(Nguồn ảnh: internet) |
ĐỌC “LỜI
KINH 2” THƠ TRẦN MAI NGÂN
VÀ “KINH
THƠ” CỦA QUANG TUYẾT
*
Tản mạn của Châu Thạch
Bên Kinh Thơ bên Lời Kinh
Hai nàng khiến tớ giật mình sợ thay
Thế nhưng đọc thật là hay
Tớ ngâm rượu ý chờ ngày lên men
Viết cho đã tánh bon chen
Của con dế mọn, dế hèn mơ cao!!!
BÀN VỀ “LỜI KINH 2” CỦA
TRẦN MAI NGÂN
LỜI KINH (2)
Trú trong kinh Bát Nhã
Lời xưa và dáng em
Chim bay về lối cũ
Đậu lại khóc bên thềm...
Mùa Xuân sao lại mưa
Cây Sầu Đông trổ muộn
Chiều xanh gầy dấu xưa
Thương nhớ sao cho vừa
Tiếng chuông hồi huyễn mộng
Gióng lên tình hư không
Mây bay trôi vô vọng
Tôi nhớ người xa xăm...
Ai cho tôi trần gian
Chôn những nỗi âm thầm
Lấp vùi gần trăm năm
Tim tôi sầu rướm máu
Ai cùng tôi nương náu
Những rã rời nay mai
Bới tìm hoài vô vọng
Nguyện cầu đừng nhạt phai...
*.
Vĩnh Long, 23-9-2018
Trần Mai Ngân
(Nhà thơ Trần Mai Ngận) |
Bài thơ có đầu đề là “Lời
kinh” mà nó chẳng tả gì về lời kinh. Vậy thì “Lời Kinh” là lời kinh
chỗ nào?. Một người như nhà thơ Trần Mai Ngân mà dám viết lời kinh thì có kiêu
ngạo quá chăng? Muốn biết có kiêu ngạo hay không ta phải tìm hiểu bài thơ thì
mới có kết luận.
Đọc câu thơ đầu tiên tôi
hoảng hốt: “Trú trong kinh Bát Nhã”. Kinh Bát Nhã là gì?
“Bát Nhã Ba La Mật Đa
Tâm Kinh là một bộ kinh rất ngắn của Đại Thừa Phật giáo, có ý nghĩa rất thâm
sâu, rất cơ bản, nhằm phá thói quen chấp thật rất nặng nề của chúng sinh. Kinh
này được các chùa tụng niệm rất thường xuyên, các thầy cúng đám ma, ngay cả ở
nông thôn miền nam Việt Nam cũng tụng kinh này. Có thể nói kinh này rất quen
thuộc với Phật tử, nhưng mọi người có hiểu rõ ràng tường tận ý nghĩa của nó
không, thì không dám chắc. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là quyển Tâm Kinh nhằm
phá chấp thật để hiển hiện trí bát nhã của bờ bên kia (ba la mật) tức là bến bờ
giác ngộ”.
Kinh Bát Nhã là thế nhưng
nhà thơ Trần Mai Ngân đã trú trong kinh Bát nhã. Vậy ai muốn ném đá nhà thơ
cũng dễ vì có thể cho rằng tác giả đã cao ngạo, tự cho mình như một tu sĩ
thượng thừa mới trú được trong kinh Bát Nhã. Trú tức là ở, có nghĩa là lấy kinh
Bát Nhã làm ngôi nhà cho linh hồn mình tá túc. Thế nhưng đọc hết bài thơ “Lời
Kinh 2” ta mới hiểu rằng nhà thơ muốn trú mà trú không được, bởi vì hết
cả bài thơ là nỗi dằn vặt của tâm tư, là niềm thương nhớ của thứ tình yêu trần
thế.
Đức Phật Thích ca nói
răng “Ta là Phật và các ngươi cũng sẽ là Phật”. Vậy thì không trách Trần
Mai Ngân được, vì Thích Ca là người đã trú trong kinh Bát Nhã và đã đến bờ bên
kia, còn Trần Mai Ngân hay Phật tử khác thì đang trú trong kinh Bát Nhã nhưng
chưa phá chấp được để ngộ, nên chưa biết ngày nào mới qua được cái bến mê để
đến bờ chấn lý.
Vậy vì sao nhà thơ đặt
tên đầu đề bài thơ của mình là Lời Kinh? Trong Phật gíao, kinh dịch theo âm là
Tu-đa-la, là tên gọi của các bài giảng của Đức Phật. Trong Thiên Chúa giáo,
Kinh là lời của Đức Chúa Trời khải thị cho con người viết.
Vậy thì Trần Mai Ngân cho
bài thơ mình là Lời Kinh có cao ngạo không? Trả lời là không. Vì sao là không?
Bởi vỉ nhà thơ đã trú trong kinh Bát Nhã, và những lời thơ là vọng âm của tâm
hồn nàng từ trong kinh Bát Nhã mà ra. Có thể nói rằng nhà thơ đã đọc kinh Bát
Nhã nhưng thay vì lời kinh đưa linh hồn đến cõi bình an thì ngược lại, linh hồn
nhà thơ đã hỏa táng trong cõi tình trường.
Cái hay của bài thơ là ở
đó, cái thấm thía của bài thơ là ở đó. Ta đọc bài thơ khác chi ta nhìn một ni
cô giai nhân tuyệt sắc thất tình nên đi tu. Lòng ta sẽ cảm thấy vừa kính vừa
trọng vừa quý mến vừa thương mà vừa ngưỡng mộ cái sắc đẹp trời cho ni cô ấy.
Thưởng thức bài thơ “Lời
Kinh” của Trần Mai Ngân ta phải vận dụng niềm hoan lạc của một tu sĩ, tâm
hồn lãng mạn của một thi nhân cùng với nỗi đau thất tình thì mỗi câu thơ, mỗi ý
thơ sẽ thẩm thấu vào tâm hồn ta, làm trái tim ta rung động những cảm xúc khó mà
diễn đạt thành lời.
Đọc thơ là như vậy, không
phải biện luận bằng “Tam Đoạn Luận” mà hiểu thơ, mà phải hiểu bằng mắt
ta, bằng tai ta, bằng tâm ta, bằng tất cả giác quan của ta, thêm cả giác quan
thứ sáu và bằng linh cảm trong ta nữa.
Nhà thơ Trần Mai Ngân đã
trú trong lời kinh Bát Nhã để khóc bằng lời tình. Tiếng thơ như tiếng chuông
vọng từ nỗi đau chia lìa ly biêt, như tiếng chuông vọng từ một bàn tay nữ tu
nào đó trong dòng nước mắt dưới bệ thờ, nơi chánh điện.
BÀN VỀ “KINH THƠ” CỦA
QUANG TUYẾT
Bây giờ hãy bước qua
“Kinh Thơ” của Quang Tuyết.
KINH THƠ
Chiều về bên dòng sông tuổi thơ
Lắng hồn trong tiếng sóng vỗ bờ
Hững hờ sao đò chiều xua nước
Biết về đâu... Về đâu bến mơ
Mong nhớ nào chạm ánh trăng thơ
Soi gì đêm đã lạc bước mờ
Ta trở về như chưa hề tới
Bến giang đầu hạnh phúc xa xưa
Người đã vượt dòng sông quê người
Ôm tuổi xanh ngủ vội bên trời
Mặc gió mùa cuốn đời mù mịt
Chòng chành đưa hoa nến trôi xuôi
Về đây mong hay đợi người ơi
Vô thường rồi một bước buông lơi
Nỗi nhớ nào như mưa dầm thấm đất
Nát con tim gãy quỵ thân đời
*.
Huế, chiều cuối đông
Quang Tuyết
(Nhà thơ Quang Tuyết) |
Kinh của Quang Tuyết là
kinh của thơ, nó không là lời dạy của Phật hay của Chúa nhưng là sự tụng niệm
của tình. Quang Tuyết đã sáng tác ra thứ kinh ấy và nhẩm mãi trong lòng mình bởi
sự hoài vọng tuổi thơ như cơn bệnh tinh thần cũng bởi sự chia lìa ly cách mà
có.
Thật ra kinh đó là tất cả
niềm đau tiềm ẩn trong tâm hồn thi sĩ, nó không cần tụng niệm ra lời nhưng nó
tụng niệm trong tận sâu tâm hồn qua tháng ngày, trên mọi cảnh vật mà sự nhớ đem
đến cho thi nhân.
Đọc khổ đầu của bài thơ,
ta thấy lời kinh thơ trong tiếng sóng nước, tiếng mái chèo khua, trong âm thanh
của dòng sông thực ngoài đời vọng vào dòng sông ký ức trong linh hồn tác giả,
để con thuyền của tuổi thơ lạc vào một bên mơ nào không biết:
Chiều về bên dòng sông tuổi thơ
Lắng hồn trong tiếng sóng vỗ bờ
Hững hờ sao đò chiều xua nước
Biết về đâu... Về đâu bến mơ
Ta hãy nghe âm vọng của
sóng trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận: “Sóng
gợn tràng giang buồn điệp điệp/Con thuyền xuôi mái nước song song”.
Sóng của Huy Cận gợn lên
nhau và kéo dài ra cùng con thuyền xuôi mái. Cảnh vật như xa lạ nên nỗi buồn
cũng chỉ gợn nhẹ vì thấy cảnh sinh tình mà thôi.
Sóng và thuyền Quang
Tuyết thì khác, nó mang hình ảnh thân thương gần gủi. Tiếng nước vổ sát bên
tai, mái chèo khua sát bên tai, tất cả là màu sắc là của tuổi thơ. Màu sắc cúa
tuổi thơ còn đó nhưng tuổi thơ đã đi qua, đã trôi về một bến mơ nào đó như con
thuyền sẽ về đâu không biết.
Nhà thơ đã đứng bên dòng
sông xưa, dưới ánh trăng hiện tại, có tâm trạng như chưa quay về đến đich vì
dấu xưa bây giờ trở nên xa lạ:
Mong nhớ nào chạm ánh trăng thơ
Soi gì đêm đã lạc bước mờ
Ta trở về như chưa hề tới
Bến giang đầu hạnh phúc xa xưa
Đọc khổ thơ trên cho ta
liên nghĩ đến nỗi sầu của bà Huyện Thanh Quan: “Dấu Xưa xe ngựa hồn thu
tháo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”. Khác chăng là Quang Tuyết không
mang nỗi sầu của một triều đại suy tàn mà mang nỗi sầu của một thế hệ qua đi.
Nỗi sầu của Quang Tuyết lớn hơn, rộng hơn và bình dị hơn.
Qua khổ thơ thứ ba Quang
Tuyết nhớ đến “Người”. Người đã đi vào dĩ vãng, người đã ở góc
bễ chân trời:
Người đã vượt dòng sông quê người
Ôm tuổi xanh ngủ vội bên trời
Mặc gió mùa cuốn đời mù mịt
Chòng chành đưa hoa nến trôi xuôi
Người ở đây là ai? Có thể
là người tình, có thể là người thân, có thể một thế hệ sống với dòng sông năm
xưa và cũng có thể là chính tác giả. Người đã bị “gió mùa cuốn đi”. Gió
mùa là sinh kế, gió mùa là thời cuộc, gió mùa là khói lửa chiến tranh, gió mùa
tất cả sự vô thường của kiếp sông, nó đưa đẩy tuổi thơ như một đóa hoa chòng
chành trôi xuôi. Hình ảnh đóa hoa trôi xuôi đó bị “gió mùa cuốn đời mù mịt”
và đã “ngủ vội bên trời” buồn làm sao, da diết làm sao, có khi là đau
khổ vì sự “ngủ vui” cho ta liên nghĩ dến sự chết trong đời.
Qua khổ thơ chót Quang
Tuyết mới cất những tiếng than xé lòng:
Về đây mong hay đợi người ơi
Vô thường rồi một bước buông lơi
Nỗi nhớ nào như mưa dầm thấm đất
Nát con tim gãy quỵ thân đời
Nhà thơ quay về trong vô
vọng vì “Về đây mong hay đợi người ơi” nghĩa là về không một
niềm hy vọng đoàn viên. Nhà thơ về để dỗ dành nỗi nhớ nhưng nỗi nhớ đã
như “mưa dầm thấm đất” thì nó đã nhiểm sâu trong tâm hồn,
không còn ai hốt nước lên bàn tay được nữa. Bởi vì vậy câu thơ cuối là sự gục
ngã đớn đau: “Nát con tim gãy quỵ thân đời”
Toàn bộ bài thơ như một
tiếng kinh nhưng không phải là tiếng kinh cầu. Đây là tiếng kinh tụng niệm nỗi
sầu, vọng lên từ nỗi nhớ, vọng lên từ linh hồn một người lạc lỏng bên dòng sông
thân thương năm xưa. Bài thơ như tiếng sóng trầm của bến nước bình yên, nhưng
lại đồng vọng nỗi buồn điệp điệp trong hồn ta và trong hồn vạn vật mà người thơ
đứng cô đơn để mong và để đợi.
Đọc hai bài thơ “Lời
Kinh 2” của Trần Mai Ngân và “Kinh Thơ” của
Quang Tuyết, mỗi bài thơ mang một tâm sự khác nhau, môt phong cách khác nhau.
Trần Mai Ngân thì sâu
nhiệm, trầm lắng những ẩn dụ trong chiều sâu tâm hồn, Quang Tuyết thì trải bày
tâm tư bằng những dòng thơ se lạnh như ngọn thu phong. Thế nhưng cả hai bài thơ
đều như rất gần nhau, như hai tiếng đàn mang cung trầm cung bổng quyến luyến
nhau làm đắm say lòng người. Tôi đã đắm say nó nên tôi phải gióng lên tiếng
trống, như tiếng trống chầu để tỏ lòng ngưỡng mô, tuy biết rằng viết nhiều cho
người đẹp đôi khi cũng ăn đá của đời.
Mời thư giãn với nhạc phẩm CÁT BỤI
của Trịnh Công Sơn, qua tiếng hát Khánh Ly:
*.
CHÂU THẠCH
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 11.06.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét