PHÂN TÍCH CẶP ĐÔI NHÂN VẬT THÚC SINH VÀ HOẠN THƯ - Tác giả: Lê Thanh Long (Hà Nội)

Leave a Comment


PHÂN TÍCH CẶP ĐÔI NHÂN VẬT

THÚC SINH VÀ HOẠN THƯ

*
(Tác giả Lê Thanh Long)

Mỗi nhân vật trong Truyện Kiều đều có một chức năng, nhiệm vụ nhất định, phục vụ cho câu chuyện chung. Mỗi nhân vật đều có những nét riêng, đại diện cho một lớp người. Nguyễn Du đã thể hiện sự sáng tạo sâu sắc, từng trải, thâm hậu, lão luyện, hiểu đời, lõi đời trong việc miêu tả hình thể, tính cách, hành động, suy nghĩ nội tâm, ứng xử… của mỗi nhân vật khác nhau. Mỗi nhân vật một khác, không có nhân vật nào giống nhân vật nào… Mô tả đúng nhân vật trong hoàn cảnh xẩy ra câu chuyện, người đọc thấy câu chuyện có lý, dễ bị thuyết phục.

Hai nhân vật Thúc Sinh và Hoạn Thư có mối liên hệ nhân quả, nên phải xét trong cùng một mục mới nổi lên rõ nét.

Thúy Kiều là nhân vật chính trong Truyện Kiều, ở đây giữ vai trò người lên quan, bị hại.

Hai nhân vật Thúc Sinh và Hoạn Thư có những tính cách ngược nhau, nhưng lại không hề đối kháng, mà lại rất hòa hợp.

Thúc Sinh là một người chân tình, thực thà, nhưng nhút nhát, ham chơi và bị cái bóng quá lớn của gia đình quan tể tướng lơ lửng trên đầu ảnh hưởng đến mọi suy nghĩ, hành động của anh chàng trẻ tuổi này.

Hoạn Thư là cô gái đảm đang, chăm chỉ, tháo vát trong mọi việc gia đình, lọc lõi trong ứng xử, mưu mô, thâm hiểm, không biểu lộ tình cảm và suy nghĩ ra ngoài mặt. Khi nói về Thúc Sinh và Hoạn Thư, Nguyễn Du không tả hình thể của hai nhân vật này, nếu tả đẹp hay tả xấu đều là dở và non cơ, không phục vụ gì cho câu chuyện. Hoạn Thư không hấp dẫn Thúc Sinh bởi sắc đẹp, mà bởi dòng dõi con nhà quyền quý, giầu có, con gái quan tể tướng, măc dù Hoạn Thư có thể rất đẹp. Hoạn Thư hấp dẫn Thúc Sinh ở con đường tương lai danh vọng, giầu có, được nhờ vả. Thúc Sinh một anh học trò bình thường cũng nòi thư hương, nhưng không phải nòi văn quan gốc gác truyền thống, nên Thúc ông còn phải đi buôn, mở cửa hàng. Thúc Sinh chắc không dám đến hỏi Hoạn Thư (tiểu thư họ Hoạn) con quan tể tướng làm vợ. Chắc là được quan tể tướng và Hoạn tiểu thư chọn. Họ chọn một anh sinh viên bình thường, có triển vọng sau này học hành đỗ đạt, hiền lành, dễ bảo. Cặp đôi này đến với nhau như lẽ tự nhiên.

"1275. Khách du bỗng có một người,
Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.
Vốn người huyện Tích châu Thường,
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri".

"1529. Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư.
Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều dàm buộc thì tay cũng già".

Duyên Đằng là duyên may mắn, kết duyên cùng chàng Thúc một cách may mắn, nhanh chóng.

Chàng Thúc Sinh là một chàng trai trẻ mê gái đẹp, quen thói tiêu tiền không cần đếm:

"1303. Thúc sinh quen nết bốc rời,
Trăm nghìn đổ một trận cười như không".

Bị nàng Kiều làm cho mê mẩn:

"1001. Lạ cho cái sóng khuynh thành,
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi".

Nàng Kiều lúc này chỉ có thể làm cho “đổ quán xiêu đình” thôi, chứ không như lúc trước có thể làm “nghiêng nước nghiêng thành”:

"27, Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai".

Chàng Thúc cũng là tay nói khoác có hạng để Kiều an tâm:

"1363. Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
Đã gần chi có điều xa,
Đá vàng cũng quyết phong ba cũng liều".

Khi Thúc Ông biết chuyện Thúc Sinh lấy vợ lẽ, ông quyết phân chia, muốn đuổi Kiều về lại lầu xanh. Thúc Sinh cũng rất kiên quyết, rắn mặt với bố:

"1395. Rằng; “Con biết tội đã nhiều,
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam.
Trót vì tay đã nhúng chàm,
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây”.
“Lượng trên quyết chẳng thương tình,
Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi”.

Khi bị quan phủ xử đánh Thúy Kiều, anh chàng Thúc Sinh thật thà, chân tình nhận lấy trách nhiệm về mình:

"1443. Tại tôi hứng lấy một tay,
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi.
Thúy Kiều nhận xét về Hoạn Thư:
1483. Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
Ở vào khuôn phép nói ra mối rường".

Thúy Kiều đã dặn Thúc Sinh rất kỹ lưỡng mọi điều về phải thú thật với vợ cả Hoạn Thư:

"1505. Nàng rằng: “Non nước xa khơi,
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm”.

“Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh”.

Thúc Sinh về đến nhà, không biết Hoạn Thư đã biết rõ mọi chuyện:

"1545. Lại còn bưng bít giấu quanh,
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười".

Trong bụng Hoạn Thư đã có sẵn một âm mưu:

"1551. Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên".

Ngoài mặt Hoạn Thư vẫn cười nói như không biết gì và nàng chặn họng, cố tình không cho Thúc Sinh nói ra sự thật:

"1575. Mấy phen cười nói tỉnh say,
Tóc tơ bất động mảy may sự tình".
"1583. Rằng: “Trong ngọc đá vàng thau,
Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
Khen cho những miệng dông dài,
Bướm ong lại đặt những lời nọ kia”.

Thúc Sinh đã mắc mưu Hoạn Thư, tưởng rằng đã giấu được rồi, nên:

"1577. Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình lại xưng".

Thực ra Hoạn Thư rất sợ Thúc Sinh nói ra sự thật là mình muốn lấy vợ lẽ, vì lúc đó Hoạn Thư không thể không đồng ý. Vì thời đó đàn ông có quyền lấy lẽ, mà chàng Thúc lại chưa có con nối dõi.

Hoạn Thư đã tự nói với mình:

"1539. Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.
Dại gì chẳng giữ lấy nền,
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?"

Hoạn Thư đã tính toán chi ly màn bịt miệng Thúc Sinh này, để thực hiện âm mưu của mình.

Kế hoạch của Thúy Kiều vạch ra cho Thúc Sinh là rất kỹ lưỡng, nhưng Kiều thua Hoạn Thư ở hai điểm: Thứ nhất là thiếu “tin tình báo” và người thực hiện quá nhút nhát và ở vào hoàn cảnh không dám thực hiện. Lý do cơ bản là Thúc Sinh luôn sợ cái bóng quan tể tướng, lúc nào cũng bao trùm lên mọi suy nghĩ, hành động của anh chàng trẻ tuổi này, nên không dám dùng quyền của ông chủ vườn xuân của mình để quyết lấy vợ lẽ. Sau một năm ở Vô tích với vợ, được nàng Họan Thư gợi ý về chăm sóc bố ở lâm Tri:

"1599. Cách năm mây bạc xa xa,
Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn".

Chàng Thúc Sinh mừng quá, vì sắp được gặp lại nàng Kiều xinh đẹp, nên nhìn đâu cũng thấy đẹp:

"1601. Được lời như mở tấc son,
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng".

Chàng Thúc vừa đi khỏi thì nàng Hoạn Thư cũng sang ngay nhà mẹ đẻ là Hoạn Bà, trình bày kế hoạch bắt Thúy Kiều và cử Khuyển Ưng theo đường biển bắt Kiều đưa về, trong lúc không có mặt Thúc Sinh ở đó, để trả thù Kiều và cả chồng là chàng Thúc:

"1617. Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
Hãy đem dây xích bộc chân nàng về.
Làm cho, cho mệt cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề cho coi.
Trước cho bõ ghét những người,
Sau cho để một trò cười về sau".

Kiều bị bắt về Vô Tích, bị Hoạn Bà đánh cho một trận tơi bời, đổi tên thành Hoa nô, rồi đưa sang làm con hầu cho Hoạn Thư, là một cách làm nhục nàng Kiều:

"1775. Sớm khuya khăn mặt lược đầu,
Phận con hầu giữ con hầu dám sai".

Thúc Sinh biết Kiều đã chết, một năm sau nhớ quê chàng về Vô Tích thăm quê, thăm vợ Hoạn Thư:

"1797. Tìm đâu cho thấy cố nhân,
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê".

Và ở đây xẩy ra một màn đánh ghen nổi tiếng gọi là “ghen kiểu Hoạn Thư”. Ghen Hoan Thư là kiểu ghen giấu kín ở trong lòng, không thể hiện ra ngoài mặt, mà vẫn cười nói như không “Giận dầu ra dạ thế thường/ Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu” (Cười dầu là giận mà vẫn tươi cười, không thể hiện ra ngoài mặt):

"1805. Bước ra một bước một dừng,
Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa.
Phải rằng nắng quáng đèn lòa,
Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh.
Bây giờ tình mới rõ tình,
Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai.
Chước đâu có chước lạ đời,
Người đâu mà lại có người tinh ma.
Rõ ràng thật lứa đôi ta,
Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi".

