(Tướng Nguyễn Sơn) |
NHỮNG LƯỠNG
QUỐC TƯỚNG QUÂN
TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM
*
"Lưỡng quốc tướng quân" - nghĩa là tướng quân ở
hai nước, xưa nay tích này vốn chỉ ở trong truyện tàu. Nhưng những tình cờ lịch
sử đã khiến cho ngay trong thế kỷ 20, Việt Nam ta lại có ba ông tướng phục vụ
cho bốn đất nước và đều đeo lon tướng.
I. NGUYỄN SƠN - HỒNG THỦY
Thật ra Nguyễn Sơn là tên bí danh khi hoạt động cách
mạng, tên thật của ông là Vũ Nguyên , sinh ngày 1 tháng 10 năm 1908 tại làng Kiêu
Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội. Cha ông là ông Vũ Trường Xương, một nhà tư sản ở Hà , từ
nhỏ ông học tiếng , năm 14 tuổi vào học trường sư phạm Hà Nội và hình như có tố
chất từ nhỏ, Nguyễn Sơn trở thành thủ lĩnh cầm đầu học sinh hai trường Sư Phạm
và trường Bảo Hộ đi đánh nhau với đám học sinh tại các trường Pháp (trường Pháp
là trường dành cho con cái những người mang quốc tịch Pháp, trong đó có nhiều
người Việt Nam chuyển sang quốc tịch Pháp). Năm 17 tuổi, cha mẹ cưới vợ cho ông
nhưng sau đó ông gặp được Ba Thu tức Nguyễn Công Thu, một trong những học trò
đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc cử về Việt Nam để tập hợp những thanh niên có hoài
bão giải phóng dân tộc, đem sang Quảng Châu học tập. Nguyễn Sơn quyết định viết
giấy thôi vợ, để lại con gái mới 6 tháng tuổi lên đường đi Trung Quốc. Tại
Quảng Châu, ông học cùng lớp với những Nguyễn Thị Minh Khai, Phạm Văn Đồng,
Trần Phú, Lý Tự Trọng (lớp này về sau chết sạch, còn mỗi bác Đồng sống thọ
nhất).
Năm 1925, Nguyễn Sơn được cử đi học khóa sĩ quan ở trường
võ bị Hoàng Phố, bạn cùng lớp của Lê Hồng Phong, Lê Thiết Hùng và Phùng Chí
Kiên, ông Hùng và ông Kiên sau này là những chỉ huy đầu tiên của Cứu Quốc Quân.
Trong thời gian này, cùng với Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn gia nhập Quốc Dân Đảng.
Năm 1927, Quốc - Cộng phân liệt, Tưởng Giới Thạch bắt đầu đàn áp những người
cộng sản, Nguyễn Sơn tách ra, đi theo Đảng Cộng Sản còn Lê Thiết Hùng tiếp tục
ở lại Quốc Dân Đảng đến tận năm 1933, nhưng thực chất là làm gián điệp, buôn vũ
khí và đôi lúc còn đánh tháo tù nhân cho phe Cộng Sản. Tháng 12 năm 1927,
Nguyễn Sơn tham gia Khởi nghĩa Quảng Châu, gia nhập Đoàn giáo đạo 4, Phương
diện quân số 2 do Diệp Kiếm Anh chỉ huy. Sau ba ngày chiến đấu, cuộc khởi nghĩa
thất bại, ông bị lộ là đảng viên cộng sản. Để tránh khủng bố trắng, ông phải
rời Quảng Châu sang Thái Lan và tổ chức Việt kiều tham gia cách mạng. Năm 1928
ông trở lại Trung Quốc, tham gia Hồng quân Công Nông. Năm 1929, ông giữ chức vụ
chính trị viên đại đội trong Trung đoàn 47, chỉ huy đại đội đánh nhiều trận ở
Đông Giang. Trong thời gian này ông lấy bí danh là Hồng Thủy. Ông là sĩ quan
người nước ngoài duy nhất của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, từng làm
Chính ủy trung đoàn, Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 34 thuộc Quân đoàn 12 Hồng
quân Trung Quốc. Do có nhiều kinh nghiệm thực tiễn và trình độ lý luận, ông
được điều động đến giảng dạy tại Trường Quân sự Chính trị Trung ương của Hồng
quân mới được thành lập ở Thụy Kim. Cuối năm 1932 ông còn tham gia thành lập
đoàn kịch đầu tiên của Hồng quân công nông và làm Đoàn trưởng. Do đường lối tả
khuynh thắng thế trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong thời kỳ 1933-1938 ông đã
từng ba lần bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc, rồi lại được phục hồi
đảng tịch.
Tháng 10 năm 1934, ông tham dự cuộc Vạn lý Trường chinh.
Thời gian này, ông bị Trương Quốc Đào vu cáo là "gián điệp quốc tế",
bị khai trừ khỏi Đảng và suýt bị giết hại. Ông may mắn được Chu Đức và Lưu Bá
Thừa che chở nên thoát nạn. Trên đường đi, Nguyễn Sơn còn bị ốm nặng phải nằm
lại dưỡng bệnh, rồi khi bình phục, ông phải một mình đuổi theo đoàn quân. Có
lúc bị lạc đường, phải giả câm, vào vai thằng ngớ ngẩn để xin tá túc ở chỗ
người dân tộc (người dân tộc thời này lại thù Cộng Sản, sơ hở là chúng cắt cổ).
Cuối cùng, tháng 12 năm 1935, Hồng Thủy cũng về đến chiến khu Diên An, khi đến
nơi, râu ria xồm xoàm, quần áo rách rưới và chỉ cân nặng đúng ... 37 kg, toàn
thể đồng đội cũ khoing ai nhận ra ông. Mãi đến khi hoàn tất thẩm tra người ta
mới tin là thật. Nguyễn Sơn là người Việt Nam duy nhất đã đi hết cuộc Vạn lý
Trường chinh của Hồng quân (thật ra còn một đồng chí nữa quê Long An có tham
gia vạn lý trường chinh, nhưng sau đó bị ốm nặng phải quay ngược lại nơi xuất
phát nên không tính).
Tháng 7 năm 1937, bắt đầu thời kỳ chiến tranh chống Nhật,
ông theo Tổng tư lệnh Chu Đức cùng Sư đoàn 115 Bát Lộ Quân vượt sông Hoàng Hà
đến Sơn Tây lập căn cứ chống Nhật ở Ngũ Đài sơn. Tại Ngũ Đài sơn, năm 1938 ông
đã gặp và kết hôn với bà Trần Kiếm Qua, (tên thật là Trần Ngọc Anh, tên Kiếm
Qua do chính ông gợi ý đổi cho bà). Ông bà sinh được hai người con trai, đặt
tên là Hàn Phong và Tiểu Việt. Nguyễn Sơn là người cương trực, thẳng thắn, đấy
là phẩm chất đáng quý ở một người lính, nhưng đôi khi cũng mang lại cho ông rắc
rối: Cũng trong năm 1938, Nguyễn Sơn đã đứng ra tố cao Diêm Tích Sơn, một quân
phiệt ở vùng Sơn Tây, Sơn Nguyễn tố Sơn Diêm là loại cơ hội, hai mặt (à, mà
thật ra là 3 mặt): Diêm Tích Sơn là tướng của Quốc Dân Đảng nhưng lại ngầm ủng
hộ Đảng Cộng Sản, lại còn cộng tác với cả quân Nhật, nói cách khác là phe nào
Diêm cũng chơi. Lúc bấy giờ thế lực của Đảng Cộng Sản còn yếu nên có người
không muốn làm mất lòng Diêm Tích Sơn, thế nên họ xúm nhau trù dập Nguyễn Sơn,
ông bị khai trừ đảng và chuyển sang Quân Chính. Thế nhưng các đồng chí của ông
không để yên, họ bênh vực đòi trả lại công bằng cho ông, cuối năm đó ông được
phục hồi Đảng tịch và mọi chức vụ cũ. Còn phần Diêm Tích Sơn sau này thì đã lộ
rõ thái độ: Sau năm 1945, Diêm Tích Sơn trở nên nổi tiếng nhờ khả năng chiêu
hàng những đơn vị quân đội cũ của Nhật, thậm chí Diêm còn có trò tước khí giới quân
Nhật buổi sáng (cho đại diện Anh – Mỹ chứng kiến) nhưng trả lại vũ khí buổi
tối. Sau này người ta còn phát hiện ra Diêm từng hô biến cả một tiểu đoàn quân
Nhật thành đơn vị … lao công vệ sinh đường sắt.
