Truyện ma - truyện liêu trai: CÔ GÁI LÚC 1 GIỜ KHUYA - Nhiều Tác Giả

Leave a Comment

 

CÔ GÁI LÚC 1 GIỜ KHUYA

*

NGƯỜI ĐÀN BÀ TRONG TRẮNG

Tác giả: Trọng Miên)

 

Trăng lên quá đầu rặng thông, hơi rượu đã thấm lòng, nhà thi sĩ già ngỏ tâm sự với một chàng trẻ tuổi ngồi đối diện:

- Tôi phải nói thật rằng tôi tiếp anh đây không phải vì ngày trước thầy anh là bạn đồng liêu của tôi và tôi coi anh như con cháu đâu. Nhưng mà vì anh cũng theo đuổi văn thơ, muốn làm thi sĩ. Nếu không thì tôi đã mời anh xuống đồi hồi chiều như những người khác đến thăm tôi.

Con người khác với thú vật ở cái chỗ biết làm thơ anh ạ. Tôi còn nhớ mãi câu nói của thầy anh trong một bữa đối ẩm như hôm nay. Nếu không phải là thi sĩ thì có khi người ta có cái cảm giác thình lình trở nên một con vật, vì không có những phương cách để diễn tả lòng mình ra. Cho nên từ buổi từ quan về sống ở đây tôi không muốn đi lại với những con vật câm ấy. Người ta cho tôi là kiêu kỳ và ghét tôi, nhưng ở trên họ, tôi kể gì đến dư luận tuế toái của thiên hạ.

Đôi mắt long lanh của nhà thi sĩ già đã hơi hơi lờ đờ vì hơi men bốc lên.

Những lời nói của ông càng thao thao như nguồn thơ tuôn tràn trong cơn cảm hứng:

- Anh có công lần mò lên đây để nói chuyện thơ và hỏi tôi về Lý Bạch? Đời Lý, tôi thích nhất ở chỗ:

Lý Bạch nhất đẩu thi bách thiên,

Tràng An thị thượng tửu gia miên.

Thiên tử hô lai bất thướng thuyền,

Tự xưng thần thị tửu trung tiên.

Uống một đấu rượu, làm trăm bài thơ, say ngủ tại

quán rượu, vua đòi không tới và tự xưng rằng mình là một bậc tiên rượu. Sống như thế, coi cuộc đời như giấc chiêm bao, say cả ngày lẫn đêm - xử thế đại nhược mộng, hồ vi lao kỳ sinh, sở dĩ chung nhật túy - cái chết của Lý cũng vì thơ với rượu. Một bậc hào hoa như thế, ôm trăng mà chết là phải lắm.

Bình sinh Lý vẫn cho mình là trích tiên, sau khi chết, những đêm trăng sáng, thi sĩ hiện lên trên một chiếc thuyền nguy nga đề hai chữ "Thi Bá" qua lại ở dòng sông mà Lý đã chìm theo bóng trăng đáy nước. Những nho sĩ quanh vùng đều thất kinh lập ngay đền thờ một bên sông. Một hôm có một văn nhân say rượu đi ngang thấy thuyền Thi Bá hiện lên liền ứng khẩu hỏi: - Hà nhân giang thượng xưng thi bá?  Cẩm tú văn chương tá nhất quan?

Thì trong thuyền có tiếng trả lời: - Dạ tỉnh bất kham đề tuyệt cú, Chỉ kinh tinh đẩu lạc giang hàn.  

Đêm vắng không ngâm thơ vì sợ sao rơi, cái khẩu khí của Lý Bạch làm cho văn nhân thất kinh tỉnh rượu lủi đi mất.

Nhà thi sĩ già nói chuyện trên đây, ngày xưa là một vị quan thân ở triều đình Huế. Ông đỗ Cử nhân, làm đến chức Tham tri, gần tới Thượng thư, nhưng thình lình, trước sự ngạc nhiên của các bạn đồng liêu, ông từ quan về sống giữa cái đồn điền chè sau núi Thiên Thai với một người vợ bệnh tật sắp chết, một người lão bộc câm và một người đầu bếp đã làm lý thiện nấu ăn trong cung nội.

Linh nhớ lại lúc ban chiều còn bỡ ngỡ lên con đường dốc đưa vào nếp nhà cổ kính, uy nghiêm của ông bạn với thầy mình, và bây giờ chàng đã trở nên thân mật với con người rất khó tính kia.

Tiệc rượu tàn, nhà thi sĩ già vào phòng trong để Linh nằm nghỉ ở liêu trai, giữa một biệt thự nề nếp làm theo kiến trúc ngày xưa. Cách trang hoàng có một vẻ quý phái cổ điển; hình như thuở còn đương chức ở Triều đình ông đã nghĩ đến những ngày sau này, lựa một chốn u nghiêm ở trên một cái đồi gần gũi những lăng tẩm đế vương.

Linh ngủ trên một cái sập gỗ chạm cẩn xa cừ, gần một cái cửa gương lớn trông xuống đồi chè, nương sắn và rừng thông. Hơi rượu thấm đượm, thứ rượu nếp uống mềm môi quên cả say, Linh mê man đi và tỉnh giấc vào quãng khuya. Trăng sáng qua cửa gương tuôn chẩy lên khắp người chàng một sự dịu dàng mơn man. Hương men tan, thấy khát, Linh dậy châm nến, rót nước uống một ly nước lạnh đựng trong một chiếc bình cổ. Nước mát ngọt thấm dịu cả lòng sau cơn say. Chàng phụt tắt nến, nhìn ra vườn trăng, bỗng rợn người lên, vì chợt thấy một người đàn bà ở sau cửa gương đang ngắm mình. Một hình ảnh lãng đãng như làm bằng sương khói, mong manh, huyền ảo dưới trăng xanh.

Linh vụt nghĩ đến chuyện hồ ly tinh hiện thành người để trêu cợt văn nhân. Chàng đứng lặng trong bóng tối nhìn ra. Cái hình ảnh mơ hồ cũng vẫn yên một chỗ, để lộ nửa thân hình trên cửa. Vừa kinh dị và bị kích thích, Linh nhảy đến mở cửa gương ra, nhìn xuống vườn nhưng không thấy bóng một ai. Gió đêm mát rượi rung động những lá cây lấp lánh trăng. Một luồng rờn rợn thấm qua da thịt. Linh vội khép hai cánh cửa gương lớn. Nhưng chàng vừa bước vào sập và nhìn ra lại thấy người đàn bà mơ hồ tinh quái hiện ra sau cửa. ánh trăng phủ lên da thịt nàng một mầu sắc chiêm bao, làn áo trắng choàng lấy thân người mảnh mai càng tăng thêm vẻ gần gũi mà xa xôi của con người lạ lùng. Linh thu hết can đảm, lại mở cửa ra nhưng lần này chàng cũng không thấy hình dạng một ai dưới trăng. Muốn tránh khỏi bị phá rối nữa, chàng đóng ngay cửa gỗ ở phía ngoài lại, rồi khép thêm lần cửa gương. Linh trở vào nằm nghĩ lan man, ngờ vực, băn khoăn. Tuy sợ nhưng chàng thấy một cảm mến thơ mộng đối với người đàn bà kỳ ảo hiện ra dưới trăng để trêu ghẹo mình. Linh muốn mở cửa ra để xem nàng có hiện đến nữa chăng, nhưng lòng ngờ ngợ có nên nằm im rồi ngủ thiếp đi.

Linh tỉnh dậy trong tiếng chim kêu và nắng vàng ban mai nhuộm rực rỡ các đồi cây xanh. Chàng khoan khoái chạy ra khỏi nhà, hít mạnh không khí mát mẻ và, trong một lúc, quên người đàn bà ẩn hiện đêm qua. Trọn buổi sáng, chàng đi thơ thẩn, để tóc bay dưới nắng, qua các đồi, vào rừng thông, nằm nghiêng mình trên một dòng suối con trong suốt đáy. Hình ảnh của chàng hiện trên mặt nước nhắc đến bóng người lãng đãng dưới trăng. Linh đưa hai tay vốc nước uống và hình ảnh chàng biến tan rồi hiện lại như sự ẩn hiện kỳ lạ của người đàn bà tinh quái đến trêu ghẹo chàng giữa đêm khuya. Sự vụt hiện, vụt biến của người sau cửa gương tắm trăng khiến Linh nghĩ lại tưởng chừng như mình đã thấy trong mơ. Có thể có một sự hiện hình của yêu tinh chăng? Nhớ tới đêm qua, lòng chàng ngờ ngợ không nhất quyết tự trả lời minh bạch được. Nếu có một người đàn bà thật tinh nghịch đến trêu mình thì cũng không thể vụt hiện, vụt biến một cách dễ dàng như thế? Linh đi quanh vòng không thấy có nhà cửa ai, ngoài túp lều tranh xa cách của mấy người dân làm việc ở đồn điền và một cái mộ của vợ chủ nhân cái biệt thự.

Bóng tối lại trong lớp nhà cổ kính và Linh đã bắt đầu cảm thấy một sự bí mật kỳ ảo bao trùm lấy mình.

Nhà thi sĩ già vẫn uống rượu nhiều và nói chuyện thơ cổ điển phương Đông.

- Ở một cõi thanh tịnh như đây, tôi chỉ có cái thú độc nhất là rượu với thơ, và cứ trăng sáng như mấy đêm nay thì thắp đèn sáp ong, đốt trầm lên mà đọc "Liêu trai chí dị" của Bồ Tùng Linh.

Lời nói như nhắc nhở Linh nghĩ đến sự trêu ghẹo yên lặng của người đàn bà dưới trăng. Chàng ngập ngừng tính đem việc ấy ra nói cùng chủ nhân nhưng lại thôi, để lắng nghe những lời đang nói say sưa của ông:

- "Liêu trai chí dị" là một áng kỳ thơ độc nhất vô nhị của á Đông. Cái sức mạnh tưởng tượng của tác giả kỳ ảo, quái dị mà thi vị, thâm thúy, trừ phi một hồn thi sĩ lạ lùng như người thì chẳng mấy ai có được. Có người cho rằng bộ "Liêu trai chí dị" là dâm thư nhưng phẩm bình như thế thì hồ đồ và hẹp hòi quá. Phải hiểu cái cốt cách thuần túy, huyền hoặc rồi khi ấy ta mới thấu nhận về đặc sắc, tuyệt diệu của áng kỳ thơ.

Nhà thi sĩ già đem sách ra lựa đọc mấy chuyện ma mà ông thích thú nhất rồi cáo về phòng nghỉ. Linh ngồi một mình yên lặng hút thuốc trong không khí thoang thoảng hương trầm. Chàng chờ đợi người đêm qua hiện tới. Tâm trí chàng đang mơ màng đến những lẽ huyền bí xa xôi, thì cùng một lúc với ánh trăng len lén tràn vào phòng, sau làn khói thuốc mờ Linh thấy hiện ra người đàn bà kỳ ảo, yên lặng sau cửa gương. Linh chợt rợn người lên nhưng bình tĩnh được liền, và ngồi yên để xem sự thể đi đến đâu. Chàng thu hết nhỡn tuyến nhìn hình ảnh vừa hiển hiện. Đó là một người như thực như hư, thanh thoát, tế nhị tắm trong màu trăng xanh huyền hoặc. Đôi mắt sâu xa và buồn rầu trên một khuôn mặt trắng nhợt nhạt như cẩm thạch. Nửa thân hình lộ sau cửa gương vẫn mặc chiếc áo lụa bạch đêm qua. Người đàn bà ấy đẹp một vẻ vừa thiên tiên vừa yêu tinh trong khung cảnh ảo huyền. Và nàng cứ lặng yên như thế, đăm đăm nhìn Linh. Chàng sợ mở cửa ra thì nàng lại biến như lần trước nên cứ ngồi lặng, ngại ngùng, rung động trước nhan sắc.

Một đêm trăng, một người đàn bà đẹp tự đâu hiện đến, tưởng chỉ có ở thời thái bình, cổ sơ, hay trong cảnh tưởng tượng của nhà thơ kỳ lạ mà thôi. Nhưng đây, ở trước mắt Linh, nàng đang lẳng lặng và huyền hồ như trăng xanh. Người đàn bà yêu tinh đã đến với chàng, và chỉ cách nhau có một lần cửa gương thôi. Linh có thể mời nàng vào và cầm lấy đôi tay dịu dàng của con người xinh đẹp, rồi thì việc có thể xảy ra như trong các chuyện lạ lùng, quái ảo Linh đã đọc, người đắm đuối khoái trá trong lòng yêu tinh.

Thế rồi Linh se sẽ nói dịu dàng: - Em đã có lòng nghĩ đến, xin rước em vào đây trò chuyện.

Nàng vẫn yên lặng nhìn Linh không chớp. - Hay là em cho phép tôi ra đưa em đi chơi dưới trăng.

Nói xong Linh vừa đứng dậy, đến mở cửa gương, gần như sát vào người nàng ở ngoài. Nhưng chàng rất đỗi kinh ngạc khi hai cánh cửa vừa mở toang thì không tìm thấy nàng đâu nữa. Linh trèo qua cửa sổ nhảy xuống vườn, chạy kiếm chung quanh cũng chẳng thấy tăm dạng. Cảnh đồi rừng trắng xóa dưới trăng tự nhiên đối với chàng nhuốm một vẻ huyền hoặc lạ thường. Tiếng nước suối chảy róc rách ở đồi bên như tiếng cười lanh lảnh của ai. Trăng xanh bát ngát rộng rinh.

Linh trở về phòng, để cửa gương mở rộng chờ người đàn bà kỳ ảo hiện đến là nhảy xổ ra nắm lấy tay. Chàng đã bị khiêu khích đến tức giận. Nhưng mà rồi Linh liệu có thể ôm lấy con người xinh đẹp vụt hiện, vụt biến đi không? Trăng sáng tỏ rõ soi vào chỗ Linh đứng trắng như hơi sương xuống ban mai. Chàng rùng mình, không rõ vì hơi lạnh của đêm khuya hay vì nhớ đến người đàn bà quái dị. Xa xa có tiếng gà gáy, tưởng lầm trăng sáng là vừng đông. Linh nghĩ rằng những cô hồn vất vưởng, những yêu tinh phải trở về cõi âm trước kẻo sợ trời sáng rồi chàng khép cửa ngoài lại, không để cho trăng tràn vào nữa, khiến nao nao trong người.

Sáng ngày ra, trong một lúc dạo chơi ngoài hiên, Linh thấy có một chậu hoa mẫu đơn để ở góc vắng, tự nhiên chàng liên tưởng đến câu chuyện trong "Liêu trai chí dị", linh hồn một cây hoa mẫu đơn lâu năm tu luyện hóa thành người đẹp sống với văn nhân. Linh có ý muốn đưa chậu hoa về phòng mình để thực nghiệm xem sao. Biết đâu người đàn bà trong trăng không phải là hiện thân của thứ hoa kiều diễm ấy. Linh lựa lời thân hỏi chủ nhân: - Thưa bác, người xưa thường uống rượu ngắm hoa, bác thì chỉ uống rượu mà thôi, còn chậu hoa xinh đẹp kia lại cô độc ở ngoài.

Nhà thi sĩ già sờ lên mái tóc đã bạc lơ thơ trên vầng trán mênh mông, ngậm ngùi nói:

- Tuổi tác như tôi mà còn ngồi uống rượu trước hoa mẫu đơn thì là một sự quá lạm. Như Lưu Vũ Tích đời Đường, tôi chỉ sợ hoa kia biết nói sẽ nói rằng: Hoa mẫu đơn nở có phải vì bậc tuổi cao đâu? Chỉ tuổi trẻ như anh thì nên chơi, anh thích tôi sai mang vào để gần chỗ ngủ cho có bạn.

Đêm đến, sau bữa rượu thường lệ, nhà thi sĩ già sai người lão bộc đốt trầm lên rồi mang cây đàn bầu ra.

- Đã lâu tôi không đàn, hôm nay cao hứng tôi gảy cho anh nghe vài điệu. Cây đàn này làm bằng gỗ quan tài, tiếng kêu rất thanh và ấm, hồi còn làm quan tôi phải nài nỉ mới mua lại được của thầy Tôn út. Lão ta hết sức tiếc, vì theo lời lão thì cây đàn lâu đời bằng thứ gỗ đặc biệt ấy đem ra gảy ở bãi tha ma có thể gọi âm hồn về nghe.

Kể qua lịch sử cây đàn, nhà thi sĩ già bàn đến âm nhạc. Hồi còn đang tuổi phong tình, ông vẫn thường soạn những bài Nam bình, Nam ai cho đám ca nữ đêm đêm với giọng u trầm, đài các của tiếng Huế than vãn trên dòng sông Hương. Thế rồi điệu Nam bình não nùng, ai oán vang động lên dưới tay nhà nhạc sĩ già rung rinh cả yên lặng. Dây tơ nhấn mạnh nức nở tuôn ra những giọt lệ âm thanh, trong suốt và nong nóng thấm đượm cả lòng người. Linh ngồi nghe sững sờ theo tiếng đàn tưởng có thể làm cho quỷ khóc.

Bản Nam ai trổi theo, tha thiết hơn khiến chàng rưng rưng cả toàn thân. Điệu nhạc thổi một luồng ớn lạnh vào trong lòng chàng, nhà thi sĩ già mê man gảy tưởng chừng đứt dây tơ đồng. Và khi ngừng tay, chờ cho những sóng âm thanh bớt run rẩy trong không khí, ông nói: - Về cây đàn bầu, người sành âm nhạc vẫn có một sự tin tưởng huyền hoặc là ai đã chơi nó hay thì cũng như mang một nghiệp dĩ vào thân. Nó là một thứ âm nhạc di lụy cho người chơi. Tôi không tin nhưng mà hồi mua cây đàn này về ít lâu, gảy đã được nhà danh cầm đế đô khen, thì nhà tôi qua đời, thành thử tôi cũng đâm ra ngờ ngợ.

Trăng lên đã cao, còn lại một mình, Linh lặng nhìn cây hoa mẫu đơn, trầm ngâm lạc lối trong những lẽ u huyền. Kiếp trước hoa là thiếu nữ và thật có một sự phục vãn trong kiếp luân hồi, hồn hoa lại hiện thành thiếu nữ chăng? Nhưng có phải người đàn bà đã hiện ra yên lặng trêu tức mình là hiện thân của hoa mẫu đơn? Trong khi Linh đang mơ màng thì trăng đã chênh chếch dọi vào. Và kỳ diệu thay, cùng với ánh trăng chảy vào phòng, người đàn bà hiện tới, như tượng trưng thuần túy của trăng xanh. Nàng có một thứ nhan sắc huyền ảo mà càng nhìn Linh càng thấy mơ hồ, nét mặt chập chờn như sương, thân hình như khói, hình như kết đọng bằng ánh trăng thủy tinh, có thể nhìn suốt qua người. Linh mải phân tích mê hoặc đắm hồn vào trong cái hình ảnh bích ngọc, xanh xao như trăng chiêm bao. Chàng đã gần như bị quyến rũ, rung rinh trước vẻ đẹp tế nhị có sức mạnh thấm thía như mùi hương bay lẻn vào hồn. Trong giây phút khoái trá, linh hồn bị cám dỗ, Linh cảm thấy chẳng những mình không rùng rợn mà trái lại còn thích thảng, say sưa.

Người đàn bà vẫn lặng yên, không một cử động se sẽ, không một lời nói nhếch đôi môi, không một chớp mắt, và nhìn Linh như thấu suốt tận đáy hồn. Linh bỗng rợn người lên hình như mình đã bắt đầu yêu con tinh. Người đàn bà uyển lãng, kiều lệ ấy chỉ có thể là một con tinh! Nghĩ sực đến những chuyện yêu tinh mê hoặc người để hút hết tinh khí, Linh bàng hoàng, hãi hùng, muốn vụt dậy chạy. Nhưng đôi mắt đen biếc, thăm thẳm vẫn nhìn như dán vào người Linh, giữ chàng ngồi yên một chỗ. Chàng đã trở nên như người bị thôi miên bởi nhan sắc huyền hoặc.

Trăng mỗi lúc càng sáng tỏ thêm lên và xa xa thấp thoáng tiếng gà gáy. Linh mừng thầm sắp thoát khỏi cái nhìn yên lặng ghê gớm của người đàn bà yêu tinh. ánh trăng chảy vào tràn khắp phòng, Linh ngồi như dính chặt trên chiếc ghế bành đối diện với cái hình ảnh kỳ ảo sau cửa gương. Tiếng gà theo nhau gáy từ xa vang lại, nhưng trong trăng sáng người đàn bà vẫn yên lặng, trước mặt Linh, không nhúc nhích, không nói năng, và chỉ nhìn chàng với đôi mắt ghê gớm như đôi mắt rắn thôi miên lấy chàng. Thời gian tưởng chừng như đứng lại, mạch máu trong người Linh băng giá cho đến khi chàng nghẹn ngào, se sẽ nói:

- Tôi xin hỏi nàng, yêu tinh hay là oan hồn, từ đâu lại và muốn điều chi thì hãy nói cho tôi biết.

Nhưng người đàn bà vẫn lạnh lùng như một hình ảnh chết và cứ đăm đăm nhìn Linh.

- Nàng vẫn nhất quyết lặng yên? Thì hãy ở đấy mà đợi mặt trời lên. Sau câu nói văng vẳng của Linh người đàn bà cũng vẫn im lặng như một cái bóng trong trăng. Linh nhắm mắt lại để tránh khỏi cái nhìn ghê rợn của yêu tinh rồi mệt mỏi ngủ thiếp đi. Khi chàng giật mình mở mắt ra thì ánh trăng đã đi hết khỏi phòng và người đàn bà quái ảo sau cửa gương cũng đã biến đi. Linh ngả mình trên sập mê man.

Chàng thấy người đàn bà trong trăng lại hiện ra mở tung cửa gương vào, thướt tha bước đến ôm ghì lấy mình. Linh sờ vào người nàng thì cảm giác nhẹ mỏng dị thường. Nàng lôi cuốn Linh vào một cuộc ái ân sôi nổi rồi hút cạn tinh túy của chàng.

Linh hoảng hốt tỉnh giấc mơ, thấy mặt trời đã lên cao. Chàng còn bàng hoàng mê tỉnh, và đưa mắt nhìn đến cửa gương thì lại thấy thoáng bóng người đàn bà, nhưng rất mơ hồ, xa xôi. Linh dụi mắt và rất đỗi kinh ngạc khi đến gần nhận thấy rằng người đàn bà hiện ra ở trên mặt thủy tinh.

Trong lúc ấy, nhà thi sĩ già đi đến, nhìn vẻ mặt sửng sốt, bơ phờ của Linh trước cửa gương rồi nói:

- Tôi xin giới thiệu đó là hình ảnh nhà tôi...

.Trước sự ngạc nhiên của Linh, ông thong thả kể: - Trước đây nhà tôi mắc bệnh bại đang thời kỳ còn xinh đẹp, về đây hơn hai mươi năm trời, ngày ngày ngồi trên chiếc ghế bành đặt trước cửa gương, nhìn xuống đồi ngong ngóng chờ tôi về. Thuở ấy tôi mải ham mê theo những người đàn bà khác, ít khi nghĩ đến người vợ cần đến sự thương yêu của mình. Tôi chỉ hối lại khi nhà tôi đã có phần yếu, tôi liền từ chức về đây, nhưng chẳng được bao lâu thì nhà tôi qua đời. Khi đã biết yêu thương thì đã chậm lắm rồi, tôi chỉ còn trong lòng một hình ảnh in trên mặt gương này mà thôi.

Nhà thi sĩ già nói xong rồi ngậm ngùi lui vào phòng trong. Linh bắt đầu hiểu rành mạch những việc đã xảy đến cho mình.

Người vợ kiều diễm của nhà thi sĩ ngồi in bóng vào cửa gương lâu năm, những chất lân tinh trên mặt thủy tinh phản chiếu ánh sáng dần dần thấm in lấy hình ảnh. Trăng xanh huyền hoặc dội qua mặt gương làm nổi cái hình ảnh người thiếu phụ lên. Linh đã ảo tưởng đó là một nàng yêu tinh hiện ra sau cửa. Chàng nhớ lại cứ mỗi lần mở cửa gương ra thì hình ảnh vụt biến mất rồi hiện ra khi đóng lại. Linh không ngờ hình ảnh ở trên mặt thủy tinh trong suốt, trí tưởng tượng mới bị xúc động đến cực điểm và trong trường hợp ấy, chàng đã lầm lạc vì ảo ảnh.

Sau cùng, Linh thấy người đàn bà kỳ ảo hiện ra ân ái với mình trong giấc mơ vì não cân đã bị kích thích dữ dội

 

MA CHÓ

(Tác giả: Chung Mốc)

 

Trong suốt mấy mươi năm qua, gia đình tôi đã nuôi rất nhiều đợt chó, có dễ đến gần trăm con, tên đặt thì đủ kiểu: Mực, vá, ki, quýt, tô, phèn v v ... nhưng tôi nhớ nhất là con Bông và con Tôm, cả hai đã sống với chúng tôi rất lâu và đều chết một cách oan uổng, tức tưởi.

Con Bông cùng tuổi với tôi, năm tôi lên năm thì nếu tính theo tuổi chó, nó đã là một tráng niên (vì nếu chó sống 10 năm cũng tương đương với tuổi người là 70). Bất cứ ba tôi đi làm ngoài lô cao su, đi nhậu hay đi chơi nơi đâu thì có nó chạy theo đến đó.

Khi ông mất, thi hài đem chôn ở nghĩa địa ông Ba Lung ngoài chợ quận Dầu Tiếng - Bình Dương cách xa làng khoảng bảy cây số, thì cả nhà không tìm thấy con Bông đâu nữa, cho đến hôm má tôi đi chợ và ra thăm mộ, mới thấy nó nằm sõng soài trên nấm mồ của chủ. Dì tôi nhà ở đối diện Chợ Chiều nói rằng hèn chi thỉnh thoảng có thấy nó về uống nước, ăn qua quít vài miếng rồi đi, thì ra nó vẫn còn quyến luyến ba tôi nên cứ quẩn quanh riết ở ngoài mả. Mới hơn một tuần mà con Bông còm cõi xác xơ, má tôi phải dỗ dành mãi nó mới chạy theo xe mà về nhà.

Từ đó nó lại bám theo má tôi như bóng với hình, bà đạp xe chở hàng như bún, rượu hay bánh đa ... đi mọi nơi để bán là nó luôn chạy theo xe như một cận vệ trung thành.

Bỗng một hôm thầy Ba Lai ở làng Bốn nhìn thấy con chó rồi hỏi anh tôi:

- Con chó bông này là của nhà mày phải không cu Châu?

- Dạ thưa thầy phải.

- Về kêu má mày cho nó đi, nếu không thế nào trong nhà cũng có người gặp tai nạn.

Má tôi nghe anh thuật lại thì cũng có hơi lo sợ, nhưng con chó có nghĩa quá, cho đi thì tội nghiệp. Bà còn đang lưỡng lự, dùng dằng suy nghĩ thì chiều hôm đó, anh Châu cùng chúng bạn căng một sợi dây thun giữa hai gốc điệp mà thi nhảy cao, đang lấy đà phóng tới thì anh bị trượt chân trên đám rêu té ngửa ra đằng sau, tay anh chống xuống đất gãy cái rốp, xương lòi cả ra ngoài coi ớn lắm. Cậu Ét băng sơ sơ rồi chở đi bịnh viện, anh nằm trong nhà thương làng Sáu Bích gần một tháng mới được về nhà.

Má tôi đến thăm thầy Ba Lai và kể lại chuyện tai nạn, thầy nói:

- Bữa hôm thấy con chó có sắc hại chủ, tôi đã nói với thằng Châu, nhưng không ngờ sự việc xảy ra mau quá, nếu thím mà không cho con chó đó đi, tôi e rằng có khi còn nguy đến tánh mạng người trong nhà nữa, chớ không phải chỉ là chuyện gẫy tay gẫy chân mà thôi đâu.

Má tôi về nhà bần thần mãi, số là chính con Bông đã có lần cứu bà khỏi chết đuối. Lần đó nó chạy theo xe má tôi, bà đạp xe nhanh quá mà nó đã thấm mệt, nên ráng chạy qua mặt chủ để ra hiệu bằng cách tạt ngang đầu xe, ai ngờ vì xe chở một cần xế nặng quá, nên má tôi bị quẹo tay lái rồi rớt xuống con suối khá lớn ngay chỗ Cầu Đúc ở giữa làng Một với làng Hai, chiếc xe còn vướng lại trên thành cầu. Đường đã về chiều nên vắng người, thấy chủ không biết bơi đang ngớp ngớp dưới nước, nó phóng xuống cắn lấy áo và lôi vào bờ.

Má tôi thoát chết, ngồi thở cho lại hồn rồi ráng dựng xe lên mà chạy về nhà. Con Bông như biết lỗi, kêu lên ứ ứ rồi lúc thúc chạy theo sau.

Sau cùng vì quá sợ hãi, tuy bị giằng co với niềm thương con chó, bà phải kêu người ta mà cho đi, nghĩ rằng đổi chủ thì con chó không còn làm hại ai, nhưng sau đó nghe nói lại là người ta cũng sợ và đã làm thịt nó rồi.

Hồi con Bông chết, tôi theo má đi Hố Nai - Biên Hoà nên không có dịp mà khóc thương nó.

Khi gia đình tôi chuyển về Rạch Giá lại có thêm một con chó trắng như bông, đặt tên là con Tôm.

Còn nhớ năm đó tôi học đệ thất, anh Toàn học đệ ngũ ở trường Trung Học Cái Sắn ngoài đường lộ, cách nhà khoảng bảy cây số. Buổi trưa tan học về, hai anh em đang chở nhau trên xe đạp vừa ngang qua kinh Rọc-Bờ-Ke, thì thấy một hàng lính hành quân từ phía ruộng tràn ra quốc lộ, quần áo ướt sũng, nhìn phù hiệu thì biết đây là Đại đội 332 ĐPQ có anh rể tôi, chúng tôi dừng xe đứng ngó. Một hồi mới nhận ra anh tôi lóp ngóp lội ra, chân dính đặc quánh đất sét, súng đạn nặng nề mà tay lại bồng một con chó con trắng như cuộn bông gòn. Anh cười vẫy tay và gọi: - Hai đứa có muốn nuôi chó con không? Anh cho nè.

Chúng tôi ào tới, anh nói: - Nhà kia có cả bầy tới năm sáu con lận, anh xin một con rất đẹp mà họ chỉ cho con chó trắng này, vì họ sợ chó trắng thường là chó ma.

Ma hay không tụi tôi đâu có ngán vì con chó mập tròn, mũm mĩm trông dễ thương hết sức. Năm đó tôi bắt đầu học Anh văn theo cuốn Let's Learn English, cứ mỗi cuối chương thì có một bài ngắn của một du học sinh, đó là Tom's impression. Hồi đó thầy dậy Anh văn của tôi không đọc là Tom mà cứ đọc là Tôm. Thấy cái tên hay hay, có thể đặt cho con chó con, mà tên này cũng dễ cho cả nhà gọi nó, nên chúng tôi kêu là con Tôm.

Con Tôm lớn nhanh như thổi, chưa tới một tuổi mà đứa em út tôi cưỡi nó nhong nhong như cưỡi ngựa, dù nó là chú chó ta chứ không có vẻ gì là lai bẹc-giê. Dáng nó oai phong, đứng giữa đám chó vàng đen, vện vá, nó như ông vua, đã thế giọng sủa ồm ồm của nó làm cả trẻ con lẫn người lớn đều khiếp vía. Thế nhưng nó không cắn bậy bao giờ. Nhớ có lần thầy Thông về giảng đạo, ông có tập họp đám thiếu niên lại mà dạy võ, thường khi tập ở hội trường nhà thờ, nhưng bữa đó thằng Chung rủ thằng Hải về nhà, hai đứa lúi húi đẽo gọt nửa mảnh dừa khô, làm dây đeo vô bảo vệ hạ bộ mỗi khi tập đá. Lúc thằng Hải nhảy lên dùng đòn chân kẹp cổ thằng Chung mà quật xuống đất, thì con Tôm bênh chủ phóng tới ngoạm ngang cần cổ, nó đè thằng nhỏ ra nhưng răng không làm trầy một chút da, mắt ngước lên nhìn chủ. Thằng Chung tá hoả quát lớn:

- Tôm, buông nó ra, bạn mà.

Con chó buông liền, cụp đuôi xuống rồi lỉnh ra một góc sân ngồi chồm chỗm coi tập võ tiếp.

Năm 67 má tôi làm nhà lại, chở đất ngoài ruộng về đắp nền cho cao để chống lụt, lại mua tôn và gỗ dầu về làm cho lâu bền chứ không dùng vật liệu bằng tràm và lợp lá dừa nước như trước nữa. Con Tôm thường đứng trên vỉa hè, mỗi khi nó sủa thì tiếng vang lồng lộng lên mái tôn và theo gió vẳng đi xa hàng cây số.

Mỗi năm đến mùa nước nổi, chó cái rượng đực rầm rập suốt đêm, mấy con chó đực đố có dám tranh gái với chàng Tôm, có lần nó ngoạm ngang cổ một thằng láo toét, dám "múa rìu qua mắt thợ" rồi vảy một cái, con kia văng đi thiệt xa, da cổ tuột ra một miếng gần bằng bàn tay coi dễ sợ luôn. Từ đó Tôm là lãnh chúa của bọn chó trong xóm.

Tới năm Mậu Thân thì tôi đã lớn, chiến tranh tràn lan, chợ đầu Kinh 5 bị bắn cháy ngay hôm mùng một tết, người dân sống dọc quốc lộ phải di tản vào sâu trong ruộng. Ông Ba Nước Đá bị trúng đạn ngay ngực, máu ướt đẫm cái khăn sọc băng sơ sài. Cô con gái ông vừa khóc vừa bơi xuồng vô phía cuối kinh, ai trông thấy cũng nghĩ là ông sẽ chết, vì vô trong hướng cuối kinh thì làm gì có nhà thương(?) Vậy mà phước đức ông bà để lại, họ vô tới sông Đòn Dông, quẹo trái bơi về hướng thị xã Rạch Giá và được cứu sống.

Mùa xuân năm đó người chết khắp nơi, miếng đất sát bờ kinh chỗ nhà ông Ba Vó, u lên mấy cái nấm đất đắp vội, đi qua ngửi thấy đầy mùi tử khí, súng nổ hằng đêm át cả tiếng chó tru trong đêm trường.Ban đêm tôi thường bị du kích bắt đi đắp mô, mới tảng sáng lính đi mở đường lại bắt tụi tôi đi phá mô, cái chết đến không biết lúc nào nên tôi vọt lên Sài Gòn, để lại sau lưng vườn ruộng quê nhà, gia đình yêu dấu, với con chó Tôm đã cùng tôi chơi giỡn cũng như đi săn chuột ngoài đồng mỗi khi qua mùa gặt lúa.

Một năm sau tôi vào lính, hôm ra trường được đi phép một tuần lễ tôi vội về thăm nhà vì gia đình có biên thư cho biết rằng an ninh đã được vãn hồi phần nào. Không có con Tôm ra đón như mọi khi. Tôi mừng vì được gặp mọi người thân nhưng vẫn còn thấy thiếu cái gì. Thấy tôi ngó quanh, thằng Chung hỏi: - Anh tìm con Tôm phải không? Nó chết rồi!!

Tôi khô cả cổ họng: - Làm sao mà nó chết?

- Cách đây mấy tháng, nhà nào cũng được lệnh phải giết chó, vì nó sủa làm lộ việc chuyển quân, em đã làm cái rọ đan bằng tre để bịt mõm thằng Tôm lại, nhưng nó khôn lắm cứ gỡ ra hoài. Đêm đêm nó cứ đứng trong hàng rào mà sủa nên bị họ quăng củ khoai ngứa cho nó táp, cả hai hàm răng sưng lên, làm độc rồi con chó không ăn uống gì được nữa, vài tuần sau nó chết, em chôn nó ngoài gốc mận kia kìa.

Thằng nhỏ vừa nói vừa ứa nước mắt.

Việc hại chết con chó thì trước nay bọn trộm đạo làm như thế này: Họ nướng một củ khoai ngứa lên cho thiệt nóng, thiệt thơm, ủ vào cái khăn dầy để giữ hơi nóng, đến nhà có con chó đang sủa mà quăng vô, con chó sẽ táp liền. Cả hai hàm răng cắn ngập sâu vô củ khoai nóng dẫy, con chó sẽ phải nằm xuống lấy chân cào ra, nhưng củ khoai dẻo quẹo dính đầy trong mồm, đến khi nó móc ra được thì thịt hai nướu răng đã bị chín hết, con chó chỉ còn có chờ chết, chết chắc!

Tôi bước ra trước hiên nhà, dấu vết đất mới đào của mộ con Tôm nằm im mát dưới bóng cây mận tàng lá xum xuê, còn đâu con chó trắng quấn quít ngày xưa.

Tôi đứng nhìn mông lung về phía Kinh 6, từng lớp bông lau trắng bạc ở những bờ đìa đang dập dờn theo cơn gió, quê nhà coi bộ yên lành mà sao không có lấy một tiếng gà gáy hay chó sủa (?)

Có tiếng đứa em nói nhỏ sau lưng tôi:

- Con Tôm thường hiện hồn về đứng ở nơi đây, nhiều người nói với em rằng đêm đêm vẫn còn nghe tiếng nó sủa vang vang từ căn nhà của mình.

Đêm đó tôi không ngủ được, thao thức mãi dưới mái nhà xưa, bỗng có tiếng chó sủa, đúng là giọng thằng Tôm, hay là nó biết có tôi về nên sủa mừng đón. Tôi ngồi bật dậy nhìn qua song cửa: Chỉ có bóng cây lay động dưới ánh trăng nhạt nhoà vì sương đêm.

Từ thiệt xa, vọng về tiếng chó tru ma quái lẫn vào tiếng chim kêu rời rạc: Cú! cú! cú.

 

NGÔI MỘ MỚI ĐẮP

(Tác giả: Nguyễn Ngọc Ngạn)

 

Tối hôm ấy, trời mưa không lớn lắm nhưng rả rít lê thê, kéo theo cơn gió thổi se sắt từng hồi. Con đường đất chạy giữa nghĩa trang bình thường vốn đã có ít ai qua lại huống chi giờ này đã quá nữa khuya, lại gặp dêm giông bão nên càng vắng vẻ tiêu điều. Lẫn trong tiếng mưa rơi, tiếng gió thổi, chỉ có tiếng ếch nhái ểnh ương từng chập kêu vang. Không gian bao trùm một màu ảm đạm thê lương.

Trên khúc đường lầy lội ấy, hai bóng đen sánh vai cắm đầu dạo bước, đó là Nghiêm và Đào. Cả hai đều mặc quần áo màu đậm, đầu đội nón vải tay cầm xẻng cáng sắt và vai đeo túi vải nâu. Riêng Đào còn thủ thêm cái đèn pin và cứ lâu lâu lại bật lên soi xuống mặt đường loang loáng nước, vài lần như thế khiến nghiêm cầu nhầu chửi rồi dằn cái đèn bấm trong tay Đào nhét vô túi vải đeo bên sườn.

Nghiêm cẩn thận như thế là phải, vẫn biết giờ này đã quá khuya, hai bên lối đi chỉ thấy san sát những ngôi mộ mới, cũ, đủ kiểu, đủ cỡ nằm phơi mình dưới trời mưa. Nhưng biết đâu chẳng có ai đó nằm trú ẩn theo khuôn viên nghĩa địa còn thức và bắt gặp hai gã vào đây giữa lúc khuya khoắc này.

Thậm chí Đào muốn dừng lại tìm một chỗ khuất gió châm điếu thuốc nhưng Nghiêm cũng không cho. Vào ban đêm là yếu điểm sinh tử, Nghiêm đã dặn dò Đào thật kỹ chiều nay trước khi hai gã bày con gà luộc lên bàn thờ cúng tổ, thắp nhang khấn vái rồi lặng lẽ xuất hành vào giờ tý.

Nghiêm ở Cam pu chia về mới được hơn hai năm. Cam Pu Chia hiện nay có thể nói là một nước Việt nam nhỏ, hay đúng hơn là một thuộc địa của VN, với số người Việt sang định cư đã lên đến cả triệu kể từ cuộc xâm lăng 20 năm trước. Người Việt sang đây phát triển đủ mọi ngành nghề, hợp pháp cũng như bất hợp pháp. Nghiêm là một trong số lưu dân đó, chỉ khác một điều là Nghiêm ở Cam Pu chia tới 3 năm, nhưng không phải là làm ăn. Gã sang để học nghề nhà giáo của một ông ngành miên về buà ngãi và thuật thôi miên.

Xứ chuà tháp vốn nổi tiếng là tỷ phú với bao nhiêu là thầy buà, thầy pháp xuất quỷ nhập thần. Sư phụ Thạch Sen của Nghiêm là một trong những vị đó cư ngụ tại thủ đô Nam Vang mà dân gian truyền tụng là một pháp sư cao tay ấn và bậc nhất. Nhận Nghiêm làm đệ tử tử trong nhà trọ 3 năm.

Nghiêm thành đạt, trở về quê quán ở miền Tây, giáp quốc lộ 4, ngay trong huyện Châu Thành, nữa tỉnh nữa quê. chờ dịp hành nghề ứng dụng những điều mà gã đã được truyền dạy.

Một trong những bí quyết tuyệt chiêu trong thế giới huyền bí của thầy Thạch Sen là lấy bàn tay của một người chết vì sét đánh, dùng làm buà hộ mạng đi ăn trộm. Thực tế chẳng biết đã có ai áp dụng chưa nhưng thầy Thạch Sen quả quyết rằng hành nghề đạo chích mà có được một bàn tay người chết vì sét đánh, ban đêm lọt vào nhà người ta thì dù gia chủ còn đang thức, cũng hoàn toàn bị trấn áp, nằm bất động không nhúc nhích gì được.

Nghiêm chờ đã lâu, sống vất vưởng gần 2 năm không có lợi tức, mọi chi tiêu dều trong vào Huệ, cô vợ không chính thức mà Nghiêm mới dụ dỗ được sau khi hồi hương. Tuy vậy Nghiêm vẫn tin rằng mình sẽ có ngày giàu, bởi vốn liếng buà ngãi thầy Thạch Sen truyền cho Nghiêm thừa sức giúp gã tạo dựng cơ nghiệp.

Trong tương lai khi có tiền, Nghiêm sẽ bỏ ngay cô vợ nhà quê đó, gã sẽ trở lại nam Vang tạ ơn thầy rồi lên Sài Gòn mua hộ khẩu lập nghiệp vĩnh cửu. Trong khi chờ đợi thì cứ tạm ngửa tay xin tiền vậy để sống qua ngày.

Đợi mãi cho đến cách đây mấy hôm, Nghiêm mới nghe được bản tin xôn xao trong xóm là bà Năm Tước, một nông dân cùng xã của Nghiêm khi làm ruộng gặp trời mưa, núp vào dưới cây cổ thụ giữa cánh đồng, rồi bất ngờ bị sét đánh cháy đen người, chết ngay tại chổ.

Bà Năm Phước là một bóng mờ trong xã Vĩnh Thạnh, cho nên cái chết của bà không ảnh hưởng đến ai. Sở dĩ người ta bàn tán ầm ỉ chỉ vì có mấy ai bị chết vì sét đánh. Dân làng coi đó như là một cái điềm gì ghê gơm lắm. Xã Vĩnh Thạnh chưa từng xảy ra biến cố này bao giờ bởi nó rùn rợn quá. Riêng Nghiêm thì mừng rỡ vô cùng, đã vốn có quen biết với bà Năm Tước, hay nói đúng hơn là quen với chồng bà. khi gã lên đường sang Cam Pu Chia thì chồng bà, ông Năm có việc đi Cần Thơ không may bị xe đò cán chết, từ đó gia đình bà Năm Tước sa sút thấy rõ, chỉ còn trông cậy vào ít ruộng và vườn cây sau nhà

Bất ngờ nghe tin bà bị sét đánh chết, Nghiêm lập tứcc hạy đi tìm đàn em là Đào để bố trí kế hoạch. Đào cũng biết gia đình bà Năm Tước tuy không thân lắm. Đào có món nghề tinh xảo là mở được tất cả các loại khóa, nhưng không may bị bắt quả tang lúc đang ăn cắp xe honda người ta gởi trước rạp hát ngoài thị xã.Đào ở tù hơn 1 năm, vừa ra chưa biết làm ăn gì thì được nghiêm đến tìm. Thế là cả hai rủ nhau đi dự đám tang của bà Năm tước, nhưng không ra mặt công khai bởi không thân thiết với gia đình người quá cố.