Kiều có một nhận xét nêu bật được tính cách nham hiểm của Hoạn Thư:

"1815. Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao".

Hoạn Thư đưa cặp đôi Thúc Sinh và Thúy Kiều vào trong hoàn cảnh không biết xưng hô, ăn nói ra làm sao nữa:

"1817. Bây giờ đất thấp trời cao,
Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ".

Chàng Thúc Sinh ngạc nhiên, đau đớn, dở khóc dở cười, đến lúc này mới hiểu ra là đã mắc mưu bà vợ thâm hiểm:

"1823. Sinh đà phách lạc hồn xiêu,
Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở đây.
Nhân làm sau đến thế này,
Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi".

Chàng Thúc Sinh trong thâm tâm vẫn sợ Hoạn Thư con quan tể tướng, nên không dám tỏ ra là có quen nàng Kiều, nhưng không thể ngăn được giọt nước mắt thương cảm:

"1827. Sợ quen dám hở ra lời,
Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
Tiểu thư trông mặt hỏi tra,
Mới về có việc chi mà động dong.
Thúc sinh phải đưa việc hết tang mẹ ra để nói dối:
1831. Sinh rằng: Hiếu phục vừa xong,
Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên".

Qua đây ta tháy Thúc sinh là một anh chàng sợ vợ đến mức nào và Hoạn Thư là người có quyền uy trong cái gia đình này, chứ không phải Thúc Sinh.

Hoạn Thư hành hạ về tình cảm, tâm lý, tư tưởng nàng Kiều và chàng Thúc sinh, làm họ đau đớn về tinh thần hơn cả thể xác:

"1837. Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay.
Sinh càng như dại như ngây,
Giọt dài giọt ngắn, chén đầy chén vơi.
Dửng đi chợt nói chợt cười,
Cáo say chàng đã dạm bài lảng ra.
Tiểu thư vội thét: Con Hoa,
Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn.
Sinh càng nát ruột tan hồn,
Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay".

Trong khi Thúc Sinh và Kiều bị tra tấn về tinh thần đau đớn như vậy, thì Hoạn Thư giả bộ say, cười nói một cách thích thú:

1847. Tiểu thư cười nói tỉnh say,

Chưa xong tiệc rượu lại bày trò chơi.

Và đưa cuộc tra tấn về tâm lý lên một nấc cao hơn là bắt Kiều đánh đàn:

"1853. Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
Tiểu thư lại nẹt lấy nàng:
Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi.
Sao chẳng biết ý tứ gì,
Cho chàng buồn bã tội thì tại người.
Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua".

Một màn đánh ghen kỳ lạ, khác đời, được Nguyễn Du dựng lên quá hay, không chê vào đau được.

Một cuộc hành hạ về tâm lý kéo dài từ chập tối cho đến gần sáng:

"1865. Giọt rồng canh đã điểm ba,
Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm.
Lòng riêng khấp khởi mừng thầm,
Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay".

Qua đây ta thấy anh chàng trẻ tuổi Thúc Sinh hèn đến mức nào. Thực ra chung quy cũng là do cuộc sống, do đồng tiền, vì tương lai, mà Thúc sinh phải nhẫn nhục như vậy. Mặt khác Thúc Sinh là người có học, nên không thể hành xử theo kiểu vũ phu được, vả lại Hoạn Thư rất khéo, rất lọc lõi khi hành xử, nên Thúc sinh không bắt bẻ được.

Nàng Kiều đau đớn và hiểu ra âm mưu cuối cùng của Hoạn Thư là chia rẽ hai người, không bao giờ có thể quay lại được với nhau nữa, chứ không phải đơn thuần là tra tấn về mặt tinh thần:

"Bây giờ mới rõ tăm hơi,
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen.
Chước đâu rẽ thúy chia uyên,
Ai ra đường nấy, ai nhìn được ai.
Bây giờ một vực một trời,
Hết điều khinh trọng hết lời thị phi.
Nhẹ như bấc nặng như chì,
Gỡ ra cho nợ còn gì là duyên".

Gỡ ra, rồi để đấy cho nợ, chưa xử tiếp. Kiều biết Hoạn Thư đã chặn mọi ngả đường, nên nàng phải xin Hoạn Thư cho đi tu:

"1895. Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
Thân cung nàng mới thảo qua một tờ".

Qua đây ta thấy Thúy Kiều nhục nhã như thế nào, khi phải quỳ trước mặt Hoạn Thư và Thúc sinh mà xin được đi tu.

"1909. Tiểu thư rằng: ý trong tờ,
Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không.
Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra".
"Sẵn Quan Âm Các vườn ta…
… Cho nàng ra đó giữ chùa tụng kinh".

Khi Thúc sinh tìm gặp Kiều ở Quan Âm Các, Hoạn Thư bắt được quả tang, nghe hết mọi chuyện, nhưng vẫn vui vẻ như không biết gì:

"1983. Cười cười nói nói ngọt ngào,
Hỏi: Chàng mới ở chốn nào lại chơi".

Kiều sau khi hỏi hoa tì, biết Hoạn Thư đã rõ mọi chuyện, thì kinh sợ:

"2003. Nghe thôi kinh hãi xiết đâu,
Đàn bà thế ấy thấy âu một người.
Ấy mới gan, ấy mới tài,
Nghe càng thêm nỗi sởn gai rụng rời.
Người đâu sâu sắc nước đời,
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay.
Thực tang bắt được dường này,
Máu ghen ai cũng chau mày nghiến rang.
Thế mà im chẳng đãi đằng,
Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng.
Giận dầu ra dạ thế thường,
Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu".

Khi gặp Thúc sinh ở Quan Âm các, Kiều muốn Thúc sinh “mở cửa cho ra”:

"1965. Liệu bài mở cửa cho ra,
Ấy là tình nặng ấy là ân sâu".

Thúc sinh biết thế của mình không làm được việc đó, nên khuyên Kiều bỏ trốn:

"1967. Sinh rằng: Riêng tưởng bây lâu,
Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường.
Nữa khi giông tố phũ phàng,
Thiệt riêng đấy cũng lại càng cực đây.
Liệu mà cao chạy xa bay,
Ái ân ta có ngần này mà thôi".

Lo sợ, nên Kiều quyết định bỏ trốn:

"2015. Thân ta ta phải lo âu,
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này.
Ví chăng chắp cánh cao bay,
Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa.
Phận bèo bao quản nước sa,
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh".

Đến đây Hoạn Thư coi như đã hoàn thành mỹ mãn kế hoạch của mình là chia rẽ Thúc Sinh và Thúy Kiều mãi mãi, vĩnh viễn không bao giờ có thể quay lại được với nhau. Đoạn nói về cặp đôi này dài tới 759 câu thơ lục bát, từ câu 1275 đến2034.

Thực ra hai nhân vật Thúc Sinh và Hoạn Thư chưa kết thúc ở đây. Họ còn gặp lại Thúy Kiều một lần nữa ở vụ Thúy Kiều xử án.

Ở vụ xử án Thúy Kiều đứng ở cửa trên. Khi Hoạn Thư được dẫn vào, Thúy Kiều đánh phủ đầu:

"2357. Thoạt trông nàng đã chào sơ,
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây.
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan.
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều".

Đứng trước hàng gươm giáo tuốt trần, Hoạn Thư cũng sợ mất vía:

"2363. Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng giở điều kêu ca".

Tuy vậy Hoạn Thư vẫn đủ tỉnh táo, bình tĩnh tự thanh minh cho mình:

"2365. Rằng: Tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi các viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng riêng cũng kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.
Trót đà gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng".

Thúy Kiều đã phải thốt lên khen:

"2373. Khen cho: Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời".

Thúy Kiều sợ mình bị đánh giá nhỏ nhen trước Từ Hải và Thúc Sinh, nên tha bổng Hoạn Thư:

"2375. Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng trí quả thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay".

Thực ra việc Thúy Kiều tha Hoạn Thư còn có mối liên quan khác, đó là Thúc Sinh.

Dù sao thì Kiều vẫn còn có tình có nghĩa với Thúc Sinh. Nếu Kiều xử Hoạn Thư thì Thúc Sinh sẽ mất vợ và mất nơi nương tựa là quan tể tướng, nên Kiều đã tha Hoạn Thư. Điều này thể hiện ở lúc Thúy Kiều nói với Thúc Sinh:

"2327. Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non,
Lâm tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân.
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là".

Cái anh chàng trẻ tuổi Thúc Sinh nhát gan, thực thà, nhưng lại hay gặp may.

Phải công nhận rằng Nguyễn Du viết rất khéo, rất tài, làm cho người đọc thấy sự việc có lý có tình. Cuối cùng thì Thúy Kiều vẫn thua Hoạn Thư ở sự khôn khéo.

*.

LÊ THANH LONG

Địa chỉ: Phòng 1132, nhà HH03C, Khu đô thị Thanh Hà,

xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội.

Email: lethanhlong321@gmail.com

Điện thoại: 0822.098.772

 

 

 

 

...........................................................................................................

- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày 10.09.2020

- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến. 

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.


0 comments:

Đăng nhận xét