Đến năm 1945, theo đề nghị của Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam, Hồng Thủy – Nguyễn Sơn lên đường về Việt Nam chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang, từ đây ông mới lấy tên là Nguyễn Sơn (còn tên ở Trung Quốc là Hồng
Thủy). Năm 1947, ông được tin bà Trần Kiếm Qua và hai con trai của ông chết do
bị máy bay Quốc Dân Đảng oanh tạc khi sơ tán khỏi Diên An. Ông cưới bà Huỳnh
Thị Đổi. Hai người sinh được cô con gái Nguyễn Mai Lâm, do nhiều nguyên nhân
hai người đã chia tay. Cũng trong năm này, ông kết hôn với bà Lê Hằng Huân và
lần lượt có bốn người con với bà: Nguyễn Thanh Hà, Nguyễn Cương, Nguyễn Việt
Hồng và Nguyễn Việt Hằng. Năm 1948, ông được Nhà nước Việt Nam phong quân hàm
thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên. Cùng được phong thiếu tướng
trong đợt này có 8 quân nhân khác. Theo giai thoại lưu truyền, khi biết mình
chỉ được phong thiếu tướng, ông tỏ vẻ không hài lòng và không muốn nhận. Ông
gửi công văn hỏa tốc cho Hồ Chí Minh để từ chối nhận quân hàm. Nhận được công
văn, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lên tấm các của mình: "Gửi Sơn đệ" với
12 chữ Hán: "Tâm dục tế, Đảm dục đại, Trí dục viên, Hành dục phương (đại
ý: Người làm tướng phải có cái tâm nên tế nhị, chính chắn; cái gan cần phải
lớn; cái trí phải suy nghĩ trước sau, toàn diện; cái đức hạnh, hành động phải
đầy đủ, ngay thẳng, cương trực) khiến ông chấp nhận. Thứ trưởng Phạm Ngọc Thạch
thay mặt Chính phủ vào Thanh Hóa làm lễ tấn phong ông (trong khi những ông
tướng khác phải về chiến khu nhận quân hàm). Do tình hình của cuộc kháng chiến
chống Pháp cũng như tình hình quân đội lúc bấy giờ (quân đội chủ yếu là đánh du
kích, trang bị, khí tài còn kém, trong khi Nguyễn Sơn muốn xây dựng lực lượng
quân đội chính quy, quy mô tác chiến lớn nên "va chạm" với không ít
người) thế nên năm 1950 Nguyễn Sơn xin được trở lại Trung Quốc và được chấp
nhận. Tại Trung Quốc, ông làm Cục phó Cục Điều lệnh Tổng giám bộ huấn luyện
Quân Giải phóng Nhân dân. Được xem là một trong 72 đại công thần, ngay trong
đợt phong quân hàm đầu vào ngày 27 tháng 9 năm 1955, ông được nhà nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa phong quân hàm thiếu tướng. Ông cũng được chính phủ Trung
Quốc tặng Huân chương Giải phóng hạng nhất. Ông được mệnh danh là Lưỡng quốc
tướng quân, là người Việt Nam duy nhất được phong quân hàm tướng của hai quốc
gia độc lập.
Khi về lại Trung Quốc, ông mang theo cả gia đình Việt Nam
của mình (bà Lê Hằng Huân cùng các con). Trớ trêu thay, khi sang đến Trung Quốc
mới phát hiện là bà Trần Kiếm Qua cùng hai con trai ông vẫn còn sống và hiện
đang ở Bắc Kinh. Thế chẳng đặng đừng, bà Trần Kiếm Qua đành cùng với hai con
trai lớn ở riêng, dù tình cảm giữa bà và gia đình sau vẫn tốt đẹp. Sau 6 năm
trên nước bạn, đến năm 1956 tướng Nguyễn Sơn bị phát hiện có khối u ở phổi, khi
vào bệnh viện mổ thì khối u đã di căn quá nặng, không thể cứu được nữa. Nguyễn
Sơn bèn đề đạt nguyện vọng lên quân ủy Trung Quốc, ngày 27 tháng 9 năm 1956,
Nguyễn Sơn và gia đình lên tàu hỏa về Việt Nam, ra tận nhà ga tiễn ông còn có
hai nguyên soái Bành Đức Hoài và Diệp Kiếm Anh cùng đông đảo bạn bè, đồng chí,
học trò ... Thủ tướng Chu Ân Lai cho riêng gia đình ông 3 vạn nhân dân tệ, ban
đầu Nguyễn Sơn không nhận nhưng Chu Ân Lai cho người đến nói rằng đấy là lệnh,
buộc phải nhận. Số tiền ấy quy ra tiền Việt có thể mua được 4 căn nhà ở Hà Nội
lúc bấy giờ, về sau trước khi mất Nguyễn Sơn dặn bà Huân trao lại hết cho chính
phủ Việt Nam, với lời dặn: Đời tôi chiến đấu cho dân tộc, cho lý tưởng chứ
không vì đồng bạc nào cả! - Ngày 30/9/1956, Nguyễn Sơn mất ở Hà Nội, đến năm
1998, bà Trần Kiếm Qua và hai con trai sang Việt Nam thăm mộ chồng và đoàn tụ
với gia đình Việt Nam của ông. Các con Việt Nam của tướng Nguyễn Sơn vẫn gọi bà
Trần Kiếm Qua là mẹ, bà mất vào tháng 1/2013, thọ 99 tuổi. Sinh thời bà Trần
Kiếm Qua có xuất bản cuốn hồi ký Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình kể về những kỷ
niệm của bà với tướng Nguyễn Sơn, cuốn này có dịch qua tiếng Việt với tựa đề
Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương.
II. NGUYỄN VĂN HINH
Nguyễn Văn Hinh được nhiều người viết quân sử Việt Nam
Cộng Hòa gọi là cha đẻ của quân đội Quốc Gia Việt Nam, tiền thân của Quân lực
Việt Nam Cộng Hòa sau này. Ông Nguyễn Văn Hinh là con trai của ông Nguyễn Văn
Tâm, một nhà giáo quê gốc Tây Ninh, sau chuyển ngạch làm viên chức, từng làm
chủ quận Cai Lậy thuộc Tiền Giang ngày nay, được dân Cai Lậy nhớ mặt đặt tên,
chết danh với biệt hiệu: Cọp Cai Lậy. Tại sao một nhà giáo có biệt danh này? -
Theo tài liệu còn lưu lại, năm 1940, khi khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra, Nguyễn Văn
Tâm khi đó là chủ quận Cai Lậy, lúc Việt Minh đánh chiếm huyện lỵ, ông Tâm
không bỏ nhiệm sở mà ở lại bình tĩnh bàn giao sổ sách, lương thực rạch ròi, rõ
ràng. Rồi mấy hôm sau, khi nhận được viện quân từ Sài Gòn xuống, từ Cần Thơ lên
ông cho ruồng bố sạch sẽ phe nổi dậy và tra khảo rất ác, từ đó mà chết danh Cọp
Cai Lậy.
Ông Tâm cũng có tiếng về tính cách nguyên tắc đến máy
móc. Năm 1938, Mariani là một quan chức người Pháp đi từ Sài Gòn xuống Cai Lậy,
xin mượn chiếc ghe gắn máy đuôi tôm để đi thăm ruộng ở kinh Tổng đốc Lộc. Thân
mật đến mức ông Tâm chìa cho ông Mariani xem bức ảnh của tướng Nguyễn Văn Hinh
(con trai ông Tâm) lúc ấy đang theo học tại trường võ bị tại Pháp, nhưng về
việc cho mượn ghe máy, mặc dù ông Tâm cũng cùng đi chơi trên ghe này, nhưng ông
Tâm vẫn bắt “quan Pháp” phải ký vào biên bản mượn tài sản công.
Tháng 9 năm 1945, sau khi Việt Minh giành lại chính quyền
từ tay người Pháp, ông bị tổ chức Thanh niên tiền phong của Việt Minh bắt ở Chợ
Đệm, bị chặt ngón tay giữa và bị tống giam. Nhưng sau đó, quân Pháp nổ súng
chiếm lại Sài Gòn. Ông Tâm được quân Pháp cứu ra trong một trận tảo thanh do
đại tá Massu chỉ huy vào tháng 9 năm 1945. Ông lại được người Pháp sử dụng và
giao cho cai quản quận cũ Cai Lậy. Năm 1950, ông Tâm được trao chức Tổng giám
đốc công an Sài Gòn. Ngày 21/1/1951, Bảo Đại giải tán chính phủ, ủy nhiệm ông
Trần Văn Hữu lập chính phủ mới. Ông Tâm được giao kiêm nhiệm, cùng với chức Bộ
trưởng An ninh. Ông được bổ làm Thủ hiến Bắc Việt thay ông Nguyễn Hữu Trí của
đảng Đại Việt vào tháng 12 năm 1951. Đó là một quyết định tranh cãi bởi ông Tâm
là người miền nam. Tuy nhiên, Quốc trưởng Bảo Đại giải thích lý do của ông là
"để tỏ là vua cầm quyền bính" và "để chứng minh sự thống nhất ba
kỳ", và ông Tâm đã tỏ ra thành công trong nhiệm vụ này.
Về phần con trai ông Tâm, Nguyễn Văn Hinh, sinh năm 1903,
có quốc tịch Pháp, theo học trường Pháp từ nhỏ, đến khi xong tú tài toàn phần
thì Nguyễn Văn Hinh xin nhập ngũ vào quân đội Pháp và được cử sang Pháp học
trường không quân Salon de Provence và ra trường với cấp bậc Chuẩn Úy. Khi thế
chiến thứ 2 nổ ra, Nguyễn Văn Hinh theo phe Nước Pháp Tự Do của De Gaule và
chiến đấu chống phát xít tại , Bắc Phi. Trong thời kháng chiến của nước Pháp,
ông được tuyên dương cấp quân đội hai lần và được tặng thưởng Đệ Ngũ Đẳng Bắc
Đẩu Bội Tinh và còn được tặng thưởng Air Medal của Lục Quân Hoa Kỳ. Sau chiến
tranh, ông tiếp tục chinh chiến ở các thuộc địa Pháp trên khắp thế giới cho đến
tháng 3 năm 1948 thì hồi hương với cấp bậc Đại úy và làm sĩ quan tùy viên cho
thủ tướng Nguyễn Văn Xuân của Quốc Gia Việt Nam khi đó mới thành lập. Giữa năm
1950, ông được thăng cấp Thiếu tá, chuyển công tác sang giữ chức vụ Tổng thư ký
thường trực Quốc phòng. Đầu năm 1951 ông được thăng cấp Trung tá. Tháng 3 cùng
năm ông được cử giữ chức Chánh Võ phòng của Quốc trưởng Bảo Đại tại Đà Lạt.
Trung tuần tháng 12 cuối năm, trong chức vụ Chánh Võ phòng, ông được cử làm
Tổng Chỉ huy cuộc duyệt binh tại Hà Nội. Đây là nhiệm vụ cuối cùng của Nguyễn
Văn Hinh trên cương vị quân nhân của quân đội Pháp, sau đó ông chuyển công tác
sang Quân đội Quốc Gia Việt Nam.
Đầu năm 1952 ông được thăng cấp Đại tá. Tháng 3 cùng năm
ông được thăng cấp Thiếu tướng và được Quốc trưởng Bảo Đại chỉ định giữ chức vụ
Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của Quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1953 ông được
thăng cấp Trung tướng tại nhiệm. Giai đoạn 1952 - 1953 là quãng thời gian vinh
hiển của hai cha con Nguyễn Văn Tâm - Nguyễn Văn khi cha làm thủ tướng còn con
trai làm tới tham mưu trưởng quân đội. Do ở Pháp nhiều năm và chịu ảnh hưởng
nặng nề của Pháp (tướng Nguyễn Văn Hinh có vợ đầu là người Pháp, con gái của
Jean Letourneau, một luật sư - chính trị gia nổi tiếng của Pháp), lại có vóc
dáng cao lớn, trắng trẻo nên người đương thời kháo nhau là "ông
tướng" nói tiếng Pháp còn sõi hơn tiếng Việt. Hình ảnh ông tướng đeo kính
không quân, lướt trên chiếc motor Sachs là một hình ảnh "chất chơi"
bậc nhất Sài Gòn thời đó.
Sang năm 1953, tình hình Quốc gia Việt Nam có nhiều biến
động, Sau thất bại ở Điện Biên Phủ (1954), Chính quyền và Quân đội Liên hiệp
Pháp phải tập kết về miền Nam. Các Lực lượng Quân sự Pháp phải rút về nước và
bàn giao lại Chính quyền cho Chính phủ Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Với sự ủng hộ
của người Mỹ, Thủ tướng Diệm đã lần lượt thay thế các sĩ quan trung thành với
mình vào các vị trí chỉ huy, tìm cách tước dần ảnh hưởng của tướng Nguyễn Văn
Hinh, được cho là chịu ảnh hưởng quá nhiều của người Pháp. Đầu tháng 9 năm 1954
Thủ tướng Diệm ra quyết định cử ông sang Pháp công cán trong 6 tháng để nghiên
cứu việc cải tổ và canh tân quân đội, một động thái được cho là đẩy ông ra khỏi
vị trí Tổng Tham mưu trưởng. Trước tình hình đó, với những lực lượng quân đội
trung thành còn lại, cùng với sự hỗ trợ của các lực lượng quân sự của các giáo
phái, tướng Hinh đã dự tính làm đảo chính vào ngày 20 tháng 9 để nắm lại chính
quyền. Tuy nhiên, do sự can thiệp của người Mỹ cùng sự thờ ơ của người Pháp,
tướng Hinh buộc phải từ bỏ ý định. Mỹ tung tiền cho chính quyền Ngô Đình Diệm
mua chuộc các thủ lĩnh quân sự của các giáo phái như Trình Minh Thế, Nguyễn
Thành Phương, Pháp chuyển giao 2 tiểu đoàn lính Nùng cho Ngô Đình Diệm, đồng
thời người Pháp cũng tìm cách giữ chân Bảo Đại ở lại Pháp càng lâu càng tốt.
Đến ngày 29/11/1954, ông nhận được lệnh của Quốc trưởng Bảo Đại, giao chức vụ
Tổng Tham mưu trưởng cho Thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ (ông này về sau cũng bị lật,
phải lưu vong sang Pháp, chỉ được về nước sau khi anh em Ngô Đình Diệm đã bị
lật đổ) và sang Pháp để "trình diện Quốc trưởng". Ngay lúc đó, Thủ
tướng Diệm đã bổ nhiệm Thiếu tướng Lê Văn Tỵ vào chức vụ Tổng Tham mưu trưởng
và lần lượt tiêu diệt các phe phái đối lập, giành được Chính quyền. Một năm sau
đó, Thủ tướng Diệm tuyên bố phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và lên làm Tổng thống
của Quốc gia Việt Nam Cộng hòa mới được thành lập.
Trung tuần tháng 11 năm 1954 ông Nguyễn Văn Hinh trở về
Pháp, định cư tại Paris. Sau đó ông lại được tái ngũ trong Quân đội Pháp với
cấp bậc Trung tá Không quân, bằng với cấp bậc của ông trước khi chuyển sang
Quân đội Quốc Gia. Năm 1960, ông được thăng cấp Đại tá và được cử làm Chỉ huy
trưởng một căn cứ Không quân ở Algerie, tham chiến tại đây trong suốt năm 1961,
được phong Bắc đẩu bội tinh Đệ Tam. Năm 1962 ông được thăng cấp Chuẩn tướng không
quân, đến năm 1964 ông được thăng cấp Thiếu tướng (Général de corps aérien)
được cử giữ chức vụ Tham mưu phó trong Bộ Tư lệnh Không quân Pháp cho đến khi
về hưu vào năm 1970. Trước đây nhiều bài viết nói rằng ông được thăng thiếu
tướng rồi trung tướng không quân Pháp là không chính xác, vì hệ thống quân hàm
các nước phương tây khác với hệ thống quân hàm Việt Nam. Ở phương tây, 1 sao
chưa phải là tướng thật sự, nôm na là "dự bị lên tướng", 2 sao mới
tính là thiếu tướng, còn Việt Nam thì 1 sao đã tương đương thiếu tướng rồi nên
mới có nhầm lẫn như trên. Năm 1993, ông Nguyễn Văn Tâm, cha ông mất tại Paris
thọ 97 tuổi, đến ngày 26 tháng 6 năm 2004, ông Hinh mất tại nơi định cư, hưởng
thọ 89 tuổi. Nguyễn Văn Hinh là trường hợp thứ hai được giới nghiên cứu đặt là
Lưỡng quốc tướng quân.
III. NGUYỄN CHẤN Á
So với hai người ở trên thì người thứ 3 này ít người
biết, lý do là vì ông ta đã thuộc về quân đội của một quốc gia không còn hiện
hữu và sau khi mãn hạn tù cải tạo ông Nguyễn Chấn Á không chọn con đường ra
nước ngoài mà chịu ở lại Việt Nam và bặt vô âm tín suốt nhiều năm.
Hồ sơ của của ông ghi lại rằng Nguyễn Chấn Á sinh năm
1922, tại Chợ trong một gia đình gốc Hoa đã định cư ở Việt Nam mấy đời. Ông học
hết bậc thành chung thì gia nhập quân đội viễn chinh Pháp, được đi học ở trường
sĩ quan thuộc địa vào năm 1942, ra trường năm 1943 với cấp bậc Chuẩn Úy Trung
Đội Trưởng. Cuối năm 1944, quân Nhật tiến hành đảo chính ở Đông Dương, hất cẳng
người Pháp, Nguyễn Chấn Á lúc bấy giờ đang đóng quân ở vùng trung du bắc bộ đã
cùng với đơn vị của mình tìm đường chạy sang biên giới, tổ chức lực lượng kháng
chiến dựa vào chính quyền Trung Hoa Dân Quốc tiến hành chiến tranh du kích dọc
biên giới Việt - Trung. Vốn có gốc người Hoa, Nguyễn Chấn Á được các chỉ huy
quân đội Quốc Dân Đảng khi đó tín nhiệm tin dùng nên thăng tiến nhanh. Sau năm
1945, các lực lượng kháng chiến Pháp đã quay về Đông Dương thì ông Á quyết định
gia nhập quân đội Quốc Dân Đảng.
Từ năm 1945 đến 1949, Nguyễn Chấn Á chiến đấu trong hàng
ngũ quân đội Trung Hoa Dân Quốc chống lại Hồng quân Trung Hoa. Sau khi Quốc Dân
Đảng thất bại trong cuộc nội chiến phải chạy ra Đài Loan, không hiểu bằng một
cách nào đó, Nguyễn Chấn Á vẫn chạy ra đảo được và sau đó liên tục thăng tiến
trong quân đội, từ Trung úy thằng đại úy, thiếu tá, trung tá, đại tá và cuối
cùng lên đến Thiếu tướng vào năm 1959, tức là thăng đến 5 cấp chỉ sau 10 năm
chạy ra đảo. Đến năm 1960, sau khi các kênh ngoại giao của người Mỹ đánh tiếng,
tướng Nguyễn Chấn Á xin hồi hương và được phía Đài Loan chấp nhận. Trở về Sài
Gòn, tổng thống Ngô Đình Diệm mời ông gia nhập quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cho
giữ nguyên cấp Thiếu tướng và cử ông làm việc trong Bộ tổng tham mưu.
Năm 1966, ông được cử làm Giám đốc Cục An Ninh Quân đội
thay thế Đại tá Nguyễn Ngọc Loan. Đến cuối năm 1969, ông nhận lệnh bàn giao Cục
An ninh Quân đội lại cho Đại tá Vũ Đức Nhuận. Sau đó, ông được chuyển về phục
vụ trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị. Đầu năm 1972, ông được cử giữ chức vụ
Chỉ huy trưởng Binh chủng Quân cảnh. Sang đầu năm 1974, ông được cử giữ chức vụ
Cố vấn Tổng cục Chiến tranh Chính trị và giữ chức vụ này từ đó đến ngày
30/04/1975.
Sau ngày 30/4, ông không di tản ra nước ngoài mà ra trình
diện ủy ban quân quản. Cùng với 30 tướng lĩnh cao cấp khác của quân đội còn bị
kẹt lại, ông lần lượt đi cải tạo qua các trại Quang Trung (Sài Gòn) rồi ra tuốt
Hoàng Liên Sơn. Đến năm 1988, ông được mãn hạn cải tạo và trở về với gia đình ở
Sài Gòn. Trong số 31 tướng lĩnh đi cải tạo thì một số bệnh chết trong trại, một
số được tha về trong các năm 1985 - 1988, chỉ còn 13 người là ở lâu nhất, đến
tận năm 1995. Trong đó có 12 ông là những người "cứng đầu" nhất, ông
thứ 13 không mang quân hàm nhưng cũng được gọi là tướng, tướng cướp Lê Ngọc
Lâm, tức Lâm Chín Ngón lừng danh. Sang những năm 90, ông có suất đi định cư Mỹ
theo diện H.O nhưng khác với phần lớn các đồng đội, ông và cả gia đình không đi
định cư mà chọn ở lại Việt Nam. Những năm tháng còn lại, ông sống khép mình,
hầu như không giao thiệp với ai, kể cả đồng đội, bạn bè cũ nên gần như không ai
biết tin tức gì. Theo các thông tin chưa được kiểm chứng thì ông Nguyễn Chấn Á
đã mất vào năm 1998, đám tang tổ chức giản đơn, gọn nhẹ.
*
TÁC GIẢ (đang cập nhật)
Địa chỉ: (đang cập nhật)
Email: (đang cập nhật)
Điện thoại: (đang cập nhật)
-
ĐẶNG XUÂN XUYẾN giới thiệu -
(Bài viết không thể hiện quan điểm của trang
Đặng Xuân Xuyến)
.
0 comments:
Đăng nhận xét