(Nguồn ảnh: internet) |
ĐỌC CHƠI GIỮA THƯỜNG HẰNG
TẬP THƠ LỤC
BÁT CỦA NGÃ DU TỬ
*
(Tác giả Châu Thạch) |
Nhận tập thơ của Ngã Du Tử tặng đã hơn ba năm, nó
đi theo tâm trí tôi suốt ba năm. Viết về nó? Không đủ trình độ! Không viết về
nó? Nó như bức tranh Giáng Tiên của chàng Tú Uyên
treo ngay trên tường nhà tôi. Nàng tiên phải bước ra thì mới thỏa
lòng ao ước của tôi!
Vậy thì hôm nay tôi liều viết. như liều mời nàng
tiên ra vậy. Viết xong sẽ gởi tấm lòng cho gió cuốn đi như nhạc Trịnh công Sơn,
nó đến đâu thì cứ đến, hoặc nếu nàng tiên bỏ tôi đi biệt về Trời thì cũng thỏa
lòng.
“Thường
hằng” là gì? Theo nhà thơ Ngã Du Tử: “Mỗi
hành trình một đời người trú ngụ trên trần gian đều chứng nghiệm muôn màu muôn
vẻ của sinh lão bệnh tử, của thành trụ hoại diệt. Cái ấy khái niệm của Phật
giáo là thường hằng”. “Vô thường là dịch biến, ngược lại là thường hằng. Vậy
thường hằng là bất biến. Vô thường được giải thích nôm na như sóng, sóng là vô
thường còn nước là thường hằng, mặc dầu sóng là do có nước mới sinh ra”
Vậy chơi giữa thường hằng là gì? Có lẽ cũng phải
dùng lời tác giả để giải thích cho dễ hiểu hơn: “Quay về cõi tâm linh đễ tìm cho mình chốn an
bình cho tâm thể”. “Nương vào diệu
pháp”, “làm nhẹ nhàng cho tâm thức
lẫn tâm thể”, “Cảm thấy thật bình yên
trong đối đãi cho từng mỗi người trong thế gian muôn mặt”.
Trường thi “Chơi
Giữa Thường Hằng” được chia ra 10 chương, mỗi chương có một đề tài riêng
biệt. Tác giả muốn trong mỗi chương, người đọc nhận dạng từng hoàn
cảnh đối đãi với tha nhân trong hành trình của đời người được hội ngộ cùng
nhau.
Chương mở đầu: Vương Vấn!
“Vương Vấn” có 36 câu lục bát. Mở đầu
cuộc rong chơi bằng những câu thơ vương mang bến tình, vương mang vần trăng cổ
độ. Một lần gặp em đã trở nên một nhánh phù sinh trong cuộc sống:
“Ta về ngắm khóm vô ưu
Gặp em trên nhánh
ưu tư phận mình
Ô hay một nhánh phù
sinh
Còn bao nhiêu
mộng phiêu linh rợp ngày.”
Chương 2: Quán Chiếu.
“Quán Chiếu” có 40 câu thơ. “Em từ quán chiếu sang ngôi/ Vầng mây mở lối
bên đồi tịnh yên”. Vậy quán chiếu là gì? Quán chiếu là nhìn
thật sâu vào vấn đề gì đó, soi rọi lại Tâm của mình bằng trí tuệ để tìm ra chân
lý. Quán chiếu là một Quá trình tư duy. Sự phân tích, tổng hợp, dựa vào kinh
nghiệm bản thân, quan sát chung quanh mình, soi rọi để thấy rõ … Như vậy gọi là
quán chiếu.
Nhà thơ Ngã Du Tử đã khuyên em từ quán chiếu bước
ra, nghĩa là đã nhìn thấy được lẽ thật, thì đừng “Ngập chìm trong cõi u mình/Ngàn năm nào biết sự tình mù khơi” mà
phải biết sống chơi giữa thường hằng để cho đường đời ta trở thành “Đường đi có ngát trầm hương thế tình”.
Phải chơi giữa thường hằng và chơi như Ngã Du Tử:
Không còn canh cánh
âu lo
Núi sông tự tại
giữa bờ thực hư
Ta về khoác áo chân
như
Gối lên Bắc Đẩu làm
thơ theo mùa.
Chương 3: Thơm Áo Đường Mây
có 24 câu thơ.
Em từ thơm áo đường
mây
… Tưởng rằng hạnh
phúc cùng vinh quang về
Giả hình giả tưởng
u mê
Cứ vui vọng niệm
bên lề khói sương.
