NỀN TƯ PHÁP HOANG DẠI Ở VIỆT NAM
CÒN TỒN TẠI ĐẾN BAO GIỜ?
*
(Tác giả Lê Phú Khải) |
Ở những
nền tư pháp tử tế, khi một nghi phạm bị bắt thì người đi bắt phải nói với nghi
phạm: Ông/Bà được phép mời luật sư. Từ đó trở đi, mỗi lần công an hỏi cung nghi
phạm thì luật sư ngồi bên cạnh. Luật sư có quyền không cho người hỏi cung hỏi
câu này hoặc câu khác, vì “câu hỏi đó không đúng luật”! Vì luật sư là người nắm
luật pháp hơn cả. Mỗi biên bản hỏi cung như thế phải có chữ ký chứng thực của
luật sư thì lúc ra toà lời khai mới có giá trị.
Ở Việt
Nam thì các vụ án luật sư không được tiếp cận hồ sơ từ đầu, chứ đừng nói gì đến
ngồi cạnh nghi phạm khi bị hỏi cung. Ở vụ án Hồ Duy Hải, luật sư không được gặp
Hải bao giờ cả. Bị đánh đến thừa sống thiếu chết thì nghi phạm thà nhận là mình
“giết người” để không bị tra tấn đau đớn! Những lời khai trong bóng tối như thế
ở một nền tư pháp dân chủ đều không có giá trị pháp lý. Vì thế mới có nguyên
tắc tối thượng là trọng chứng, không trọng cung. Tất cả các nguyên tắc đó của
nền tư pháp văn minh của nhân loại, với chế độ độc đảng, đảng lãnh đạo toàn
diện triệt để mọi lĩnh vực đời sống xã hội thì các nguyên tắc đó đều bị đem vứt
vào sọt rác.
Không ai
nhìn thấy Hồ Duy Hải lúc xảy ra án mạng cả.
Không có
dấu vân tay của Hồ Duy Hải ở hiện trường.
Tang vật
để giết người của Hồ Duy Hải là cái thớt và con dao được mua từ ngoài chợ đem
về.
Thế mà
toà vẫn xử Hồ Duy Hải tử hình!
Còn có
gì trắng trợn, coi thường đạo lý và đểu cáng dã man hơn hả ông chánh án
Nguyễn Hoà Bình?
Lúc ông
từ miền quê nghèo Quảng Ngãi ra kinh kì, ông có hình dung ra mình sẽ quyền thế
và giàu có như thế này không, nhờ nền tư pháp mà đại biểu Quốc hội Ngô Bá Thành
năm xưa tổng kết trong một câu bất hủ: “Chúng ta có cả một rừng luật, nhưng khi
xử thì xử theo luật rừng!”
Oan
khiên chồng chất oan khiên lên đầu gần 100 triệu dân đen Việt Nam từ cái nền tư
pháp bất lương đó! Đã có biết bao vụ án oan trong quá khứ vì nạn nhân bị ép cung
và đánh đập tra tấn dã man!
Người
viết bài này xin thống kê một số vụ điển hình:
– Có lẽ
vụ điển hình nhất là vụ án mang tên Vụ gián điệp “H122”, năm 1948. Trong vụ
này, hàng trăm cán bộ vô tội trong kháng chiến chống Pháp bị giam cầm, do họ bị
ép cung, đánh đập mà phải “nhận tội”!
Sự việc
tóm tắt như sau: Một tin đồn do Pháp tung ra đã lan truyền trong khu Việt Bắc
là có một gián điệp mang bí số H122 đã được Pháp gài vào hàng ngũ ta, và H122
đã cung cấp nhiều tin tức quân sự quan trọng cho Pháp.
Một anh giám
mã (coi giữ ngựa) cho một cơ quan đã bị nghi ngờ là H122. Lý do nghi ngờ rất
đơn giản: Anh ta đã chạy ra sân lấy vào một chiếc khăn trắng trong lúc có tiếng
máy bay của Pháp trên trời. Người ta nghi anh làm ám hiệu bằng chiếc khăn trắng
cho máy bay Pháp đến. Thế là anh giám mã bị bắt, bị bức cung. Anh ta đã nhận
mình là H122, rồi khai ra những người khác. Cứ thế, người bị bắt mới lại khai
tiếp. Con số bị bắt đã lên đến hàng trăm, kể cả cán bộ cao cấp, và cả một bà
bán xôi.
Trưởng
ban Kiểm tra Trung ương Đảng Trần Đăng Ninh đã vào cuộc. Ông Trần Đăng Ninh đã
đến tận hiện trường và xem xét rất kỹ. Ông thấy rất nhiều điều vô lý. Pháp
không thể gài người vào ta mà lại chọn một anh chăn ngựa không biết chữ. Cái
sân bé tí trước nhà anh chăn ngựa giữa rừng núi âm u thì không máy bay nào trên
trời có thể nhìn thấy một cái khăn màu trắng. Cứ thế, cứ thế, Trưởng ban Kiểm
tra Trung ương Đảng xem xét, điều tra cụ thể, quyết liệt, và đã ra lệnh thả mấy
trăm “phạm nhân” đang bị giam. Người ta đã gọi ông Trần Đăng Ninh là “Bao Công
Việt Nam” từ vụ án đó.
Sau hoà
bình 1954, ông Trần Đăng Ninh đã đi máy bay và cố nhìn xuống dưới để xem có thể
thấy một cái “khăn trắng” nào không, và sau đó ông đã “an tâm” là mình đã xử án
đúng.
– Vụ thứ
hai, cũng rất điển hình, phức tạp, quyết liệt và đầy kịch tính, xảy ra vào các
năm 1963-1964, là vụ án ở nhà máy cơ khí Gia Lâm, Hà Nội. Giám đốc Võ Văn Khang
bỗng dưng bị chết. Tám cán bộ đảng và công đoàn nhà máy bị bắt. Vì giám đốc
công an Hà Nội lúc đó là ông Long, cho đây là vụ giết người. Bị bức cung khốc
liệt, cả tám người đều nhận tội! Thế là án đã “nhanh chóng được phá”. Thành
tích được nhanh chóng báo cáo lên cấp trên để được khen thưởng. Nhưng Đại uý
Tích ở công an Hưng Yên, khi khám nghiệm tử thi nạn nhân được vớt lên ở cửa
sông Hồng, đã quả quyết báo lên ngay trong đêm với Cục trưởng Cục Cảnh sát Lê
Hữu Qua là nạn nhân đã tự sát. Đại uý Tích đã làm báo cáo tường trình cụ thể,
và ông cùng đồng nghiệp, cùng Cục trưởng Qua kiên quyết chống lại kết luận giám
đốc cơ khí Gia Lâm Khang bị giết. Được Thứ trưởng Lê Quốc Thân ủng hộ, Giám
đốc công an Long cũng kiên quyết đấu lại.
Bốn năm
trời tranh cãi, hồ sơ biên bản vụ án đã lên cả tạ giấy. Bất phân thắng bại, nên
cuối cùng phải mời một đoàn chuyên gia của Bộ Công an Cộng hoà Dân chủ Đức sang
giúp. Người Đức đi sang một chuyên cơ gồm 10 chuyên gia các lĩnh vực hình sự.
Trong đó có một chuyên gia được mệnh danh là “chuyên gia thắt cổ”. Ông này có
một bộ sách dày, có hình vẽ và ghi chép tỉ mỉ các vụ án thắt cổ có từ thời Hy -
La cổ đại đến sau này. Với ông chuyên gia này, chỉ cần nhìn hiện trường có
người thắt cổ, ông có thể kết luận đến 50% là nạn nhân bị thắt cổ hay tự thắt
cổ. Những chuyên gia Đức khẳng định rằng hung thủ luôn để lại dấu vết ở hiện
trường. Và đã có dấu vết thì nhất định tìm ra hung thủ. Và quả thật, chỉ sau
một thời gian ngắn, vụ án đã được làm sáng tỏ với những luận cứ khoa học không
thể chối cãi, không thể tranh luận gì nữa. Tám cán bộ “nhận tội” khi bị bắt đã
được tha bổng. Theo lời Cục trưởng Qua, vụ án này đã được đưa vào giáo trình
của ngành tư pháp nhiều nước.
Trước
khi về, người Đức chỉ khuyên chúng ta không nên đổi tên đường, tên làng, tên
xóm. Vì như thế sau này rất khó phá án.
– Vụ thứ
ba là vụ án Nguyễn Thanh Chấn. Nguyễn Thanh Chấn bị nhục hình, bức cung phải
nhận tội “giết người”! và tù đã 10 năm. Bỗng kẻ giết người lù lù ra đầu thú
nên ông Chấn được tha!
– Vụ thứ
tư là vụ ông Đặng Kim Bền, một nông dân đã gần 70 tuổi ở An Giang, bị toà án
tỉnh Tiền Giang kết án tử hình sau giảm xuống chung thân. Ông Bền mang một bó
cây bù-đà để ở nóc xe khách. Khi bị công an hỏi bó lá cây này của ai? Ông đã
nhận và bị kết án tử hình vì sự ngu dốt của bà chánh án tỉnh Tiền Giang, xem
cây bù-đà có chất gây nghiện là cây thuốc phiện!
Khi đó
tôi là phóng viên thường trú ở đồng bằng sông Cửu Long, được bà vợ của ông Bền
đi thăm nuôi chồng kể cho nghe hết sự tình về “tội” của chồng bà. Tôi đã làm
tường trình lên Chủ tịch nước Lê Đức Anh lúc đó. Và bằng một đường dây riêng,
bức thư đã đến tay Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Ông Bền được tha bỗng. Khi vợ ông
Bền lên đón chồng về quê sau khi được ân xá, bà đã đền ơn nhà báo một ký đường
Thốt nốt – đặc sản của quê bà. Cái biên lai gửi thư qua bưu điện lên Chủ tịch
nước Lê Đức Anh, đề ngày 25-9-1995, tôi còn giữ đến bây giờ làm kỷ niệm.
Viết đến
đây, tôi bỗng nhớ đến những dòng mở đầu trịnh trọng của bản Tuyên ngôn Quyền
Con Người của Cách mạng Pháp 1789: “Các đại biểu của nhân dân Pháp họp thành
Quốc hội, cho rằng việc không biết tới, sự lãng quên hay sự coi thường các
quyền của Con Người là những nguyên nhân gây ra những đau khổ chung thân và sự
hư hỏng của những kẻ cầm quyền, vì thế đã quyết định trình bày các quyền tự
nhiên thiêng liêng và không thể tước bỏ được của Con Người”.
Chừng
nào còn chế độ độc đảng độc tài, không có toà án độc lập thì những đau khổ
chung thân của gần trăm triệu dân đen Việt Nam vẫn còn mãi.
*.
Sài Gòn, tháng 5/2020
LÊ PHÚ KHẢI
Địa chỉ: K19 Khu phố chợ Hoàng Hoa Thám,
phường 13, quận Tân Bình, tp Sài Gòn.
.
...........................................................................................................
- Cập
nhật từ email: datinh_1974@yahoo.com ngày 21.05.2020.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Cám ơn tác giả vì bài viết hữu ích với bạn đọc
Trả lờiXóa