Khi đoàn người ra tới nghĩa địa, đặt quan tài ccạnh cái huyệt đã đào sẳn thì Nghiêm và Đào lảng vảng xa xa để quan sát để định vị trí. Đào thì núp sau 1 ngôi mộ lớn xây bằng đá cẩm thach, có mộ bia cao, chăm chú theo dõi ; Nghiêm cẩn thận hơn, tìm một ngôi mộ ngay chỗ đám ma, thắp mấy cây nhang làm bộ khấn vái y như gã ra viếng mộ cho ngày giỗ của một người thân.

Chờ người ta chôn bà Năm Tước xong và giải tán hết, hai gã mới bàn nhau công tác và hẹn nhau đêm hôm sau thực hiện. Nghiêm phải ra tay ngay trước khi xác bà Tước tan rữa, và nhất là trước khi con cháu mang vật liệu xi măng, gạch, cát ra xây mộ.

May cho Nghiêm là đêm nay trời mưa phùn dai dẳng, nghĩa địa vắng tanh, càng thuận lợi cho công việc của Nghiêm.

Ngôi mộ mới đắp của bà Tước nằm sâu trong góc nghĩa trang, nước mưa làm trôi dạt hẳn một mảng đất khá lớn. Mộ đắp không cao vì người nhà đang chuẩn bị xây gạch. Nghiêm cắm cái xẻng xuống chân, tháo túi vải đặt sang ngôi mộ bên cạnh, rồi giục đàn em bắt tay ngay vào công việc. Hai cái xẻng thi nhau đào xới, hất đất sang hai bên. Hai gã cắm đầu làm, không ai nói lời nào.

Mưa dường như vừa nặng hạt hơn và gió cũng rít lên giận dữ, đất biến thành bùn, dính chặt vào lưỡi xẻng nhưng may là mộ đất thấp nên chỉ khoảng 15 phút sau, Nghiêm đã ngừng tay reo lên nho nhỏ:

- Này, đụng nắp hòm rồi.

Đào đang khom người xúc đất bên kia nghe Nghiêm nói cũng đứng thẳng người thở phào nhìn đàn anh. Bổng nghe loáng thoáng trong tiếng mưa rơi có tiếng xe gắn máy từ ngoài cổng nghĩa trang chạy vào, cả hai mở to mắt nhìn nhau rất nhanh rồi cùng hướng nhanh về phía hương lộ. Tiếng xe mỗi lúc mỗi gần hơn, Nghiêm cuống quýt làm hiệu bảo đàn em leo khỏi miệng hố, khom người chạy lại núp sau ngôi mộ xây gần đó, cả 2 nín thở chờ đợi.

Quả nhiên chiếc honda chạy ngang, người ngồi trên xe mặc áo mưa, đội nón, phủ kín không trông thấy mặt. Xe qua rồi, Đào thở phào đứng dậy nhưng Nghiêm kéo ghì lại Đào ngồi xuống ngay rồi đặt tay lên miệng bảo gã im lặng tại chổ vì nghĩa trang chỉ có 1 lối vào mà không có lối ra bên kia. Chiếc xe honda chạy vào thì lát nữa sẽ theo lối cũ mà ra, nghĩa là sẽ đi ngang chỗ 2 gã 1 lần nữa.

Đào lau hai bàn tay nhăn nheo vào ngực áo rồi toan lấy thuốc nhưng Nghiêm lắc đầu nhìn gã ra lệnh cất đi dù rằng chính Nghiêm cũng đang rất thèm thuốc. Quả nhiên chỉ 5 phút sau chiếc honda chạy ra và mất hút, bấy giờ Nghiêm mới đứng dậy, mặt nghênh nghênh tự đắc cho phép đàn em hút thuốc trước khi nhảy xuống hố và đào đất tiếp.

Hai đứa hồi hộp cào lớp đất phủ trên quan tài rồi Nghiêm quăng cái xẻng lên đống đất mới đào, nhoài người với lấy cái đèn pin để soicho rõ nắp hòm bằng gỗ tạp. Đào cũng ngừng tay, leo lên ngồi núp sau ngôi mộ châm thuốc hút, rít được vài hơi, gã nghiêng tay che điếu thuốc và chuyền xuống cho Nghiêm đang đứng dưới hố sâu bên cạnh quan tài rồi Đào mở túi vải lôi ra cái xà beng khác và cái bứa loại bửa củi vừa nặng vừa sắc.

Nghiêm quăng điếu thuốc và giục:

- Lẹ lên, xuống đây mày.

Đào cầm dụng cụ nhảy xuống bên cạnh Nghiêm, thọc xà beng vào nắp hòm cạy mạnh. Vài cái đinh bật lên kêu răng rắc, Nghiêm vội quay đi, nhăn mặt hỏi:

- Tao dặn mày mang hai chai dầu cù là, mày có mang theo không?

Đào cũng vừa buông xà beng quay mặt đi để tránh làn hơi nồng nặc từ nơi kẻ hở của quan tài vừa mở ra rồi gã thọc tay vô túi quần, lôi ra lọ dầu nhỏ và đưa cho Nghiêm, Nghiêm vội vàng mở nắp, dốc cả nữa chai ra lòng bàn tay và thoa lên mũi để đánh bớt mùi hôi của xác chết đã hơn 1 tuần, tiện tay, Nghiêm thoa luôn vào mặt Đào và giục:

- Lẹ lên, 2 giờ sáng rồi.

Rồi trong khi Đào khom người cạy cái nắp quan tài thì Nghiêm lăm lăm cầm sẳn cái búa đứng bên cạnh. Tiếng những cây đinh bật khỏi nắp quan tài nghe rõ mồn một mặc dù mưa vẫn còn nặng hạt. Trong khoảnh khắc, nắp quan tài tung ra. Nghiêm bật đèn pin soi cho rõ, xác bà Năm Tước nằm cứng đờ đã bắt đầu trương lên. Một tia chớp chói lào trên bầu trời soi rõ cái xác chết gầy gò đen đủi khiến Đào giật mình kinh hãi vì có cảm tưởng như bà Năm vừa mở mắt nhìn gã, rồi tiếp theo một loạt sấm vang dậy, cả Nghiêm cũng cảm thấy rờn rợn, không dám nhìn xác chết nữa. Gã tự trấn tỉnh, ngước mắt lên trời và càng giục đàn em làm việc cho mau.

Nghiêm đỡ cái xà beng trong tay Đào rồi lạnh lùng ra lệnh:

- Làm đi, làm liền đi.

Đào cầm búa quay sang hỏi:

- Ơ..chặt 1 tay hay chặt cả hai vậy anh?

Nghiêm đở nắp quan tài và nói:

- 1 cái đủ rồi, lẹ lên.

Đào nhìn đàn tay hỏi lại:

- Sao không lấy luôn 2 bàn tay cho chắc ăn anh? Mất cái này còn cái kia.

Nghiêm lại gạt đi: - Thôi, 1 cái thôi. 1 cái đủ rồi, chặt lẹ lên. Nhớ nha, nhớ là tay phải nha, đàn ông tay trái, đàn bà tay phải.

Đào khom người cuối xuống, nước mưa trên vành nón chảy thành dòng xuống sát mặt thấm ướt. Đào lôi cánh tay phải cứng đơ của xác chết, kê bàn tay lên mặt hòm rồi giơ búa bổ xuống.

Cái búa sắc và nặng chình chịch, thế mà chém tới 4 nhát bàn tay bà Năm mới đứt lià, văng sang bên cạnh. Nghiêm đẩy cánh tay cụt của bà Năm lại rồi đậy nắp quan tài lại. Đào lượm bàn tay có 5 ngón trơ khều dính hết bùn đất, bỏ vào bao nylon rồi lòm còm leo lên khỏi miệng hố.

Gã đặt bao nylon trên cái mộ xây bên cạnh rồi hỏi đàn anh:

- Anh Hai, có phải lấp đất lại không anh Hai?

Nghiêm cũng vừa leo lên, hắt hơi mấy cái vì hơi lạnh thấm vào cơ thể. Gã châm điếu thuốc hít một hơi rồi bảo: - Kệ mẹ nó mày ơi, khỏi lấp lại. Lấy cái búa với cái xà beng về được rồi.

Đào dè dặt đề nghị:

- Anh Hai à, lấp sơ sơ lại cho người ta khỏi thấy nhen anh Hai?

Nghiêm tư lự một chút rồi làm theo lời đàn em. Cánh tay mỏi nhừ vì đất bùn bám rít vào lưỡi xẻng nhưng 2 gã không dám nghỉ. Trong nháy mắt, 2 gã đã đắp lại ngôi mộ, thu dọn đồ nghề, đưa mắt nhìn quanh nghĩa địa rồi cắm đầu bước lại con đường cũ ra khỏi khuôn viên đất thánh.

Mưa vẩn rơi nặng hạt, gió vẫn thổi rì rào bên tai và sấm chớp lập loè như giận dữ. Cả hai ướt đẩm như chuột lột nhưng sự háo hức làm dâng trong lòng họ niềm vui lớn khi nghĩ đến tương lai có được bàn tay sét đánh đem về ướp muối, tẩm rượu phơi khô, nghề ăn trộm sẽ mở ra một lối thoát thênh thang cho hai gã.

Ngay từ ngày mai, Nghiêm sẽ theo dõi và lập danh sách những nhà giàu trong xã, trong quận, rồi tiến dần ra thị xã. Chắc chắn chỉ một vài vố là giàu to. Nghiêm rẽ vào nhà mình hay đúng ra là nhà Huệ, một căn nhà gỗ do người chị ruột của Huệ để lại. Thuở ấy người chị lớn của Huệ gọi là Trang, lấy chồng có nghề đi biển trong đoàn tàu đánh cá quốc doanh. Huệ ở chung nhà, có hộ khẩu chính thức. Một hôm Trang xuống ghe của chồng ra khơi rồi đi luôn sang Thái Lan và cuối cùng định cư ở Mỹ. Huệ thừa hưởng căn nhà của chị, lại được chị lâu lâu gởi tiền về nên sống rất thoải mái. Quanh năm chỉ có tiếp mấy gã công an, cán bộ lại chơi, có khi ngủ qua đêm.

Bước sang thập niên 90, khi nhà nước đổi mới, Huệ tuổi cũng bắt đầu lớn, phải bắt tay làm ăn lo tương lai. Cô xin vốn bên Mỹ, ra chợ huyện buôn bán nhưng không có tay làm ăn nên cứ mất dần. ông bà già viết thư sang cho cô con gái bên Mỹ dặn không được gởi tiền cho Huệ nữa vì nghi Huệ cho trai. Từ đó mỗi khi cần, Huệ đều về ngửa tay xin tiền cha mẹ ở ngoài thị xã.

Cách đây hơn 1 năm, tình cờ Huệ gặp Nghiêm trên chuyến xe đò đi Cần Thơ. Lúc xe đậu trên phà, Ngiêm có dịp tán tỉnh, kể chuyện Nam Vang khá hấp dẩn, làm Huệ rất thích cái óc phiêu liêu mạo hiểm của Nghiêm. Từ đó 2 người quen nhau, và Huệ cho Nghiêm dọn vào chung sống dù không có hộ khẩu chính thức. Lúc này chính quyền địa phương đã nới lỏng, ai ai cũng lo kiếm tiền thủ thân, nhờ vậy nhân dân cũng tương đối dễ thở.

Nghiêm và Đào về đến nhà đã khoảng 3 giờ sáng, cả hai cùng khoan khoái thở phào vì vừa hoàn thành công tác một cách êm xuôi, vượt qua cái bước đầu khó khăn nhất là moi được bàn tay sét đánh đem về làm của riêng, chỉ còn chờ ngày gặt hái kết quả. Tương lai rực sáng sắp mở ra, nghiêm sẽ không còn ngửa tay xin tiền Huệ và Đào sẽ không còn khổ sở đi ăn cắp vặt nữa. Có bàn tay sét đánh, hai gã có thể ngang nhiên vào nhà người ta dọn cả cơ nghiệp mà không ai làm gì được.

Để tránh rủi ro công an hoặc lối xóm phát hiện, Nghiêm mở cửa sau, rón rén cùng Đào xách đồ tắm rữa sạch sẽ vào khoảng 3 giờ sáng. Huệ vẫn ngủ say ở nhà trên, không hề biết chồng về. Phía sau nhà Nghiêm là con kinh thủy lợi nước đục lờ. 10 năm trước Ngiêm từng góp bàn tay đào con kinh này cùng với dân trong xã. ông Năm Tước lớn tuổi nên được bố trí làm trưởng toán thủy lợi của xã Vĩnh Thạnh. ông làm ít nói nhiều, ngày ngày bà Năm mang thức ăn nóng ra cho chồng và lâu lâu Nghiêm cũng được ăn ké món thịt gà bằm nhỏ kho xã ớt.

Nhìn dòng nước, Nghiêm thoáng rùn mình vì hình ảnh gầy gò của bà Năm nằm trong quan tài chợt hiện về thật rõ ràng trong đầu Nghiêm. nhà Đào cũng ở gần đây, cũng hướng ra con kinh đào. Dọc ngang có những cụm lục bình trôi lờ lững.

Hai gã đứng trên chiếc cầu gỗ bắc bằng mảnh ngang dài từ sân sau chìa ra mặt kinh khoảng gần 2 thước. Cả hai dùng cái thùng bằng mủ khom người múc nước xối. Tắm xong, Nghiêm thảy ho đàn em bộ quần áo cũ của mình rồi bảo:

- Nè, thay đồ đi rồi mang cái ấy ra đây.

Đào đang lau người, ngơ ngác hỏi:

- Lấy gì anh Hai?

Nghiêm gắt nhẹ: - Còn cái gì nữa, mang ra cho tao rữa rồi ngâm rượu.

Đào hiểu ra, chạy vào bếp mở cái túi vải ướt đẩm, lôi ra cái bao nylon đựng bàn tay bà Năm Tước.

Gã hỏi Nghiêm:

- Anh Hai, vậy chừng nào mình xài được?

Nghiêm cầm bàn tay cụt ngủng vủa bà năm giơ ra dưới ngọn đèn tròn sau bếp, lật qua lật lại và gật gù đáp: - 49 ngày, kể từ ngày hôm nay.

Nói đến câu ấy, Nghiêm chợt nhớ đến sư phụ Thạch Sen bên nam Vang đã từng một lần biểu diển cho Nghiêm thấy sự linh nghiệm của bàn tay sét đánh sau khi yểm bùa. Nghiêm nhớ hôm ấy ba bốn đệ tử chân truyền của Thầy, ngồi trong căn phòng khép kín. Thầy Thạch Sen đọc thần chú rồi giơ bàn tay sét đánh ra trước mặt. Lập tức cả bọn trở thành những kẻ chết đứng, tuy trí óc vẫn hoàn toàn tỉnh táo, nhưng chân tay cứng đờ, không cử động được và mồm miệng há ra nhưng không nói được lời nào. Cái bàn tay khô đét ấy là một vật bất ly thân của Thầy Thạch Sen, không bao giờ Thầy cho bất cứ đệ tử nào mượn để hành nghề.

Lúc nhìn Thầy biểu diển, Nghiêm đã nghĩ ngay trong đầu rằng có được bàn tay sét đánh thì làm giàu dễ dàng quá. Không ngờ hôm nay giấc mộng của nghiêm vừa trở thành sự thật. Đào đứng bên Nghiêm sốt ruột than: - Trời ơi, 49 ngày mới xài được. Lâu dữ vậy anh Hai?

Nghiêm hãnh diện giảng: - Phải rồi, phải vô buà chứ mậy, xài ẩu đâu có được. Trước 49 ngày bùa không linh nghiệm đâu. Sư phụ tao nói rồi có người xài buà không cẩn thận nghen, bị bùa quật chết luôn đó.

Im lặng 1 chút, Đào lại hỏi:- Chắc không anh, anh Hai? Anh có xài thử chưa?

Nghiêm ngồi trên bờ kinh, nhúng bàn tay xuống bờ kinh chà xiết cho hết đất cát và trả lời:

- Chắc sao không chắc mậy. Sư phụ đã nói rồi, chính mắt tao nhìn thấy. Tao nói mày nghe nha, nhiệm vụ của mày là chỉ mở ổ khóa thôi. Khi lọt được vào nhà của người ta, tao giơ bàn tay sét đánh ra là mọi người trong nhà cho dù thức hay ngủ cũng đều chết cứng luôn á. Mình muốn làm gì thì làm, mày dọn nguyên nhà người ta, người ta cũng không làm được gì mày đâu, chỉ nằm đó mà nhìn thôi.

Đào hăm hở đề nghị:

- Anh Hai, mình vô nhà thằng cha Sanh nha anh Hai, thằng chả là bí thư huyện mới nghỉ hưu năm rồi. Trời anh Hai ơi, chả giàu lắm. Em nghe tụi nó nói vàng của thằng chả có cả rương luôn đó. Em nhắm rồi, nhà thằng chả vô dễ ợt à. Leo nhánh cây xoài vô ban công, cửa trên lầu lúc nào cũng dể mở hết á.

Nghiêm hài lòng nói: - Ừ, mày tính trước đi, nhắm cái vụ nào là cái vụ nó đích đáng nha.

Rửa bàn tay người chết xong, hai đứa vô nhà, Nghiêm chỉ cái giường tre kê sát vách nhà bếp, trên đó ngổn ngang chai lọ và bát đĩa, bảo đàn em: - Mày nhậu sơ sơ rồi nằm đó ngủ đi nha. Lát sáng bả dậy, tao lấy tiền rồi mình ra chợ ăn hủ tiếu. Ngủ đi!

Rồi Nghiêm lấy cái nồi cũ, đặt bàn tay bà Năm vào đó rồi đổ đầy muối lên y như người ta muối cá để đem phơi cho cá khỏi hư thối. Gã đậy cái nồi, đặt trên cái tủ đựng thức ăn.

Gã rửa tay một lần nữa bằng xà bông rồi tắt đèn bếp và rón rén lên nhà.

Gã lấy tấm chăn bằng vải mủ đem xuống cho Đào đắp tạm vì nhà khá nhiều muỗi rồi gã quay lên nhà với vợ. Trong ánh sáng mờ mờ, Huệ nằm nghiêng quay mặt vào vách, đắp tấm chăn mỏng ngang bụng. Gã đứng nhìn một lúc rồi lại quay xuống bếp, gã thấy không nên để cái nồi đựng bàn tay sét đánh trên tủ gạc măng giê vì hớ hênh quá, sáng mai Huệ thức sớm, rủi cần tới cái nồi, mở ra gặp bàn tay người chết thì lôi thôi to. Gã lại bật đèn, nhìn quanh một lúc rồi quyết định bưng cái nồi xuống.

Đào ngóc đầu dậy, nhăn mặt càu nhàu vì chói mắt nhưng Nghiêm lờ đi. Trước khi giấu sau dống củi, Nghiêm mở nắp và nhìn bàn tay sét đánh một lần nữa cho chắc ăn rồi gã bới đống củi, đặt cái nồi vô sát vách và xếp những thanh củi chồng lên trên. 49 ngày phơi khô và yểm bùa là khoảng thời gian khá dài, không biết rồi gã sẽ giấu bằng cách nào để Huệ không phát giác ra trò kinh dị này.

Nghiêm tắt đèn lên nhà, nhẹ nhẹ vén mùng chui vô với Huệ, chiếc giường cũ reo lên răng rắc làm Huệ giật mình mở mắt, lật người nằm ngửa rồi ngẩng đầu lên nhìn Nghiêm và hỏi:

- Ủa, đi đâu giờ này mới về vậy? Mấy giờ rồi?

Nghiêm choàng cánh tay ôm lấy Huệ và đáp:

- Anh đi nhậu với mấy thằng bạn, tụi nó không cho anh về.

Huệ nhắc lại câu hỏi: - Mấy giờ rồi?

Nghiêm vừa ngáp vừa nói:

- Chừng 3 giờ sáng, ngủ đi em.

Huệ nhắm mắt toan ngủ tiếp, nhưng sực nghĩ ra 1 điều lạ, cô mở mắt, xoay hẳn về phía Nghiêm và hỏi:

- Ủa, anh nói anh đi nhậu mà sao không thấy mùi rượu gì hết vậy?

Nghiêm ú ớ đáp:

-...Thì hôm nay tại anh nhức đầu, uống có chút đỉnh à.

Huệ cằn nhằn: - Uống có chút đỉnh mà lâu dữ, anh đó nha, không lo làm ăn gì hết trơn á. Tối ngày lo nhậu nhậu nhậu không à. Em hết tiền xài rồi đó, không còn đồng bạc nào hết. Từ ngày anh dọn vô ở với em nè, ba má em từ cái mặt em rồi, đâu có dám về nhà xin tiền nữa đâu. Nè, cái sợi dây má cho cũng bán luôn rồi, bây giờ anh tính làm sao anh tính đi.

Nghiêm gật gù nói bằng giọng tự tin:

- Em yên chí đi, mình sắp giàu to rồi. Tháng tới anh đi làm, bảo đảm với em tiền vô như nước, xài hoài, xài thả cửa.

Huệ ngờ vực hỏi lại:

- Trời đất, làm gì mà giàu, ăn trộm chắc? Thời buổi này làm ăn khó thấy mồ. Nè, anh à hay là...mình qua Miên đi. ở bển anh quen nhiều lắm phải hôn?

Vừa nói, Huệ vừa lòm khòm đi xuống nhà đi tiểu. Nghiêm mệt mỏi, nằm xích vô, nhắm cặp mắt cay xè, cố ngủ một giấc.

Bỗng gã giật mình ngồi bật dậy vì tiếng hét quá lớn của Huệ dưới bếp. Hóa ra Nghiêm đã sơ ý quên nói cho Huệ biết là có Đào nằm ngủ dưới cái giường tre để đồ gia dụng, cho nên khi Huệ vừa bật đèn, nhìn thấy một người đàn ông nằm co quắp dưới bếp, cô kinh hoàng thét lên rồi bỏ chạy lên nhà. Nghiêm đỡ vai vợ và bảo:

- Em, thằng Đào nó đi nhậu với anh, nó say quá cho nên anh đưa nó về đây ngủ đỡ.

Huệ đưa tay lên ngực thở hồng hộc và trách:

- Trời ơi...vậy mà không nói trước gì hết, làm em hết hồn vậy đó. Tưởng là gặp ma chứ!

Đào nghe tiếng la cũng giật mình ngóc đầu dậy, nhe răng cười với Huệ rồi lại nằm xuống ngủ tiếp. Huệ đi tiểu xong trở lên chui vào mùng nằm bên Nghiêm. Cả hai không nói gì nữa vì cùng mệt mỏi giữa đêm về sáng, chỉ trong khoảnh khắc đã thiếp đi trong giấc ngủ êm đềm.

Chiều hôm sau Nghiêm một mình mò ra nghĩa địa nhìn ngôi mộ bà Năm Tước, Nghiêm đứng xa xa khuất sau cái mộ xây khá lớn chăm chú quan sát. Gã thấy hai người con trai của bà Tước đang xúc đất đấp lại. Cũng may là họ tin rằng đâm qua trời mưa lớn làm đất trôi đi, chứ không hề mảy may hình dung ra chuyện đào mả, chặt tay của Nghiêm và Đào và vì vậy họ không khai báo với công an mà chỉ hùn nhau mua xi măng, gạch cát khuân ra xây cho bà Tước ngôi mộ khá tươm tất có gắn bức hình trắng đen của bà trên mộ bia.

Thời gian trôi rất chậm, Nghiêm và Đào đếm từng ngày để bắt tay hành nghề ăn trộm. Tiền bạc càng ngày càng cạn, không còn chổ nào có thể vay mượn được nên hai gã càng nóng lòng trông vào sự linh nghiệm của bàn tay sét đánh. Chiếc honda của Nghiêm đã bán từ năm ngoái, chiếc cúp của Đào cũng bay từ ngày gã còn ở tù. Gia đình cần tiền cần tiền tiếp tế, tình hình tài chánh coi như kiệt quệ nếu như không có niềm hy vọng vào bàn tay bà Năm Tước.

Nhiều hôm lang thang ngoài thị xã, Đào đã toan yếu lòng ăn cắp một chiếc xe gắn máy để bán đi tiêu tạm. Mở khóa xe đối với gã quá dễ, huống chi gã có sẳn một đường dây tiêu thụ hàng ăn cắp. Nhưng gã nhớ lại những ngày tù vừa qua rồi lại thêm lời căn dặn của Nghiêm là phải rán nhịn thêm một ít lâu nữa, Đào đành thắt lưng buộc bụng chờ ngày chính thức ra quân cùng Nghiêm mang theo bàn tay sét đánh. Đào tin rằng cái bửu bối hiếm hoi ấy sẽ đem lại sự phồn vinh cho hai gã đúng như lời Thầy Thạch Sen đã tỉ mỉ truyền dạy cho Nghiêm.

Bảy tuần lễ, mỗi tuần một lần, Nghiêm lấy cái bàn tay sét đánh đen đủi của bà Năm ra yểm bùa vào giờ Tý, thắp nhang khấn vái rồi lại dấu trong cái hộp sắt, dấu ở một chổ kín đáo dưới bếp. Huệ thì hoàn toàn không biết những việc Nghiêm làm, không biết chồng mình là một kẻ vừa mê tín, vừa ác độc, dám chặt tay người chết mang về để trong nhà Huệ.

Đến ngày thứ 49, ngày trọng đại cuối cùng. Đào đạp xe qua nhà Nghiêm theo lời dặn trước của đàn anh. Lúc ấy trời đã nhá nhem tối, Nghiêm kiếm cớ đuổi vợ đi để hai đứa bày bàn thờ thắp nhang cúng tổ, đặt bàn tay sé đánh đã phơi khô đét lên khấn vái.

Trời cuối năm trời không trăng sao, gió hiu hiu lạnh từ con kinh thổi vào. Hai đứa đang lâm râm cầu khẩn thì ba cây nhang trên bàn thờ bổng cháy vụt lên như một bó đuốc, rồi tron glàn khói tỏa mù nghịt bốc lên, Đào thấy khuôn mặt bà Năm Tước mờ mờ hiện ra, Đào kinh hãi dụi mắt nhìn lại thì bà đã biến mất và ngọn lửa mới lúc nãy bùng lên cũng tắt luôn, chỉ còn lại ba que nhang tỏa khói nhoè nhoẹt.

Đào hoảng hốt quay sang hỏi đàn anh:

- Anh Hai, sao kỳ vậy anh, sao tự nhiên lửa cháy lớn quá vậy?

Nghiêm trấn an:

- Trời đất ơi, như vậy coi như là Tổ đã chứng nhận lời cầu xin của mình rồi, điềm tốt chứ có gì đâu mà sợ.

Đào tin vào kinh nghiệm buà ngãi của đàn anh nên cũng yên lặng. Rồi hai đứa ngồi dưới bếp ngã nghiêng, hạ con gà xuống làm mồi, uống cạn một chai rượu trắng trước khi chia tay hẹn tối mai xuất hành chuyến thứ nhất đến nhà Nguyễn Văn Sanh, cán bộ hồi hưu giàu có tiếng trong huyện.

Nghiêm dặn đàn em:

-  Ê, nè tối mai nha, mày ở nhà chờ tao. Đừng có nhậu nghen mậy, xỉn là hư hết chuyện đó. Khoảng chừng 11 giờ tao qua là đi liền đó nha. Ê...ê..Nhớ mang cái túi mà bửa trước mày cầm ra nghĩa địa đó với cây đèn pin nghe hôn?

Đào gật đầu rồi thơi thới đạp xe ra về.

Tối hôm sau nhằm ngày thứ bảy, để đở sốt ruột chờ trời tối. Đào thả bộ ra quán hủ tiếu ở chợ huyện, đây là một tiệm ăn thuộc loại sạch sẽ nhất tong chợ huyện mà Đào là khách thường trực. Đã cả mấy tháng nay Đào không ghé vì gã còn nợ chủ nhân khá nhiều tiền. Hôm nay gã thấy lòng tự tin hẳn lên, bởi chỉ sau chuyến hàng đêm nay, sáng mai gã có thể ôm mớ tiền ra trả cho quán để lấy lại sự kính nể của chủ tiệm và mấy cô chạy bàn.

Nhìn thấy Đào bước vào, chủ quán đứng sau quầy thất vọng lắm vì chẳng biết bửa nay gã có trả đợc chút nào hay không. Nhưng vốn biết Đào là tay du đãng từng vào tù ra khám cho nên họ ngại không dám đuổi. Đào nghênh ngang kêu một tô hủ tiếu Nam Vang đặc biệt nhiều đồ biển và ly cà phê sữa đá cho nhiều sữa.

Chủ quán nhìn gã bằng bộ mặt lạnh như tiền để tỏ thái độ, nhưng Đào lờ đi. Giờ ăn tối đông khách, cả tiệm giờ chỉ còn một bàn trống, Đào ngồi sâu sát vách tường phía trong, dưới những ngọn đèn vàng úa có những con muỗi bay lượn xung quanh, lâu lâu rớt xuống sàn.

Đào phì phèo điếu thuốc, đăm chiêu nhìn ra cửa nghĩ đến chuyến ra quân trọng đại đêm nay, Lão Sanh có đến mấy trăm lượng vàng cất trong cái rương gỗ trên lầu, người ta đồn nhau như vậy, đêm nay Đào và Nghiêm sẽ ra tay khuân hết.

Ngoài cửa dăm ba người ăn mày ngồi tú tụm trước hiên chìa tay xin mỗi lần khách bước vào. Họ ngồi đó thì được, nhưng hễ xông vô tiệm thì chủ nhân đuổi ra ngay để khách ăn uống thoải mái. Cô hầu bàn mang hủ tiếu và cà phê ra đặt trước mặt Đào, Đào ngậm lệch điếu thuốc một bên mép, lấy thià khuấy mạnh ly cà phê rồi nhấp một ngụp nhỏ. Gã hài lòng thở phào khoan khoái rồi cầm muỗng đũa bắt đầu thưởng thức tô hủ tiếu. Đào ăn được chừng nữa tô, ngồm ngoàm nhai một cách sung sướng thì một bà ăn mày từ ngoài cửa lừ đừ tiến vào, đứng ngay trước mặt Đào nỉ non xin tiền:

- Xin cậu Ba làm phước bố thí, tôi già nua tật nguyền còn có một tay.

Người đàn bà gầy gò, khẳng khiu, áo quần dính bết bùn đất, chià cả hai bàn tay xương xẩu ra trước mặt Đào, bàn tay trái còn nguyên, bàn tay phải thì cụt, mất hẳn từ cổ tay mà vết thương hình như chưa lành. Đào bực bội nhìn lại quầy, toan bảo chủ tiệm lại đuổi vì tiệm này vốn nổi tiếng là không để ăn mày quấy rầy thực khách, nhưng chủ tiệm vừa vào bếp. Người đàn bà tiếp tục ỉ ôi nhắc lại:

- Tôi già nua tật nguyền, còn có một tay ; cậu Ba làm phước bố thí.

Đào ngẩng lên nhìn, rồi chỉ trong nháy mắt đã khựng lại, mồm há ra, mắt lạc thần, buông rơi đôi đũa xuống đất và gập người ói mửa luôn ra bàn. Bánh phở cùng với thịt heo thoăn thoắt tuôn ra, văng vải cả vào tô hủ tiếu lẫn ly cà phê sửa đá trước mặt bởi vì người ăn mày đang đứng trước mặt Đào chính là bà Năm Tước mà 49 ngày trước Đào đã cạy nắp quan tài chặt đứt bàn tay phải.

Dưới ánh đèn nhợt nhạt từ góc trần chiếu xiên xuống, khuôn mặt bà xanh xao và lạnh lẽo đến rợn người, khuôn mặt ấy chẳng khác gì 49 ngày trước Đào đã nhìn thấy trong ánh chớp chói loangoài nghĩa địa khi Đào quật mồ chặt đứt bàn tay phải của bà.
Đào tiếp tục ói mửa làm chủ quán cũng như mọi thức khách đều quay nhìn và nhăn mặt khó chịu, người đàn bà hành khất vừa quay lưng thừng thửng bước ra ngoài một cách chậm chạp.

Chủ quán chạy lại hỏi thăm Đào vì tưởng Đào trúng gió, nhưng Đào vẫn tiếp tục ói mửa rồi đứng dậy lom khom lê bước ra đường thất thểu về, quên cả chiếc xe đạp dựng trước cửa tiệm. Chủ quán trong tiệm bước ra tận lề đường đứng trông theo, ngơ ngác không hiểu vì sao bửa nay Đào lại hiền lành như vậy, bình thường gã hay nạt nộ mấy cô chạy bàn ra oai mà cô nào cũng phải vuốt ve gã bởi biết gã là tên du đảng có máu liều lĩnh. Dù sau đi nữa thì chủ quán cũng tha, không ghi sổ tính tiền nợ của Đào bửa nay.

Đào đi nhanh lại nhà của Nghiêm, mặt tái xanh không còn hột máu, mồm nói lảm nhảm như bị ma nhập. Gã nhớ lại tối hôm qua khi gã và Nghiêm đặt bàn tay sét đánh lên bàn thờ đốt nhang cúng vái 49 ngày thì 3 cây nhang đã bất thần vụt lửa cháy lớn và khuôn mặt bà Năm đã hiện ra mờ mờ trong làn khói dày đặc. Đào hoang mang nghi ngại ngay từ phút ấy, nhưng Nghiêm lại bảo rằng đó là dấu hiệu bàn tay đã được nhập bùa và Tổ đã chấp nhận lời cầu xin của Nghiêm, Đào tin đàn anh của mình nói thật. Nhưng hóa ra hôm nay mới biết là vong hồn bà Năm hiện ra trong làn khói xanh để cảnh cáo Đào. Với bất cứ giá nào, Đào phải ngăn cản Nghiêm chấm dứt trò chơi này, nếu Nghiêm không nghe thì Đào phải tự rút lui để tránh những hậu quả hải hùng chắc chắn sẽ xảy đến.

Tới nhà Nghiêm, Đào sồng sộc từ ngoài cửa đi thẳng vào sân sau, không chào hỏi gì cả. Vợ chồng Nghiêm đang ăn cơm dưới bếp trố mắt nhìn Đào bất ngờ xuất hiện, Đào mếu máo bảo đàn anh:

- Anh Hai ơi anh Hai, em mới vừa gặp..bả

Nghiêm ngơ ngác hỏi lại:

- Gì? Bà nào? Mày gặp ai?

Đào nhướng cặp mắt lờ đờ nhìn ra sau nhà rồi lại nhìn lên nhà trên lo âu nhấn mạnh:

- Trời, bà Năm chứ bà nào. Bả hiện về rồi anh ơi.

Huệ đặt bát cơm, ngạc nhiên nhìn Đào rồi chen vào:

- Bà Năm nào? Đi đâu mà hiện về?

Rồi sực nhớ ra, Huệ nói luôn:

- Ờ ợ...cái bà Năm Tước hả, phải không chú? Bà Năm Tước mới bị sét đánh phải không? Tự nhiên bả hiện về với chú hả? Trời đất, chú mắc mớ gì mà bả hiện về với chú chứ?

Nghiêm nhìn Đào gắt nhẹ:

- Thôi đi, nói bậy nói bạ không à

Đào run run kéo cánh tay Nghiêm và trì triết nói:

- Anh Hai ơi anh Hai, em thấy anh nên đem đi chôn đi anh Hai ơi, mang ra nghĩa địa chôn lại đi anh Hai, trả lại cho bả đi anh. Nó không xài được đâu anh. Em sợ lắm rổi anh Hai ơi.

Trước cặp mắt ngơ ngác của Huệ, Nghiêm vội đứng dậy lôi Đào lên nhà và mắng:

- Cái gì, cái gì vậy, bộ mày xỉn rồi hả? Nói gì đâu không à, có bà xã của tao, mày làm ơn đừng có nói bậy nói bạ nghe chưa?

Hai đứa ra hẳn ngoài sân trước, Nghiêm nổi nóng nhắc lại:

- Tao thấy bửa nay mày khùng rối đó Đào. Trước mặt vợ tao nói gì kỳ cục vậy? Nó nghi bây giờ đó.

Đào lắc đầu mếu máo nói:

- Anh Hai ơi, bàn tay của bả.... anh để đâu rồi anh Hai?... Anh Hai....đem chôn lại đi anh Hai...anh Hai ơi em xin anh mà...cái vụ này em sợ quá à, không được đâu anh Hai!

Nghiêm lại cắt ngang:

- Cái gì vậy? Mày vừa nói cái gì vậy? Tao nghe không hiểu.

Đào vừa thở vừa kể:

- Anh biết hôn, em đang ngồi ăn hủ tiếu ở ngoài chợ, tiệm Thanh Xuân anh biết mà. Mới tức thì hồi nãy đó, bà ấy bước vô đứng ngay trước mặt của em xin tiền, em tưởng là con mẹ ăn xin, em định đuổi bả đi nhưng mà em nhìn kỷ lại là bả anh ơi! Trời đất ơi em sợ quá, bả đưa luôn cho em coi cánh tay cụt của bả nữa anh Hai, em thấy sợ quá ói tùm lum tùm la ra ngoài bàn rồi em chạy gấp về đây cho anh biết nè. Anh Hai nghe em nói nè, em với anh đem bàn tay chôn lại cho bả đi anh, trả lại cho bả mà, em năn nỉ anh đó.

Nghiêm nói ngay:

- Mộ của bả người ta xây rồi, làm sao đào xuống được nữa?

Đào khổ sở nói tiếp:

- Thì mình chôn gần đó cũng được mà, miễn mình có lòng trả lại cho người ta là được rồi, nếu không thì bả vật chết mình đó.

Nghiêm vẫn giậm chân lắc đầu:

- Chậc! Tao nghe mày nói không lọt tay chút nào hết à! Mày nói mày đang ăn hủ tiếu, bả hiện về? Tiệm đó lúc nào cũng đông người, ma nào hiện về chỗ đông người? Thôi dẹp đi mày!

Đào tha thiết nhắc lại:

- Em nói thiệt mà anh, nếu anh hổng tin hả, anh làm mình anh đi chư em không làm đâu, em không dám xía vô đâu.

Dứt lời Đào bỏ đi quên cả chào từ giã, Nghiêm bực bội nhìn theo rồi quay vào với vợ. Nghiêm không nhục chí vì biết chắc thế nào Đào cũng quay lại vì Đào bây giờ còn đói hơn Nghiêm không còn đồng bạc dính túi. Có điều là Nghiêm không thể đi hành nghề một mình được bởi Nghiêm không có tài mở khóa, nhưng Nghiêm có bàn tay sét đánh làm buà hộ mạng, hễ vào được nhà nào là kể như xong.

Đào từ giã đàn anh xong, bước thất thểu như người mất hồn, đi được một quảng sực nhớ là mình còn quên chiếc xe đạp ngoài tiệm hủ tiếu nhưng gã không dám trở lại vì sợ hồn ma bà Năm vẫn còn lảng vảng trước cửa nhập vô một người hành khất nào đó để chờ đợi. Gã về nhà, đi thẳng xuống bếp rồi quay lên. Cha mẹ hỏi cũng không trả lời, chỉ lảm nhảm nói một mình. Chuyện ăn trộm giờ này đối với Đào không còn vương vấn chút gì trong đầu nữa, thậm chí gã hoàn toàn bị ám ảnh bởi bà Năm với cái ngoại hình gầy gò và xanh mét như con ma đói từ thế giới bên kia hiện về đòi ăn.

Đào ngồi thừ trên bực thềm ngoài hiên, nhìn ra khoảng không gian đen thẩm trước mặt, dãy nhà hàng xóm bên kia đường khuất sau những vườn cây dầy đặc lập loè ánh lửa như nhưng bóng ma trơi cố tình trêu ghẹo Đào trong một đêm tối trời. Gã cứ ngồi như thế rất lâu cho đến khi bà mẹ ra tận nơi kéo tay gã bảo vào ngồi, gã mới uể oải đứng dậy để nguyên quần áo lên giường nằm. Nhưng nằm nhắm mắt được một lúc, Đào bổng nghe trong tai vang lên những tiếng gõ thật rõ, cứ 4 tiếng 1 lần rồi lại ngừng, rồi lại vang lên, lần nào cũng 4 tiếng. Những tiếng gõ ấy lúc đầu còn nhỏ. Từ từ mỗi lúc một lớn hơn, mạnh hơn và gã giật mình choàng bật dậy vì gã chợt nhận ra đó là tiếng búa gã đã bổ 4 nhát xuống cổ tay bà Năm Tước ngoài nghĩa địa.

Mồ hôi vãi ra như tắm, Đào ngồi lên, lò mò bước xuống tìm nước uống vì cổ họng đang khát khô, gã thấy không khí trong nhà ngột ngạt làm gã sắp nghẹt thở, cần phải ra ngoài. Bà mẹ cài then cửa trước, Đào không muốn mẹ biết mình còn thức nên gã ra ngồi ngoài sân sau dưới ngọn đèn 40qu, nhìn xuống con kinh thủy lợi mênh mông trước mặt. Gã thở hổn hển, lấy thuốc ra hút.

Những chiếc ghe thưa thớt di chuyển về đêm của những gia đình chài lưới ngủ luôn trên sông nước hoặc thuyền bè chuyên chở hàng hóa lướt ngang qua nhà Đào với ánh đèn mờ ảo không soi rõ mặt người. Đào hút gần tàn điếu thuốc, toan quay vào nhà ngủ thì bổng thấy từ xa có chiếc thuyền nhỏ bổng lướt nhẹ tới rồi tấp vô bờ nhà Đào và giọng con gái cất lên gọi:

- Anh Ba cho em hỏi thăm chút xíu được hôn? Đường ra chợ huyện đi hướng nào vậy anh Ba? Em chở hàng trái cây ra ngoài chợ huyện bán mà đi hoài hổng thấy tới à!

Đào đang ngồi trên cái băng két bằng mấy thân cây trâm bầu bên khóm chuối, ngẩng lên ngạc nhiên đăm đăm nhìn, giọng nói lạ lắm, chắc không phải một người quen trong chòm xóm mà chỉ là một cô gái đi bán hàng bị lạc đường. Từ trong khoang thuyền, cô gái cầm cây đèn bảo khá lớn đi ra hẳn ngoài mũi thuyền đứng chờ Đào. Đào lấy làm lạ lắm, dân vùng bốn đi ghe mà lạc đường là một chuyện thật hiếm hoi. Gã đứng dậy tiến lại gần vì không muốn nói lớn, sợ trong nhà nghe thấy, miệng gã vẩn ngậm điếu thuốc và nheo mắt vì khói.

Cô gái đứng trên thuyền có cái dáng thanh thanh thật đẹp, nên tuy chưa nhìn rõ mặt mà Đào đã thấy lòng rộn rã, khi Đào tới sát mũi ghe, cô gái nhắc lại:

- Dạ em bị lạc đường từ trưa tới giờ đói quá à, trên ghe thì không có cái gì ăn hết trơn đó..ơ..anh Ba..anh Ba có mì gói hay là cái gì đó, cho em xin một gói được không anh Ba?

Đào hăm hở đáp: - Có chứ, cô chờ một chút nha, tôi vô nhà lấy cho. À mà nè, cô ăn khoai mì không, má tôi mới nấu đó, nấu hồi chiều ngon lắm. Thôi cô lên đây cô ngồi chờ chút xíu nha, tôi vô tôi lấy cho.

Cô gái gật đầu đưa tay ra để lấy thăng bằng bước lên bờ vì chiếc thuyền con tròng trành làm cô sợ té xuống nước. Đào vội đưa tay ra cho cô gái nắm lấy. Lạ thay, khi tay Đào vừa chạm vào tay cô gái thì một làn gió cực mạnh thổi từ làn nước lên sà vào người Đào làm gã run lên bần bật, đồng thời ngọn đèn trên tay cô gái bổng sáng rực hẳn lên như đèn măng song, soi rõ toàn thân và khuôn mặt cô, Đào ngước lên nhìn và kêu thét một tiếng lớn rồi lảo đảo buông tay cô gái, lao đầu té xuống nước bởi vì gã vừa nhận ra người con gái tước mặt gã mà gã nắm tay không phải là một thiếu nữ với tiếng nói trong trẻo mà chính là bà Năm Tước vừa đưa cái cánh tay cụt ra cho gã nắm. Đào ú ớ vùng vẫy dưới nước, chiếc thuyền con lui dần ra xa, lướt nhẹ trên mặt kinh và mất hút.

Trong lúc đó ở nhà Nghiêm, Huệ vừa rửa chén, vừa tò mò cật vấn chồng, cô vốn không ưa Đào, nên dù Đào là bạn khá thân của chồng, cô vẫn gọi bằng thằng, cô hỏi: - Hồi chiều thằng Đào nó nói với anh là đem ra nghĩa địa chôn, là chôn cái gì vậy? Bộ anh với nó mới đi giết người phải không?

Nghiêm cười lớn để vợ khỏi nghi, gã nói:

- Hà hà, em nói cái gì vậy? giết ai? Làm gì có chuyện đó!

Huệ đứng thẳng dậy lau tay vào chiếc áo cũ và nhắc lại: - Vậy chứ em nghe nó nói là anh Hai ơi mang ra nghĩa địa chôn đi, chông cái gì? Nói thiệt đi nghe, anh với nó vừa mới giết người phải không?

Nghiêm vẫn cố giữ nụ cười rồi ấp úng bảo:

- Cái thằng cà chớn thiệt, say nói tầm bậy tầm bạ không à. Còn em nữa, tự nhiên nghe nó nói làm cái gì? Anh giết người hả? Giết người sao giờ này còn ngồi ở đây? Công an tới bắt hồi nào giờ rồi.

Huệ lại ngồi xuống rửa chén bát tiếp, từ hồi quen Nghiêm, Huệ vốn nể phục Nghiêm vì trí óc cô bị lôi cuốn bởi những chuyện huyền bí bên xứ chuà tháp, cảm phục đến nổi hai năm nay chung sống, Nghiêm chỉ nói nhiều mà chưa làm gì cả, không mang về được đồng bạc nào mà Huệ vẫn nhẩn nại phục vụ. Chuyện giết người thì Huệ chưa từng nghe Nghiêm nhắc tới, nhưng Nghiêm có kể cho nghe một lần bên Nam Vang, Nghiêm đã thư một người đàn bà khiến bụng bà ấy cứ lớn dần, lớn dần, không ăn uống gì được. 49 ngày sau thì chết, bác sĩ giải phẩu tử thi, mổ bụng lấy ra một đống mảnh chai trong đó, làm chấn động cả giới y khoa bên Cam Pu Chia vì không ai giải thích được.

Từ khi nghe chuyện ấy, Huệ chẳng những phục Nghiêm mà trong cái phục ấy lâu lâu cô củng cảm thấy sợ gã nữa. có điều là huệ không ưa Đào bởi Đào có thành tích ăn cắp, cả huyện Châu Thành ai cũng biết. Huệ không muốn Nghiêm kết nạp Đào làm đệ tử vì sẽ làm mất uy tín của Nghiêm. Bởi vậy dù Huệ thấy Nghiêm nói có lý, nhưng cô vẫn chưa buông tha, cô bảo:

- Em không có biết à, nhưng coi bộ nó lo dữ lắm, nhìn cái mặt là em biết liền à. Chắc chắn phải cóc huyện gì mà anh không có nói cho em nghe. Mà em nói anh nhiều lần rồi nghe, thằng Đào nó mới ra tù thôi đó, anh đi với nó làm chi vậy? Có ngày vô tù chung với nó, em nói thiệt đó.

Nghiêm không biết trả lời vợ ra sao, gã không bực Huệ mà tức thằng đàn em nhát gan, tự nhiên phun ra câu chuyện bàn tay sét đánh trước mặt vợ gã. Gã thơ thẩn ra sân trước đứng hút thuốc một lát khá lâu vẫn không thấy Đào trở lại như gã đã đoán, gã lại vô nhà, len lén nhìn Huệ vừa rửa chén xong, đang úp hết vào rỗ. Gã ra sau nhà đi sang tìm Đào, từ nhà Nghiêm sang nhà Đào có thể đi lối sau, men theo bờ kinh chỉ vài trăm thước là tới. Đi vòng phía trước thì quảng đường dài gấp đôi, nhưng ít khi Nghiêm dùng lối sau bởi phải đi nhờ ngang sân nhiều nhà khác, có những gia đình tụ tập ngồi ăn cơm ở sân sau trên bờ kinh cho mát nên Nghiêm rất ngại đi qua nhà họ. Tối nay bất đắc dĩ Nghiêm mới phải đi lối sau, nhưng cũng may là trời đã khuya, không gặp ai ngoài sân.

Tới nhà Đào, cửa sau đã đóng kín, Nghiêm huýt gió làm hiệu mấy lần vẫn không thấy Đào ra như thông lệ:

- Thằng chết nhát này đã ngủ mất rồi – Nghiêm chửi đổng rồi ra về.

Nghĩ thầm trong bụng sẽ kiếm thằng đệ tử khác làm bạn đồng hành ăn trộm. thế giới đạo chích trong huyện Châu Thành không xa lạ gì với Nghiêm. Gã chỉ vẩy tay một cái, thiếu gì đứa đi theo, nhất là giờ này Nghiêm đã nắm trong tay một báu vật hiếm hoi trong đời là bàn tay sét đánh.

Nghiêm về tới nhà thì Huệ vừa tắm xong, thay đồ bộ để chuẩn bị đi ngủ, thấy vợ đang buông mùng, Nghiêm lấy khăn ra sau nhà tắm, gã thở dài nghĩ đến thằng đàn em cà chớn làm gã phải hủy bỏ chuyến đi đêm nay, bởi gã cần người mở khóa đưa gã vào nhà người ta.

Nghiêm ra bờ kinh, cởi quần áo ngoài rồi nhảy xuống nước tắm một cái cho đỡ bực bội. Nghiêm đang khoắn nước ngụp lặn thì ngẩng lên thấy Đào hấp tấp đi tới. Nghiêm mừng rỡ, tưởng Đào đổi ý, quyết định đêm nay ra quân hành nghề ăn trộm, nhưng Nghiêm chợt nhíu mày ngạc nhiên vì nhìn kỹ lại thì thấy Đào ướt đẩm từ đầu tới chân, Nghiêm vội leo lên vuốt mặt rồi hỏi:

- Ủa? Mày té ở đâu mà ướt hết trơn, hết trọi vậy? sao không đi thay đồ đi?

Đào không nói, mệt mỏi ngồi xuống khúc cây trên bờ kinh. Ngọn đèn tròn từ vách bếp chiếu ra, soi mờ khuôn mặt tái mét của Đào, Nghiêm tiến lại gần và nhắc lại:

- Gì vậy? Sao chưa về thay đồ nữa? Ê, thôi khỏi! Lấy đồ của tao kià, thay đi.

Đào mếu máo kể:

- Anh Hai ơi, em không biết tính sao giờ nữa anh Hai, không được rồi anh Hai ơi! em lại mới gặp bả nữa, em sợ quá anh Hai!

Nghiêm bực bội gắt:

- Bà nào nữa? gặp ở đâu? Hồi nào? thấy mày sản rồi đó.

Đào mệt mỏi đáp:

- Thôi anh Hai, thiệt mà anh Hai, bà Năm đó chớ bà nào! Em nói hoài mà anh Hai hổng chịu tin em. Bả về ngay sau nhà của em kià, bả đi ghe anh ơi, tấp vô nhà của em, em sợ quá, em té xuống kinh, tưởng chết luôn rồi đó, bởi vậy em mới chạy qua đây báo cho anh biết nè! Anh tính lại đi anh Hai, em thấy mình nên ra nghĩa địa, đem bàn tay ra chôn lại đi anh Hai.

Nghiêm chửi thề một câu rồi chán nản nói:- Thôi được rồi, mày về đi! Mày không muốn làm ăn với tao nữa hả? Thôi ngày mai tao kiếm thằng khác. nè, nhưng mày nhớ nhe, mày nhớ là không được nói cho ai biết nha, mày mà nói ra hả, tao thư cho mày chết đó!

Đà còn cố gắng năn nỉ Nghiêm bỏ cuộc, nhưng Nghiêm nạt lại và đuổi đi. Đào đứng dậy lủi thủi theo bờ kinh về nhà mình. Nghiêm đứng trông theo luôn miệng chửi thề, gã thay cái quần đùi ướt, mặc lại bộ quần áo cũ, đẩy cửa bước vô nhà.

Về phần Đào, về tới nhà mới thấy lạnh. Bộ quần áo ướt dính sát vào người lại thêm sương đêm bắt đầu tỏa xuống làm Đào rùn mình hắt hơi mấy cái liền. Cánh cửa sau khép hờ, trong nhà tối om, Đào đưa tay đẩy nhè nhẹ đồng thời ngoái cổ nhìn ra con kinh, rợn người nhớ lại hình ảnh cô gái trên con đò biến thành bà Năm Tước nắm tay gã lúc nãy. Vào bếp, quơ tay lên vách bật đèn rồi lấy bộ quần áo khô còn máng trên dây phơi mặc vào.

Cả nhà đã yên giấc, Đào rón rén lên nhà, nhẹ nhàng chui vào mùng. Nằm một lúc không ngủ được, Đào thấy bụng cồn cào mới sực nhớ ra từ chiều chưa ăn gì. Có nửa tô hủ tiếu vào bụng thì đã nôn mửa ra hết tại quán Thanh Xuân khi hồn ma bà Năm Tước xuất hiện. Đào ngồi dậy nhẹ nhàng chui ra và xuống bếp tìm cơm nguội hoặc mì gói.

Nấu mì thì phải nhóm lửa, Đào ngần ngại quá. Nhìn thoáng trên bàn ăn thấy còn tô canh cải còn úp trong lồng bàn. Đào bưng soong cơm nguội còn đặt trên lò, mang lên bàn và kéo ghế ngồi. Nhà Đào đông người, nên ngày ngày nấu cơm bằng cái lò gang khá lớn. Đào mở nắp nồi, gã kêu rú lên và bật ra phía sau, nằm ngửa trên đống củi, cái nắp văng sang một bên, bởi vì nồi cơm tuy chỉ mới vơi đi một nữa nhưng trên lớp cơm gạo trắng đầu muà thơm ngát ấy, Đào thấy bàn tay sét đánh của bà Năm Tước nằm gọn bên trong.

Đào lòm còm ngội dậy và lao lên nhà, chui vào mùng đắp mền kín mít từ đầu đến chân. Đời gã từng mấy phen vào tù ra khám, nhưng chưa bao giờ gã cảm thấy kinh sợ và hối hận như hôm nay. Hai ba lần sang thuyết phục Nghiêm đem bàn tay trả lại cho bà Năm nhưng Nghiêm nhất định không nghe và thậm chí không tin cả vào những lời Đào kể.

Đào ngẩm nghỉ mãi và tự hỏi là tại sao gần 2 tháng nay hồn bà Năm không hiện về mà đợi mãi đến hôm nay khi hai đứa sắp ra tay hành nghề thì bà mới xuất hiện. Phải chăng là vì Nghiêm yểm buà không đúng cách như sư phụ đã chỉ dạy nên hồn bà Năm mới oán hận mà trở về dương gian?

Trái tim Đào là trái tim sắt đá, không biết sợ ai thế mà hôm nay đã đành cầu khẩn hồn bà Năm tha tội cho gã. Ở nhà Nghiêm, Huệ đã chui vào mùng nằm nghe cải lương, Nghiêm ngồi ngoài hút thuốc một lúc cho tóc khô hẳn rồi mới tắt đèn chui vô nằm bên Huệ. Huệ vói tay tắt radio rồi bảo:

- Anh lại đi qua kiếm thằng Đào rổi phải không? Em nói rồi mà, anh cứ đi với nó hoài, có ngày chung vô tù ở chung với nó đó. Anh mà vô tù, em không có thèm thăm nuôi đâu nghe. Em về lại với ba má em đó.

Nghiêm cười gượng:

- Sức mấy mà anh vô tù, em đừng có lo

Huệ lớn giọng hơn:

- Không có lo sao được, em không còn đồng bạc nào nữa, mấy bữa nay không có tiền đi chợ, nợ tùm lum tà la hết trơn à. Anh không bao giờ lo làm ăn hết trơn hết trọi.

Nghiêm choàng cánh tay qua ôm lấy vai Huệ và trấn an:

- Anh nói em nghe nè, mình sắp giàu rồi em ơi. Nội tuần tới, em thiếu bao nhiêu nợ, anh trả hết cho.

Cùng với câu nói ấy, gã ôm ghì lấy Huệ và rúc đầu vào ngực vợ, nhưng Huệ phì cười rồi đẩy gã ra và nói:

- Thằng cha này, nhột thấy mồ.

Trong bóng tối mờ mờ, Nghiêm thấy khuôn mặt không son phấn của cô vợ trẻ và đẹp hẳn lên.

Để vợ khỏi trở lại đề tài cũ cằn nhằn mình về tiền bạc. Nghiêm đẩy vợ nằm ngửa ra và leo lên nhưng Huệ lại đẩy gã nằm xuống bên cạnh và nghiêm trang nói:

- Anh phải hứa nghen, tuần tới là phải có tiền cho em đó nghen.

Nghiêm không trả lời, gã vòng tay ra phía sau mò mẫm dưới mặt giường vì gã thấy cồm cộm dưới lưng, rõ rang gã vừa nằm đè phải cái vật gì giống như ổ bánh mì hay cái bánh tét vôi, nhưng chắc là cái bóp của Huệ, gã đoán là thế và khua tay cầm lên đưa ra trước mặt coi. Nhưng chưa kịp đưa ra trước mặt, gã đã kêu thét lên vì gã vừa nhận ra đó là cái bàn tay sét đánh trơ xương, co quắp và đen đủi của bà Năm.

Nghiêm lặng người giật thót, tim như thắt lại và kinh hãi, gã đã cất kỹ trong cái hộp sắt giấu dưới bếp, tại sao giờ này nó lại nằm đây?

Như một phản xạ tự nhiên khi người ta cầm phải vật gì gớm ghiếc, Nghiêm quăng mạnh cái bàn tay sét đánh xuống đất, nhưng cái mùng trắng đã chèn căng dưới chiếu cản lại làm cái bàn tay sét đánh ấy rơi ngay vào chân Nghiêm, Nghiêm co rúm người, hai chân đạp lia lịa. Cũng cái bàn tay ấy lâu nay Nghiêm ngắm nghía vì nó sẽ là bạn đồng hành của gã, nhưng đêm nay gã thấy ghê sợ đến chừng muốn tắt thở bởi nó tự động từ dưới bếp mò lên đây nằm chung với Nghiêm.

Dĩ nhiên là Huệ không hề biết là chồng mình đang giấu cái vật quái lạ ấy trong nhà, và càng lạ là mặc dù Nghiêm nãy giờ dãy dụa và la hét như vậy mà Huệ vẫn bình thản nằm im như không trông thấy, không nghe thấy gì cả.

Nghiêm đạp tung cái mùng ra khỏi lớp chiếu tung dưới chân và hất mạnh bàn tay sét đánh xuống đất, bấy giờ Huệ mới ngạc nhiên hỏi:

- Cái gì, cái gì vậy? cái gì mà anh đạp dữ vậy? Bửa nay sao anh kỳ quá vậy?

Nghiêm co rúm người, ngồi thu mình ở đầu giường thở hổn hển và ấp úng bảo:

- Mở đèn...mở đèn...mở đèn lên!

Huệ không hiểu gì, từ từ vén mùng chui ra và vói tay bật nút đèn trên vách, căn phòng rực sáng, Nghiêm mở to mắt, len lén bước xuống và tiến lại phía đuôi giường - chổ gã vừa hất cái bàn tay sét đánh xuống. Gã nhìn khắp lượt, tìm tòi thật kỹ nhưng lạ quá không tìm thấy cái bàn tay đâu cả. Huệ ngồi ở mép giường, nhìn nét mặt tái xanh của chồng kinh ngạc hỏi:

- Anh kiếm cái gì vậy? Bộ anh nằm mơ hả?

Nghiêm không đáp, cứ trố mắt cắm đầu nhìn mọi góc cạnh của căn phòng nhỏ. Gã có ngủ đâu mà mơ? Gã thốt nhớ lại lời Đào nói và lần đầu tiên gã linh cảm thấy có điềm gì bất thường đã xảy đến với Đào. Hèn gì chiều nay mấy lần Đào giục gã đem bàn tay ra nghĩa địa chôn lại cho bà Năm. Huệ giục hai ba lần nữa Nghiêm mới trở vào, chui vào mùng và mệt mỏi nằm xuống, mồ hôi vả ra như tắm. Huệ nhắc lại câu hỏi:

- Anh kiếm cái gì vậy? Sao không nói em kiếm dùm cho.

Nghiêm không đáp, mắt mở trừng trừng nhìn lên nóc mùng, Huệ tắt đèn và chui vào với Nghiêm. Lần đầu tiên, từ ngày quen Nghiêm, đêm nay Huệ thấy chồng mình sợ hãi đến rụng rời, khác hẳn cái thái độ vênh vênh háo thắng thường ngày của Nghiêm. Huệ cầm cái quạt phe phẩy quạt mồ hôi cho Nghiêm, mặc dù đêm nay trời không nóng, gió từ con kinh sau nhà vẫn thổi vào từng cơn nhè nhẹ.

Nghiêm quay nghiêng ngưới, nhắm mắt ôm ghì lấy vợ, bàn tay vẫn con run rẩy.

Huệ buông cái quạt và cũng ôm chặt lấy Nghiêm vì đoán gã vừa nằm mơ thấy cái gì kinh hãi, cần chia sẽ cảm xúc với vợ, Huệ nói:

- Ngủ đi anh, thôi ráng ngủ đi, em xoa lưng cho anh ngủ nghen

Nghiêm nhắm mắt im lặng, bàn tay gã đặt trên vai Huệ hớn hở xoa dần xuống cánh tay nàng. Bổng gã hét lên và hoảng hốt tung màn chạy ra là vì khi gã đưa tay xuống chạm vào cổ tay Huệ thì gã nhận ra là cánh tay Huệ đã cụt hẳn, mất nguyên một bàn tay. Gã cuống quýt bật đèn rồi đứng thở. Căn phòng lại rực sáng, Huệ lồm cồm chui ra theo và nhíu mày hỏi:

- Trời ơi bửa nay anh làm sao vậy? la hoài à, kỳ cục quá!

Nghiêm mặt cắt không còn hột máu đăm đăm nhìn cả hai cánh tay vợ và ngơ ngác thấy vẫn còn nguyên vẹn. Rõ ràng trong bóng tối, gã vừa nắm phải cánh tay cụt của Huệ y như cánh tay bà Năm mà Đào đã dùng búa chặt đứt từ cổ tay, Đào bắt đầu thấy bực bội, kéo tay Nghiêm thở ra và nói:

- Thôi vô ngủ đi, đừng tắt đèn nữa, để đèn sáng đêm luôn cũng được.

Nghiêm thở hồng hộc, theo vợ lại giường và leo lên. Gã mệt mỏi nằm xuống và tự nhủ ngày mai phải đem bàn tay sét đánh cùng Đào ra chôn ngoài nghĩa địa. Như vậy là những câu thần chú và cách thức yểm buà của gã không hiệu nghiệm, gã yếu ớt bảo Huệ:

- Em ơi, anh sợ quá em ơi!

Huệ tội nghiệp quàng cánh tay ôm lấy gã, hai người nằm ngiêng, mặt dối mặt cho đỡ chói mắt vì ngọn đèn trên trần rọi xuống, Huệ nhắc lại:

- Thôi ngủ đi, có em đây mà sợ gì, ngủ đi.

Nghiêm thở mạnh, nhắm mắt lại, hôn lên trán vợ. Giờ này gã mới thấy cần có huệ bên cạnh. Đêm nay không có huệ, chắc chắn gã đã chết giấc vì hãi hùng. Bên ngoài gió bổng thổi mạnh lên vù vù, len qua khe cửa sau nhà, rồi trong chốc lát, tiếng mưa rơi nặng hạt chen lẫn những hồi sấm vang dậy và những hồi chớp sáng rực ngoài cửa sổ, Nghiêm khẻ rùng mình vì lạnh, gã hỏi Huệ:

- Em ơi, có cần đóng cửa sổ lại không em? Anh sợ mưa tạt vô nhà đó.

Huệ đáp: - Để cho mát mà anh, mưa kiểu này sẽ không có lâu đâu.

Cùng với câu nói ấy, Huệ âu yếm xoa lên vai Nghiêm rồi nhẹ nhàng đẩy gã nằm ngửa ra và leo lên nằm trên người gã. Chỉ có cách này mới xoa dịu cho gã nổi lo sợ ám ảnh trong đầu. Huệ cuối xuống hôn Nghiêm, Nghiêm cảm động quàng hai tay ôm lấy cổ vợ. Bỗng gã ú ớ đẩy Huệ ra, vì khi hai người đang say đắm hôn nhau thì bất ngờ mấy cái răng của Huệ rụng ra, rớt trong mồm Nghiêm. Nghiêm choàng mở mắt, kinh hãi phun mấy cái răng ra khỏi mồm. Huệ vẫn nằm trên người gã, chỉ ngóc đầu dậy. Dưới ánh đèn sáng rực, Nghiêm trố mắt nhìn rồi kêu thét lên, gã khiếp đảm và bất tỉnh nhân sự bởi người nằm trên bụng gã, vừa nồng nàn hôn gã không phải là Huệ mà là cái xác cứng đờ nám đen của bà Năm Tước.

 

DUYÊN MA

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Hôm ấy trời mưa như trút nước. Cơn mưa nặng hạt kéo dài từ rạng sáng mà đến xế chiều vẫn chưa có dấu hiệu ngừng tạnh. Mây đen càng lúc càng nhiều khiến bầu trời càng thêm u ám và cảnh vật đằng xa như đã bị phủ chụp nhạt nhòe trong làn nước. Vinh đã mấy lần định lội mưa về nhà, nhưng cái gió lạnh cộng thêm làn mưa tạt tới tấp khiến chàng đã phải hai ba lần chùn bước. Nơi Vinh đang đứng trú mưa là một quán lá bên đường, nhìn thái độ nôn nóng và đứng ở một chỗ không yên, nên bà chủ quán lên tiếng bảo:

- Cậu đừng ngại, cứ ngồi xuống ghế mà nghỉ. Cơn mưa này chắc cả tiếng nữa mới tạnh, ráng chờ đi, thế nào cũng có xe ôm đi ngang để rước cậu về...

Vinh khoanh tay trước ngực và rụt cổ lại vì luồng gió lạnh thổi thốc vào quán, rồi lên tiếng:

- Nhà cháu cũng gần đây, nếu tạnh mưa đi bộ về cũng được...

Rồi Vinh kể cho bà lão trong quán biết là chàng ở Saigòn về thăm nhà, vừa bước xuống xe đò là gặp trận mưa lớn khiến chàng phải chạy ngay vào quán nước để trú ẩn. Bà lão cũng kể cho Vinh nghe là bà đang chờ đứa cháu gái đi học sắp về, và nó là người phụ bà trông nom hàng quán lúc buổi chiều.

Vinh nhìn quanh quán lá nghèo nàn, trên sạp gỗ là một ấm nước trà và mấy cái ly cối cáu bẩn, phía trên treo lủng lẳng mấy buồng chuối chín vàng trên các sợi dây thép căng ngang.

Cách chiếc ghế đẩu nơi Vinh ngồi là một quầy dừa xiêm đỏ ối dựa vào vách, với mấy cái vỏ dừa nằm lăn lóc dưới nền đất ẩm thấp. Bên trong nơi bà cụ đang ngồi bó gối là một cái giường ọp ẹp trải chiếu đã rách bươm nhiều chỗ, với một mớ chăn mùng hỗn độn quấn để đầu giường.

Gần lối đi ra đằng sau là một chiếc khung nghiêng lệch đính mấy tấm hình treo trên vách. Tò mò, Vinh đứng lên và bước bên vào trong thêm vài bước để nhìn cho rõ. Đó là tấm hình chụp cô gái mặc áo dài trắng ôm cặp trước ngực, miệng nở nụ cười tươi tắn, và tấm kia là một em bé đứng giữa cặp vợ chồng trẻ. Cả hai tấm hình đều đã ố vàng, bởi tấm kiếng che phủ gió bụi của khung đã bị vỡ mất.

Thấy Vinh chăm chú nhìn mấy tấm hình, bà cụ chủ quán nói:

- Con Phượng đó cậu, chút xíu nữa nó về tới là cậu nhận ra nó liền. Nó học trung học trên phố cách xa đây cả mấy cây số, đạp đi đạp về tội nghiệp lắm. Thấy nó ham học mà còn học giỏi nữa, nhưng nhà nghèo quá nên chẳng biết mai này rồi... ra sao nữa!

Thấy bà cụ vui vẻ kể chuyện nên chàng được dịp hỏi tới: - Vậy bố mẹ cô ấy đâu?

Bà cụ chép miệng thở dài:

- Cái hình bên cạnh là bố mẹ con Phượng đó, nhưng cả hai đều chết sớm hết cả rồi!

Nói xong bà cụ đưa tay lên dụi mắt ra vẻ buồn rầu khi có người khơi gợi lại dĩ vãng buồn. Rồi cả hai chợt rơi vào trong im ắng vì một người không muốn kể thêm, và người kia lại không dám hỏi tới.

Được một lúc, Vinh ngó mông ra cửa, chàng thấy cơn mưa đang tạnh dần, chỉ còn tiếng nước tí tách từ mái tranh nhỏ xuống các vũng nước chung quanh nhà. Vinh mừng rỡ đứng dậy, với tay lấy cái cặp da đem theo và nói:  - Cảm ơn bà đã cho trú mưa, mưa đã tạnh cháu phải về nhà ngay kẻo cả nhà tưởng có chuyện chi lại kéo nhau đi tìm...

Bà cụ ngẩng đầu lên nhìn Vinh, lắc đầu ái ngại:

- Giá mà cậu chờ con Phượng về tới, rồi mượn nó chiếc xe đạp mà về thì tốt hơn.

Vinh nói đùa cho bà cụ vui: - Bà biết cháu là ai mà dám cho mượn xe? Nhỡ mai cháu không mang ra trả rồi cô Phượng lấy gì mà đi đến trường?

Bà cụ cười nhẹ:

- Tôi biết gia đình cậu mà... Nhưng hồi đó cậu còn nhỏ quá nên không biết tôi là ai thôi. Có phải cậu là cậu Vinh con ông Tuyến trưởng ấp không?

Vinh rất ngạc nghiên khi nghe bà cụ nhắc đến tên bố mình và chức vụ ngày xưa bố chàng đã từng đảm nhận. Vinh tươi cười nói: - Để cháu về hỏi, thế nào bố mẹ cháu cũng biết bà là ai. Xin phép bà cháu về...

Nói xong Vinh vội vã bước ra khỏi quán, hai tay cầm cái cặp che lên đầu để tránh những hạt mưa bụi. Ngồi trong quán nên Vinh không rõ, cho nên khi bước ra đường lộ chàng đã bị nước ngập sũng hết cả đôi giầy, và nếu không phải cầm cái cặp che đầu thì chàng đã dùng cả hai tay để vén ống quần lên cho khỏi ướt.

Lội bì bõm một quãng, Vinh nhìn thấy từ xa một bóng trắng đang gò lưng trên chiếc xe đạp. Cô gái di chuyển chiếc xe thật khó khăn vì dòng nước đang thoát đi chan hòa trên mặt lộ. Chàng đoán đây có thể là cô gái tên Phượng mà bà cụ trong quán đang trông chờ trở về từ trường học. Ngay lúc ấy, một chiếc xe đò chạy ngược chiều phóng tới với tốc độ khá nhanh, khiến Vinh bị nước tạt vào mình đến tối tăm cả mặt mũi và suýt té nhào, Vinh vội đưa tay lên vuốt nước trên mặt và khi mở mắt ra thì chàng hoảng hốt muốn la lên cầu cứu khi thấy chiếc xe đạp cong queo nằm giữa lộ, và người mặc áo dài trắng bị hất văng nằm úp mặt nơi vũng nước bên mé đường đối diện... còn chiếc xe đò đã gần như mất dạng ở phía xa.

Vinh vứt bỏ chiếc cặp đang cầm trên tay, phóng như bay về phía người bị xe đụng. Tới nơi, Vinh ngồi thụp ngay xuống, nâng ngửa người cô gái lên. Tim chàng như thắt lại vì thấy một dòng máu nóng từ sau gáy của cô gái đang chãy xuống chan hòa nơi tay chàng. Không biết làm gì hơn, Vinh vội cởi ngay chiếc áo sơ mi đang mặc trên người để buộc lên đầu cô gái, với hy vọng vết thương sẽ ngưng chảy máu!

Nhìn làn môi của người thiếu nữ đang thâm tím và khuôn mặt ngày càng trắng bệch vì máu đã chãy ra gần hết từ các vết thương, Vinh biết cô gái đã chết ngay khi bị chiếc xe đò đụng phải với vận tốc cao và hất văng vào mé lộ! Đang khi bối rối chưa biết tính sao thì có một người lái xe Honda đi tới thấy người bị nạn vội thắng xe dừng lại. Vinh mừng rỡ nói lắp bắp:

- Nhờ ông chạy tới quán nước đằng kia... báo cho bà cụ ở đó biết cô Phượng bị xe đụng...

Ông xe ôm không biết nạn nhân đã chết nên mau mắn đề nghị: - Cậu ôm cô ấy lên xẹ.. rồi tôi chở tới bệnh viện trên phố...

Vinh buồn bã lắc đầu:

- Cô ấy chết rồi! Ông đi giùm đị..

Nghe thế, người lái xe ôm vội quành xe chạy về quán báo tin, còn Vinh thì lòng dạ thẫn thờ ngồi bệt dưới đường lộ và để đầu nạn nhân gối lên một chân của mình, vì chàng không nỡ thấy cô gái bị dòng nước mưa bùn ngập tràn lên mặt.

Nước mưa ướt sũng đã làm chiếc áo dài trắng mỏng manh quấn chặt vào người nạn nhân và làm nổi bật hết các đường cong trên thân thể của một người thiếu nữ đang xuân. Và dù mặt của Phượng đã trắng bệch, bờ môi tím ngắt vì mưa lạnh, Vinh vẫn tìm thấy ở đó một nét ưa nhìn của một cô gái đoan trang, thùy mị. Đang phân vân suy nghĩ thì Vinh đã nghe thấy tiếng khóc uất nghẹn của bà cụ chủ quán từ đằng xa vọng tới. Bà nhào lại đẩy Vinh ra và ôm chầm lấy Phượng lay qua lay lại:

- Tỉnh dậy ới con ơi... là con... Sao con bỏ bà mà đi đau khổ như thế này... Ới con ơi là con...

Lúc ấy trời bỗng dưng mưa trở lại, những hạt mưa quất rát vào người khiến Vinh sực nhớ là mình đang cởi trần, vì chiếc áo của chàng đã buộc chặt trên đầu Phượng. Vinh tính lấy lại chiếc áo nhưng lại không nỡ vì chàng có linh cảm người chết rất thân quen, và nghĩ nàng đã không đơn lạnh khi có chiếc áo của chàng phủ chụp lên mặt.

Mấy người hàng xóm gần đó cũng chạy ùa đến khi nghe tiếng la khóc của bà cụ. Họ xúm lại khiêng xác Phượng đi ngược trở lại quán, còn Vinh vội ngoắc ông lái xe ôm lại và bảo: - Nhờ ông chở tôi về xóm Mía, bên dốc cầu đằng kia...

Ông xe ôm mau mắn gỡ cái bọc ny lông gài ở đằng trước xe, đưa cho Vinh:

- Cậu mặc chiếc áo mưa này vào cho đỡ lạnh. Cái áo kia cậu cho cô ấy rồi thì đừng lấy lại... Lấy lại... phiền lắm...

Vinh không hiểu ý ông xe ôm nói gì, nhưng chàng vội mặc ngay chiếc áo mưa vào người, vì quả thật thân thể chàng đang run lên vì lạnh với hai hàm răng đánh vào nhau kêu lập cập...

Vừa bước chân vào sân nhà, Vinh đã thấy mẹ chàng đang đứng chờ trước cửa, bà thảng thốt kêu lên:

- Vinh! Áo sống của con đâu mà cởi trần dầm mưa thế kia? Không sợ bị bệnh à?

Vinh dơ tay chào mẹ và hấp tấp bước nhanh vào nhà lục tìm mấy bộ quần áo cũ mà mẹ chàng vẫn xếp ngay ngắn trong tủ để chàng mặc mỗi khi về thăm nhà. Thay quần áo xong, Vinh đi ngay xuống bếp tìm hơi ấm, vì chàng biết chắc mẹ đang nấu nướng bữa ăn chiều cho cả nhà. Ngồi bên nồi canh đang sôi sùng sục, và bên dưới là những cục than hồng rực sáng, Vinh kể cho mẹ nghe về tai nạn chết người chàng tình cờ chứng kiến. Nghe xong mẹ chàng chép miệng thở dài: - Không ngờ cái gia đình ấy bị họa "ma da" mãi đến mấy đời mà vẫn chưa xong!

Vinh tò mò hỏi lại:- Họa "ma da" là gì vậy mẹ?

Mẹ Vinh không nhìn chàng, tay cầm muỗng hớt bọt nổi trên nồi canh rồi nhẹ nhàng nói: - Con đừng kể với bố về chuyện cởi áo cột lên đầu cô ấy nhé! Đáng lẽ con không nên làm chuyện ấy mới phải!

Vinh tưởng chuyện "anh hùng" và nhân ái của mình sẽ được mẹ khen ngợi, ai ngờ lại bị chê trách khiến chàng phân vân không hiểu:

- Tại sao thế mẹ? Chiếc áo ấy có gì quý giá đâu? Với lại lúc ấy con thấy máu trên đầu của cô ta chãy ra nhiều quá nên con phải làm thế thôi.

Mẹ chàng âu yếm bảo: - Con có thấy ai chôn khăn tang bao giờ không? Còn con lại buộc áo trắng lên đầu cô ấy, có khác nào cô ấy để tang con?

Vinh chống chế:

- Cái ông lái xe ôm lại nói khác! Ông ấy bảo với con là đừng lấy lại cái áo, cho rồi thì đừng nhận lại...

- Tại họ không biết gia cảnh của nhà cô ấy nên nói thế... Chứ thực ra là chuyện không nên... vì "ách giữa đàng đừng quàng vào cổ" con à...

Thấy Vinh có vẻ khó chịu, mẹ chàng đành phải kể thêm về lai lịch nhà cô Phượng để chàng thôi cắng đắng. Gia đình ông nội của Phượng là bạn thân với bố chàng, trong một lần đi nhậu về ông Bảng té từ cầu tre xuống sông chết đuối, xác của ông tìm mãi không ra bởi hôm ấy trời mưa lũ và nước sông chãy xiết. Bà vợ của ông vì thương chồng cứ khóc mãi khiến đôi mắt sưng vù và chỉ mấy ngày sau lại ngã chúi đầu vào lu nước mưa để ở sau nhà, lúc bà lần mò đi múc nước rửa mặt. Khi người nhà tìm thấy thì bà đã chết cứng chổng hai chân lên trời.

Từ đó nhà ông Bảng liên tiếp xảy ra nhiều cái chết đều liên quan đến nước, mà đau thương nhất là vợ chồng Hải (bố mẹ của Phượng) đi vớt cá ở ao nhà, vợ bị chuột rút khi đang ở giữa ao, chồng thấy thế vội nhãy xuống cứu vợ, ai ngờ bà vợ vì quá hoảng hốt kéo chồng chết theo. Nay đến lượt Phượng, đứa con gái duy nhất còn lại của dòng họ này mới bị xe đò tông chết úp mặt xuống vũng nước mưa!

Mẹ Vinh nói rằng đó là họa "ma da" truyền kiếp, vì nghe đâu ông bố của ông Bảng cũng chết đuối vì đắm thuyền, và bà sợ cái họa ấy nay truyền sang Vinh, vì cô Phượng chưa lấy chồng mà chàng lại chít khăn tang lên đầu nàng bằng cái áo sơ mi đang mặc, thì có khác nào đã nhận người chết ấy là vợ!

Vinh không tin vào chuyện kể của mẹ, nhưng cũng thoáng rùng mình khi nghĩ lại lúc chàng ôm chặt thân thể của Phượng vào lòng lúc nàng bị nạn. Lúc ấy, bản tính con người, nhất lại là một thanh niên mới lớn, khiến lòng chàng chộn rộn và bối rối khi nhìn thấy thân thể của Phượng như bị lột trần dưới làn nước mưa, và chàng đã phải mấy lần tắc lưỡi thương cảm cho một đóa hoa vắn số. Vinh thầm nghĩ nếu không có chiếc xe đò gây ra tai nạn, nếu Phượng đạp xe về nhà nhanh hơn mấy phút, rồi chàng mượn xe của cô ấy..v.v. thì chắc là hai đứa rồi cũng sẽ quen nhau, và biết đâu...Vinh thừ người không dám nghĩ tiếp, vì càng nghĩ chàng lại càng cảm thấy giữa hai người hình như đã có một sợi dây vô hình ràng buộc.

Sau khi ăn cơm xong và "trình báo" đủ mọi chuyện ăn học ở Saigòn với bố và mẹ thì đã quá nửa khuya, Vinh cầm cái đèn dầu trở về phòng và đặt lên giữa bàn, và khi chàng định đi tới để sập lại cái mái lá che khung cửa sổ, thì Vinh nhìn thấy một bóng trắng lướt qua và một luồng gió lạnh cuốn theo. Vinh hết hồn đưa tay lên chặn lấy ngực, vì chàng đã nhận ra ngay đó chính là Phượng, cô gái chết oan lúc ban chiều!

Đêm ấy chàng không tài nào ngủ được, và dù cố nhắm mắt, kéo chăn đắp lên tận đầu để dỗ giấc ngủ mà cũng không xong, Vinh liền chồm dậy kiếm một cuốn truyện cũ để đọc. Đang khi lục lọi ở tủ sách, Vinh có cảm giác như có ai đang đứng sau lưng mình, chàng quay phắt lại và sững sờ khi nhìn thấy Phượng mình mẩy ướt sũng đang đứng ở phía cuối giường!

Bóng ma khoanh tay, co người và run rẩy như đang bị lên cơn sốt lạnh. Vinh thấy thương cảm quá nhưng vì sợ, cứ ấp úng mãi không nói nên lời. Nhắm nghiền mắt, Vinh thu hết can đảm hỏi:

- Cô đến đây... làm gì?

Hồn ma yên lặng một lúc rồi mới nói nhẹ như hơi thở: - Bộ anh... không nhớ gì... đến em sao?

Quả thật Vinh có rất nhiều điều để nhớ về cô gái vừa chết trên tay chàng, và điều làm chàng băn khoăn nhất là câu chuyện mà mẹ chàng đã kể về những cái chết bất thường trong dòng họ nàng. Nghĩ thế nên Vinh làm gan ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào hồn ma và nói: - Tôi nhớ chứ... Ủa mà sao... chiếc áo của tôi đâu?

Hồn ma đưa tay lên gỡ mớ tóc rối bời lòa xòa trước mặt rồi trả lời:

- Em đang muốn hỏi anh điều đó. Anh có bằng lòng để tang cho em không?

Vinh bối rối:- Tại sao phải như thế? Tôi với cô có gì quen biết đâu?

Giọng hồn ma bỗng rung lên như xúc cảm:

- Tại vì em không muốn làm ma... mà lại là một hồn ma đơn lạnh... không chồng!

Vinh tìm cách thối thoát:

- Chuyện ấy khó lắm... vì cô đã... chết rồi... tôi...

Hồn ma đưa hai tay lên bụm mặt rồi khóc lên rưng rức. Rồi nàng kể là hồi nhỏ vì nhà gần nhau nên Vinh và Phượng thường qua lại chơi đùa. Sau này lớn lên Vinh được bố mẹ gửi lên Saigòn ăn học vì dưới quê đã hết lớp, và quên dần cô bạn gái thuở nhỏ. Hồn ma kể lể: - Tại anh không nhớ em, chứ em làm sao mà quên được.

Ngày xưa lúc nào anh cũng bênh vực và che chở cho em mỗi khi em bị tụi hàng xóm bắt nạt. Tụi mình còn chơi trò vợ chồng nữa, anh làm chú rể còn em làm cô dâu... anh không nhớ sao?

Dĩ vãng trở về tràn ngập trong tâm trí Vinh, chàng nhớ ra rồi, Phượng chính là cô bé hàng xóm đã thường qua nhà nhờ chàng chỉ bảo bài vở. Hồi ấy chàng rất ngây thơ, nên không để ý đến những thay đổi ngày một rõ nét nơi con bé Phượng, và mối tình đầu chớm nở trong lòng người thiếu nữ đến tuổi dậy thì.

Chỉ mấy năm xa cách, bây giờ Phượng đã là một đóa hoa hàm tiếu và chắc chắn đã được nhiều chàng thư sinh trong lớp để ý tán tỉnh, thế mà nàng vẫn nhớ và dành mối tình trong trắng đầu đời này cho Vinh. Nghe xong chuyện kể, lòng Vinh rối bời vì không biết phải xử trí ra sao, bởi mẹ chàng đã căn dặn là không nên ràng buộc với người cõi âm, nhất là gia đình Phượng đang bị họa "ma da" truyền kiếp!

Vinh đem chuyện lo ngại này ra nói thẳng với hồn ma, hy vọng Phượng sẽ thôi không năn nỉ chàng "kết ước" bằng cách phải đeo tang. Nhưng hồn ma lại nói với Vinh rằng, nàng muốn đi đầu thai sớm nên mới nhờ chàng làm chồng, và những trinh nữ chết oan như nàng sẽ rất dễ trở thành những hồn ma phá phách và báo oán!

Nói xong, Phượng buồn bã cúi đầu: - Anh đừng sợ... hãy giúp em... và giúp em chỉ một lần này thôi...

Vinh phân vân lưỡng lự:

- Bố mẹ anh không cho anh để tang đâu! Chắc em biết anh là con trai độc nhất trong nhà mà?

Thấy không thuyết phục được Vinh, hồn ma lặng lẽ quay mặt và từ từ biến mất xuyên qua bức vách gỗ.

Vinh nằm thừ người vắt tay lên trán. Chàng nghĩ lại mình có vẻ đã quá khắt khe đối với người đã chết, nhưng giữa Vinh và Phượng đã là hai thế giới khác, âm dương cách trở, trong khi chàng còn có bổn phận phải nối dõi tông đường.

Lăn qua lộn lại một hồi, Vinh căng mắt mong chờ trời sáng, nhưng vì quá mệt với những chuyện vừa xảy ra nên Vinh đã chìm vào trong giấc ngủ.

Đêm ấy Vinh mơ một giấc mơ thật thần tiên và đáng nhớ. Vinh rủ một cô bạn học ở trên Saigòn về quê nghỉ hè, và khi hai đứa đang câu cá thì cô bạn trượt chân ngã xuống con rạch nhỏ ở sau nhà. Vinh nhãy xuống kéo nàng lên, và thấy nàng nhắm nghiền mắt, tay chân xụi lợ Vinh làm gan đưa miệng chàng vào môi nàng để làm hô hấp nhân tạo, ai ngờ môi vừa kề môi thì nàng đã mở mắt nhoẻn miệng cười. Tâm hồn chàng đắm đuối say mê vì tay kia của chàng đang vô tình đặt lên trên gò ngực thanh tân của người bạn gái, thế là hai đứa cuộn lấy nhau trong hương tình chất ngất. Và khi Vinh lên đến tận đỉnh ngọt ngào của ái ân, chàng đã bất ngờ cắn mạnh một cái vào bên ngực trái của người tình khiến cô ta đau quá phải ưỡn người lên hất văng chàng sang một bên...

Cú hất ấy đã làm cho Vinh giật mình tỉnh ngủ. Chàng đưa tay quờ sang bên cạnh thì đụng phải suối tóc của một người con gái. Chàng hoảng hồn mở mắt, nhổm người dậy thì chỉ kịp nhìn thấy bóng dáng lõa lồ của Phượng vụt bay lên đưa tay vẫy chào chàng trước khi biến mất!

Vinh biết chàng vừa bị hồn ma của Phượng "đè", và người trong mộng mà chàng "phá tân" lại là cô bạn học ở trên Saigòn chứ không phải Phượng khiến chàng có chút yên tâm. Nhưng khi nhớ lại từng chi tiết thì chàng thấy có nhiều điều trùng hợp với cái chết hôm qua của Phượng. Cũng là người mặc chiếc áo trắng học trò, cũng bị ướt sũng vì nước... và khi tỉnh giấc thì người nằm bên chàng lại chính là Phượng chứ không phải người trong mộng! Vinh run sợ, vì chàng biết Phượng đã ràng buộc chàng bằng một sợi dây vợ chồng, với một lần làm tình dù trong mộng nhưng thật đáng nhớ, vì chàng là người chủ động, là người đã chiếm đoạt sự trắng trong của một người con gái. Đúng lúc ấy nhiều tiếng gà gáy vang từ xa vọng lại, báo hiệu một ngày mới sắp bắt đầu. Vinh chưa kịp bước ra khỏi phòng, đã nghe thấy tiếng mẹ chàng nói vọng sang:

- Không biết thằng Vinh làm gì mà lục đục cả đêm! Gần sáng nó lại còn nằm mơ kêu la ú ớ...

Biết bố mẹ đã thức dậy sớm, Vinh cũng lục tục xếp lại chăn gối và bước ra sau vườn để hít thở không khí trong lành của buổi sớm mai. Đi ra đi vào và đắn đo suy tính mãi, cuối cùng Vinh cũng trở vào kể cho bố mẹ nghe chuyện mộng mị lúc gần sáng. Nghe xong mẹ chàng ưu tư bảo:

- Con bé ấy chết linh! Chuyện đã đến nước này thì không thể thối thác được nữa. Thôi để mẹ dẫn con đến nói chuyện với bà ngoại nó.

Bố chàng là người trầm ngâm ít nói nhưng cũng đề nghị: - Bà nhớ lại nhà ông Thầy Ba, nói khó để ông ấy giúp cho.

Trưa hôm ấy, khi xác của Phượng chưa được liệm vì còn chờ cảnh sát đến điều tra, Vinh và mẹ đã đến gặp bà cụ chủ quán nước. Xác của Phượng đặt nằm ngay ngắn trên giường và phủ tấm vải trắng ngang mặt, mới nhìn Vinh tưởng là chiếc áo sơ-mi của mình nhưng nhìn kỹ lại thì không phải. Bà cụ ngoại của Phượng nói đó là mảnh vải trắng mà Phượng đã mua từ lâu mà chưa có tiền may, nay bà đem ra phủ xác và sẽ chôn theo vì Phượng rất thích miếng vải lụa trắng này.

Nghe chuyện mẹ Vinh kể xong, bà cụ rưng rưng nước mắt:  - Âu cũng là định mệnh! Cậu Vinh về đúng lúc nó chết, mà lại còn chết trên tay cậu ấy nữa! Ngày xưa tụi nó cũng quen biết nhau, thôi thì bà tính sao cũng được, chứ đối với tôi thì chỉ mong sao linh hồn nó sớm được yên nghỉ...

Mẹ Vinh nhìn về phía thi hài của Phượng:

- Bà cụ đã cho phép, con tới đốt cho Phượng một nén nhang...

Vinh tiến lại rút ra 3 cây nhang từ bó nhang để sẵn ở cuối giường, mồi lửa từ cây nến đã đốt sẵn. Khi đầu nhang bén lửa, lửa từ cây nhang bỗng bừng cháy lên phừng phực như các cây nhang có nhúng xăng dầu. Vinh vội vàng quất qua quất lại để lửa ngưng cháy, nhưng nó vẫn bốc lên hai ba lần nữa rồi mới chịu tắt. Chàng vội chắp nhang lên trước mặt vái vái mấy cái rồi thầm nói: - Phượng em, sống khôn thác thiêng... Xin em hãy yên nghỉ, mẹ anh đã bằng lòng cho anh để tang em rồi... Ngày mai anh sẽ đến chịu tang em... Anh cầu mong em sớm được siêu thoát...

Khi Vinh ngẩng đầu lên, chàng thấy tấm vải trắng phủ trên mặt Phượng bỗng lộ ra một dòng máu đỏ. Chàng chỉ tay về phía xác chết và hốt hoảng gọi:

- Mẹ ơi... Phượng...

Bà cụ chủ quán cùng mẹ Vinh đều đứng bật dậy, nhìn về phía xác chết. Bà ngoại của Phượng òa lên khóc nức nở:

- Cháu tôi chết oan... Cháu tôi không muốn chết... Các ông bà ơi... cháu tôi không muốn chết...

Bà ngoại Phượng tiến đến mở tấm vải trắng che mặt, Vinh và mẹ đều nhìn thấy rõ ràng một dòng máu đỏ tươi đang ộc ra từ khóe miệng Phượng. Bà cụ vội lấy ngay tấm vải đang cầm trên tay để chận lại dòng máu, trong khi Vinh tiếp tục cầm 3 cây nhang lạy lấy lạy để:  - Phượng ơi! Em... Em đừng làm anh sợ. Anh mà sợ thì ngày mai không đến dự đám tang của em được đâu...

Dòng máu ộc ra từ miệng của Phượng bỗng dưng ngừng lại hẳn, khiến cả ba người có mặt đều tin là hồn ma của Phượng đang lẩn khuất chung quanh họ, và riêng Vinh thì nghĩ Phượng đã đồng ý với những gì mà chàng đã lâm râm thề nguyện.

Hôm sau Vinh và mẹ đến dự đám táng Phượng. Thầy Ba, một người chuyên về bùa ngải cũng được cha mẹ Vinh mời tới. Sau khi múa đao và dán bùa lên trên chiếc hòm của Phượng, ông còn nhờ một người trong xóm dùng xà beng để cạy hở phía dưới áo quan. Cũng may bên trong đã có lớp ni lông bao phủ xác chết, chứ không thì nước vàng chãy xuống và mùi tử khí lan ra chắc là không ai chịu nổi. Mẹ Vinh giải thích cho chàng biết đó là cách để chấm dứt họa thần trùng "ma da", vì khi chôn hở hòm như vậy "ma da" sẽ bị chìm luôn, không còn cách để nổi lên kéo chân người khác được nữa!

Bà ngoại của Phượng đã trao cho Vinh một cái khăn tang và nói chàng hãy cột lên đầu để cho người đã khuất yên lòng mà nhắm mắt. Đám táng của Phượng nghèo nàn và đơn giản đến độ chỉ có vài người theo chân ra cánh đồng, nơi một huyệt lạnh đã được bà con trong xóm đào giúp. Thấy Vinh đeo khăn tang, có vài người thắc mắc nhỏ to, nhưng khi nghe mẹ Vinh giải thích là ngày xưa hai đứa nó là bạn học thì họ thôi không hỏi tới nữa.

Khi chiếc hòm gỗ đơn sơ được hạ huyệt và lấp lại, Vinh chợt thấy đau nhói trong ngực vì trái tim của chàng bỗng giựt giựt lên mấy cái. Chàng luồn tay vào trong áo đè lên ngực trái cho bớt đau. Khi rút tay ra Vinh bỗng thấy trên mấy đầu ngón tay rươm rướm máu! Hoảng hồn Vinh cúi xuống và mở một nút áo ra xem, thì thấy trên ngực chàng có một vết cắn hằn lên dấu tím bầm... Vinh chợt nhớ, trong đêm Phượng hiện về chàng đã có một giấc mộng tuyệt vời khi được ân ái cùng một cô thiếu nữ thanh tân, và khi sướng ngất chàng đã cắn mạnh lên bầu ngực trái của cô nàng... Bây giờ đứng trước mộ Phượng, chàng lại bị cắn lại, như vậy kẻ "trả thù" ấy chắc chắn là Phượng rồi!

*                   *

*

Mười tám năm sau ngày Phượng mất, Vinh lại có dịp trở để trở về quê thăm nhà. Bố mẹ chàng giờ thì đã quá già yếu và chỉ mong sao cho Vinh sớm lập gia đình, bởi chàng là con một. Còn Vinh, dù bận rộn công việc trên Saigòn chàng vẫn chưa thể quên được Phượng, cô gái hàng xóm đã cho chàng một đêm xuân trong mộng và buộc chàng phải chịu tang để nàng sớm được đầu thai. Vinh tin là Phượng đã siêu thoát, bởi từ đó đến nay không bao giờ chàng thấy Phượng hiện về, và cũng chẳng bao giờ nghĩ phải làm thêm điều gì nữa cho Phượng. Nhưng lạ một điều là mỗi khi chàng muốn tán tỉnh hay làm quen với một người đàn bà nào đó thì được, nhưng khi nghĩ đến chuyện lập gia đình với họ thì y như là có chuyện khiến cuộc tình đổ vỡ, làm chàng chán nản và không còn có ý nghĩ thành hôn với bất cứ ai!

Lần này khi ra thăm mộ Phượng, Vinh thấy bên cạnh đã có thêm mộ của bà ngoại Phượng. Cả hai ngôi mộ đều được bố mẹ Vinh cho xây lại tử tế, với mộ bia có hình ảnh và tên tuổi đàng hoàng. Vinh biết bố mẹ chàng làm điều này là để mua phước cho chàng, vì họ sợ hồn ma của Phượng sẽ kéo theo đứa con cưng duy nhất của dòng họ Nguyễn về bên kia thế giới. Nhìn vào tấm ảnh của Phượng đính trên bia mộ như đang tươi cười với chàng, Vinh thầm nguyện:- Người ta để tang vợ có ba năm, còn anh đã mười tám năm rồi. Không biết em còn bắt anh để tang em đến bao lâu nữa đây? Anh đã quá quen với cuộc sống độc thân và lúc nào cũng nhớ tới em, nhưng bố mẹ anh thì khác... hai người ấy vẫn muốn anh phải có vợ... thiệt khổ anh ghê!

Thì thầm tâm sự một hồi Vinh nhìn lên bia mộ, tấm hình của Phượng chợt úa vàng và từ từ biến dạng khiến Vinh không thể nhìn ra đó là hình của ai nữa. Vinh tuy hơi sợ nhưng lại thấy an tâm vì nghĩ Phượng đã cởi lời nguyền cho chàng, và chắc từ nay sẽ không còn hiểm họa nào theo chân chàng nữa...

Hôm sau, chàng được lệnh phải thay mặt bố mẹ mang quà mừng đến dự tiệc cưới con của ông cậu, Vinh trong lòng không muốn đi bởi nhà chú rể nằm sâu trong vùng sông rạch. Mười mấy năm qua chàng đã nghe lời bố mẹ mà tránh xa các vùng sông nước, nên khi biết lộ trình đưa dâu phải mất nửa tiếng đi ghe khiến chàng phải phân vân lo ngại, vì lời mẹ chàng vẫn thường nói "có kiêng thì có lành". Nhưng rồi cuối cùng Vinh cũng bận đồ kẻng để đi ăn cưới, bởi chàng tự trấn an rằng họa "ma da" đã không còn đeo đuổi nữa.

*                  *

*

Sau khi ăn cưới và lên ghe trở về, Vinh hân hoan vì thấy chẳng có chuyện gì xảy ra trên sông nước, và chàng cảm thấy vui hơn khi được về chung ghe với mấy cô gái phù dâu. Trong đám 4 cô bạn của cháu, Vinh chấm nhất là cô gái mặc áo dài vàng vì cô bé ấy có khuôn mặt thật dễ ưa, lại thêm đôi mắt lúng lắng hay liếc lén cười thầm, khiến chàng ngẩn ngơ ra mặt.

Nói chuyện qua lại một hồi, Vinh biết cô gái ấy tên Mai chỉ cách nhà bố mẹ chàng có hai con ngõ. Chàng buông lời chọc ghẹo để có cớ nhìn ngắm cô gái ấy nhiều hơn: - Tôi biết vì sao cô Mai thích mặc áo dài vàng rồi? Mai thơ ngây hỏi lại: - Cháu chẳng biết tại sao! Tại sao thế chú? Vĩnh đẩy đưa: - Hoa Mai là loại hoa chỉ nở vào mùa xuân, và rực rỡ năm cánh màu vàng. Cô tên Mai thì thích mặc áo màu vàng là đúng rồi... Cô gái tên Mai thật thà: - Đúng rồi, tên cháu là Xuân Mai mà... Thì ra Xuân Mai là hoa Mai nở vào mùa Xuân, hay thế mà cháu cũng không biết...

Vinh thấy thích sự thật thà như đếm của mấy cô gái quê, nhưng khi nghe Mai gọi chú xưng cháu với chàng thì Vinh biết là đã có một khoảng cách về tuổi tác khiến chàng cụt hứng vì nghĩ dù có tán tỉnh thêm nữa thì cũng chẳng đi đến đâu!

Đang khi suy nghĩ vẩn vơ, chàng bực mình vì đã 18 năm trôi qua mà đường tình duyên của chàng vẫn còn lận đận, và mỗi khi chấm được một ai thì y như rằng lại có trở ngại! Các lần trước thì vì môn đăng hộ đối, tôn giáo và lần này.. chắc sẽ là tuổi tác! Dòng tư tưởng của chàng bỗng bị cắt ngang vì một chiếc thuyền máy đi ngang, làn nước rẽ của nó trên sông dội đập vào bên ghe của chàng, khiến cái ghe bé nhỏ chao qua chao lại. Vinh vì đang mơ mộng viển vông không kịp đưa tay nắm giữ lấy thành ghe nên bị hất văng xuống nước. Vừa rơi xuống nước là Vinh đã bị chìm nghỉm vì bộ đồ vét thấm nước nặng trình trịch, đó là chưa kể đôi giày sũng nước cũng làm cho chàng hết cựa quậy. Nghĩ là mình chết chắc vì họa "ma da" đã tới nên Vinh càng cố gắng vung tay múa chân để mong người mình nổi lên trên mặt nước, nhưng càng vùng vẫy Vinh lại cảm thấy chân chàng đã đụng xuống vùng đất bùn dưới đáy lòng sông!

Nín thở được một lúc không xong, Vinh mở miệng ra để thở thì nước sông đã ồng ộc lấp kín miệng chàng, khiến chàng ngất đi không biết gì nữa...

Khi Vĩnh mơ màng tỉnh dậy, chàng thấy mình đang nằm trên bãi cỏ ven sông, chung quanh chàng rất đông người bu quanh bàn tán. Thấy chàng cựa quậy nhướng mắt ai nấy đều vui mừng sung sướng, nhưng người mừng rỡ nhất lại là Mai, cô gái đã nhãy xuống sông để cứu chàng:

- May quá, chú ấy đã tỉnh lại rồi...

Một ông trong nhóm người đi ăn cưới về cười hỉ hả: - May nhờ con Mai bơi giỏi, chứ không thôi cậu Vinh cũng đi thăm Hà Bá rồi!

Một bà khác nói đùa: - Coi bộ con Mai có duyên với cậu Vinh dữ à nhen... Có ai chịu đứng ra làm mai mối cho hai đứa nó không?

Mai lúc ấy mình mẩy cũng còn ướt như con chuột lột đang ngồi cạnh Vinh, cô gái e thẹn phải lấy cả hai tay để che lên ngực nhằm che dấu nét lộ liễu của chiếc áo lụa mỏng tanh đang như dán vào người. Vinh cố gắng ngẩng đầu lên, đưa tay đụng vào người Mai như một cử chỉ để thay tiếng cảm ơn, khiến Mai vội buông cả hai tay ra để đỡ chàng ngồi dậy. Và khi vô tình áp mặt vào sát ngực của Mai, Vinh đã hết hồn suýt kêu lên thành tiếng...

Chỉ một tháng sau, lễ cưới của Vinh và Mai đã được tổ chức thật linh đình, vì cả hai gia đình đều chỉ có một con nên bao nhiêu của cải đều hứa dành hết cho cô dâu và chú rể. Vinh ngoài chuyện lấy Mai như một đền đáp ơn cứu tử, chàng còn khám phá ra một bí mật vô cùng quan trọng trong cuộc đời của Mai, và Mai cũng hình như cảm được Vinh chính là người mà nàng đã mong đợi để gửi gấm trao thân.

Khi làm giấy hôn thú, Vinh thấy Mai sinh ra đúng vào ngày chôn cất Phượng, và đêm tân hôn khi chúi đầu vào vùng ngực thanh tân của vợ, Vinh không cần cắn nữa, mà trên ngực Mai đã có sẵn một bớt son đỏ y hệt ở nơi mà Vinh đã cắn Phượng trong đêm mộng mị cách đây mười tám năm.

 

CÔ GÁI LÚC 1 GIỜ KHUYA

(Tác giả: Không rõ)

 

Mảnh bìa treo ở đây qua mưa nắng đã hơn một tuần rồi.

Một lần đi qua đây, bất giác anh đều đi chậm lại nhìn tấm bìa có viết: “ Ngày 27 tháng 3 năm 1995, con gái tôi là Chu Hiếu Tuệ đi qua đường chỗ này vào 1 giờ đêm, bị một chiếc xe không rõ số cán phải. Tới sáng, con gái tôi mới được người qua đường phát hiện đưa vào bệnh viện nhưng đã chết vì quá muộn. Nếu có ai chứng kiến, biết được số xe kia, xin gọi cho số 8765432 để lẽ công bằng được làm sáng tỏ, chúng tôi xin cảm ơn”.

Chữ viết trên tấm bìa đã bắt đầu mờ. Vết sơn đổ chảy dài ở dưới chữ “ tỏ “ như một vết máu tươi, lại như những giọt lệ nức nở bày tỏ nỗi đớn của cha mẹ mất con.

Anh đứng trầm tư dưới chân cột điện có treo tấm bìa, trí óc tưởng tượng ra một cô gái trẻ trung xinh đẹp, thông minh, dịu dàng, có lẽ cũng như anh, tan ca còn đi học thêm rồi mới trở về nhà qua đây, nhưng khi đi qua đường thì bị tên lái xe say rượu phóng xe đâm phải, làm tan vỡ biết bao mộng đẹp của cô. Nếu kẻ đó kịp thời xuống xe chở cô đến bệnh viện thì hẳn là cô gái vô tội thuần khiết ấy sẽ được cứu sống...

Bất giác anh nghiến răng căm thù kẻ gây án, hy vọng lưới trời thưa mà không để lọt kẻ có tội. Nhưng hơn một tuần rồi mà tấm bìa chưa được ai gỡ xuống, hiển nhiên là kẻ gây án vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, không chừng tối nào hẳn cũng đi qua đây và huýt sáo cũng nên.

Anh cúi xuống nhìn đồng hồ đeo tay. Kim đồng hồ chủ đúng một giờ sáng, giờ mà hơn một tuần trước đây đã xảy ra tai nạn ở chỗ này. Anh thở dài, đang định rời chân thì chợt phát hiện trên hè phố bên kia có một cô gái dung mạo xinh tươi, quần áo giản dị. Khi cô tới gần, tim anh đập loạn lên. Cô chính là cô gái cũng đi học thêm lớp ban tối như anh, nhưng ở lớp khác. Anh thầm yêu cô đã lâu, chỉ tiếc là cô học lớp khác, và lớp ấy thường tan sớm hơn lớp anh. Anh nhất định phải làm quen với cô để mỗi đêm đi học về, có tiếng ríu rít nói cười cùng về theo lại chẳng hạnh phúc lắm sao!

Anh lấy lại tư thế đàng hoàng vì e cô hiểu lầm mình là kẻ hiếu sắc. Còn đang lưỡng lự thì cô đã bước qua đường tiến lại với anh. Cô đi rất chậm, bàn chân như lướt trên mặt đường. Tim anh giật thót lại, anh muốn kêu lên cho cô biết đêm khuya qua đường chậm thế kia thì rất nguy hiểm, song mới chỉ kịp kêu: “ Cẩn... “ thì hai luồng ánh sáng đèn pha đỏ lóe lên, một chiếc xe con phóng như bay trên đường đã đâm phải cô gái. Người cô bắn lên cao hơn cả cột điện, sau đó cô rơi xuống đường như một nắm bông, như một chiếc lá, như một cánh diều dứt dây. Lòng anh trào lên nỗi đau đớn thương tâm cực độ. Chiếc xe hơi chững lại trước khi cô gái kịp rơi xuống rồi như chợt tỉnh lại ra sau cú sốc, nó tăng tốc phóng vụt đi. Anh chạy bổ ra đường còn kịp nhìn rõ sau hai chữ cái là bốn chữ số. Anh lẩm nhẩm hai chữ cái và bốn chữ số đó cho khỏi quên rồi chạy tới trạm điện thoại công cộng bên đường, quay ngay số 119 không chút ngần ngại.

Ngoảnh lại, anh không thấy cô gái đâu nữa. Kỳ lạ thật, rõ ràng anh nhìn thấy cô bay bổng lên rồi rơi xuống mà vẫn bình yên vô sự và đã đi về nhà trong lúc anh mải gọi điện thọa? Hay là vì anh tưởng nhớ đến cô nên đã hoa mắt lên và mọi chuyện chỉ là hư ảo?

Nhưng rõ ràng anh nhìn thấy biển xe, cái xe thì hẳn là không phải ảo tưởng rồi. Trong lúc anh còn đang ngờ vực bồn chồn thì phía xa đã vang lên tiếng còi xe cấp cứu của cảnh sát. Lát nữa anh biết nói sao, biết giải thích ra sao với người ta về một tai nạn không hề xảy ra? Anh rụt cổ lại rồi lặng lẽ rẽ vào một ngõ nhỏ chuồn thẳng.

Sáng hôm sau, bất ngờ anh đọc được tin về một vụ phá án.

“ Vụ án không tìm ra đầu mối về việc cô Chu Hiểu Tuệ bị tai nạn, chiếc xe gây án sau đó đã bỏ chạy nhiều ngày qua cuối cùng đã được khám phá. Hôm qua, một người chứng kiến đã báo cho chúng tôi số xe của kẻ gây án, chúng tôi đã lần theo đầu mối và đã bắt được thủ phạm... Theo tin cảnh sát cho biết, người mục kích đường là một thanh niên còn trẻ, khi gọi cho 119 còn chỉ rõ nơi xảy ra tai nạn cùng số xe gây án, nhưng khi xe cấp cứu của cảnh sát tới hiện trường thì không thấy dấu vết của vụ tai nạn nào cả. Cảnh sát vẫn truy tìm chiếc xe gây án theo số xe được báo và thủ phạm đã phải khai nhận hành vi phạm tội của mình. Còn việc người chứng kiến tại sao lại báo tin như thế thì chúng tôi còn đang nghiên cứu...”

Anh thở phào cảm thấy sống lưng mình đang tê dại đi. Anh thầm nghĩ, đêm nay mình vẫn phải về theo lối cũ đêm qua để xem tấm bìa trên cột điện đã được lấy đi chưa. Anh thật sự cầu mong cô gái đêm qua lại xuất hiện, và lần này anh nhất định không do dự nữa để còn kịp làm quen với cô....

 

NGƯỜI NGHĨA PHỤ Ở KHOÁI CHÂU

(Tác giả: Nguyễn Dữ)

 

Từ Đạt ở Khoái Châu, lên làm quan tại thành Đông Quan thuê nhà ở cạnh cầu Đồng Xuân, láng giềng với nhà quan Thiêm thư là Phùng Lập Ngôn. Phùng giầu mà Từ nghèo; Phùng xa hoa mà Từ tiết kiệm; Phùng chuộng dễ dãi mà Từ thì giữ lễ. Lề thói hai nhà đại khái không giống nhau. Song cũng lấy nghĩa mà chơi bỡi đi lại với nhau rất thân, coi nhau như anh em vậy.

Phùng có người con trai là Trọng Quỳ, Từ có người con gái là Nhị Khanh, gái sắc trai tài, tuổi cũng suýt soát. Hai người thường gặp nhau trong những bữa tiệc, mến vì tài, yêu vì sắc, cũng có ý muốn kết duyên Châu Trần. Cha mẹ đôi bên cũng vui lòng ưng cho, nhân chọn ngày mối lái, định kỳ cưới hỏi.

Nhị Khanh tuy hãy còn nhỏ, nhưng sau khi về nhà họ Phùng, khéo biết cư xử với họ hàng, rất hòa mục và thờ chồng rất cung thuận, người ta đều khen là người nội trợ hiền.

Trọng Quỳ lớn lên, dần sinh ra chơi bời lêu lổng; Nhị Khanh thường vẫn phải can ngăn. Chàng tuy không nghe nhưng cũng rất kính trọng. Năm chàng 20 tuổi, nhờ phụ ấm được bổ làm một chức ở phủ Kiến Hưng. Gặp khi vùng Nghệ An có giặc, triều đình xuống chiếu kén một viên quan giỏi bổ vào cai trị. Đình thần ghép Lập Ngôn tính hay nói thẳng, ý muốn làm hại, bèn hùa nhau tiến cử. Khi sắc đi phó nhậm, Phùng Lập Ngôn bảo Nhị Khanh rằng: - Đường sá xa xăm, ta không muốn đem đàn bà con gái đi theo, vậy con nên tạm ở quê nhà. Đợi khi sông bằng nước phẳng, vợ chồng con cái sẽ lại cùng nhau tương kiến.

Trọng Quỳ thấy Nhị Khanh không đi, có ý quyến luyến không rứt. Nhị Khanh ngăn bảo rằng:

- Nay nghiêm đường vì tính nói thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng phiên, bên trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa. Chả lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam chướng nghìn trùng, hiểm nghèo giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo mán, sớm hôm săn sóc, không kẻ đỡ thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo. Thiếp dám đâu đem mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng bận lòng đến chốn hương khuê.  Sinh không đừng được, mới bày một bữa tiệc từ biệt, rồi cùng Lập Ngôn đem người nhà đi vào phương nam. Không ngờ lòng giời khó hiểu, việc người khôn lường, cha mẹ Nhị Khanh nối nhau tạ thế. Nàng đưa tang về Khoái Châu, chôn cất cúng tế xong rồi, đến cùng ở chung với bà cô Lưu thị.

Bấy giờ có quan tướng quân họ Bạch là cháu họ ngoại của bà Lưu thị muốn lấy Nhị Khanh làm vợ, đem tiền bạc đến khẩn cầu. Lưu thị bằng lòng, rồi nhân lúc vắng vẻ, bảo Nhị Khanh rằng:

- Nhà nước từ ngày họ Nhuận Hồ tiếm vị, ngày tháng hoang chơi, triều chính đổ nát, họa loạn sẽ xảy ra chỉ trong sớm tối; mà Phùng lang từ ngày ra đi, thấm thoắt đã sáu năm nay, tin tức không thông, mất còn chẳng rõ. Lỡ ra gặp lúc rồng tranh hổ chọi, phải khi bướm dại ong cuồng, Tra Lợi mắc vào tay, áp Nha không sẵn mặt, chỉ e Chương Đài tơ liễu, trôi bay đi đến tận phương nào. Chi bằng bạn lành kén lựa, duyên mới vương xe, lấp những lời giăng gió cợt trêu, nương dưới bóng tùng quân cao cả. Tội gì mà bơ vơ trơ trọi, sống cái đời sương phụ buồn tênh.

Nhị Khanh nghe nói sợ hãi, mất ngủ quên ăn đến hàng tháng. Lưu thị tuy biết chí nàng không chuyển động, nhưng cố định lấy lễ nghi để cưỡng ép, hôn kỳ đã rắp sẵn sàng.

Nhị Khanh một hôm bảo người bõ già rằng:

- Chú là người đầy tớ cũ của nhà ta, há không nghĩ đến sự đền đáp ơn đức của người xưa ư?

Bõ già nói: - Tùy ý mợ muốn sai bảo gì tôi xin hết lòng. Nhị Khanh nói: - Ta sở dĩ nhịn nhục mà sống là vì nghĩ Phùng lang hãy còn; nếu chàng không còn thì ta đã liều mình chứ quyết không mặc áo xiêm của chồng để đi làm đẹp với người khác. Chú có thể vì ta chịu khó lặn lội vào xứ Nghệ hỏi thăm tin tức cho ta không? Người bõ già vâng lời ra đi. Bấy giờ binh lửa rối ren, đường sá hiểm trở, hắn phải lận đận đến hàng tuần mới vào được đến Nghệ An. Hắn đi hỏi thăm, biết tin Phùng Lập Ngôn đã mất được mấy năm rồi, lại vì con trai hư, nên gia tư đã sạch sành sanh, đáng phàn nàn quá!

Người bõ già ghé thuyền lên bờ, vừa vào trong chợ liền gặp ngay Phùng Sinh. Sinh đưa về chỗ ở thì thấy một chiếc giường xiêu, bốn bề vách trống, trừ có mấy thứ như bàn cờ, hũ rượu, chim mồi, chó săn, không còn cái gì đáng giá. Sinh bảo người bõ già rằng:

- Quan nhà không may, thất lộc đã bốn năm nay rồi. Ta vì binh qua nghẽn trở, muốn về không được. Tuy ở chốn quê người đất khách, nhưng hồn mộng không đêm nào không ở bên mình Nhị Khanh.

Bèn chọn ngày lên đường về quê. Đến nhà, vợ chồng cũng trông nhau mà khóc. Đêm hôm ấy buồng loan chung gối, Sinh ngâm một bài thơ rằng:

Nhớ từ năm hãy ngây thơ

Đôi ta sớm đã xe dây Tấn Tần

Tình em thắm đượm vô ngần

Số anh riêng lắm gian truân cũng kỳ.

Chia tay một sớm ra đi,

Trường đình chén rượu phân ly rước mời.

Sầu treo đỉnh núi chơi vơi,

Mịt mù gió bụi cách vời xa xăm.

Bắc Nam nghìn dặm âm thầm,

Trăng cài nửa mảnh đăm đăm bên trời.

Sáu năm vùn vụt đưa thoi,

Thông già huyên héo ngậm ngùi nhớ thương.

Từng khi ngủ dưới Đèo Ngang,

Từng khi bến Diễn  ngâm vang điệu sầu.

Lệ tuôn, Vương Xán lên lầu,

Sầu ôm, Đỗ Phủ ngâm câu cảm hoài,

Rượu đàn trúc đá ham chơi,

Càng nghèo càng cảm thấy đời bê tha.

Mắt mòn trông ngóng quê nhà,

Lòng đau nghĩ nỗi phương xa lạc loài.

Người mà đến thế thì thôi,

Đời phiên lãng chỉ là đời bỏ đi.

Hay đâu tin đến bất kỳ,

Người tiên còn vẫn yêu vì chưa thôi.

Bến tiên khách lại trùng lai,

Mộng say Đỉnh Giáp, xuân tươi Nguồn Đào. 

Uyên bơi bướm giỡn xôn xao,

Vẻ nào chẳng đượm, nét vào chẳng ưa!

Đầy vườn lục rậm hồng thưa,

Con oanh cái én ơ hờ nhớ xuân.

Duyên may Đỗ Mục, Lưu Thần,

Thú Phong Lưu dễ nhượng phần cho ai.

Việc nên truyền lại lâu dài,

Bút hoa mượn thảo mấy lời vân vân.

Hai người vì xa cách nhau lâu, nên nay tình ái bội phần nồng đượm, sự vui sướng không còn phải nói. Song sinh vì quen thân phóng lãng, thuộc tính chơi bời, về nhà ít lâu rồi nết cũ lại đâu đóng đấy, hằng ngày cùng người lái buôn là Đỗ Tam bê tha lêu lổng. Sinh thì thích Đỗ có tiền nhiều. Đỗ thì ham Sinh có vợ đẹp. Nhưng khi uống rượu với nhau rồi đánh bạc, Đỗ thường lấy lợi dử Sinh. Sinh đánh lần nào cũng được, thấy kiếm tiền dễ như thò tay vào túi mình lấy đồ vật vậy.

Nhị Khanh vẫn răn bảo rằng: - Những người lái buôn phần nhiều là giảo quyệt, đừng nên chơi thân với họ; ban đầu tuy họ thả cho mình được, nhưng rồi họ sẽ vét hết của mình cho mà xem.

Sinh không nghe. Một hôm Sinh cùng các bè bạn họp nhau đánh tứ sắc. Đỗ bỏ ra trăm vạn đồng tiền để đánh và đòi Sinh đánh bằng Nhị Khanh. Trọng Quỳ quen mui vẫn được luôn, chẳng suy nghĩ gì, liền bằng lòng cách ấy. Giấy giao kèo viết xong rồi vừa uống rượu vừa gieo quân. Trọng Quỳ gieo ba lần đều thua cả ba, sắc mặt tái mét; cử tọa cũng đều ngơ ngác buồn rầu hộ.

Trọng Quỳ phải cho gọi Nhị Khanh đến, bảo rõ thực tình, đưa tờ giao kèo cho xem và yên ủi rằng:

- Tôi vì nỗi nghèo nó bó buộc, để lụy đến nàng. Việc đã đến thế này, hối lại cũng không kịp nữa. Thôi thì bi hoan tán tụ cũng là việc thường của người ta. Nàng nên tạm về với người mới, khéo chiều chuộng hắn, rồi bất nhật tôi sẽ đem tiền đến chuộc.

Nàng liệu cơ không thể thoát khỏi, giả vờ nói tử tế rằng: - Bỏ nghèo theo giầu, thiếp lẽ đâu từ chối. Số giời xếp đặt, há chẳng là tiền định hay sao! Nếu chồng mới không nỡ rẻ bỏ, còn đoái thu đến cái dong nhan tàn tạ này, thiếp xin sửa túi nâng khăn, hết lòng hầu hạ như đã đối với chàng xưa nay. Nhưng xin cho uống một chén rượu, mượn làm một chén tiễn biệt và cho về từ giã các con một chút.

Đỗ cả mừng, rót đầy một chén xà cừ rượu đưa mời nàng uống. Uống xong, nàng về nhà ôm lấy hai con, vỗ vào lưng mà bảo rằng:

- Cha con bạc tình, mẹ đau buồn lắm. Biệt ly là việc thường thiên hạ, một cái chết với mẹ có khó khăn gì. Nhưng mẹ chỉ nghĩ thương các con mà thôi.

Nói xong, lấy đoạn dây tơ thắt cổ mà chết.

Đỗ thấy mãi nàng không đến, lấy làm lạ, sai người đến giục, té ra nàng đã chết rồi. Trọng Quỳ hối hận vô cùng, sắm đồ liệm táng tử tế rồi làm một bài văn tế rằng:

Hỡi ơi nương tử!

Khuê nghi đáng bậc,

Hiền đức vẹn mười.

Tinh thần nhã đạm,

Dáng điệu xinh tươi.

Khi về với ta,

Vợ chồng thân thiết.

Ai biết giữa đường,

Phút nên ly biệt.

Cha làm quan xa,

Ta theo hầu hạ.

Trải sáu năm dư,

Bặt tin nhạn cá.

Buồng xuân trướng lạnh.

Hạc oán vượn sầu.

Than ôi đường trước,

Gieo neo đến đâu!

Bên giời góc bể,

Nệm khách lẻ loi.

Tin nhà chợt đến,

Ngựa về quất roi,

Sắt cầm dìu dặt,

Lại gắn keo loan.

Vừa vui sum họp,

Phút bỗng lìa tan.

Ta sao bạc quá!

Nàng đáng thương thay!

Nói năng gì nữa,

Đã đến nỗi này.

Hoa bay trước viện,

Quế rụng giữa trời.

Phù dung ủ rũ,

Dương liễu tả tơi.

Phong cảnh còn đây,

Người đã xa chơi.

Lấy gì độ em?

Một lễ lên chùa.

Lấy gì khuây em?

Duyên sau đền bù.

Non mòn bể cạn,

Mối hận khôn khuây.

Hỡi ôi nương tử,

Hâm hưởng lễ này.

Trọng Quỳ đã góa vợ, rất ăn năn tội lỗi của mình, song sinh kế ngày một cùng quẫn, ăn bữa sớm lo bữa tối, phải đi vay quanh của mọi người làng xóm. Nhân nghĩ có một người bạn cũ, hiện làm quan ở Quy Hóa, (14) bèn tìm đến để mong nhờ vả. Dọc đường buồn ngủ, chàng nằm ghé xuống ngủ ở gốc cây bàng, bỗng nghe trên không có tiếng gọi rằng:

"Có phải Phùng lang đấy không? Nếu còn nghĩ đến tình xưa thì ngày ấy tháng ấy xin đến chờ thiếp ở cửa đền Trưng Vương (15). Ân tình thiết tha, đừng coi là âm dương cách trở".

Sinh lấy làm lạ tiếng giống như tiếng Nhị Khanh, mở mắt ra nhìn thì chỉ thấy trên trời một đám mây đen bay về tây bắc. Sinh tuy rất lấy làm ngờ nhưng cũng muốn thử xem ra sao, bèn đúng hẹn đến trước đền ấy. Song đến nơi chỉ thấy bóng tà rọi cửa, rêu biếc đầy sân, năm ba tiếng quạ kêu ở trên cành cây xao xác. Sinh buồn rầu toan về thì mặt trời đã lặn, bèn ngả mình nằm ở một tấm ván nát trên một cái cầu. Khoảng cuối canh ba, bỗng nghe thấy tiếng khóc nức nở từ xa rồi gần; khi thấy tiếng khóc chỉ còn cách mình độ nửa trượng, nhìn kỹ thì người khóc chính là Nhị Khanh. Nàng bảo với Sinh rằng:

- Đa tạ ơn chàng, từ xa lặn lội tới đây, biết lấy gì để tặng chàng được!

Trọng Quỳ chỉ tự nhận tội lỗi của mình; nhân hỏi đầu đuôi, Nhị Khanh nói: - Thiếp sau khi mất đi, Thượng đế thương là oan uổng bèn ra ân chỉ, hiện thiếp được lệ thuộc vào tòa đền này, coi giữ về những sớ văn tấu đối, không lúc nào nhàn rỗi để thăm nhau được. Bữa nọ nhân đi làm mưa, chợt trông thấy chàng nên mới gọi; nếu không thì nghìn thu dằng dặc, chẳng biết đến bao giờ được gặp gỡ nhau.

Trọng Quỳ nói: - Sao em đến chậm thế!

Nhị Khanh nói: - Vừa rồi thiếp nhân theo xe mây, lên có việc ở nơi Đế sở. Vì cớ có chàng nên thiếp đã phải bẩm xin về trước đấy; thành ra cũng sai hẹn với chàng một chút.

Bèn dắt tay nhau đi nằm, cùng nhau chuyện trò thủ thỉ. Khi nói đến việc hiện thời, Nhị Khanh chau mày:  - Thiếp thường theo chầu tả hữu Đức Bà ở đây, được trộm nghe chư tiên nói chuyện với nhau, bảo Hồ triều sẽ hết vào năm Binh tuất, (16) binh cách nổi lớn, số người bị giết tróc đến chừng hơn 20 vạn, ấy là chưa kể số bị bắt cướp đi. Nếu không phải người giồng cây đức đã sâu thì chỉ e ngọc đá đều bị cháy cả. Bấy giờ có một vị chân nhân họ Lê, từ miền tây nam xuất hiện; chàng nên khuyên hai con bền chí đi theo vị ấy, thiếp dù chết cũng không nát.

Trời gần sáng, Nhị Khanh vội dậy để cáo biệt, vừa đi vừa ngoảnh đầu nhìn lại, rồi thoắt chốc thì biến đi mất.

Trọng Quỳ bèn không lấy ai nữa, chăm chỉ nuôi hai con cho nên người. Đến khi vua Lê Thái Tổ tuốt gươm đứng dậy ở Lam Sơn, hai người con trai đều đi theo, trải làm đến chức Nhập thị nội. Đến nay ở Khoái Châu hiện còn con cháu.

 

NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG

(Tác giả: Nguyễn Dữ)

 

Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương (1). Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương có tính hay ghen, đối với vợ phòng ngừa thái quá. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc đi đánh

Chiêm Thành, bắt nhiều lính tráng. Trương tuy con nhà dòng, nhưng không có học, tên đã ghi trong sổ khai tráng phải ra sung binh loạt đầu. Lúc chàng ra đi, bà mẹ có dặn rằng:

- Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.

Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng thì rót chén rượu đầy tiễn chồng rằng:

- Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An (2), nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về.

Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó chén đưa vừa cạn, dứt áo chinh phu, ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt. Bấy giờ nàng đã đương có thai. Sau khi tương biệt được mươi ngày thì sinh một đứa con trai, đặt tên là thằng Đản.

Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mỗi khi thấy bướm bay vườn thúy, mây ám non Tần, nỗi buồn hải giốc thiên nhai, lại không thể nào ngăn được. Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc thang, lễ Phật cầu thần, cúng ma gọi vía và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Song bệnh thế mỗi ngày một trầm trọng hơn, bà mẹ trối lại với nàng rằng:

- Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ. Bà cụ nói xong rồi thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra.

Qua sang năm sau, giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Trương sinh tới nhà thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Chàng hỏi mộ mẹ rồi dắt con nhỏ đi thăm, song đứa bé không chịu, gào khóc. Sinh dỗ dành: - Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!

Đứa con nói:

- Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít.

Chàng ngạc nhiên gạn hỏi.

Đứa con nói:

- Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.

Tính chàng hay ghen, nghe đứa con nói vậy, tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn cách gì tháo cởi ra được. Về đến nhà, mắng vợ một bữa cho hả giận. Nàng khóc mà rằng:

- Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.

Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia từ ai nói ra thì giấu không kể lời con nói; chỉ thường thường mắng mỏ nhiếc móc và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:

- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa .

Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: - Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ.

Nói xong gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận, cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một mình phòng không vắng vẻ, đến đêm khêu bấc đèn tàn, không sao ngủ được. Chợt đứa con nói rằng:

- Cha Đản lại đến rồi!

Chàng hỏi đâu.

Nó trỏ bóng chàng ở trên vách:

- Đây này!

Thì ra khi chàng đi vắng, nàng thường đùa trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng mới hiểu ra nỗi oan của vợ, nhưng đã chẳng làm gì được nữa. Cùng làng với nàng, có người tên là Phan Lang khi trước làm đầu mục bến đò Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh, đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, Phan thấy có người phường chài đem vào biếu một con rùa mai xanh, sực nghĩ đến chuyện mộng, nhân đem phóng sinh con rùa ấy. Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trần Thiêm Bình về nước, phạm vào cửa ải. Chi Lăng.

Phan và người làng sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể không may đắm thuyền đều chết đuối cả. Thây Phan Lang giạt vào một cái động rùa ở hải đảo, bà Linh Phi trông thấy nói rằng:

- Đây là vị ân nhân cứu sống cho ta xưa đây.

Linh phi bèn sai lấy khăn gấm mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan Lang liền tỉnh lại. Phan trông thấy cung gấm đài dao, nguy nga lộng lẫy không biết là mình đã lạc vào trong thủy tinh cung, Linh Phi bấy giờ mặc tấm áo cẩm vân dát ngọc, đi đôi giày mầu ráng nạm vàng cười bảo Phan rằng:

- Tôi là Linh Phi trong Quy động, phu nhân của Nam Hải Long Vương. Nhớ hồi còn nhỏ đi chơi ở bến sông, bị người phường chài bắt được, ngẫu nhiên báo mộng, quả được nhờ ơn. Gặp gỡ ngày nay, há chẳng phải lòng trời có ý cho tôi một dịp đền ơn báo nghĩa.

Phi bèn đặt yến ở gác Triệu Dương để thết đãi Phan Lang, dự tiệc còn có vô số những mỹ nhân bận quần nhẹ và búi tóc xễ.

Trong số có một người, mặt chỉ hơi điểm qua một chút son phấn trông rất giống Vũ nương. Phan thường nhìn trộm luôn, nhưng không dám nhận. Tiệc xong, người ấy bảo với Phan Lang rằng: - Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã coi nhau như khách qua đường xa lạ rồi ư?

Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ nương. Gạn hỏi duyên do.

 Nàng nói:

- Tôi ngày trước không may bị người vu báng, phải gieo mình xuống sông tự tử. Chư tiên trong thủy cung thương tôi vô tội, rẽ một đường nước để cho tôi được khỏi chết, nếu không thì đã chôn trong bụng cá, còn đâu mà gặp ông.

Phan nói:

- Nương tử nghĩa khác Tào Nga, hờn không Tinh Vệ mà có mối hận gieo mình nơi sông. Nay thấm thoát đã một năm chầy, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư!

Vũ thị nói:

- Tôi bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào mà về gặp mặt chồng!

Phan Lang nói:

- Thưa nương tử, tôi trộm nghĩ, nhà cửa của tiên nhân, cây cối thành rừng, phần mộ của tiên nhân, cỏ gai lấp mắt. Nương tử dầu không nghĩ đến, nhưng còn tiên nhân mong đợi ở nương tử thì sao?

Nghe đến đây, Vũ nương ứa nước mắt khóc rồi nói: - Tôi có lẽ không thể gửi mình ẩn vết ở đây mãi được. Ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.

Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía đựng mười hạt minh châu, sai Xích Hỗn sứ giả đưa Phan ra khỏi nước; Vũ nương cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn:

- Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về.

Về đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với nhà Trương. Ban đầu Trương còn không tin. Nhưng sau nhận được chiếc hoa vàng, mới kinh sợ nói:

- Đây quả là vật dùng của vợ tôi xưa thật.

Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau lại có đến hơn năm mươi chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện.

Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng nước mà nói với vào:

- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa. Rồi trong chốc lát, những cảnh tượng ấy chìm đi mất.

 

CÔ GÁI LÚC 1 GIỜ KHUYA

Chịu trách nhiệm xuất bản:

       BÙI CAO TIÊU

Biên tập:   NGUYỄN CẨM HƯƠNG

Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG

Trình bày bìa: SONG THÀNH

 

In 1.200 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT

Số trích ngang xuất bản: 373-2009/CXB/27-53/ThaH,

In xong và nộp lưu chiểu Quý I năm 2010

.............................................................................................................

- Cập nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

.

0 comments:

Đăng nhận xét