“Thơm Áo Đường Mây” là những
vần thơ cảnh tỉnh em Linh hồn em đang đắm đuối trong vinh quang phù
phiêm. Em phải nhớ răng, tất cả chỉ là vui trong vọng niệm và ngàn
kiếp cũng sẽ trở thành khói sương tất cả.
Chương 4: Triền Phược gồm 60
câu thơ.
Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, ngài nhắc nhở
các Tỳ-Kheo phải tránh 5 tâm hoang vu và đoạn tận 5 tâm triền phược.
Năm tâm hoang vu là sự nghi ngờ Phật,
Pháp, Tăng, nghi ngờ học giới nhà phật và những điều không hoan hỷ
trong lòng.
Năm tâm triền phược là thích lạc thú trần gian,
luyến ái tự thân, đam mê sắc dục, ham thích ăn ngủ, muốn thành thần thành
thánh.
Nhìn chung năm triền phược là năm yếu tố ham muốn
khiến tâm thức bị dinh mắc, bị trói buộc rơi vào mê mờ, quay cuồng, khổ đau,
không thanh thản và không an lạc.
Bằng 6o câu lục bát “trong như tiếng hạt”, Ngã Du Tử đã chỉ
cánh cửa căn nguyên cho tha nhân có căn cơ thì “Miệt mài chăm bón chân như hiển bày” bỏ đi triền phược, hầu
cho người thế gian ai được “hưởng
phước này là vui”:
Căn nguyên chỉ một
chữ từ
Miệt mài chăm bón
chân như hiển bày
Hạnh thơm bay ngược
gió lay
Thế gian ai hưởng
phước này là vui.
Chương 5: Dụng Tâm có 52
câu thơ lục bát.
Ta về lên
vọng lầu xưa
Thâm kinh vô tự cho
vừa nhíp tâm
Bi trí dũng ngắm
ánh rằm
Tròn vành vạnh một
đêm trăng ngọn nguồn.
“Kinh vô tự”
là kinh gì? Phải chăng là “Bất lập văn
tự/ Giáo ngoại biệt truyền/Trực chỉ nhơn tâm/Kiến tánh thành Phật.”. Phải
chăng Ngã Du Tử đã khuyên ta thiền, Người theo Phật phải dụng cái tâm để hành
thiền thì mới xé toạt màng vô mình để kiến tánh. Khi kiến tánh rồi
thì chứng ngộ chân lý y nguyên như câu thơ “Tròn
vành vạnh một đêm trăng ngọn nguồn.” mà Ngã Du Tử đã viết vậy.
Chương 6: Trang Đời Lần Giở
có 36 câu thơ.
Trang Đời không phải chỉ đời
nầy mà mỗi kiếp sống một trang đời. Ngã Du Tử muốn em, muốn ta, muốn thế gian
sống sao cho trang đời thật đẹp. Dầu đời có “tiền kiếp đắng cay”, dầu đời có “Nghiệp duyên theo mãi hành trình trôi xuôi” thì khi giở
trang đời ta vẫn tìn thấy được:
Niềm vui chảy với
ngàn sông
Về cùng biển sẽ hòa
cùng nhân gian
Cung vui bật dậy
thênh thang
Tung tăng nhảy múa
tràng giang liên hồi.
Chương 7: Trước Minh Kính
Đài có 36 câu thơ
Hai bài kệ dưới đây trích
trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền
học, được phổ biến,giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực ở khắp
nơi.
Bài của Thượng
tọa Thần Tú:
Thân thị bồ-đề thọ
Tâm như minh kính
đài
Thời thời cần phất
thức
Vật sử
nhạ trần ai.
(Thân là cây bồ-đề
Tâm như đài gương sáng
Phải luôn lau chùi sạch
Chớ để bụi
trần bám).
Bài của Lục tổ Huệ
Năng;
Bồ-đề bổn vô
thọ
Minh kính diệc phi
đài
Bổn lai vô
nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?
(Bồ-đế vốn chẳng
cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Bụi trần bám vào
đâu?).
Qua hai bài kệ ta biết “Minh kính đài” tức là “Đài
gương sáng”. Trong thơ Ngã Du Tử nói: “Trước
Minh Kính Đài” thì phải hiểu tác giả không phải là Minh Kính
Đài. Vậy Minh Kinh Đài là nơi mà nhà thơ ước vọng đến để soi mình vào đó. Nó có
thể là Niết Bàn hay bồng lai tiên cảnh nào đó. Dầu nó là tên gì thì
nó cũng chính là “Đỉnh Non Ca” trong
thơ Ngã Du Tử, vì nơi đó sẽ là “Vườn Mộng”
có ta và có cả em:
Là em xin cứ ăn năn
Niềm vui thành nụ
trước sân sau nhà
Một mai lên đỉnh
non ca
Bao nhiêu vườn mộng
có ta với người.
Chương 8: Nghi Tâm có 72
câu thơ lục bát.
Chương thơ nầy dài nhất trong 10 chương của “Chơi giữa Thường hằng”.
Nhà thơ đã thử từ giã cõi
rong chơi, nhập cuộc trần gian để “Tìm vui trong những
đắng cay”:
Tạ từ hạt bụi mây
ngàn
Về đầy tụ với trần
gian vơi đầy
Và ở chốn đắng cay đó, nhà thơ mới ngộ
ra nhưng điều trong nhân thế:
Chiều nay giữa chợ
thình linh
Lắng nghe mới hiểu
sự tình oan nghi
Đêm về chiêm nghiệm
thị phi
Trần gian lắm mộng
kẻ đi, người về.
Có lẽ nhở nhập thế mà những “nghi tâm” được sáng
thực, được hiểu hết trong lòng tác giả:
Lắng tâm nghe thấy
ngọn nguồn
Hiểu ra sẽ biết
tiếng vuông tròn dần.
Chương 9: Chuyển Hóa có 40
câu thơ.
Đọc 8 chương thơ của “Chơi Giữa Thường Hằng” ta hiểu ra được
thật sự đó không phải là một cuộc rong chơi vô bổ, mà đó là một quá
trình dày công tu tập. Từ đó mới có chương 9 là chương lấy đề tài “Chuyển Hóa”.
Chuyển hóa tiếng Tây Tạng là Lo-Jong, có nghĩa
đen là “huấn luyện tâm”, ngụ ý nói về một thứ kỷ luật nội tại, nó là điểm chính
yếu của sự chuyển đổi tấm lòng và tâm trí để đạt được chân lý và hạnh phúc.
Ngã Du Tử đã viết về sự chuyển hóa như
sau:
Pháp ngôn chuyển
hóa bàn chân
An nhiên trú ngụ
giữa thân tâm hồng
Mặc đời trong đục
bão giông
Có đi có đến, không
mong không cầu.
Chương 10: Thắp Đuốc Chơn
Tâm có 12 câu thơ.
Có câu “Chơn
tâm là Phật, Phật tức chơn tâm”. Vậy chơn tâm chính là tánh
thiện trong lòng ta vậy. Ngã Du Tử tất nhiên không phải là
Phật nhưng khi đã nhờ pháp ngôn chuyển hóa thì tánh Phật hay tánh
thiện có trong người. Từ đó cái tâm từ bi trở nên hăng hái
hơn, muốn “Thắp
ngọn đuốc chơn tâm” mà soi sáng cuộc đời.
Khi tâm hồn được chuyển hóa, chơn tâm cho ta nhìn
đời bằng con mắt lạc quan:
Độ này ngắm áo quan
san
Nhẹ như mây, rộng
như ngàn biển khơi
Nắng lên từ phía
mặt trời
Chân tâm bừng sáng
giữa thời nhiểu nhương.
Khi ngọn đuốc chơn tâm được thắp lên trong lòng
thì tình thương hiển hiện, người thơ muốn đem ngọn đuốc chơn tâm của
mình soi đường nhân thế để
“Gọi người
an trú qua cầu nhân gian”:
Còn chăng chỉ một
chữ tình
Thì thôi hãy sống
chân thành trước sau
Một đời thấm
đẩm bể dâu
Gọi người an trú
qua cầu nhân gian.
Phải nói rằng “Chơi Giữa Thường Hằng” là một tập trường thi
như ánh trăng rằm. Từng câu thơ lục bát mượt mà như ca dao, hạn chế Phật ngôn,
ít dùng thiền ngữ nhưng ý vẫn trong, nghĩa vẫn sáng, đưa tâm
thức đi vào cõi huyền vi an tịnh.
Châu Thạch không là Phật tử, không am hiểu giáo
pháp, chẳng là nhà phê bình văn học, chỉ yêu thơ hay và viết cảm nhận vì những
rung động trong lòng mình.
Chắc chắn là có sai nhiều, không nói là viết bậy.
Kính mong chư vị bạn đọc và tác giả lượng tình tha thứ những điều gì
sai phạm, lầm viết trên đây.
Mời thư giãn với nhạc phẩm XIN LÀM NGƯỜI HÁT RONG
của Trần Long Ẩn, qua tiếng hát Phương Thanh:
*.
CHÂU THẠCH
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 01.07.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét