(Nhạc sĩ Ca Lê Thuần)
Nhiều nhạc sĩ miền Nam tập kết ra Bắc rồi ở lại công tác hoặc trở lại miền Nam, hoặc được phân công ở lại miền Nam rồi vào chiến khu đã có đóng góp lớn cho ca khúc cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ bởi những ca khúc được công chúng say mê và nhớ đời. Và thời điểm gay gắt nhất nào của đất nước cũng xuất hiện những sáng tác giá trị của họ: Phan Huỳnh Điểu, Ca Lê Thuần, Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Trần Kiết Tường, Nguyễn Văn Tý, Lư Nhất Vũ, Nguyễn Văn Thương, Trần Hoàn, Lưu Hữu Phước, Thuận Yến, Phạm Minh Tuấn, Tôn Thất Lập, Trương Quang Lục, Lưu Cầu… Từ  những năm đầu thập niên 60, nhiều người trong họ vào chiến trường miền Nam sáng tác những bài ca để đời với bút hiệu mới: Phan Huỳnh Điểu với bút danh Huy Quang, Trần Hoàn với Hồ Thuận An, Hoàng Việt với Lê Quỳnh, Lưu Hữu Phước ký tên Lưu Nguyễn - Long Hưng hoặc Huỳnh Minh Siêng đã viết nhiều ca khúc nổi tiếng, đặc biệt bài Giải phóng Miền Nam (1960) mang đậm dấu ấn lịch sử.
Liên quan đến đề tài Chống Mỹ cứu nước và Xây dựng đất nước, các nhạc sĩ viết nhiều ca khúc về đất nước và tâm hồn Việt Nam, trong đó có một số ca khúc bất hủ như Quảng Bình quê ta ơi (1964) của Hoàng Vân; Tiếng hát sông Lam (1965) của Đinh Quang Hợp; Vàm Cỏ Ðông của Trương Quang Lục; Tây Nguyên bất khuất  của Văn Ký; Bài ca Hà Nội của Vũ Thanh; Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh (1974) của Nguyễn Văn Tý; Những cô gái đồng bằng sông Cửu Long của Huỳnh Thơ; Cô gái Sài Gòn đi tải đạn của Lư Nhất Vũ; Hà Nội - Niềm tin và hy vọng (1972) của Phan Nhân, v.v…
(Nhạc sĩ Huy Thục)
Cũng do hoàn cảnh chiến tranh, một số nhạc sĩ có dịp tiếp xúc với đồng bào các dân tộc thiểu số và đã viết các ca khúc nổi tiếng về đề tài này, như Tiếng hát ban mai (1964 - Thanh Anh); Tiếng cồng Plây Gi-răng (1965- Hồ Bắc);  Tiếng đàn ta lư (Huy Thục); Cô gái cầm đàn lên đỉnh núi (Văn Ký); Bản Mèo đổi mới (Trịnh Lai); Em là hoa Pơ Lang (1966 - Ðức Minh); Tiếng cồng giải phóng, tiếng cồng chiến thắng (1968 - Hoàng Vân); Cánh chim báo tin vui (1969 - Đàm Thanh); Bóng cây Kơ-nia (1971 - nhạc Phan Huỳnh Điểu - thơ Ngọc Anh phỏng dịch dân ca Hơ-rê); Tháng ba Tây Nguyên (1974 - Văn Thắng - Thân Như Thơ); Sông Dakkrong mùa xuân về (1975 - Tô Hải), v.v…
Chiến trường ác liệt, cam go nhất lúc bấy giờ là Trường Sơn, nơi quân dân “xẻ dọc đi cứu nước” là đề tài cho nhiều ca khúc lãng mạn cách mạng, tráng lệ “vượt thời gian”. Có thể kể ra không dưới 10 ca khúc tiêu biểu nhất về đề tài Trường Sơn: Đường tôi đi dài theo đất nước (1966); Bước chân dài trên đỉnh Trường Sơn (1966 - lời Tào Mạt) của Vũ Trọng Hối; Bài ca Trường Sơn (1967 - lời Gia Dũng); Trên đỉnh Trường Sơn ta hát (1970) của Huy Du; Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn (1970) của Hoàng Hà; Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây (1971 - thơ Phạm Tiến Duật) của Hoàng Hiệp; Đường Trường Sơn xe anh qua (1972) của Văn Dung; Xe ta đi trong đêm Trường Sơn (1972); Đêm Trường Sơn  nhớ Bác (1975 - lời Nguyễn Trung Thu) của Trần Chung; Lá đỏ (1975 - thơ Nguyễn Đình Thi) của Hoàng Hiệp, v.v…Tinh thần lạc quan cách mạng thấm tràn vào ca khúc cách mạng. Nhiều bài hát hài hước, sôi nổi, yêu đời xuất hiện được bộ đội và nhân dân yêu thích. Anh quân bưu của Đàm Thanh; Con cua đá của Phan Ngạn; Năm anh em trên một chiếc xe tăng (thơ Hữu Thỉnh) của Doãn Nho; Nổi lửa lên em của Huy Du… nằm trong loại nhạc này, trở thành những bài hát phổ biến trong sinh hoạt, liên hoan, tiệc tùng của quân dân.
Một đề tài nữa của ca khúc Việt Nam trong giai đoạn này là ca ngợi hình ảnh lãnh tụ. Hình tượng Hồ Chí Minh trong ca khúc giai đoạn này được nâng lên tầm cao hơn thông qua cảm nhận hoàn mỹ hơn của các nhạc sĩ về Người. Có rất nhiều ca khúc chính thống: Việt Bắc nhớ Bác Hồ của Phạm TuyênHồ Chí Minh đẹp nhất tên Người (1962) của Trần Kiết TườngÐôi dép Bác Hồ của Văn AnNhớ ơn Hồ Chí Minh của  Lời ca dâng Bác của Trọng LoanTrông cây lại nhớ đến Người của Ðỗ Nhuận; Ca ngợi Hồ Chủ tịch của Văn Cao (khác hai bài Ca ngợi Hồ Chủ tịch  của Lưu Hữu Phước và của Đỗ Nhuận viết trong giai đoạn trước); Tình Bác sáng đời ta của Lưu Hữu Phước; Người chiến sĩ ấy (1970) của Hoàng Vân; Miền Nam nhớ mãi ơn Người (1969 - thơ Trần Nhật Lam) của Lưu Cầu, Mỗi dòng thư Bác sáng ngời niềm tin  (1968) của Thuận Yến, v.v…

-----------
(Trích trong “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠC  VIỆT NAM” - 
nghiên cứu, phê bình - Lê Thiên Minh Khoa, xuất bản năm 2018).

  
Mời thư giãn với nhạc phẩm LỜI NGƯỜI RA ĐI
của Trần Hoàn, qua tiếng hát Long Nhật:
           
*.
LÊ THIÊN MINH KHOA
Địa chỉ: 117, Cách Mạng Tháng 8, phường Long Hương,
thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa  - Vũng Tàu.
Email: lethienminhkhoabr@gmail.com
Điện thoại: 0908.274.494




…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 13.11.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.    

0 comments:

Đăng nhận xét