Truyện ma - truyện liêu trai: GIỌT MÁU CÒN LẠI - Nhiều Tác Giả

Leave a Comment

 

GIỌT MÁU CÒN LẠI

*

HỔ TRẢ ƠN NGƯỜI

 (Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Tam niên tiền sự vị toàn vong.

Báo đức hô nhi đại trục lang.

Y sĩ thảng vi Tôn tứ Mạc.

Hựu tòng nguyên quật đắc tiên phương.

Tỉnh Vân Nam, có y sư họ Ân, tên Nguyên Lễ, chuyên nghề châm cứu.

Năm ấy, vùng Vân Nam bị mất mùa, làng nào cũng bị giặc giã nổi lên cướp phá. Nguyên Lễ phải bỏ làng mà chạy, băng qua một ngọn núi để tới xin lánh nạn tại nhà một người bạn ở cách làng chừng trăm dặm.

Chạy từ sáng tới tối, khi mặt trời sắp lặn, Nguyên Lễ mới đến lưng chừng núi. Nhìn quanh, thấy mình đang đứng bơ vơ giữa chốn núi rừng hoang vu, chẳng bạn đồng hành, Nguyên Lễ kinh hãi lắm, những lo bị hổ sói xông ra ăn thịt. Chợt thấy ở phía trước mặt có hai người sánh vai nhau đi, Nguyên Lễ đoán chừng họ cũng đang chạy loạn như mình nên cắm đầu chạy theo để xin nhập bọn. Khi bắt kịp, Nguyên Lễ lên tiếng:"Xin nhị vị cho bỉ nhân được nhập bọn kẻo một mình đi qua núi đêm khuya, sợ bị hổ sói xông ra ăn thịt!" Người lớn tuổi đưa mắt nhìn Nguyên Lễ từ đầu đến chân rồi cau mày hỏi: "Tên chi, làm nghề gì?" Ðáp:"Bỉ nhân họ Ân, tên Nguyên Lễ, làm nghề châm cứu!" Ðột nhiên, người ấy thay đổi hẳn thái độ, cung kính chắp tay vái chào Nguyên Lễ mà nói:"Thế ra tiên sinh là Ân đại nhân, vị danh y nổi tiếng trong vùng này đó ư? Trong vùng này, ai chẳng biết đại danh của tiên sinh! Huynh đệ tiểu nhân ngưỡng mộ đại danh của tiên sinh đã từ lâu! Nay được gặp mặt, thực là vạn hạnh!" Hỏi:"Nhị vị họ chi?" Ðáp:"Huynh đệ tiểu nhân họ Ban. Tiểu nhân tên Trảo, còn tiện đệ đây, tên Nha!" Rồi tiếp:"Phải chăng tiên sinh đang chạy loạn?" Ðáp: "Thưa phải!" Ban Trảo nói:"Huynh đệ tiểu nhân cũng mới chạy loạn tới đây được ít lâu, có cất được một gian nhà tranh ở gần đây để tạm trú. Xin mời tiên sinh quá bộ tới tệ xá nghỉ chân đêm nay. Nhân tiện cũng xin nhờ tiên sinh giúp cho một việc!" Thấy có chỗ ngủ qua đêm, Nguyên Lễ mừng lắm, vội hỏi:"Nhị vị muốn nhờ bỉ nhân giúp việc chi?" Ðáp:"Ðể lát nữa tới tệ xá, huynh đệ tiểu nhân sẽ xin thưa chuyện!" Nguyên Lễ bèn đi theo hai anh em.

Lát sau, hai anh em dắt Nguyên Lễ vào một gian nhà tranh mới cất, cạnh cửa một hang đá. Ban Trảo đi lấy củi đem ra sân đốt để soi sáng gian nhà. Dưới ánh lửa, thấy hai anh em có thân hình vạm vỡ, nét mặt dữ tợn, dáng vẻ bất hảo, Nguyên Lễ kinh hãi lắm. Song vì trời đã tối, chẳng biết đi đâu nên đành ở lại. Chợt nghe có tiếng người rên, Nguyên Lễ đảo mắt nhìn thì thấy một bà lão đang nằm rên trên một chiếc giường kê ở góc gian nhà. Ðoán chừng bà lão là mẹ của hai anh em, Nguyên Lễ hỏi Ban Nha:"Cụ nhà đau gì thế?" Ban Nha đáp:"Thưa, gia mẫu bị hai cái ung to bằng nắm tay, mọc dưới mũi và bên mép, đau nhức lắm, chẳng ăn uống chi được. Chính vì thế mà huynh đệ tiểu nhân muốn nhờ tiên sinh tới đây để chữa giúp cho gia mẫu!" Rồi đốt đuốc giơ cao, mời Nguyên Lễ tới cạnh giường coi bệnh cho mẹ. Nguyên Lễ theo Ban Nha tới giường, hỏi bà lão:"Cụ thấy đau như thế nào?" Bà lão đáp:"Thưa, cái ung nhức lắm mà há miệng ra ăn cũng thấy đau. Vì chẳng ăn ngủ chi được nên người rất mệt mỏi, xin tiên sinh làm ơn chữa cho!" Nguyên Lễ nói:"Ung ngoài da dễ chữa. Ðể bỉ nhân châm cứu cho! Khi nào ung vỡ mủ, bỉ nhân sẽ dịt thuốc!" Rồi mở bọc lấy ngải và kim, châm cứu cho bà lão trên hai chục mũi. Xong, nói:"Cụ cứ chịu khó nằm yên mà nghỉ, sáng mai ung sẽ vỡ mủ" Hai anh em mừng lắm, vội đi tìm thực phẩm để mời khách. Ban Nha tới gác bếp, lấy xuống một đùi nai tươi, đưa cho anh, nói:"Ðại ca hãy nướng đùi nai này lên mà mời tiên sinh dùng đỡ" Ban Trảo gật đầu, đem đùi nai đi nướng rồi bỏ vào mâm đá, bưng tới trước mặt Nguyên Lễ, nói:"Trời đã tối mà chợ thì xa, chẳng có thực phẩm chi khác để mời tiên sinh, mong tiên sinh thứ lỗi!" Nguyên Lễ nói:"Chạy loạn mà còn được ăn thịt nướng như thế này thì còn mong gì hơn?" Vì đang đói, Nguyên Lễ ăn hết quá nửa đùi nai. Chờ khách ăn xong, Ban Trảo mới mời khách lên giường mình nằm nghỉ. Bị nét mặt dữ tợn, dáng vẻ lỗ mãng của hai anh em ám ảnh, Nguyên Lễ cố nhắm mắt song chẳng sao ngủ được, cứ trằn trọc suốt đêm.

Tảng sáng, thấy bà lão thức giấc, Nguyên Lễ vội vùng dậy, chạy tới hỏi:"Cụ thấy đã đỡ chưa?" Bà lão đáp: "Cám ơn tiên sinh, lão thân thấy đã đỡ rồi!" Hỏi:"Cụ có ngủ được không?" Ðáp:"Thưa ngủ được!" Hỏi:"Cái ung ra sao?" Ðáp:"Thưa, cái ung ướt sũng, chắc là đã vỡ mủ!" Nguyên Lễ bèn đánh thức hai anh em dậy, đi lấy nước vào rửa ung cho bà lão. Rồi Nguyên Lễ mở bọc, lấy thuốc dịt vào ung, băng bó lại. Xong, nói:"Thế là khỏi rồi đó!"

Trời sáng rõ, Nguyên Lễ xin cáo biệt. Ban Trảo nói: "Xin tiên sinh hãy nán lại thêm ít phút để tiểu nhân nướng nốt đùi nai, biếu tiên sinh làm thực phẩm dọc đường!" Nguyên Lễ bèn ở lại chờ. Lát sau, Nguyên Lễ nhận đùi nai nướng rồi cáo biệt, tiếp tục cuộc hành trình.

Tới nhà bạn, Nguyên Lễ thuật lại nạn giặc cướp ở làng mình cho bạn nghe rồi xin được tạm trú. Người bạn vồn vã mời Nguyên Lễ ở lại chơi. Ít lâu sau, nghe tin làng mình hết giặc, Nguyên Lễ xin cáo biệt bạn, trở về nhà.

Ba năm sau, Nguyên Lễ quên hẳn chuyện gặp ba mẹ con bà lão. Một hôm có việc, Nguyên Lễ lại phải tới nhà người bạn năm xưa. Ði từ sáng tới tối, Nguyên Lễ mới đến lưng chừng núi. Chợt thấy hai sói lớn nằm chắn ngang đường, Nguyên Lễ kinh hãi quá, đứng khựng lại, chỉ mong hai sói đi chỗ khác để cho mình có thể tiếp tục lên đường. Thế nhưng, hai sói cứ nằm lỳ bất động. Trời mỗi lúc một tối, Nguyên Lễ càng kinh hãi, chẳng biết làm thế nào. Chợt nghe có tiếng sói đua nhau chu rồi thấy một bày sói sập tới vây quanh mình, Nguyên Lễ thầm nghĩ chắc phen này mình phải chết vì sói. Quả nhiên, bày sói xông vào đè Nguyên Lễ xuống, tranh nhau cắn xé, làm cho quần áo Nguyên Lễ rách tả tơi. Ðột nhiên, bày sói ngưng cắn xé, bỏ chạy tán loạn. Nguyên Lễ ngạc nhiên, đưa mắt nhìn quanh. Chợt thấy có hai mãnh hổ đứng ngay cạnh mình, Nguyên Lễ kinh hãi quá, thầm nghĩ chắc phen này mình phải chết vì cọp. Thế nhưng Nguyên Lễ phải ngạc nhiên khi thấy cọp chẳng vồ mình. Bày sói thấy cọp thì chạy tán loạn. Hai mãnh hổ hống lên hai tiếng thực to. Cả bày sói kinh hoàng, nằm mọp xuống đất. Hai mãnh hổ chậm rãi bước tới tát chết từng con rồi lững thững bỏ đi.

May mắn thoát chết, Nguyên Lễ bò dậy, xốc lại quần áo, lếch thếch lên đường. Vì trời tối quá, chẳng thấy đường đi, Nguyên Lễ lo lắng, nảy ý tìm chỗ tạm trú qua đêm. Bỗng có một bà lão, chẳng biết từ đâu tới, lên tiếng hỏi:"Chắc Ân tiên sinh bị sói cắn đau lắm phải không?" Nguyên Lễ giật mình kinh ngạc, lên tiếng hỏi lại:"Sao lão bà lại biết tên bỉ nhân?" Bà lão đáp:"Thế ra tiên sinh quên lão thân rồi ư? Tiên sinh còn nhớ ba năm về trước, tiên sinh có châm cứu cho một bà già để trị hai cái ung dưới mũi và bên mép không?" Bấy giờ Nguyên Lễ mới chợt nhớ ra bà lão là mẹ của hai anh em họ Ban. Bà lão lại nói:"Lão thân chờ tiên sinh ở đây đã từ lâu! Những mong có dịp được gặp lại tiên sinh để trả ơn song chẳng thấy tiên sinh qua lại vùng này nữa! Bây giờ, xin mời tiên sinh đi theo lão thân!" Nguyên Lễ mừng quá, vội đi theo bà lão. Lát sau, bà lão dẫn Nguyên Lễ vào phòng khách của một ngôi nhà rộng lớn, đèn đuốc sáng chưng, rồi vào nhà trong lấy ra một bộ quần áo mới đưa cho Nguyên Lễ, chỉ căn phòng tắm mà nói:"Y phục của tiên sinh bị sói cắn rách hết rồi, xin tiên sinh hãy dùng tạm bộ này!" Nguyên Lễ nói:"Cám ơn cụ!" rồi đem bộ quần áo vào phòng tắm mà thay. Bà lão xuống bếp bưng lên một mâm cỗ thịnh soạn, mời Nguyên Lễ cùng ngồi yến ẩm, ân cần rót rượu, gắp thịt mời Nguyên Lễ, rồi cũng tự rót rượu, gắp thịt mà ăn uống mạnh dạn chứ chẳng rụt rè, nhỏ nhẹ như các bà lão khác. Nguyên Lễ quá chén, say li bì, nằm lăn ra phòng khách mà ngủ.

Sáng sau, khi ánh nắng dọi vào mắt, Nguyên Lễ mới tỉnh giấc. Mở mắt nhìn, chẳng thấy nhà cửa với bà lão đâu mà chỉ thấy vừng thái dương đang chói chang giữa bàu trời, còn mình thì đang nằm trên một tảng đá, Nguyên Lễ kinh hãi quá, đứng bật dậy.

Chợt nghe có tiếng trâu thở phì phò dưới chân núi, Nguyên Lễ nổi tính tò mò, bèn chạy xuống coi. Tới nơi, thấy chẳng phải là trâu mà là một hổ cái già đang nằm ngủ, dưới mũi và bên mép có hai vết sẹo lớn, to bằng bàn tay. Hổ chợt tỉnh giấc. Nguyên Lễ kinh hãi quá, dón dén lẻn đi, tiếp tục cuộc hành trình.

Dọc đường, Nguyên Lễ mới nghĩ ra rằng hai anh em họ Ban chính là hai mãnh hổ đã giết đàn sói còn lão mẫu của họ chính là hổ cái già nằm dưới chân núi.

 

OAN HỒN NGƯỜI VỢ TRẺ

 (Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

I.

Về đây đã hai ngày rồi mà Thiện vẫn chưa bước ra tới đầu ngõ. Suốt ngày anh chỉ quanh quẩn trong khuôn viên ngôi nhà mà người bạn đã có nhã ý cho mượn để Thiện ở trong hai tháng hầu hoàn thành luận án tiến sĩ mà anh sẽ trình trong tháng sau, có nghĩa là sau lễ cưới chưa đầy hai tuần.

- Cậu gì ơi!

Thiện quay lại đã thấy một ông lão đang vẫy tay về phía mình. Ngạc nhiên, nhưng Thiện vẫn bước ra cổng lễ phép hỏi:

- Dạ, bác kêu cháu?

- Phải. Thấy cậu là người lạ, hình như mới tới nơi này sao chưa đi chơi quanh đây, cảnh ở đây đẹp lắm.

Thiện hơi bất ngờ về sự quan tâm của ông lão, tuy nhiên anh vẫn thấy thích thú bởi sự quan tâm này:

- Dạ thưa bác, mấy bữa này cháu còn hơi mệt nên chưa ra ngoài. Có lẽ lát nữa cháu sẽ đi. Cháu cũng nghe nói nơi này cảnh quang đẹp lắm.

- Nếu cậu có hứng thú thì đi theo lão, lão có biết một nơi lạ lắm, chắc là cậu sẽ thích!

Tự dưng Thiện đâm ra tò mò và anh cũng bất ngờ với chính mình khi nhận lời:

- Dạ, cháu sẽ đi với bác.

Anh định trở vào lấy theo chiếc máy ảnh, nhưng như biết ý ông lão nói:

- Cậu không nên chụp hình nơi nào mình thấy nó không thích hợp để chụp hình.

Tuy thắc mắc, nhưng thấy chưa tiện hỏi nên Thiện im lặng đi theo. Chừng hơn mười lăm phút sau, Thiện đã phải ồ lên:

- Đẹp quá!

Ông lão cười hiền hòa:

- Chỉ mới một phần thôi, cái thác này càng bước sâu vào bên trong càng đẹp. Cậu thích ở đây hay còn muốn tới chỗ kia, nơi có một hang động rất ngộ nghĩnh?

Vừa nghe, Thiện đã thích thú ngay:

- Gần không bác?

- Cách chỉ chưa đầy hai trăm mét. Nếu muốn cậu có thể theo tôi.

- Dạ, bác cho cháu đi với!

Thiện chạy theo được một đoạn thì lại phải reo lên:

- Đẹp quá! Cái thác nước này quá đẹp nhưng chỉ tiếc là con người chưa biết khai thác nó.

- Ở Đà Lạt này người ta chưa biết tới nó, chỉ quanh quẩn nào Datanla, Cam Ly, Prenn, Gougah, Pongour. Nó bị bỏ quên cậu ơi! Đây là thác Dambri, nó đẹp nhất trong các thác ở vùng này vậy mà cho tới năm Tân Hợi này vẫn chưa ai nghĩ tới huyện khai thác nó. Đó, cậu thử nhìn xem.

Thiện mải mê nhìn ngắm, khi quay lại thì chẳng còn thấy ông lão đâu.

Anh kêu lên:

- Bác ơi!

Không nghe tiếng đáp, Thiện đành phải một mình bước tới. Nghĩ là ông lão ở trong động đá trước mặt, nên Thiện lại gọi:

- Bác ơi!

Lần này không có tiếng đáp của ông cụ, mà chỉ có tiếng dội lại từ tiếng gọi của anh. Thiện bước vào hang động với đầu óc trống rỗng, cho đến khi anh giật mình bởi trước mắt là một tảng đá rất to, chứ chẳng còn lối đi nữa. Thì ra đây chỉ là một hang động rất nông, không thể gọi là một hang động như nhiều hang động sâu hun hút khác.

Hơi thất vọng bởi lời giới thiệu về hang động của ông lão, anh vừa định quay ra thì chợt thoáng thấy có những dòng chữ trên vách đá chắn ngang.

Những dòng chữ này lúc mới vào chưa quen nhìn trong bóng tối thì không thể nhìn thấy, còn bây giờ Thiện có thể đọc được từng chữ một... "Một thuở yêu người, ngàn năm không hết nhớ... Nửa tuần trăng mật, suốt kiếp khó phôi pha...".

Bài thơ còn khá dài, nhưng trong bóng tối không thể đọc hết được một lúc, nên Thiện phải mò mẫm khá lâu...

Cuối cùng anh phải ngừng lại vì ở đoạn sau do màu đá sậm nên rất khó đọc. Tuy nhiên với hai câu trên Thiện cảm giác thích thú, anh cứ lẩm nhẩm đọc lại nhiều lần, đến thuộc lòng.

Một thuở yêu người, ngàn năm không hết nhớ...

Nửa tuần trăng mật, suốt kiếp khó phôi pha...

Mải mê đọc thơ mà Thiện quên cả thời gian. Khi anh bước ra ngoài thấy mặt trời đã lên khỏi đỉnh đầu. Nhìn đồng đồ tay, Thiện giật mình:

- Đã hơn ba giờ rồi!

Thiện tìm ông lão một lần nữa nhưng cũng chẳng thấy đâu. Khi anh về nhà thì chị giúp việc đã đưa một cái túi bằng thổ cẩm và nói rất rõ ràng:

- Của một cô gái lạ gửi cho cậu. Cô ấy nhắn rằng, cậu đừng mất công tìm hiểu xem cô ấy là ai, bởi rồi đây cô ấy sẽ trở lại gặp cậu.

Đã nghe chị ấy nói như vậy thì Thiện còn hỏi gì nữa. Anh cầm cái túi định xem bên trong chứa vật gì, nhưng chị giúp việc đã nói:

- Cô ấy dặn cậu chỉ được mở ra khi ở phòng riêng.

Thiện về phòng mở chiếc túi ra ngay và thật bất ngờ khi thấy có một bộ quần áo nữ bằng lụa rất đẹp trong đó. Lại là bộ đồ ngủ!

Hầu như suốt từ đó đến tối Thiện không tài nào nghĩ ra người gửi giỏ đồ cho mình là ai. Có hỏi lại chị người làm Tư Thủy thì cũng chẳng hiểu thêm được thêm chút gì, nên Thiện chỉ biết mang thắc mắc đó cho đến lúc đi ngủ. Mà nào có dễ ngủ đâu, phải đến hơn mười hai giờ thì Thiện mới chợp mắt được...

*             *

*

- Người gì mà ngủ như chết, khách vào nhà cũng không hay!

Lúc đầu tuy có nghe giọng nói đó, nhưng Thiện cứ tưởng mình nằm mơ, nên anh vẫn nằm im. Sau nửa phút thì giọng ấy lại cất lên:

- Giữ đồ của người ta mà không trả thì làm sao đây? Lạnh lắm!

Thiện cảm giác như có ai đó chạm vào chân mình, rất nhột, nên phải bật dậy. Và một lần nữa giọng nói lại cất lên, lần này ngay sát tai anh:

- Trả bộ đồ cho em!

Thiện lạnh cả người, anh còn đang lúng túng thì bàn tay của một phụ nữ đã chạm vào tay mình, cùng với lời thúc giục:

- Mau trả lại bộ đồ cho em, em lạnh lắm!

- Cô... cô là...

Câu nói của Thiện chưa dứt thì vô tình trong lúc sờ soạng anh đã chạm vào một tấm thân với quần áo đẫm nước, lạnh như băng!

- Cô...

Thiện chỉ nói được tới đó, rồi người như bất động, chỉ cử động được khi đã có sự tiếp sức của người con gái lúc ấy gần như đã ghì chặt lấy anh, đầu nàng ta gục vào cổ anh như đang hút máu! Trong khi Thiện như bị điện giật, máu trong người như tuôn chảy ra không kiểm soát được thì giọng nàng thân thiết hơn:

- Lát nữa em lấy lại bộ đồ đó nghe!

Thiện cố nói cho rõ ràng, bởi lúc ấy anh hầu như không còn kiểm soát được mình:

- Cô là người gửi tôi cái giỏ?

- Chứ còn ai dám vào đây khi anh nợ em bộ đồ!

- Nhưng... cô gửi, chứ nào tôi có ý lấy đâu?

- Nhưng tại sao em lại gửi cho anh chứ không phải là ai khác?

- Cái đó...

Thiện ấp úng đến tội nghiệp, trong lúc cô nàng chủ động đẩy anh nằm xuống và nói một cách cương quyết:

- Lát nữa chính anh phải mặc đồ lại cho em, nếu không thì em lại... tồng ngồng như lúc đến mà ra về đó.

Thiện giật mình:

- Cô tới đây mà không... mặc gì hết?

Cô gái cười khúc khích:

- Mặc, nhưng ướt hết rồi!

- Nhưng... nhưng lỡ có ai thấy thì sao?

Nàng đáp tỉnh khô:

- Có người thấy rồi!

Thiện hốt hoảng:

- Trời ơi, người ta thấy thì...

Nàng lại cười ngặt nghẽo:

- Người duy nhất nếu có thấy thì là anh! Như bây giờ...

Thiện thở phào:

- Vậy mà cứ tưởng...

Thiện không nói thêm được lời nào nữa và hầu như hoàn toàn bất động.

Cô gái lại nói thì thầm bên tai anh:

- Anh còn nợ em điều này nữa. Bài thơ mà anh thuộc lòng là của em.

Thiện reo lên:

- Em đã viết lên vách đá, thảo nào nét chữ bay bướm quá nhỉ!

- Thuộc thơ của người ta vậy mà chẳng nghe đọc lại gì hết! Hay là đã quên ngay rồi?

Thiện buột miệng đọc ngay hai câu thơ thuộc từ vách đá. Xong, anh đột ngột hỏi:

- Cô là gái đã có chồng?

Cô nàng chợt thở dài rồi im lặng, chứ không luôn miệng liến thoắng như lúc đầu. Thiện nghĩ có lẽ mình đã chạm vào tự ái cô ta nên lên tiếng:

- Tôi xin lỗi...

Anh muốn bật dậy nhưng lúc ấy tuy cô nàng không đè cắn cổ anh nữa, nhưng Thiện cũng không làm sao nhúc nhích được. Anh đành lặp lại câu nói:

- Tôi xin lỗi...

- Chỉ xin lỗi suông vậy thôi sao? Nợ người đến hai lần, mà bây giờ...

- Thế cô muốn tôi phải làm sao nữa?

- Anh phải cưới em!

Câu nói đó khiến cho Thiện hốt hoảng:

- Cô nói sao?

- Anh phải cưới em để trả hết nợ!

Nàng vừa nói xong thì nhảy xuống giường liền. Lúc này Thiện mới cử động được, anh nhảy theo. Nhưng thoắt một gái, nàng đã rất nhanh bước ra khỏi phòng. Lúc này Thiện mới hoàn hồn bước theo. Chẳng thấy bóng dáng nàng ta đâu...

Chợt nhớ đến bộ quần áo trong giỏ xách, Thiện lấy và chạy theo ra tới vườn ngoài. Anh gọi lớn:

- Cô... cô gì ơi!

*             *

*

Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, Thiện nhìn thấy chiếc giỏ xách vẫn còn đó, nhưng khi xem lại thì bên trong không có bộ quần áo mà thay vào đó là một đôi dép nữ. Như vậy có nghĩa là lúc anh ngủ cô gái đã trở lại.

- Cô gì ơi!

Thiện gọi lần nữa nhưng cũng như lần trước, anh lại thất vọng. Đặt chân xuống giường, tính bước ra ngoài và Thiện phát hiện là toàn thân mình đau nhức như vừa trải qua cơn bạo bệnh.

Phải đến hơn sáu giờ thì cơn choáng váng trong anh mới đỡ dần, Thiện lại gấp gáp trở ra thác nước. Dưới chân tảng đá bài thơ, có bộ quần áo vứt bừa ra đó, bên cạnh có một chiếc lá to nằm đè lên. Thiện định vứt chiếc lá đi để cầm bộ đồ lên xem thì chợt nhìn thấy trên lá có dòng chữ viết vội: "Giặt sạch rồi mắc trong phòng, em sẽ tới lấy! Cám ơn trước - Yến Vỹ". Thiện giật mình:

- Cô nàng tên là Yến Vỹ?

Nhìn kỹ lại bài thơ trên vách đá, bên dưới có hai chữ viết tắt YV.

- Thơ của cô ấy!

Thiện còn đang tần ngần thì chợt nghe có tiếng nói phía sau lưng:

- Sao bây giờ cậu mới ra?

Quay lại thì thấy ông lão hôm qua đang đứng nhìn mình chăm chú, Thiện reo lên:

- Kìa bác, cháu đang muốn tìm...

Ông lão vẫn nụ cười hiền hòa:

- Bác biết. Nhưng phải để cho cậu gặp cô ấy đã...

- Cô Yến Vỹ?

Ông lão nhẹ gật đầu:

- Phải.

- Bác biết cô ấy?

- Chẳng những biết mà còn thân nữa.

- Bác và cô ấy có quan hệ thế nào? Tại sao...

Giọng ông lão buồn buồn:

- Ta chính là... ông ngoại của nó. Tội nghiệp con nhỏ, chỉ một ngần ấy tuổi đầu mà đã vướng bao nhiêu khổ đau cho đến lúc chết vẫn không yên thân!

Câu nói của ông ta khiến Thiện giật mình:

- Bác nói sao? Cô... cô ấy đã chết? Cô Yến Vỹ...

Giọng ông gần như khóc:

- Nó đã là người cõi âm rồi!

Thiện nhớ lại cuộc gặp gỡ đêm qua mà bắt rùng mình. Giọng anh run run:

- Vậy sao cháu và cô ấy mới gặp đêm qua? Cô ấy...

Ông lão chợt nói:

- Tốt hơn hết là cậu hãy chấm dứt quan hệ với nó...

- Nhưng thưa bác, cháu muốn gặp một lần nữa để...

Xua tay nhanh, ông lão nghiêm giọng:

- Không nên! Một lần là quá đủ. Cậu đã giúp cháu nó như vậy là coi như cậu đã hy sinh rồi. Tôi không muốn lại có thêm một mạng người nữa...

Thiện hốt hoảng:

- Bác nói mạng người nào?

Ông lão bỗng ôm mặt như đang ân hận điều gì, giọng ông trở nên khó nghe:

- Tôi chẳng qua là... chiều lòng nó... nó bảo phải tìm cho ra người nhà họ Đoàn... mà cậu là người đầu tiên và chắc cũng là người duy nhất...

Thiện quá đỗi ngạc nhiên:

- Người họ Đoàn? Nhưng cháu đâu phải người họ ấy. Cháu họ Dương mà. Cháu là bạn của nhà ấy.

Ông lão vụt ngẩng lên, sắc mặt biến đổi:

- Cậu nói... cậu không phải họ Đoàn?

- Dạ, hoàn toàn không. Cháu chỉ tới ở trọ trong nhà ấy một thời gian thôi. Nhưng có chuyện gì vậy bác?

Ông lão kêu lên hai tiếng trời ơi, rồi lại ôm lấy đầu:

- Tôi đã sai rồi! Tôi hại cậu rồi!

Thiện ngơ ngác:

- Chuyện gì vậy bác? Bác có làm gì cháu đâu?

Ông già bất thần chụp tay Thiện, hỏi lớn:

- Cháu và nó đã có... làm gì với nhau chưa?

Thiện không định nói, nhưng sau khi nghe ông lặp lại lần thứ hai với vẻ mặt hốt hoảng, anh đành phải gật đầu:

- Dạ có...

Ông lão buông tay ra, thảng thốt:

- Trời ơi!

Ông như muốn bỏ chạy đi, cũng may là Thiện chụp lại kịp:

- Bác nói rõ hơn cho cháu nghe. Hại là hại thế nào?

Ông lão suy sụp hoàn toàn. Người ông co rúm lại, giọng trở nên thều thào:

- Chỉ vì quá thương cháu, thấy nó chịu cảnh thảm thương đó nên ta mới đành lòng... chứ ta đâu có muốn thêm một mạng người nữa bị chết oan... Một mình nó là đủ rồi...

- Bác nói gì cháu không hiểu?

Bất chợt lão đưa tay chỉ vào Thiện và nói:

- Cậu chính là... người tiếp theo!

Thiện ngơ ngác:

- Cháu! Nhưng tiếp theo để làm gì?

- Để chết!

Câu trả lời rất rõ ràng, nhưng Thiện cứ nghĩ mình nghe lầm:

- Bác nói...

Không để cho Thiện nói thêm, ông lão nói một hơi:

- Con Yến Vỹ bị người ta hại phải chết oan, hồn phách nó lang thang không nơi nương tựa nên ta phải luôn theo nó, nuôi nó hết chốn này đến chốn khác, cũng chỉ muốn có cái ăn, cái mặc để không phải làm con ma đói. Nhưng chính ta cũng không ngờ là sự lang thang của vong hồn nó là có ý đồ... Nó muốn tầm thù. Nó muốn trả thù nhà họ Đoàn!

- Vậy cô ấy đã làm được chưa?

Lại chỉ vào Thiện một lần nữa:

- Gặp rồi, là cậu đó!

Thiện trợn tròn mắt:

- Sao lại là cháu?

Ông già thở dài:

- Có thể do lầm lẫn thôi. Con Yến Vỹ bảo ta đi tìm người nhà họ Đoàn, một nam nhân, khi thấy cậu xuất hiện trong ngôi nhà đó sau hơn hai chục năm không có ai ở, ta cứ tưởng đó chính là người mà cháu ta đang cần tìm, nên ta đã gặp cậu thuyết phục cậu tới nơi này để cho Yến Vỹ tiếp xúc và...

Chợt hiểu ra, Thiện chép miệng:

- Cháu bị hiểu lầm. Nhưng cháu nghĩ, rồi cô ấy sẽ nhớ ra, cô ấy đâu nỡ hại cháu!

Ông lão lại thở dài:

- Chậm mất rồi. Sau khi cậu và nó có quan hệ thân xác với nhau thì đã chậm quá rồi!

Thiện giật mình:

- Cháu đâu có ngờ... vả lại đó là cô ấy chủ động...

Ông lão gật đầu:

- Tất nhiên là do nó muốn rồi. Mà cậu có muốn biết tại sao nó lại làm vậy không?

Ông ngừng một lúc rồi nói tiếp:

- Vong hồn nó về báo cho ta biết rằng nó muốn được sớm đi đầu thai kiếp khác mà không được. Bởi ở cõi âm chỉ cho phép những người chết bình thường, chết do tuổi già hay đau bệnh được sớm tiêu diêu. Còn những người như nó thì phải kiếm người thế mạng mới được ra đi. Nó chọn nhà họ Đoàn, bởi nhà đó có mối hận thiên thu với nó. Chính họ đã cưỡng bức nó rồi giết chết, thả trôi theo dòng thác này. Chính nó...

Ông lão hình như không còn sức để nói nữa... Rồi bất thần ông đứng lên, bước đi khập khiễng nhưng vẫn cố bước. Thiện lo sợ:

- Vậy cháu phải làm sao đây bác?

Ông nói vọng lại:

- Để ta cố. Cậu gặp ta ở lầu... lầu...

Chỉ nói được tới đó rồi ông ta gần như kiệt sức, ngã nằm dài trên đá.

Thiện hốt hoảng chạy tới đỡ ông dậy:

- Kìa bác, bác có sao không?

Ông lão không động đậy nữa. Mắt ông ta nhắm nghiền chẳng khác người đã chết, Thiện hoảng quá, anh không kịp suy nghĩ thêm, đã bế xốc ông lên chạy bay về xóm dân cư gần đó. Đang chạy bỗng có người nhận ra, đã kêu lên:

- Ông lão lang thang đây mà!

Thiện dừng lại hỏi:

- Chị biết ông lão này?

Người phụ nữ kia đáp:

- Biết chứ. Ông ấy là ông già cô đơn, không thân nhân, không biết nhà cửa ở đâu, nhưng về xóm này và cư ngụ trong ngôi nhà hoang gần nghĩa địa đằng kia. Ông lão bị sao vậy?

- Ông bị ngất ở ngoài thác nước, tôi tình cờ...

Chị nọ nói:

- Cậu đã làm ơn thì làm ơn cho trót, đưa giùm ông ấy về nhà đi. Ngôi nhà hoang đó người ta hay gọi là lầu ma, gần nghĩa địa!

Nói xong chị ta đi ngay. Thiện đành phải bế ông lão đi tiếp. Cũng may ngôi nhà gọi là lầu ma đó không xa, nên trước khi kiệt sức thì Thiện cũng đã đưa được ông lão vào nhà, sau khi một cậu bé đánh xe bò đi ngang qua đã xác định ông lão ngụ ở đây.

Vừa ngẩng lên sau khi đặt ông lão xuống chiếc chõng tre, Thiện đã giật mình kêu lên:

- Cô nàng?

Anh thấy ở góc nhà có một chiếc bàn thờ, trên đó có một khung ảnh bán thân của một cô gái mà vừa chợt nhìn thấy Thiện đã kêu lên:

- Yến Vỹ!

Tiếng kêu của Thiện rất khẽ, gần như là kêu chỉ mình anh nghe, nhưng chẳng hiểu sao lại làm cho khung ảnh rơi xuống đất và vỡ toang! Hốt hoảng, Thiện vội cúi xuống nhặt nó lên. Trong lúc nhặt vội, một ngón tay của anh đã bị cứa đứt khá sâu. Thiện cố nén đau để cầm được bức ảnh lên. Lúc này một bên khung kính đã bị bể, lộ ra một góc ảnh đã bị một vết máu rơi làm nhòe đi. Bằng phản ứng tự nhiên, Thiện lại chạm tay vào đó như để chặn vết máu loang nhiều hơn lên ảnh. Nhưng hành động của Thiện lại khiến cho vết máu loang ra rộng hơn, phút chốc nó loang tới trán và mắt. Chẳng hiểu sao, tự dưng vết máu đó chảy xuôi theo hai khóe mắt của tấm ảnh và... tạo thành hai giọt nước mắt màu đỏ như máu!

- Trời ơi!

Thiện không phải ngạc nhiên mà là sợ! Anh gọi khẽ:

- Cô Yến Vỹ, tôi xin lỗi...

Anh định nói nữa, nhưng lúc ấy chẳng hiểu quá xúc động hay tay run vì mất máu, Thiện lại để khung ảnh rớt xuống lần nữa. Nhưng lần này nó không vỡ, trái lại khi vừa chạm đất thì tự nhiên nó bay trở lên và... đứng đúng vị trí ban đầu. Thiện chắp hai tay lại, khấn rất thành tâm:

- Tôi xin lỗi đã xúc phạm tới cô. Lòng tôi không muốn...

Lời nói đó của Thiện chưa dứt đã nhận ngay một cái tát vào mặt, mà chẳng thấy người tát là ai?

Muốn kêu lên, nhưng lúc ấy chợt Thiện nhìn vào đôi mắt của cô gái, sau màu máu hình như hai tròng mắt đang lay động. Anh im lặng, bước lùi như muốn kiếm đường tháo lui! Bỗng phía sau lưng Thiện có người lên tiếng:

- Cứu người là quan trọng, cớ sao lại để người ta nằm đó chứ?

Quay lại không thấy ai, chỉ có ông lão nằm im như chết ở đó. Thiện không dám chần chừ, anh định bước ra ngoài để tìm mua lọ dầu, nhưng thật bất ngờ, anh nhìn thấy ai đó đã để lọ dầu gió và một ly sữa nóng ngay bên cạnh ông lão.

Thiện xoa dầu, lát sau ông lão tỉnh lại. Vừa nhìn thấy anh, ông đã nhẹ giọng nói:

- Cậu đã thoát nạn bước đầu. Nhưng tốt hơn hết là đi đi. Cậu nên rời khỏi chỗ này sớm chừng nào tốt chừng ấy! Tôi xin lỗi cậu...

Thiện vẫn chưa hết thắc mắc:

- Nhưng bác xin lỗi về chuyện gì?

- Chuyện tôi nhìn lầm cậu, cứ tưởng cậu là con cái nhà họ Đoàn. Để cậu lâm vào cảnh ngộ này là điều ngoài ý muốn.

Nhìn thấy vết máu trên ngón tay Thiện, ông lão hốt hoảng nói:

- Ai làm cậu chảy máu vậy?

- Dạ, vừa rồi cháu vô tình làm rơi khung hình trên bàn thờ, mảnh kính vỡ đâm vào cháu...

Ông lão bật ngồi dậy và nhìn về bức ảnh còn thấm máu, ông kêu lên:

- Cậu cần phải đi ngay đi, kẻo không kịp nữa!

Thiện kinh ngạc:

- Chuyện gì vậy bác?

- Máu của cậu đã thấm vào hồn ma của nó thì cậu nhập vào nó rồi, nó sẽ...

Ông nói tới đó thì gần như nghẹt thở, giống như bị ai đó bóp cổ. Thiện phải hỏi to:

- Bác làm sao vậy?

Ông lão gần như líu lưỡi:

- Đi... đi liền đi! Cậu đừng...

Ông vội kéo mạnh Thiện xuống, khiến cho anh mất thăng bằng ngã nhoài đè lên thân thể ông. Anh chợt nghe một giọng nói rất khẽ từ miệng ông lão:

- Được rồi, tôi trả nợ cho cậu... Tôi chết để cho cậu được sống...

Rồi ông ta im lặng, hai tay xuôi xuống...

Thiện hốt hoảng:

- Bác!

Anh đưa tay sờ lên mũi ông lão thì phát hiện ông đã ngừng thở...

*            *

*

Từ Bảo Lộc về, Thiện bị bệnh nằm gần hai tuần. Người anh lúc nóng lúc lạnh và hễ cứ nhắm mắt thì lại như nghe có ai đó gọi tên mình! Thiện phải uống thuốc an thần liên tục thì tình trạng đó mới chấm dứt. Nhưng có những điều mà Thiện chẳng thể nào hiểu nổi, đó là mỗi khi anh được mẹ nhắc tới ngày cưới thì anh nghe tiếng khóc nức nở ở đâu đó rất gần mà chẳng biết là ai.

Bởi vậy sáng nay vừa thấy bóng mẹ bước vào phòng, Thiện đã phải lên tiếng trước:

- Con biết rồi... bữa nay mình phải qua bên nhà Diệu Hương để lo cho lễ cưới. Má đừng nói gì hết, để con chuẩn bị.

Thiện âm thầm chuẩn bị, thay quần áo và tự mang sính lễ rồi ra dấu cho mẹ cùng đi mà không dám nói gì. Như thế mà yên. Cho đến khi diễn ra cuộc nói chuyện giữa hai bên sui gia thì xảy ra một bất ngờ! Cô chị Diệu Hạnh chạy ra nói với mẹ:

- Con Diệu Hương bỗng nhiên phát sốt rồi bứt tóc bứt tai la hét om sòm trong phòng!

Bà Hai Phấn kinh hãi chạy vào ngay. Vừa nhìn thấy mẹ, Diệu Hương đã ôm chầm lấy và tiếp tục gào khóc. Bà Phấn lo sợ:

- Con bị bệnh gì nói má nghe coi, đừng làm má sợ. Có má chồng con và thằng chồng...

Bà nói tới đó thì Hương đã la lớn:

- Đuổi anh ta về đi! Bảo anh ta đi đi!

Bà Năm, mẹ của Thiện cũng có mặt ở ngoài, bà vội lên tiếng:

- Có má đây con, thằng Thiện nó đang bị bệnh mà cũng ráng qua đây, nếu con bệnh nhiều thì để nó đưa đi khám thầy thuốc.

Diệu Hương vùng la lớn:

- Mấy người đi hết đi, tôi sợ mấy người!

Bà Phấn thất thần:

- Con sao vậy Hương?

Bà nhìn sang Thiện cầu cứu:

- Con coi nó bị sao vậy?

Thiện nắm lấy tay Diệu Hương, bỗng anh kêu lên:

- Tay em sao vậy?

Cảm giác lạnh như băng đang chạy rần khắp thân thể Thiện, đồng thời anh bị đẩy lùi ra xa đến mấy mét!

Hai bà mẹ đều kêu lên:

- Sao vậy?

Bà Năm kịp đỡ con mình, nhưng phải buông tay ra ngay, bởi hơi lạnh từ người Thiện truyền sang khiến bà phải kêu thét lên:

- Con sao vậy Thiện?

Thiện đang ngơ ngác nhìn Diệu Hương thì nàng đã lên tiếng:

- Mấy người đi ra khỏi chỗ này ngay!

Cả mẹ mình, Hương cũng xua đuổi:

- Bà cũng đi ra luôn! Tôi bảo đi!

Nhìn con với vẻ ái ngại, nhưng bà Phấn cũng đành phải kéo tay bà sui gia ra ngoài. Giọng bà run run:

- Lạy trời lạy Phật, xin cho con tôi bình yên!

Rồi bà gần như năn nỉ Thiện:

- Con có cách nào giúp má với! Mẹ sợ quá...

Thiện có một linh tính hơi lạ, anh lẩm bẩm:

- Không lẽ...

Rồi anh nói riêng với mẹ:

- Má ở đây chờ con một lát.

Anh bước vội ra ngoài trước sự ngạc nhiên của bà Phấn:

- Nó đi đâu vậy chị sui?

Bà Năm lắc đầu:

- Tôi cũng không biết.

Thiện bước thật nhanh về phía trước mặt, con đường hoàn toàn xa lạ nhưng như được ai đó đưa lối nên anh đi không chút lúng túng. Lát sau, dừng lại bên một cây to, nhìn xuống có một cái miếu nhỏ nằm dưới gốc cây, Thiện cúi xuống nhặt lên một chiếc khăn tay của ai đó, rồi nhanh tay cho vào túi quần và bước thật nhanh trở lại nhà.

Bước vào nhà trước sự ngạc nhiên của hai bà mẹ:

- Con đi đâu vậy?

Thiện không đáp, anh đi thẳng vào phòng chỗ Diệu Hương đang nằm.

Nhìn thấy cô nàng nhắm nghiền mắt như đang ngủ, Thiện nhẹ đặt chiếc khăn đó lên mặt cô, rồi bước lui ra khỏi phòng mà chẳng nói lời nào.

Chừng năm phút sau, bỗng từ trong Diệu Hương bước ra, sắc diện bình thường, tươi tỉnh như chẳng có gì xảy ra.

Bà Phấn kinh ngạc:

- Con đây hả, Hương?

Cô nàng cười tươi:

- Chứ má tưởng con là ai?

Chợt nhìn thấy chiếc khăn tay con đang cầm, bà Phấn càng ngạc nhiên hơn:

- Phải chiếc khăn mà sáng sớm nay con quát ầm lên nói là phơi rồi bị mất đây không?

Diệu Hương đáp tỉnh táo:

- Anh Thiện mới vừa đem về cho con!

Bà Năm hỏi con:

- Con lấy nó ở đâu vậy?

Thiện đáp:

- Nơi người ta cố tình đem giấu.

Bà Phấn ngạc nhiên:

- Ai đem giấu?

Thiện chưa kịp trả lời thì Diệu Hương đã nói:

- Con cám ơn người đã trả lại cho con vật tưởng đã mất!

Rồi cô như chẳng có chuyện gì xảy ra, quay sang mẹ:

- Sao chưa lo đám cưới cho con vậy?

Bà Phấn mừng khôn tả:

- Con thật sự không còn... như lúc nãy phải không? Con làm má sợ quá...

Diệu Hương giục:

- Ngày mai là rước dâu rồi sao má còn ở đó nói lung tung gì vậy! Con có sao đâu?

Bà Năm kề tai nói khẽ với bà sui:

- Chắc nó bị cái gì ám lúc nãy, giờ thì chắc hết rồi. Cám ơn bề trên.

Bà hỏi khẽ Thiện:

- Con làm gì mà nó tỉnh lại vậy?

Thiện lắc đầu:

- Con đâu biết. Con chỉ đi lấy vật cô ấy mất đem về...

- Sao con biết nơi chiếc khăn bị giấu?

Thiện vẫn lắc đầu:

- Con cũng không biết.

Mà thật sự Thiện hoàn toàn không biết, bởi anh hành động như bị ai đó sai khiến. Mãi đến khi hai người đứng riêng ra ở một góc sân, Diệu Hương mới nói khẽ với anh:

- Anh chậm một chút nữa thì đám cưới ngày mai coi như bỏ!

Giọng nói của Hương nghe hơi lạ, nhưng ngoài Thiện ra khó ai mà hiểu được...

Bà Phấn bàn tiếp với bà sui trai chuyện đám rước dâu ngày mai:

- Như mình tính rồi, ngày mai khi bên chị qua thì bên này sẽ theo đưa dâu khoảng hai chục người. Nhưng cái khó cho bên tôi là hiện giờ ông cậu con Diệu Hương, người sẽ giúp đứng ra chủ hôn, đáng lý đã đến từ hôm qua, mà tới giờ này vẫn chưa thấy đến. Vậy nếu giờ chót mà cậu ấy vẫn chưa có mặt thì chắc phải nhờ người khác. Ngặt nỗi con Hương lại không chịu nhờ ai trong dòng họ ở đây cả, nó đòi phải đúng ông cậu đó thôi. Tôi đang lo...

Vừa lúc ấy, từ ngoài cửa bước vào một người mà vừa trông thấy bà Phấn đã reo lên:

- Cậu Tư, chờ cậu dài cổ ra, sao bây giờ mới qua?

Một ông lão mà chẳng riêng bà Phấn ngạc nhiên, sự xuất hiện của ông đã làm cho Thiện trợn tròn mắt, kinh hoảng:

- Kìa, sao... sao lại là bác?

Đó là ông ngoại của Yến Vỹ, người đã chết khi bị Thiện ngã đè ở Dambri! Chính Thiện đích thân chôn cất cho ông trước khi về, sao bây giờ lại ở đây và...

Anh không nghe ông lão nói, liền hỏi lại:

- Sao bác lại... sống?

Ông già ngơ ngác:

- Cậu là ai? Mà sao tôi lại... không sống?

Cả hai câu hỏi và đáp đó khiến cho hai bà mẹ đều ngơ ngác:

- Con nói gì vậy Thiện? Con... quen với cậu Tư?

Thiện không đáp câu hỏi của bà mẹ vợ, mà quay sang hỏi ông lão:

- Bác thật sự không nhớ cháu? Chính con đã ở Dambri, đã chôn...

Ông lão quay sang bà Phấn:

- Phải thằng này là chồng con Diệu Hương không? Nó nói gì mà tôi không hiểu?

Thiện nghi là ông ta không nhớ, nên cố nói:

- Bác là ông ngoại của Yến Vỹ mà! Chính bác đã...

Vừa nói tới đó thì Thiện nghẹn lại, như có ai chặn họng mình. Anh cố nói tiếp, nhưng càng cố thì có cảm giác ngạt thở. Trong khi đó thì giọng ông già vẫn thản nhiên:

- Trai tráng bây giờ mới ngần này tuổi mà đã lẫn rồi! Tôi có gặp nó bao giờ đâu và tôi có ở Dambri gì đó đâu mà nó cứ cả quyết...

Bà Năm phải nhắc con:

- Chắc là con lầm với ai đó rồi.

Thiện từ phút đó như người mất hồn. Ngồi nói chuyện mà thỉnh thoảng anh cứ liếc nhìn ông lão, khiến cho Diệu Hương cũng phải nói riêng với anh:

- Để ý làm gì chuyện đó. Chúng ta đi ra sau vườn đi. Em hái mấy thứ trái cây gửi về cho mấy đứa cháu bên nhà.

Thiện theo cô ra ngoài mà vẫn không hết thắc mắc về ông lão. Lát sau anh không dừng được, phải nói:

- Anh không thể lầm dược, ông ấy chính là...

Lại một lần nữa, cổ họng anh như bị nghẹn lại và đầu óc Thiện quay cuồng! Anh lại nghe có tiếng khóc văng vẳng bên tai.

2.

Sau buổi sáng rước dâu về nhà, trong lúc cả nhà đang vui vẻ tiệc tùng thì ông cậu Tư, tức ông lão mà Thiện nhìn lầm là ông ngoại của Yến Vỹ đã đột ngột biến mất!

Sau bữa tiệc, bà Phấn đã đợi khá lâu rồi mới chịu về, sau khi nhắn lại với Thiện:

- Có thể cậu ấy già rồi mà còn uống rượu nhiều nên đi đâu đó rồi bị lạc. Nếu cậu có về con nhờ người đưa cậu qua nhà giùm má.

Thiện không thể nào hiểu nổi con người kỳ lạ này, nên anh quả quyết với vợ:

- Anh chắc chắn ông cậu này có điều gì đó không bình thường!

Diệu Hương vẫn dửng dưng:

- Thì mặc cậu ấy. Bây giờ mình lo chuyện mình. Em muốn đi ngủ thật sớm và anh nhớ dặn má và người nhà không được đánh thức mình dậy trước chín giờ sáng hôm sau!

Thiện ngơ ngác:

- Ngủ tới giờ đó bộ em muốn má chửi cho sao? Con dâu mới về nhà chồng phải dậy sớm chứ!

Diệu Hương vẫn tỉnh bơ:

- Con dâu này khác!

Nói xong, cô đi ngay vào phòng mặc cho tiệc tùng còn đang diễn ra. Bà Năm nhìn thấy, nhưng thương con nên bà cười bảo Thiện:

- Nó mệt, để cho nó nghỉ ngơi. Má hiểu...

Bà còn nói thêm:

- Qua vụ hồi sáng hôm qua, má biết nó chưa khỏe hẳn đâu, vậy mà vẫn cố gắng, tội nghiệp con nhỏ.

Thiện thì không nghĩ vậy anh lặng lẽ bước theo vợ vào phòng. Chỉ sau Diệu Hương có nửa phút, vậy mà khi Thiện vào tới nơi thì cô nàng đã nằm yên trên giường ngủ say. Thử gọi và lay nhưng Hương vẫn chẳng hề hay biết. Đêm tân hôn của Thiện sẽ trọn vẹn nếu vào nửa đêm hôm đó anh không chợt nghe có tiếng thì thầm bên tai:

- Hưởng rồi bây giờ chán, không thèm nữa phải không?

Giật mình, toan bật dậy thì Thiện đã bị vợ kéo lại:

- Muốn trốn trách nhiệm phải không!

Nghe giọng nói quen quen nhưng khác với giọng của Diệu Hương, Thiện hốt hoảng:

- Cô là...

- Người đã hiến thân cho anh rồi, nay anh tính phủ nhận để chiếm đoạt thêm người nữa phải không?

Tới lúc này thì Thiện không còn lầm lẫn nữa, anh kêu khẽ:

- Yến Vỹ!

- Không phải Yến Vỹ nào cả. Là hồn ma được cô ấy nhờ về đây đòi nợ! Vay gì phải trả nấy!

Thiện định vùng dậy thì nàng ta quát:

- Yên nào!

Thiện lo lắng:

- Diệu Hương đâu?

Giọng bên tai anh đanh lại:

- Anh mà còn nhắc tới tên cô nàng lần nữa thì đừng có trách!

Trong đêm tân hôn mà biết mình đang ngủ với một hồn ma thì còn cảm giác nào rùng rợn hơn! Bởi vậy Thiện nằm xuống mà người cứng đờ, hầu như không có một cử động nào của một người chồng... Nhưng điều đó là về phần anh, chớ cô nàng thì đâu chịu như vậy. Cô ta chủ động hết mọi việc, đưa Thiện trở về với cảm giác bị mất máu như đêm ở Dambri, đến nỗi sau cùng Thiện chỉ còn biết nằm thở dốc, thân thể rã rời...

Sáng sớm hôm sau...

Mãi tới hơn chín giờ thì bà Phấn mới cho người vào gọi vợ chồng Thiện dậy. Nhưng gọi mãi mà vẫn không nghe ai trả lời. Phải đích thân bà Phấn gọi lớn:

- Dậy đi chứ tụi bay?

Vẫn im lặng. Sau ba lần gọi nửa, bà Phấn bắt đầu lo, đẩy mạnh cửa vào và...

Trong phòng không thấy Diệu Hương, chỉ có Thiện nằm nửa người trên giường, còn nửa người thòng xuống sàn, sắc mặt tái xanh!

- Con!

Bà Phấn kêu to rồi lao tới chạm vào Thiện. Toàn thân anh lạnh như băng và hầu như không còn chút sinh lực nào.

- Con ơi!

Thiện được đưa ra ngoài để cấp cứu. Trong khi những người khác thì chạy đi tìm Diệu Hương. Đến chiều hôm đó thì người ta chỉ tìm thấy một đôi guốc của Hương nằm bờ sông gần nhà. Ai cũng nghĩ là Diệu Hương đã bị chết đuối, nên ra sức tìm khắp đoạn sông gần đó. Tuy nhiên tìm cả buổi vẫn chẳng có kết quả.

Thiện được cấp cứu đã tỉnh, nhưng trong trạng thái như người mất hồn...

Đến giữa trưa ngày hôm sau thì bên nhà bà Phấn có người qua báo tin là người ta đã tìm thấy xác của Diệu Hương nằm chết ở gốc cây cổ thụ, cạnh miếu cổ, nơi Thiện đã tìm được chiếc khăn tay bữa trước!

Đang kiệt sức, nhưng vừa nghe điều đó Thiện đã bật dậy đòi đi. Khi sang tới chỗ, Thiện đã bật khóc khi thấy xác vợ được mang về nằm ở nhà mà sắc diện vẫn còn nguyên như khi sống. Bà Phấn vừa khóc vừa kể lại:

- Má đang ngủ thì nghe có tiếng gọi và khóc ở ngoài, má ra mở cửa thì chỉ thấy một cái bóng vụt chạy nhanh. Nhìn cái bóng đó tự dưng má nghĩ tới con Diệu Hương! Má chạy theo và cuối cùng tới chỗ miếu cô hồn, và... đã thấy xác nó nằm ở đó.

Bà khóc hết nước mắt, trong lúc Thiện thẫn thờ, anh lẩm bẩm:

- Người ta đã hại em rồi.

Bà Phấn nghe loáng thoáng không rõ nên hỏi lại:

- Ai hại ai?

Thiện không đáp, anh lặng im bước ra ngoài rồi âm thầm đi về hướng miếu cô hồn. Có điều gì uẩn khúc khiến cho Thiện nghĩ anh có thể tìm ra ở đây...

Đang lúc còn đang nhìn ngắm, chợt Thiện giật mình khi phát hiện trên vách phía trong tòa miếu cô hồn có hai dòng chữ viết bằng thứ máu đỏ mà lâu ngày đã trở thành màu nâu sẫm. Vừa thấy dòng chữ Thiện đã tái mặt, bởi nó giống y như hai câu thơ trên vách đá ở thác Dambri:

"Một thuở yêu người, ngàn năm không hết nhớ,

Nửa tuần trăng mật, suốt kiếp khó phôi pha..."

- Yến Vỹ!

Thiện chết điếng. Như vậy là anh đã không thoát được nàng ấy. Vậy mà khi đè chết ông lão hôm đó, chính ông lão cho biết là anh đã thoát được sự báo oán, bởi chính ông đã hy sinh để cứu mạng cho anh, sao bây giờ vẫn còn cuộc tầm thù này?

- Tại sao giữa chốn quê này và Dambri xa xôi lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên này? Không lẽ nơi này là quê hương của Yến Vỹ mà ngôi miếu này là để thờ nàng?

Đầu óc Thiện càng lúc càng thêm hoang mang. Anh đứng tần ngần đọc đi đọc lại hai câu thơ mà không để ý có người đang quan sát mình rất lâu, đến khi người đó cất tiếng hỏi:

- Cậu tìm gì ở đó vậy?

Ngẩng lên thấy một bà cụ, Thiện vội nói:

- Thưa bà, cháu thấy lạ vì trong miếu có mấy câu thơ...

Bà già hình như am hiểu về ngôi miếu hoang:

- Chuyện chỉ liên quan tới người ta, cậu việc gì phải tò mò...

Câu nói đó làm cho Thiện càng tò mò thêm:

- Bà nói liên quan tới ai?

- Tại sao cậu muốn biết?

- Dạ, xin bà cho biết, cháu muốn...

Bà già vừa quay bước vừa nói:

- Lâu rồi ta không nói với ai chuyện này, nhưng mấy hôm nay ta cảm thấy trong người gần như không còn sức nữa, ta hiểu rằng cũng nên nói cho ai đó biết chuyện của ngôi miếu này, kẻo rồi chẳng còn ai biết mà kể...

Thiện bước theo, anh năn nỉ:

- Bà kể cho cháu nghe đi, cháu cần biết...

Ra dấu cho Thiện theo mình về một ngôi nhà ngói cũ gần đó, khi về đến nơi bà mới nói tiếp:

- Cậu là người đầu tiên nghe tôi nói chuyện này, cậu vào nhà đi.

Thiện ngoan ngoãn bước theo vào. Vào bên trong rồi anh chưa kịp hỏi gì thì đã nghe bà già lên tiếng:

- Cậu là người xứ nào tới?

- Dạ... cháu ở xã bên kia sông, cháu tới đây để làm rể nhà Hai Phấn.

Vừa nghe nói bà già đã trố mắt:

- Nhà có đứa con gái vừa mới chết?

- Dạ.

- Chết bởi dính tới nhà họ Đoàn?

Thiện hốt hoảng:

- Bà biết chuyện đó?

Không nhìn Thiện, bà lão đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, giọng trầm buồn:

- Chuyện này tưởng đã trôi qua rồi, sao bây giờ lại tái diễn nữa, oan oan tương báo đây mà...

Thiện cố ý lắng nghe, nhưng bà già ngừng nói khá lâu rồi mới tiếp:

- Tưởng nhà họ Đoàn đó bỏ đi thì hết chuyện, nào ngờ khi cái miếu âm hồn còn đó thì vẫn còn chuyện oán thù...

- Nhà họ Đoàn ở xứ này sao?

Chỉ tay ra phía ngôi miếu âm hồn, bà nói:

- Chính chỗ cây đa cổ thụ đó ngày xưa là cổng nhà của họ. Chính ngôi miếu đó là nguyên nhân khiến họ bỏ nhà đi biệt cho đến nay không nghe tin tức gì!

- Ai bỏ đi vậy bà?

- Thì nhà họ Đoàn! Trước kia, khoảng hơn hai mươi năm họ là một bá hộ trong vùng này, có ngôi nhà lớn nhất làng, ngoài ra nghe nói còn vài ngôi nhà nghỉ mát ở những nơi xa xôi nữa... bởi ông chủ họ Đoàn là người làm nghề khai thác gỗ rừng ở vùng cao nguyên, giàu có lớn lắm!

Thiện thêm tò mò:

- Giữa chuyện bỏ xứ ra đi của họ Đoàn đó có liên quan gì tới ngôi miếu âm hồn đó vậy bà?

- Có chứ. Cái miếu đó là do chính họ Đoàn lập nên trước khi trốn đi!

Rồi không đợi Thiện hỏi, bà nói tiếp:

- Họ lập miếu vì bị oan hồn phá dữ quá! Nghe nói họ gây tội ác gì đó với một cô trinh nữ ở đâu đó trên miệt rừng, rồi khi trở về đây oan hồn theo về. Hồi đó ở đây đã từng nghe chuyện cả hai đứa con do vợ ông chủ họ Đoàn vừa sinh ra đã bị chết một cách đầy bí ẩn, khiến cho bà vợ sợ quá phải đem đứa con thứ ba vừa sinh ở thành phố gửi đi biệt luôn, chẳng biết là đi đâu, cho đến khi họ rời khỏi làng này. Thiên hạ nói sau đó nhà họ Đoàn chẳng những trốn đi xứ khác mà còn thay họ đổi tên nữa! Có lẽ nhờ vậy mà từ đó nơi này không còn chuyện đêm đêm hồn ma một cô gái hiện về ở miếu âm hồn để kêu khóc, đòi mạng nữa. Vậy mà nay lại xảy ra chuyện con gái Hai Phấn bị hại, xác lại ở ngay miếu đó. Chẳng lẽ...

Bà già chợt nhìn sững vào Thiện:

- Cậu có liên quan gì tới họ Đoàn không?

Thiện hốt hoảng:

- Dạ không! Cháu họ Dương.

- Kỳ lạ...

Bà già buông câu nói rồi im lặng. Hình như bà đang suy nghĩ điều gì đó...

Hồi lâu, bà chợt hỏi:

- Sao cậu biết gia đình bà Hai Phấn mà cưới con gái bà ấy?

- Dạ, do má cháu quen biết. Trước đây nghe nói má cháu có ở xứ này.

- Má cậu tên gì?

- Dạ... người ta hay gọi là bà Năm.

- Phải Năm Hường không?

Nghe bà hỏi Thiện giật mình, bởi cái tên Hường là tên tục của mẹ mà lâu lắm rồi ít nghe ai gọi. Anh lúng túng:

- Bà... bà biết má cháu?

Bà già sửng sốt nhìn Thiện:

- Chẳng lẽ cậu là...là...

Bà không nói hết câu đã đứng vụt dậy. Đột ngột hỏi:

- Cậu là con trai của Đoàn Trung?

Thiện lắc đầu:

- Dạ không. Cha cháu là Dương Hòa.

Sau câu trả lời của Thiện, bà già mới bớt căng thẳng:

- Vậy là không phải rồi, nhưng cậu về hỏi bà mẹ cậu xem bà có biết ông Đoàn Trung không? Và bà có phải là Năm Hường ngày xưa là con của nghiệp chủ Lợi ở Cần Thơ không?

Tuy bớt căng thẳng, nhưng bà cụ vẫn không thôi nhìn Thiện với đôi mắt tò tò:

- Sao mẹ cậu lại là Năm Hường?

Thiện lắc đầu:

- Cháu cũng không biết.

Bà già lẩm bẩm một mình:

- Chuyện này không lẽ...

Rồi có lẽ do đã ngồi nhiều, nói nhiều nãy giờ, nên bà già nhẹ lắc đầu bảo Thiện:

- Thôi, cậu biết bao nhiêu đó đủ rồi. Nếu không phải là người của họ Đoàn thì tôi khuyên cậu không nên tò mò ở cái miếu đó làm gì. Đã có biết bao nhiêu rắc rối xung quanh nó rồi, mà làng này cũng không còn muốn xảy ra thêm những cái chết oan uổng nữa! Thôi, cậu về đi. Nói tôi gửi lời chia buồn với bà Hai Phấn.

Bà ta nói xong thì lặng lẽ đi vào nhà trong để lại Thiện với những thắc mắc trong lòng...

*         *

*

Chôn cất vợ xong thì Thiện trở về nhà ngay. Và việc đầu tiên là anh hỏi ngay mẹ mình:

- Có phải trước đây má ở Cần Thơ không? Ông ngoại con là nghiệp chủ Lợi?

Tuy có ngạc nhiên, nhưng bà Năm vẫn nhẹ nhàng đáp:

- Phải. Con hỏi chi vậy?

- Tại vì lâu nay con ít có dịp hỏi chuyện dòng họ mình.

- Cũng bởi ngay từ nhỏ con đã xa nhà, sống tận bên Pháp, nên đâu có dịp nào...

Thiện chợt hỏi:

- Sao con phải xa nhà từ lúc con nhỏ xíu vậy má?

Câu hỏi đó khiến bà Năm phải nhìn sững vào con trai, rồi lát sau bà mới đáp:

- Anh em con thuộc dạng khó nuôi, cho nên ba má phải gửi con cho chú Sáu ở bên Pháp nuôi.

- Má nói con khó nuôi là sao? Bộ hồi mới sinh ra con bệnh hoạn dữ lắm sao?

Bà Năm lắc đầu:

- Không. Trái lại lúc sinh ra con nặng trên ba ký và bụ bẫm lắm, má tính giữ lại, nhưng ba con quyết không cho. Cũng bởi hai anh chị con trước đó đã...

Bà ngừng nói, nhưng Thiện đã đột ngột hỏi:

- Anh chị con có phải đã chết hết ngay từ khi mới sinh ra không?

Bà Năm nhìn con ngạc nhiên:

- Sao con biết?

- Vậy là đúng phải không? Nhưng sao từ lâu nay con không nghe má nói? Nếu con không nhờ người ta cho biết thì...

Rồi bất chợt Thiện hỏi:

- Mình thật ra là họ gì má?

Bà Năm hốt hoảng thấy rõ:

- Con... con hỏi để làm gì?

- Nhưng má chưa trả lời con. Con có phải thật sự họ Dương không, hay là... họ Đoàn?

Câu hỏi này đã làm cho bà Năm run lên, biến sắc liền:

- Con... con đừng hỏi!

Thiện mới là người hoảng loạn trong lúc này. Anh run giọng nói:

- Như vậy thật sự là họ Đoàn rồi.

Rồi như thân cây đổ xuống, Thiện ngã ngồi xuống sàn nhà trước sự hoảng hốt của bà Năm:

- Kìa, con làm sao vậy Thiện?

Thiện nói như người tâm thần:

- Vậy ra con là người nhà họ Đoàn. Cha con là Đoàn Trung chứ đâu phải là Dương Hòa, phải không má?

Bà Năm cũng như chiếc bong bóng xì hơi:

- Con biết hết rồi còn gì phải hỏi má nữa...

Một sự im lặng đến khó thở... mãi một lúc sau Thiện mới thở dài:

- Con nhận hậu quả là phải rồi, cớ sao lại bắt vợ con phải chết, hở trời!

Bà Năm ấp úng:

- Chuyện ngày xưa đó... đã qua rồi.. ba con cũng đã chết rồi. Hơn hai mươi năm rồi còn gì...

- Nhưng rõ ràng là chưa hết. Má có biết Diệu Hương chết là do ai không? Do oan hồn người con gái tên là Yến Vỹ!

Vừa nghe tới cái tên ấy, bà Năm đã kêu thét lên:

- Sao con biết tên đó? Sao con...

- Chẳng những biết mà còn gặp nữa. Và còn...

Anh lặng người đi, rồi lát sau òa lên khóc! Bà Năm sợ hãi:

- Chuyện gì đến nỗi vậy con? Má nghĩ đây là chuyện do ba con làm ngày xưa. Mà tội ai làm nấy chịu chứ? Vả lại lâu nay má đâu có thấy vong hồn của cô ấy về nữa đâu?

- Má có biết hai câu thơ này không: Một thuở yêu người ngàn năm không hết nhớ - Nửa tuần trăng mật suốt kiếp khó phôi pha...

Bà Năm suy sụp hoàn toàn:

- Vậy là con hiểu hết rồi...

Bà gục xuống ôm mặt khóc ròng. Thiện dịu giọng:

- Con muốn biết nhiều hơn về chuyện nhà mình, má đừng giấu con nữa.

Bà Năm khóc một lúc rồi chợt ngẩng lên hỏi:

- Ai nói cho con hết chuyện này?

- Chính con đã gặp cô ấy!

- Ở đâu?

- Ở thác Dambri.

- Trời ơi!

Bà Năm kêu lên như vậy rồi lại khóc. Hồi lâu sau, bà mới nói qua làn nước mắt:

- Tội ác của ba con xảy ra ở trên ấy, đúng rồi!

- Má kể hết cho con nghe đi.

Bà Năm vụt đứng lên, rồi thay vì bước vào phòng riêng, bà lại đi ra bên hông nhà. Thiện đi theo, hỏi mẹ:

- Má đi đâu vậy?

Cầm lấy cây thuổng đào đất dựng bên hông nhà, bà Năm đi thẳng tới gốc cây mít lớn nhất trong vườn rồi bảo con:

- Má đào không nổi, con giúp má đào nó lên.

Thiện ngạc nhiên:

- Cái gì ở dưới?

- Tất cả sự thật mà con muốn biết!

Thiện đào từng nhát thuổng mà lòng rối bời. Lát sau, anh phát hiện một chiếc rương sắt nhỏ nằm dưới lớp đất sâu, hơi ngạc nhiên thì bà Năm đã nói:

- Con lấy nó lên, không có tiền bạc gì hết trong ấy, chỉ có một quyển sổ mà má đã đốt, nhưng đốt năm lần bảy lượt nó vẫn không cháy, nên đành phải chôn, hy vọng thời gian sẽ làm nó tiêu hủy...

Mở rương sắt ra thì quả nhiên chỉ có đúng một quyển sổ bìa cứng đã khá cũ nằm trong đó. Thiện chưa dám cầm lên thì bà Năm đã nhắc:

- Con cứ mang đề phòng riêng mà đọc. Đọc rồi tùy con muốn hủy bỏ hay chôn lại cũng được. Má sợ nó lắm rồi!

Bà quay lưng bỏ đi. Thiện cầm quyển sổ một lúc lâu rồi mới bước về phòng. Mặc dù đã khá mệt sau những gì từ sáng đến giờ, nhưng Thiện vẫn cố mở quyển sổ ra và đọc ngấu nghiến:

Ngày... tháng... năm...

Đúng ra hôm nay mình không lên Blao. Nhưng có lẽ duyên số trời định nên mình đột ngột từ Gia Nghĩa đã quay xe về đó qua con đường đi tắt và... đã gặp được nàng! Người con gái hai dòng máu Kinh - Thượng mà sao đẹp đến lạ thường! Khi mình hỏi nàng tên gì, nàng chỉ đáp gọn hai chữ: Yến Vỹ!

Mình tự giải thích:

- Yến Vỹ là cái đuôi con chim én! Mà con chim én (hay yến) có duyên và đẹp nhất là ở cái đuôi ngúng nguẩy!

Nàng cười tít mắt rồi đột ngột hỏi lại mình:

- Anh có muốn nuôi con chim én này trong lồng không?

Trong lúc ngẫu hứng mình đã đáp nhanh:

- Muốn quá đi chứ!

Thế là chỉ trong vòng một buổi ngắn ngủi gặp nhau, mình và Yến Vỹ đã yêu nhau. Mà cũng đâu có gì là sai trái, bởi mình là trai chưa vợ và nàng là gái chưa chồng, cả hai đều có quyền đến với nhau, yêu nhau!

Hai tháng sau khi mình trở lên Blao lần nữa thì mình đã đi tới một quyết định khá bất ngờ đối với nàng:

- Anh sẽ cất nhà và ở lại đây lập nghiệp.

Yến Vỹ ngạc nhiên không tin:

- Nơi đây đâu có cơ sở làm ăn gì của anh đâu mà anh quyết định ở lại?

Mình cười đáp:

- Sao lại không? Cơ sở vững chắc đó là em! Anh sẽ cưới em và vợ chồng mình xây tổ ấm nơi đây, ngay gần cái thác nước này. Anh đã tới thác Cam Ly, thác Prenn, Pongour... nhưng chỉ thấy nơi đây là đẹp hơn cả. Có lẽ tại vì có em!

Vậy là mình gắn cuộc đời với vùng đất có dòng thác Dambri đẹp mê hồn.

Thiên tình sử đẹp như tranh vẽ đã bắt đầu với lời hứa hẹn của hai đứa bên dòng thác tuôn chảy ì ầm, mình đã hứa với nàng:

- Suốt đời này anh chỉ có mình em mà thôi! Dù cho vật đổi sao dời thì vẫn chỉ một cái tên Yến Vỹ trong đời Đoàn Trung này!

Nàng cũng đã long trọng hứa vào buổi chiều ánh hoàng hôn vắt qua ngọn thác:

- Trong đời này nếu trời còn, đất còn thì tình của Yến Vỹ dành cho Trung mãi mãi còn! Nếu sai lời thì trời tru đất diệt!

Mình đã rợn người trước câu thề thốt nặng nề đó, nhưng biết sao khi tình của nàng ấy đối với mình phút chốc đã quá sâu nặng rồi! Và mình cũng đã phải thề lại cho nàng tin:

- Anh nguyện suốt đời bên em, nếu bội ước thì sẽ phải trả bằng cả tương lai của mình!

Ngày... tháng... năm...

Vậy là hai đứa hoàn thành được ước nguyện. Mặc dù cha mẹ mình từ quê nhà nghe tin đã phản đối cuộc tình mà họ cho là trái chiều, không hợp lẽ, bởi theo họ thì người Kinh không thể thành vợ chồng với người con gái Thượng.

Mà phía gia đình Yến Vỹ cũng phản đối. Họ cho rằng tình yêu mình dành cho Yến Vỹ là không thật, họ nghi ngờ... Chỉ có một người duy nhất là ông ngoại của cô ấy luôn ủng hộ, nhưng ông cũng không có được ảnh hưởng lớn trong nhà. Cho nên cuối cùng tụi mình đã chọn giải pháp tự quyết định tương lai bằng cuộc hôn nhân không có hai bên cha mẹ chứng kiến! Yến Vỹ nhờ có học tiếng Kinh nên cô ấy hiểu biết luật lệ về nếp sống người Kinh, nhờ vậy khi hai đứa sống với nhau trong ngôi nhà mình mới xây, gần khu vực toàn người Kinh sinh sống, chẳng một ai biết nàng là người dân tộc. Cái tên Yến Vỹ là một cái tên Việt hoàn toàn do nàng tự đặt khi đi học trường Kinh, chớ tên dân tộc Châu Ro của nàng Th'ơ Ria. Nàng bảo rằng từ nay nàng chỉ muốn được gọi là Yến Vỹ!

Ngày... tháng... năm...

Không ngờ tai nạn ập đến với hai đứa quá sớm! Lại tới từ phía gia đình mình: Khi hay tin mình xây nhà ở riêng với Yến Vỹ, cha mẹ mình đã lên tận nơi tìm và cương quyết phản đối, bắt mình phải bỏ ngay cô ấy! Mình không nghe thì cha mình đã mạnh tay, cắt đứt hết mọi nguồn tiền bạc mà từ lâu cho mình kinh doanh gỗ và lâm sản. Điều này cũng chẳng sao, nếu không thêm việc ba mình cho tổ chức bắt cóc Yến Vỹ đem giấu biệt đến hơn một tháng, khiến mình phát điên lên, tìm kiếm khắp nơi!

Sau cùng mình giải thoát được cho Yến Vỹ, nhưng khi trở về thì cô ấy bỗng phát bệnh và gần như câm và điên loạn! Mình tìm đủ mọi cách để cứu chữa, nhưng cũng vô hiệu, bởi sau đó mình biết được là ba mình đã nhờ một ông thầy mo, cho Yến Vỹ uống một loại thuốc gì đó mà ông ta nói là khi uống vào, người uống sẽ bị mất hết trí nhớ về những gì xảy ra trước đó. Có nghĩa buộc nàng phải quên mình đi!

Ngày... tháng... năm...

Thấy mình vẫn không chịu rời xa nàng, ba mình lại ra tay mạnh hơn. Ông tung tin, vu cho nàng là cô gái ma lai! Với sự giúp sức của một ông thầy mo vô lương tâm, Yến Vỹ bị người trong làng, bản xa lánh, xua đuổi. Kể cả những người xóm Kinh gần ngôi nhà của mình xây cho nàng ở cũng ghét bỏ, tẩy chay, khiến Yến Vỹ càng điên nặng hơn, và một ngày kia nàng biến mất không để lại chút tung tích gì! Mình đã tìm khắp nơi, vào tận buôn làng của nàng để tìm nữa mà vẫn không thấy...

Ba tháng trôi qua...

Ngày... tháng... năm...

Mình trở lại Dambri sau mấy tháng đi khắp nơi tìm kiếm thì thật bất ngờ khi nhìn thấy những câu thơ trên vách đá. Mình biết ngay đó là do chính Yến Vỹ viết, điều đó lại càng khiến lòng mình tan nát. Mình ở lại vách đá đó suốt ba ngày đêm, mong được gặp nàng, nhưng vẫn bặt vô âm tín... Cho đến một buổi chiều kia, mình nghe tin sét đánh: có một xác chết trôi phía hạ nguồn dòng thác là phụ nữ! Khi mình tìm đến nơi thì chính đó là xác của Yến Vỹ!

Mình đem xác nàng về định chôn ngay trong vườn nhà, nhưng xác nàng đến nửa đêm hôm đó thì đột nhiên biến mất!

Ngày... tháng... năm...

*          *

*

Thiện buông quyển sổ nhật ký xuống, anh thảng thốt kêu lên:

- Trời ơi!

Rồi anh ngồi thừ người ra. Làm sao anh có thể tưởng tượng ra câu chuyện lại đến nông nỗi này! Cũng may, khi hồn ma Yến Vỹ gặp anh lần đầu nàng ta chỉ muốn trả thù nên hút máu, chứ không làm chuyện gì đó xằng bậy...

Thiện quay lại hỏi mẹ:

- Thời gian đó má đã có quen với ba chưa?

Bà Năm lắc đầu:

- Cũng may là chưa. Khi ông ấy bị vụ đó làm cho bấn loạn, bỏ nhà đi đến gần cả năm sau mới về nhà trong tình trạng không ra người ngợm gì cả. Ông nội con nhân cơ hội đó đã đi hỏi cưới má cho ông ấy! Ban đầu ông ấy không chịu, nhưng sau cùng có lẽ quá chán ngán với chuyện giang hồ, cho nên ông ấy đã bằng lòng. Má là gái nhà quê, đâu có biết gì ngoài việc vâng lời cha mẹ. Khi về ở với ba con được hai năm thì má sinh đứa con đầu. Má mừng lắm, nhưng chưa kịp vui trọn vẹn thì vào một đêm khuya, lúc má đang cho con bú thì bỗng có một bóng người đầu tóc rối bời, mình mẩy ướt đẫm, đã từ ngoài cửa sổ nhảy xổ vào cướp lấy đứa con trên tay má và chạy mất! Má gào khóc lên, nhưng khi mọi người chạy vào thì chẳng ai biết phải tìm ở đâu? Đến sáng hôm đó thì chính ba con tìm gặp xác chị con nằm chết ở miệng giếng cạnh cây đa cổ thụ trước nhà! Hình như xác chị con mới được vớt lên từ dưới giếng.

Bà phải ngừng lại mấy lần bởi cơn xúc động cắt ngang lời nói. Hồi lâu mới nói tiếp:

- Hai năm sau đến lượt anh con. Nó vừa được sinh ra, lúc còn đang nằm trên tay bà mụ sinh thì đã bị cướp đi lần nữa, cũng bởi một bóng trắng xõa tóc! Và sau đó xác thằng bé cũng được tìm thấy ở bờ giếng như lần trước. Mà lần này còn táo tợn hơn, kẻ sát nhân còn lớn tiếng báo cho biết nó sẽ tiếp tục giết bất cứ đứa bé nào chào đời trong nhà họ Đoàn!

Thiện không dừng được, vội chen vào:

- Người đó là ai?

Bà Năm nói trong nước mắt:

- Ba con đã biết ngay là Yến Vỹ! Chính oan hồn cô ấy còn ngồi dưới gốc cây cổ thụ mấy đêm liền sau đó. Bởi vậy khi má mang thai con thì ba con vì không muốn mất con nên đã quyết định chuyển nhà đi nơi khác, rồi sau khi má sinh con ra, ba má liền quyết định gửi con cho chú Sáu ở bên Pháp nuôi giùm. Rồi cũng từ ấy theo lời khuyên của một ông thầy, ba con thay đổi luôn tên họ, đoạn tuyệt luôn với quá khứ, bỏ luôn quê nhà và không bao giờ còn trở lại những nơi mà trước kia ba con đã từng ở.

Thiện cắt ngang:

- Nhưng sao khi con trở về nước và có ý định lên Bảo Lộc má lại không cản?

Bà Năm lắc đầu:

- Má nào hay con đi lên đó!

Thiện nhớ lại khi anh có ý định tìm nơi yên tĩnh để soạn luận án tiến sĩ mà sau khi lấy vợ anh sẽ trở qua Pháp để trình thì có người bà con đã âm thầm cho anh địa chỉ ở Dambri. Thiện cũng không nhớ rõ đó là ai, anh hỏi mẹ:

- Cái chú gì đem xe chở con lên Bảo Lộc hôm trước, má có nhớ không?

Bà Năm lại lắc đầu:

- Má tưởng là bạn con ở bên Pháp cùng về.

Thiện chép miệng:

- Con nào có bạn cỡ tuổi đó. Chính ông ta xưng là bà con với nhà mình, tình nguyện đưa con ra Bảo Lộc và còn chỉ cho căn nhà mà ông ta nói là nhà của mình đang bỏ trống, có ý cho con ở miễn phí thời gian dài!

Bà Năm kêu lên:

- Con đã bị hồn ma nó dẫn đường đưa lối rồi! Ngôi nhà đó từ khi ba con chết má cũng bỏ luôn, không bao giờ nhắc tới, cũng chẳng biết ra sao nữa.

Thiện lẩm bẩm:

- Con mang họ Dương, vậy làm sao oan hồn cô Yến Vỹ lại biết con là họ Đoàn?

Bà Năm chợt hiểu:

- Do má chủ quan thôi. Má nghĩ chắc đã quá lâu rồi, vả lại mấy chục năm nay không hề thấy oan hồn cô ấy hiện về quấy phá nữa, nên khi nghe bà Hai Phấn ngỏ ý muốn gả con, má đã vội dẫn con sang bên ấy gặp ngay, mà quên rằng chốn cũ đó là nơi vẫn còn cái miếu âm hồn mà má đã nhờ người ta xây để thờ oan hồn cô Yến Vỹ! Có lẽ việc trả thù của vong hồn cô ấy vẫn chưa dứt.

Kể xong, bà nói khẽ với con:

- Quyển sổ nhật ký không hay ho này má đã bao nhiêu lần tìm cách đốt, nhưng không lần nào làm được, dẫu bỏ vào lò lửa nó vẫn không cháy, bởi vậy má mới chôn. Bây giờ con thử đốt lại lần nữa coi, nếu được thì coi như mình hủy nó luôn!

Thiện làm theo. Anh đốt một đống lửa ngoài vườn và tự tay ném quyển nhật ký vào đó. Anh cứ nghĩ nó sẽ không cháy như lời kể của mẹ. Tuy nhiên, thật bất ngờ, quyển sổ bùng cháy một hơi, ngọn lửa cao hơn bình thường và tỏa ra ngọn khói màu đen kỳ dị. Vài phút sau thì không còn lại gì. Chính bà Năm cũng kinh ngạc:

- Vậy là sao?

Thiện nói khẽ:

- Có lẽ mọi việc đã được hóa giải rồi. Diệu Hương đã chết thay cho con và oan hồn cô Yến Vỹ đã hài lòng, thôi không truy cứu nữa...

*          *

*

Ngay chiều hôm đó đích thân Thiện trở qua nhà vợ. Anh thắp nhang cúng Diệu Hương và khóc nức nở trước bàn thờ:

- Chính anh đã hại chết em và em đã cho anh được sống Hương ơi! Em sống khôn thác thiêng, xin hãy phù hộ cho anh được ở lại đây cùng em sống cảnh âm dương chia xa nhưng không cách lòng. Anh xin được mãi mãi ở vậy cùng em tại ngôi nhà này...

Anh xin phép mẹ vợ để về sống trong căn phòng mà Diệu Hương trước khi chết đã sống. Bà Hai Phấn dẫu không muốn nhưng cũng chiều lòng Thiện.

Từ hôm đó, Thiện sắm vai người ở rể chăm chỉ, cần cù và mẫu mực. Trước sự ngạc nhiên của nhiều người, Thiện một mình tới ngôi miếu âm hồn để quét dọn, sơn phết lại khang trang, sạch sẽ. Anh đã khấn rất thật lòng:

- Cô Yến Vỹ đã biết rõ rồi, tôi không giấu nữa, tôi là dòng máu của Đoàn gia. Tôi đã hiểu được việc làm của ông cha tôi ngày trước, đó là một tội lỗi khó tha và việc cô tầm thù, trả thù là chính đáng, tôi không trách gì cô cả, chỉ tội cho người con gái vô tội đã vì tôi mà phải mất mạng. Kính mong cô từ bi hỉ xả, tha cho chúng tôi. Từ nay tôi nguyện làm người hầu hạ vong hồn cô, làm ông từ giữ miếu cho cô. Nếu cô chấp nhận thì để tôi sống và làm nhiệm vụ đã hứa. Còn bằng không thì xin cho tôi chết ngay tại nơi này, ngay lúc này!

Anh quỳ xuống và chờ đợi...

Nhưng suốt một buổi, trước sự ngạc nhiên của người qua kẻ lại, Thiện vẫn yên ổn. Khi anh xá xong ba xá đứng dậy thì ngôi miếu bỗng nhiên bốc cháy dữ dội! Thiện kinh hoảng định lao vào chữa, nhưng anh không làm kịp, bởi lửa mới chỉ bùng lên là đã thiêu rụi hoàn toàn ngôi miếu có tuổi thọ gần ba mươi năm!

Thiện lẩm bẩm:

- Đúng là dứt thật sự rồi. Xin cám ơn và cầu chúc cho hương hồn cô Yến Vỹ sớm siêu thoát...

Từ hôm ấy, Thiện sống yên lành bên nhà vợ và cũng không giấu giếm mình là người mang họ Đoàn.

 

CHỒN ĐẦU THAI LÀM NGƯỜI

 (Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Mạn thuyết tiền thân dữ hậu thân.

Nam sơn hữu khách cánh thông thần.

Ngọc hồ thảng bất phân minh ngữ.

Thùy thức giai nhi thị cố nhân.

Tiên sinh Hoài Lợi Nhân ở thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Ðông, thuật truyện:

Cuối triều Minh, huyện Nam Sơn, tỉnh Sơn Ðông, có văn nhân họ Lưu, tên Cảnh, làm nhà dưới chân núi Nam, cùng vợ và gia nhân cư ngụ.

Một hôm, có một lão khách tới gõ cổng, xin vào diện kiến. Gia nhân vào báo, Lưu ông bảo ra mời vào. Khách theo gia nhân vào nhà, chắp tay vái chào. Lưu ông chắp tay đáp lại. Khách tự giới thiệu:"Ngu mỗ họ Hồ, tên Lượng Thái!" Lưu ông hỏi:"Huynh ông tới tệ xá, có điều chi dạy bảo?" Khách đáp:"Ngu mỗ muốn tới chào tiên sinh để xin làm quen!" Hỏi:"Nhà huynh ông ở đâu?" Ðáp: "Cũng ở trong núi này! Ngoài gia đình tiên sinh và ngu mỗ, chẳng ai thèm vào núi này cư ngụ. Vì thế ngu mỗ muốn tới xin làm quen cho có bạn!" Lưu ông bèn mời khách ngồi đàm đạo. Thấy khách nói chuyện hoạt bát, cao nhã, Lưu ông thích lắm, sai gia nhân làm tiệc khoản đãi. Hai người yến ẩm, đàm đạo rất tương đắc. Ngà ngà say, khách đứng dậy xin cáo biệt. Lưu ông nói:"Ngày mai, nếu rảnh rỗi, xin mời huynh ông lại tới chơi!" Khách đáp: "Xin vâng!"

Hôm sau, quả nhiên khách lại tới. Lưu ông sai gia nhân làm tiệc, thịnh soạn hơn hôm trước. Trong lúc yến ẩm, Lưu ông nói:"Ðược kết giao với huynh ông, thực là một điều hân hạnh, song vẫn còn điều thắc mắc, chẳng biết huynh ông có giải cho chăng?" Khách hỏi:"Tiên sinh thắc mắc điều chi?" Lưu ông nói:"Dám hỏi huynh ông quý xá ở đâu!" Khách nói:"Ngu mỗ xin nói, song xin tiên sinh tin lời, chớ kinh hãi!" Lưu ông nói:"Xin cứ nói!" Khách nói:"Ngu mỗ tới đây, chủ ý là để xin làm quen chứ chẳng phải là để gieo họa! Chẳng giấu gì tiên sinh, tệ xá là cái hang trong núi, còn ngu mỗ là chồn già trong hang!" Nghe thấy thế, Lưu ông đã chẳng sợ hãi mà còn kính trọng khách hơn. Bèn đề nghị kết nghĩa anh em. Khách nhận lời. So tuổi, khách lớn hơn, làm anh. Từ đó, hai người giao du rất thân mật, coi nhau như ruột thịt, có điều gì cũng đem ra nói cho nhau nghe, chẳng giấu diếm.

Một hôm, Lưu ông than:"Tiểu đệ cũng đã nhiều tuổi rồi mà chưa có con nối dõi tông đường!" Khách nói: "Hiền đệ chớ lo. Ngu huynh sắp chết rồi. Ðể khi nào ngu huynh chết, ngu huynh sẽ đầu thai vào làm con cho hiền đệ!" Lưu ông kinh hãi, nói:"Sao đại ca lại nói gở thế?" Khách cười, đáp:"Già rồi thì phải chết chứ sao lại gọi là nói gở?" Lưu ông hỏi:"Nghe nói ai đã tu luyện thành tiên cũng trường sinh bất tử! Ðại ca đã tu luyện thành tiên, sao lại nói là sắp chết?" Khách lắc đầu, đáp:"Riêng điều này thì chẳng thể tiết lộ cho hiền đệ biết được, xin chớ hỏi nữa! Ngu huynh đã hết kiếp làm chồn, kiếp tới được đầu thai làm người. Song đầu thai làm con cho người khác, chẳng biết người ta có thích mình hay không, chi bằng đầu thai làm con cho hiền đệ, chắc hiền đệ sẽ chẳng ghét bỏ vì chúng ta là chỗ anh em kết nghĩa mà hiền đệ lại đang muốn có con!" Nói xong, đứng dậy xin cáo biệt.

Ðêm ấy Lưu ông nằm ngủ, mộng thấy khách tới nói:"Ðêm nay ngu huynh vào làm con cho hiền đệ đây!" Giật mình tỉnh giấc, Lưu ông thấy gia nhân chạy vào báo: "Phu nhân vừa sinh công tử" Lấy làm lạ, Lưu ông bèn đặt tên đứa bé là Lượng Thái. Từ đó, khách biệt tăm. chẳng lui tới nhà Lưu ông nữa.

Lượng Thái lớn lên, ăn nói hoạt bát, cao nhã, giống hệt khách. Học hành thông minh xuất chúng, năm mười tuổi đã nổi tiếng thần đồng. Năm Nhâm Thìn (1652), niên hiệu Thuận Trị thứ 9, thi hội, đậu tiến sĩ, được triều đình bổ làm quan, tức Lưu công. Lưu công nổi tiếng hào hiệp, hay giúp đỡ kẻ nghèo khó. Có rất nhiều kẻ chẳng kể thân sơ, tới nhờ vả, đều được giúp đỡ.

Khi về hưu, thấy dân làng tới cổng nhà, mở quán bán bánh quà, tương rượu, Lưu công cứ để mặc, chẳng ngăn cản. Ít lâu sau, bãi đất trước cổng nhà Lưu công trở thành một khu chợ mới.

 

CHỒN CUỐI TRIỀU MINH

 (Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Giao thiên cự điển thục năng can.

Phiên hối tiềm tung đảm thượng hàn.

Tất cánh thử hồ thái phân hiểu.

Thừa dư bất tị tị linh quan.

Cuối triều Minh, thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Ðông có đạo quán Chiêu Thiên. Năm Canh Thìn (1640), niên hiệu Sùng Trinh thứ 13, đạo trưởng đạo quán họ Khương, rất giỏi thuật thổ nạp.

Một hôm đầu năm, có một ông lão tới đạo quán xin gặp đạo trưởng, nói:"Bỉ nhân già rồi mà con cái thì bất hiếu, chẳng cho ở chung. Vì thế muốn tới đây xin đạo trưởng cho tạm trú một thời gian" Ðạo trưởng hỏi:"Quý danh là chi?" Ðáp:"Bỉ nhân họ Hồ, tên Khứ Tật" Ðạo trưởng thuận cho ở. Vì Khứ Tật cũng biết thuật thổ nạp nên hai người rất chóng thân nhau, rồi kết làm đạo hữu.

Ðầu năm Tân Tị (1641), vào dịp dân chúng sửa soạn lễ tế Trời Ðất, Khứ Tật bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, khi tế lễ xong, Khứ Tật mới trở về. Ðạo trưởng lấy làm lạ, hỏi:"Cư sĩ đi đâu lâu thế?" Khứ Tật đáp:"Vì đạo trưởng vừa là ân nhân, vừa là đạo hữu nên bỉ nhân chẳng dám giấu. Thực ra, bỉ nhân chẳng phải là người mà là chồn. Hàng năm, cứ vào dịp dân chúng làm lễ tế Trời Ðất thì Thượng Ðế lại sai linh quan xuống trần tẩy uế nơi lập đàn tràng cũng như vùng phụ cận. Giống chồn bỉ nhân bị coi là giống xú uế nên phải lẩn tránh đi xa trên trăm dặm, kẻo bị linh quan bắt được thì sẽ bị đánh cho đến chết!" Ðạo trưởng nghe nói cũng chẳng quan tâm, vẫn để cho Khứ Tật cư trú. Hai năm tiếp theo cũng thế, cứ gần tới dịp tế lễ Trời Ðất là Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi, nửa tháng sau mới về.

Ðầu năm Giáp Thân (1644), gần tới dịp tế lễ Trời Ðất, Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, chẳng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng ngạc nhiên lắm. Ba tháng sau, vẫn chưa thấy Khứ Tật về, đạo trưởng cho là Khứ Tật đã tìm được nơi cư trú mới nên thầm trách Khứ Tật đã dời cư mà chẳng về nói với mình một lời.

Bốn tháng sau, một hôm bỗng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng trách:"Cư sĩ đã tìm được nơi cư trú mới rồi phải không? Sao chẳng về nói với bần đạo một lời?" Khứ Tật lắc đầu, đáp:"Thưa chẳng phải thế! Khi dời đạo quán, bỉ nhân vẫn định tâm là nửa tháng sau sẽ về xin đạo trưởng tiếp tục cho cư trú. Song chẳng may lần này, bỉ nhân gặp phải một tai nạn suýt chết nên hôm nay mới về được"

Hỏi:"Tai nạn chi mà nguy hiểm thế?"

Ðáp:"Trong kỳ tế lễ vừa qua, bỉ nhân đã toan lẩn tránh đi xa như những kỳ trước, song vì lười biếng nên chỉ tìm cách tạm lẩn quanh vùng này. Khi tới khu rừng rậm cách đây hơn mười dặm về hướng tây, thấy trên bờ một suối nước trong, nằm khuất cuối nẻo rừng, có một chum vỡ, bỉ nhân bèn chui vào chum để tạm lẩn trong nửa tháng. Nào ngờ đúng vào ngày tế lễ, linh quan sục sạo tới cuối nẻo rừng, khám phá ra việc bỉ nhân lẩn tránh trong chum, liền cầm roi xông vào đánh. Kinh hãi quá, bỉ nhân vội bỏ chạy thục mạng!"

Hỏi:"Cư sĩ chạy tới đâu?"

Ðáp: "Thưa, tới tận bờ sông Hoàng Hà!"

Hỏi:"Linh quan có đuổi theo không?"

Ðáp:"Thưa có! Linh quan đuổi theo rất gấp. Khi ngoái cổ nhìn, thấy linh quan đã tới sát sau lưng, bỉ nhân quẫn quá, đành phải chui vào một cầu tiêu bên sông. Sợ mùi xú uế, linh quan chẳng dám vào, chỉ đứng chờ ở bên ngoài, song bỉ nhân quyết tâm nằm lỳ trong cầu tiêu, chẳng chịu ra. Lát sau, vì không chịu nổi mùi xú uế, linh quan đành bỏ đi!"

Hỏi:"Linh quan đi rồi, sao cư sĩ chẳng về đây ngay?"

Ðáp:"Vì bỉ nhân bị mùi xú uế trong cầu tiêu nhiễm vào thân thể nên chẳng dám về, phải chui vào hang đá gần sông tạm trú. Suốt bốn tháng qua, ngày nào bỉ nhân cũng phải nhảy xuống sông tắm gội song chẳng sao gột sạch được mùi xú uế. Sau hơn trăm ngày, mùi xú uế mới bắt đầu phai! Chỉ một ly nữa là bỉ nhân chẳng còn được nhìn thấy đạo trưởng!"

Hỏi:"Bây giờ cư sĩ lại về đây cư trú phải không?"

Ðáp:"Thưa không! Hôm nay bỉ nhân về đây để xin cám ơn đạo trưởng đã cho cư trú trong bốn năm qua và tiện thể xin đạo trưởng cho phép được dời khỏi đạo quán!"

Hỏi:"Cư sĩ định đi đâu?"

Ðáp: "Bỉ nhân định trở về hang cũ núi xưa"

Hỏi: "Cư sĩ có cần bần đạo giúp đỡ điều gì không?"

Ðáp:"Thưa không! Bỉ nhân chỉ muốn thưa với đạo trưởng một việc quan trọng!"

Hỏi:"Việc chi mà quan trọng thế?

" Ðáp:"Việc Trung quốc ta sắp bị biến loạn!"

Hỏi:"Sao cư sĩ biết?"

Ðáp:"Cơ trời chẳng thể tiết lậu, mong đạo trưởng hiểu cho!"

Hỏi:"Thế chốn này có việc chi không?"

Gật đầu, đáp:"Thưa có! Chốn này nguy hiểm lắm! Là hung địa chứ chẳng phải là phúc địa! Ðạo trưởng nên dời ngay đi nơi khác thì hơn!" Rồi xin cáo biệt. Ðạo trưởng nghe lời, bèn bỏ đạo quán mà đi, chẳng ai biết là đi đâu.

Mấy tháng sau, quả nhiên biến cố Giáp Thân (1644) xảy ra. Trung quốc bị biến loạn. Nhà Minh mất ngôi với nhà Thanh. Trong cơn binh lửa, đạo quán Chiêu Thiên bị san thành bình địa.

 

HẬN TÌNH

 (Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Vừa nhìn thấy cô giáo bước vào nhà thì bà Phán Sử đã hài lòng ngay, bà khều con dâu nói khẽ:

- Con nhỏ này được đó con, coi bộ thùy mị, kín đáo, chứ không như mấy con trước đây cứ ăn mặc như sắp đi hẹn hò với trai vậy,

Liên Hương cũng đồng tình:

- Cô này thấy tướng đi cũng biết con nhà có giáo dục. Cô mặc chiếc áo dài kín đáo mà đẹp quá. Không phải là con nhà giàu mà tướng quý phái ghê!

Bà Phán hỏi đùa:

- Con học làm thầy bói bao giờ mà vừa nhìn người đã biết là giàu nghèo rồi?

Liên Hương cười:

- Dễ thôi má, nếu con nhà giàu, thì ai chịu khó đi dạy thêm!

- Ờ há.

Mẹ con bà vừa nói xong thì cô gái đã dẫn xe đạp vào tới thềm nhà, nhìn thấy hai người cô lễ phép cúi đầu chào:

- Dạ, cháu chào bác, chào chị.

- Chào cô giáo. Có phải cô là người mà bên nhà thầy Tú giới thiệu không?

- Dạ phải. Cháu là Cẩm Hà, cháu tới để...

Liên Hương có cảm tình ngay với cô ta, nên đứng dậy đon đả nói:

- Mời cô giáo vào nhà rồi nói chuyện. Nghe bác Tú nói nhưng tôi không tin là cô còn quá trẻ như vậy. Chắc là cô...

Có lẽ sợ bị chê ngay từ phút đầu gặp gỡ, nên Cẩm Hà đã vội lên tiếng:

- Em đã hai mươi mốt tuổi rồi ạ.

Bà Phán cười vui:

- Hai mươi mốt mà đã già lắm sao? Mới bằng tuổi con gái út tôi. Phải chi nó...

Bà đang nói tới đó thì chợt ngừng lại và như nghẹn lại, Liên Hương phải chen ngang vào:

- Má lại nhắc tới cô út rồi, để con lấy nước má uống.

Sau khi rót nước cho bà mẹ chồng xong, Liên Hương quay sang bảo cô giáo:

- Cô theo tôi lên lầu, các cháu có phòng riêng trên đó.

Quay lại bà Phán, Cẩm Hà lễ phép:

- Cháu xin phép bác.

Bà Phán đang cố nén cơn xúc động đang chợt trào dâng, nghe cô gái chào, bà ngẩng lên và bỗng giật mình khi nhìn thấy cô từ phía sau, bà kêu lên khẽ:

- Sao giống con Thu Hường như đúc vậy?

Thu Hường là cô con gái út mà bà vừa chợt nhắc và phát xúc động. Cô gái đã chết!

Vô tình Cẩm Hà đâu có biết, cô bước đi chầm chậm theo sau Liên Hương lên lầu và mỗi bước đi của cô lại càng khiến cho bà Phán Sử tưởng chừng như nhìn thấy con gái mình tái sinh!

Mãi đến lúc Cẩm Hà đã khuất trên cầu thang rồi mà bà vẫn còn ngẩn ngơ nhìn theo. Tuy gương mặt giống ít có lẽ do Thu Hường là con nhà giàu ăn sung mặc sướng, trắng da dài tóc, còn cô gái này con nhà nghèo, da hơi đen, nhưng sao có người lại có dáng đi giống con gái bà đến như vậy! Bà lẩm bẩm:

- Phải chi nó còn sống...

Bà lại khóc!

Lúc Liên Hương trở xuống, cô khoe với mẹ chồng:

- Cô giáo đồng ý dạy luôn bữa nay đó má. Và có điều này nữa con có ý này thì đúng hơn, con muốn mời cô ấy ở lại đây luôn để tiện việc dạy tụi nhỏ. Cô ấy đang đi học Văn khoa, má thấy có tiện không?

Bà Phán reo lên:

- Ôi, còn gì bằng! Nhà đơn chiếc quá, có thêm được người như cô tới ở thì má con tôi vui lắm! Vậy ý cô giáo thế nào?

Cẩm Hà hơi ngập ngừng:

- Vừa rồi chị Liên Hương có ngỏ ý, cháu...

Bà Phán giục:

- Nhận lời đi cô! Tôi nói thật đó, ý con dâu tôi cũng là ý của tôi mà.

Cẩm Hà có phần xiêu lòng:

- Dạ, cháu sẽ tính. Còn ngay lúc này, cháu sẽ chờ các em dậy và sẽ bắt đầu luôn.

Không giữ ý, bà kéo tay Cẩm Hà ngồi xuống bên cạnh, giọng trìu mến:

- Nói thật với cô, kể từ khi con gái tôi mất...

Liên Hương sợ bà lại xúc động nên lại xen vào:

- Má đừng có...

Nhưng bà đã bình tĩnh xua tay:

- Má không sao đâu, để má nói chuyện với cô giáo.

Cuộc trò chuyện giữa một già một trẻ chẳng mấy chốc đã trở nên thân thiết, cảm thông. Cuối cùng chính Cẩm Hà đã vui vẻ nhận lời:

- Cháu cám ơn bác và chị Liên Hương. Vâng, ngày mai cháu sẽ dọn tới đây.

Rồi câu chuyện lại xoay qua riêng tư. Bà Phán nhìn Cẩm Hà một lúc và hỏi thẳng:

- Cháu là người ở xứ nào?

- Dạ, cháu ở Châu Đốc.

Bà Phán giật mình:

- Châu Đốc mà miệt nào, huyện thị nào?

- Dạ, cháu ở Châu Phú.

- Trời đất! Bác cũng ở Châu Phú đây.

Lại thêm một lần ngẫu nhiên mà họ có chung bản quán với nhau, khiến cho tình cảm đậm đà hơn. Bà nắm chặt tay Cẩm Hà, nói:

- Nếu con không chê, bác xin nhận con là... con nuôi, cháu thấy có tiện không?

Cẩm Hà vui hẳn:

- Thưa bác, cháu đang cần...

Cô đang vui, bỗng ngậm ngùi:

- Cháu không còn ai...

Liên Hương nói thêm:

- Vừa rồi cô ấy kể cho con nghe, cô mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhiều năm trước.

Bà Phán thương tâm:

- Tội nghiệp con tôi! Vậy cha mẹ con là ai ở xứ đó?

- Dạ, ba con cũng có chút tiếng tăm ở vùng đó. Hồi ấy con còn nhớ, người ta gọi ông là ông Huyện Phò...

Câu nói của Cẩm Hà chưa dứt thì đã nghe bà Phán kêu lên:

- Trời ơi!

Rồi chẳng hiểu sao bà như á khẩu, người lạnh ngắt.

Liên Hương hốt hoảng:

- Má! Má sao vậy.

Cô cùng với Cẩm Hà phải phụ nhau đưa bà vào phòng riêng. Trong lúc hiểm nguy đó mà bàn tay của bà vẫn cố nắm chặt tay của Cẩm Hà. Miệng cứ mấp máy nhiều lần như muốn nói điều gì đó mà không nói được.

*           *

*

Có tiền sử bệnh huyết áp cao, lại bị nhiều chuyện dồn nén từ khi hai đứa con của bà chết cùng lúc, nên tâm thần bà Phán luôn trong trạng thái bất an. Việc bà bị sốc đột ngột khi đang nói chuyện với Cẩm Hà đã khiến cả Liên Hương và Cẩm Hà đều thắc mắc không hiểu sao, nhưng mấy ngày sau cũng chưa giải tỏ được, bởi bà Phán từ lúc ấy hầu như chỉ tỉnh lại sau vài lần. Tuy bác sĩ đã trấn an là tình trạng sức khỏe bà không sao, chỉ ở tình trạng đó hơi lâu, chứ không nguy hiểm. Tuy nhiên Liên Hương lo lắng vô cùng, bởi trong nhà bây giờ không còn có ai, nếu bà mẹ chồng mà có mệnh hệ nào thì chẳng biết phải làm sao. Cô đành phải trông cậy vào Cẩm Hà:

- Từ lúc này em phải giúp chị lo cho má. Chứ chị thì cũng không còn nhiều sức nữa. Nlư em thấy đó, chỉ mấy đứa con chị, nó cũng... mồ côi cha...

Cẩm Hà đã hiểu điều đó ngay từ bữa đầu tiên, nhưng chưa kịp tìm hiểu, nay cô mới nhân cơ hội biết thêm:

- Em muốn hỏi, chồng chị mất trong trường hợp nào?

Chỉ lên bàn thờ có hai ảnh, một của chồng và một của cô em chồng:

- Hai anh em họ đi chung xe rồi bị tai nạn một lượt! Hôm ấy chị ở lại nhà giờ chót nên còn sống.

Cẩm Hà thốt lên:

- Hèn chi!

Cô định hỏi thêm, nhưng thấy không tiện nên thôi.

Liên Hương hình như cũng không muốn khơi gợi lại nỗi đau đang gậm nhấm trong lòng, nên nói sang chuyện khác:

- Em ngủ trên phòng đó có tiện không?

Cẩm Hà thấy hài lòng:

- Tốt lắm rồi chị. Ở chỗ em trọ đâu tiện nghi bằng.

Liên Hương cũng nói thật:

- Từ hôm có em tới ở chung, chị an tâm lắm. Nhất là gặp lúc má bệnh như thế này, nếu không có em tiếp thì chắc chị cũng nằm theo má quá!

Đã hai đêm liền vừa thức học bài, vừa phải lo chăm sóc bà Phán, nên tối nay Cẩm Hà cảm thấy mệt. Cô chưa kịp nói thì Liên Hương cũng đã thấy, cô nói:

- Em phải ngủ sớm tối nay đi. Để chị thức với bà già. Em phải ngủ đủ giấc sáng mai chị em mình cùng dậy ăn sáng chung, chị có món quà này cho em.

Cẩm Hà chỉ chờ có thế, cô lên phòng riêng trên lầu, chỉ kịp tắm qua thì đi ngủ liền, chứ không đọc mấy trang sách như lệ thường...

Được cái là nơi này khá yên tĩnh, nhà lại ít người, nên rất dễ dỗ giấc ngủ. Chỉ hơn mười phút sau Cẩm Hà đã ngủ sâu...

- Nè, sao vào nhà tôi mà ngủ vậy?

Câu nói lặp lại có lẽ đến lần thứ ba thì Cẩm Hà mới giật mình tỉnh dậy. Lúc đầu cô vẫn còn nằm yên, nhưng khi đã nghe rõ câu nói đó là dành cho mình, cô mới bật dậy. Tuy nhiên cả người Cẩm Hà như bị đè bởi một khối đá nặng, nên cô không thể nào cử động, đồng thời lồng ngực bị nén đến sắp nghẹt thở.

Vùng vẫy đến mấy lượt, sau cùng Cẩm Hà cũng thoát ra được. Cô mở ngay ngọn đèn trên đầu nằm và có cảm giác như chỗ nệm bên cạnh nơi cô nằm vẫn còn hơi nóng!

Có tiếng của Liên Hương từ bên ngoài:

- Em bị sao vậy Cẩm Hà?

Cẩm Hà định kể lại chuyện mình vừa bị, nhưng kịp nghĩ nên ậm ừ:

- Dạ... em bị chiêm bao.

- Chị đang ngủ nghe em la lớn nên tưởng có chuyện gì.

- Dạ, không có gì.

- Niệm Phật rồi ngủ yên thôi.

Liên Hương trở về phòng của mình chỉ được một lát thì lại nghe tiếng Cẩm Hà thét lớn:

- Chị Liên Hương ơi!

Chạy trở sang, Liên Hương ngạc nhiên hơn khi thấy Cẩm Hà đang nằm lăn dưới sàn ở bên ngoài cửa phòng!

- Sao vậy em?

Không thể giấu được nữa, Cẩm Hà phải nói thật:

- Em chưa kịp ngủ thì như có ai đó quăng em ra đây!

Liên Hương quá đỗi ngạc nhiên bước thẳng vào phòng tìm khắp nơi, cả dưới gầm giường. Chẳng thấy ai, cô hỏi:

- Lúc nãy em có đóng cửa phòng không?

- Dạ có, em còn cẩn thận cài chốt bên trong nữa!

- Nhưng nhà này đâu có ai khác ngoài mấy người mình. Chị thì ngủ bên kia, còn má thì nằm liệt giường trong phòng tầng dưới, đi còn không được, nói gì ôm em ném ra ngoài. Không lẽ thằng nào lẻn vào đây?

Cẩm Hà nói khẽ, như sợ có người nghe:

- Không phải đàn ông, mà là.. con gái!

- Nhưng mà...

Liên Hương vừa nói tới đó thì chợt nhìn thấy vật gì đó nằm dưới sàn, cô cúi xuống nhặt lên, bỗng kêu lớn:

- Cô út!

Cẩm Hà kinh ngạc:

- Cô út nào?

Giọng Liên Hương chùn hẳn xuống.

- Cô út nhà này. Cái trâm cài này là của cô ấy. Không lẽ nào...

Cẩm Hà cũng vừa hiểu, cô lặp lại câu nói nửa chừng của Liên Hương:

- Không lẽ chị ấy vào phòng em? Mà cũng có thể lắm...

Cô thuật lại câu nói lúc đầu:

- Đầu tiên em nghe có người đuổi em, hỏi sao dám vào nhà này. Giọng có vẻ hằn hộc lắm, em đâu ngờ là chị út?

Liên Hương lặng người đi một lúc, cô tự hỏi:

- Không lẽ có chuyện này?

Cô không tin chuyện ma quỷ, nên càng không nghĩ cô em chồng của mình hiện hồn về. Tuy nhiên nhớ lại lúc liệm xác Thu Hường, chính mắt cô nhìn thấy vật này vẫn còn đính trên tóc của cô ấy mà! Mà chiếc trâm cài này lại do chính cô mua tặng cô ấy lúc mới về nhà chồng nữa nên không thể nào có chuyện nhìn lầm.

- Hay là vô tình vật của chị ấy để sót lại mà em không thấy, để nó rơi nên bị quở chăng?

Không muốn làm cho Cẩm Hà sợ nên Liên Hương nói cho qua:

- Có lẽ vậy.

Nói thế, nhưng sau khi đã về phòng rồi, chính Liên Hương phải trằn trọc rất lâu để suy nghĩ về chiếc trâm.

Nếu bà Phán còn tỉnh cô đã sang hỏi cho ra lẽ.

Nhìn sang hai đứa bé ngủ say, Liên Hương sợ con thức giấc nên không dám mở đèn sáng, mặc dù lúc ấy cô rất muốn mở tủ, xem lại một số đồ vật. Trong số đó có chiếc trâm thứ hai, mà lúc mua cô đã mua một cặp, tặng cho Thu Hường một cái, còn cái kia thì cô dùng cho đến khi chồng chết cô mới thôi không cài tóc nữa, đem cất trong tủ.

Nằm mãi vẫn không ngủ được, cuối cùng Liên Hương cũng phải nhè nhẹ bước tới tủ áo, kéo nhẹ ngăn tủ nữ trang bên trong ra. Tuy qua ánh đèn ngủ không nhìn rõ chi tiết, nhưng Liên Hương vẫn phát hiện chiếc trâm của cô không còn trong hộp nữ trang nữa.

- Kỳ vậy?

Liên Hương hỏi hơi lớn, nên một trong hai đứa con cô, thằng Hải giật mình hỏi:

- Mẹ bị sao vậy?

Liên Hương nhìn lại đã thấy Hải đứng bên cạnh rồi, cô xoa đầu con:

- Không có gì đâu con, ngủ đi.

- Sao mẹ không ngủ?

- Ờ, mẹ...

- Mẹ ngủ với con đi.

Chìu con, Liên Hương đành phải đóng tủ, trở lại giường nằm dỗ con. Thằng bé vô tình nói:

- Đêm qua khi ngủ con thấy cô út đó mẹ.

Liên Hương giật mình:

- Cô út sao, cô làm gì con?

Thằng Hải rút đầu vào ngực mẹ:

- Đâu có sao. Con thấy cô út kêu con, bảo con là cô thương con nhưng không thương mẹ!

Liên Hương lay vai con:

- Đúng là cô út nói vậy sao?

- Dạ đúng. Mà lần thứ hai rồi đó! Lần trước lúc con bệnh tháng rồi, khi ngủ con cũng nghe cô út nói vậy.

- Sao con không nói lại cho mẹ nghe?

Thằng bé ngây thơ:

- Con biết là chiêm bao, cô út nói dối, nên con không nói lại cho mẹ nghe!

Biết là lời trẻ con nói, vả lại đã là chiêm bao. Tuy nhiên khi hồi tưởng lại, điều thằng bé nói không sai lắm. Lúc mới về nhà chồng, người đối xử với cô tệ nhất chính là cô em út Thu Hường này. Ban đầu Liên Hương nghĩ có lẽ do ganh tỵ của cô em chồng, nên Liên Hương cố ăn ở cho đúng phép, đem tình thương đổi lại sự ganh ghét ấy để dần lấy lòng cô em. Vậy mà nhiều năm sau Thu Hường vẫn có cái gì đó mà mỗi khi đối diện vẫn khiến cả hai khó chịu. Tuy có lòng bao dung, không cố chấp, nhưng thật tình mà nói, mãi cho đến lúc anh em họ chết, Liên Hương vẫn thấy khó chịu khi đối với cô lạnh nhạt bao nhiêu, thì đối với Tú, chồng Liên Hương, thì cô em gái đôi khi thân mật quá mức, hầu như muốn độc quyền thương yêu ông anh mình!

- Má, ngủ đi!

Thằng Hải nhìn như không muốn mẹ mình suy nghĩ, nó giục thêm lần nữa. Buộc lòng Liên Hương phải tắt cả đèn ngủ để cố nhắm mắt lại, tìm giấc ngủ.

Nhưng chỉ được một lát thì bên phòng của Cẩm Hà lại vang lên tiếng kêu của cô giáo. Và chỉ chút xíu sau đã nghe tiếng chân Cẩm Hà chạy bên ngoài, cô gọi cửa:

- Cho em qua ngủ với chị Liên Hương! Em sợ...

Mở cửa ra thấy Cẩm Hà ôm quần áo mền gối trong trạng thái hoảng loạn, Liên Hương không kịp suy nghĩ gì:

- Vào đi em!

Hai đứa bé thấy cô giáo vào ngủ chung thì mừng lắm, cứ huyên thuyên hỏi đủ chuyện. Sợ con nghe Cẩm Hà kể chuyện ma quỷ, nên Liên Hương ra dấu cho Cẩm Hà im lặng, cô nói khẽ:

- Để chút nữa tụi nhỏ ngủ lại, em nói chị nghe.

Cẩm Hà nghe lời, nhưng nghe cách cô thở gấp Liên Hương hiểu là cô đang sợ hãi và muốn nói gì đó, không thể chậm trễ, cô liền tìm cách bảo Cẩm Hà:

- Em bị bệnh thì theo chị sang đây chị cạo gió cho.

Liên Hương dặn hai đứa con:

- Hai đứa nằm lại đây và mau dỗ giấc ngủ, sáng mai cô Cẩm Hà sẽ đưa đi chơi sở thú!

Nghe được đi chơi, hai đứa trẻ reo lên:

- A, được đi chơi rồi!

Kéo Cẩm Hà xuống hẳn phòng khách, mở đèn sáng lên, Liên Hương hỏi:

- Em nói chị nghe coi, chuyện gì vừa xảy ra?

Cẩm Hà chưa hết run, cô không đáp mà lấy một gói giấy nhỏ đưa ra. Liên Hương tiếp lấy vừa mở ra xem đã giật mình:

- Ở đâu em có cái này?

Lúc bấy giờ Cẩm Hà mới lên tiếng:

- Cô ấy đưa cho em.

- Cô nào?

- Cô út.

Liên Hương chết lặng đi bởi vật trên tay và cũng bởi tin mà Cẩm Hà vừa tiết lộ.

- Đúng là... cô út?

Cẩm Hà thuật rõ:

- Lúc nãy khi chị vừa về phòng thì em nghe có hơi thở lạ của ai đó rất gần, em kịp bật đèn ngủ lên thì thấy một người con gái đứng cạnh giường, em chưa kịp kêu thì cô ấy đã nói rõ từng tiếng một bảo em phải rời khỏi phòng ngay, nếu không thì sẽ biết thế nào là tội chiếm nhà người khác! Trước khi bước đi, cô ấy còn xưng tên mình là Thu Hường!

Đưa vật đang cầm trên tay ra, Liên Hương chưa kịp hỏi thì Cẩm Hà đã nói:

- Trước khi biến mất sau cửa sổ, cô ấy còn ném vật ấy lại cho em và dặn: Đưa cho Liên Hương, bảo với nó rằng Thu Hường và nó tình đoạn, nghĩa tuyệt.

Trên tay của Liên Hương là chiếc trâm cài tóc, mà vừa nhìn thấy là cô biết ngay là của mình, vật mà lúc nãy xem trong hộp nữ trang cô biết là bị mất.

- Em ngạc nhiên hơn khi thấy cô ấy có vẻ hằn hộc khi nói tới chị. Ngoài ra cô ấy còn ném lại thêm cái này nữa.

Nhìn vật Cẩm Hà vừa đưa, một lần nữa Liên Hương chết điếng:

- Trời ơi!

Cô chỉ kêu được hai tiếng rồi thừ người ra, mặt biến sắc và để rơi vật trên tay. Một chiếc chìa khóa bình thường thôi.

- Chìa khóa này của phòng nào vậy chị?

Cẩm Hà cố tình hỏi. Liên Hương đáp như cái máy:

- Phòng không được phép mở trong nhà này!

Rồi không đợi Cẩm Hà hỏi thêm gì, Liên Hương bất thần đứng dậy và bước thẳng lên lầu. Cẩm Hà chạy theo, nhưng vừa tới chân cầu thang thì Liên Hương nói:

- Đây là chuyện riêng trong mà, em cứ về phòng chị ngủ với hai đứa nhỏ, lát chị sẽ xuống.

Liên Hương đi thẳng lên lầu trên nữa, nơi mà khi ba chồng cô còn sống đã nhiều lần nghiêm cấm: Đây là nơi lưu giữ riêng những gì của dòng họ này, ngoại trừ ta với má tụi con ra không người nào được bước vào. Có quy định nghiêm ngặt ghi ở cửa, nếu vi phạm thì coi như không còn đủ tư cách làm thành viên trong nhà này nữa.

Tám năm về làm dâu nhà này, chưa bao giờ Liên Hương vi phạm và thâm tâm cô luôn nghĩ rằng cái gì người khác không muốn thì mình đừng bao giờ làm. Mặc dù cô biết chiếc chìa khóa màu vàng này dùng để mở căn phòng đó, nó luôn móc trên lưng quần của bà Phán và có lần bà cũng tiết lộ rằng nó dùng để mở căn phòng mà bà gọi là dòng họ Đỗ.

Nay thì sự thôi thúc trong lòng đến độ Liên Hương không còn kiềm chế nổi. Nhất là khi cô biết ý của Thu Hường muốn cô khám phá căn phòng ấy, Liên Hương tự nhủ, mình không thể không biết!

Tuy quyết tâm, nhưng khi tra chìa khóa vào, vừa xoay một vòng là Liên Hương chùn tay. Phải lấy hết can đảm, cuối cùng cô cũng mở được và khựng lại ngay khi nhìn một chữ viết bằng Hán tự thật lớn trên tường trước mặt. Vốn thuở nhỏ có học tiếng Hán, nên Liên Hương hiểu nghĩa của chữ này, đó là chữ Hận! Phía bên dưới, chỗ chân tường có một cái rương cũ, ngoài ra không hề có một vật gì khác trong phòng!

Như vầy sao gọi là phòng bí mật của dòng họ Liên Hương tự hỏi và một lần nữa nhìn chăm chú vào chữ Hận trên tường. Phải chăng bí mật là từ chữ này. Mà tại sao lại hận, ai hận ai trong nhà này?

Trong lúc quan sát, tình cờ Liên Hương phát hiện có một ảnh chân dung nhỏ của ai đó đặt ở cạnh chiếc rương.

- Ảnh của bà Phán?

Tuy ảnh chụp khi còn khá trẻ, nhưng nhìn nét mặt, nhất là cái nốt ruồi trên môi của người trong ảnh, Liên Hương đoán ngay đó là bà mẹ chồng mình thời trẻ.

Quả nhiên khi cầm bức ảnh lên Liên Hương đọc được, hai chữ sau ảnh: Ngọc Nga. Mà Ngọc Nga chính là tên của bà Phán Sử...

- Hận người này ư?

Một lần nữa Liên Hương tự hỏi và không tìm được câu trả lời. Phải đến khi cô mở nhẹ chiếc rương ra. Vật đập vào mắt Liên Hương đầu tiên trong rương là ảnh hai đứa trẻ mới sinh, hai bé gái. Lật phía sau bức hình thấy có ghi dòng chữ: Ngày... Thu Hường và Cẩm Hà được bảy ngày sinh!

Liên Hương kêu lên:

- Thu Hường và... Cẩm Hà!

Liên Hương bắt đầu run tay, suýt nữa đã để rơi tấm ảnh xuống sàn. Nhưng chưa hết, còn một dòng chữ viết bằng mực đỏ, qua thời gian nó hơi mờ đi so với dòng chữ màu xanh bên trên: Hận tình này làm sao trả được đây?

Hai dòng chữ tuy cùng trên một tấm ảnh nhưng lại do hai người viết. Dòng trên có thể là bà Phán viết, còn dòng dưới là nét chữ rắn rỏi của đàn ông.

- Sao lại là Cẩm Hà? Cô Cẩm Hà gia sư của hai con mình phải chăng chỉ là trùng tên ngẫu nhiên.

Liên Hương tự hỏi và một lần nữa thêm vào mớ bòng bong thắc mắc chưa có lời giải. Cô lại tiếp tục giở từng vật trong rương ra. Tiếp theo là một phong thư đã vàng úa. Trong phong bì có một lá thư dài mà ngay dòng đầu tiên đã gây chú ý cho Liên Hương: Ngọc Nga yêu dấu...

Chỉ bấy nhiêu đó cũng đủ lý do cho Liên Hương ngồi xuống và đọc ngấu nghiến lá thư:

"Ngọc Nga yêu dấu!

Khi em đọc được những dòng chữ này thì người viết đã ra đi rất xa rồi! Anh ra đi vì nỗi hối hận không nguôi, nỗi ray rứt khiến cho một con người mang tiếng là hung ác, cường quyền bậc nhất ở xứ này phải bỏ ăn, mất ngủ kể từ khi vừa sinh con xong đã bỏ bệnh viện mà đi và vội vã đến nỗi chỉ mang theo được một đứa con trong hai đứa song sinh! Em có biết là khi hay tin, anh đã tới bệnh viện ẵm đứa bé còn lại về nhà mà lòng tan nát, dày vò dữ dội. Anh biết mình không xứng đáng để được em ở lại, bởi dù sao anh cũng là kẻ dùng cường quyền ép em lấy trong lúc em đã có người yêu. Anh cũng biết em yêu Phán Sử hơn và dành trọn tình yêu cho hắn ta, nhưng thử hỏi em, anh cũng đâu thua gì hắn về khoản yêu em say đắm? Chỉ vì anh đã lỡ có vợ rồi, em là kẻ đến sau. Nhưng đúng ra, chính chúng ta là những người yêu nhau trước mà. Chúng ta yêu nhau khi Phán Sử chưa yêu em và Ngọc Diệp chưa làm vợ của Huyện Thời này!

Vậy mà chúng ta đành phải lìa xa nhau, để anh phải mang tiếng là lừa em trong cơn say để chiếm đoạt và khiến em mang thai, sinh đôi và phải đứt ruột trốn đi, còn anh bị mang tiếng là kẻ cưỡng đoạt con gái nhà nghèo! Anh nói mà đâu ai tin, trong đó chắc có cả em nữa! Bởi vậy, anh chỉ biết âm thầm chịu đựng và cố nuôi cho con Cẩm Hà khôn lớn... anh giấu con về tông tích mẹ nó và nó cũng không hề nghi ngờ gì. Khi anh sắp chết, anh đã sắp đặt gởi nó về nội nuôi, trước khi lìa đời anh nhớ nó có hỏi anh là mẹ nó đâu, anh bảo dối con là em đã chết, nên chắc từ đó nó luôn nghĩ rằng nó mồ côi trên cõi đời này. Tội nghiệp con. Anh mong em có ngày nào đó thuận tiện hãy về tìm nó. Nó vẫn tên Cẩm Hà, bên vai trái có 2 nốt ruồi son để em dễ nhận.

Điều ray rứt thứ 2 mà đến khi chết anh vẫn chưa thể làm được, đó là xin em bức ảnh mà em đã nhờ thợ ảnh chụp hai đứa nhỏ lúc còn trong bảo sinh viện. Em còn giữ nó phải không? Anh rất muốn nhìn lại con Thu Hường 1 lần, nhưng có lẽ không kịp nữa rồi...

Vĩnh biệt!"

Cuối thư không có chữ ký, mà chỉ một chữ viết tên Thời hơi run và xấu... có vẻ người viết đã chết ngay sau khi viết tới đây!

Buông lá thư xuống Liên Hương lại thắc mắc:

- Má sinh hai cô con gái này rồi mới về với ba, vậy tại sao anh Tú cũng là con của hai người, lại là anh cả?

Bao nhiêu điều chưa rõ đó lại càng khiến cho Liên Hương muốn tiếp tục khám phá số đồ vật trong rương còn lại. Vật tiếp theo lại cũng là một lá thư khác, không phong bì, dạng như là một đoạn nhật ký được trích ra.

Nét chữ hình như là của bà Phán:

"Mình cố giấu mọi chuyện với Sử khi mình bảo với anh ấy rằng con Thu Hường là kết quả của những ngày vụng trộm của hai đứa, mình trốn anh ấy, trốn gia đình đi sinh xong mới ẵm con theo anh ấy lên Sài Gòn. Ban đầu anh ấy tin là thật và rất thương con Thu Hường. Nhưng cũng vì một sơ xuất nhỏ, tức là bức thư của Huyện Thời nhờ người mang đến trong lúc mình vắng nhà, Sử đã đọc và hiểu hết! Anh ấy điên lên khi biết mình bị phản bội và Thu Hường không phải là dòng máu của anh!

Để trả thù mình, Sử đã lao vào các cuộc trác táng, nhậu nhẹt bê tha và cả mèo mỡ lung tung, đến phải nhận hậu quả là căn bệnh giang mai quái ác. Chính căn bệnh ấy mà Sử mắc chứng vô sinh. Anh ấy không thể có được giọt máu chính thức với mình! Điều ấy càng làm cho Sử hận đời hơn, anh lại dấn sâu vào các cuộc bài bạc rượu chè. Cho đến một hôm, anh ấy tự tay mang về 1 đứa trẻ lớn hơn con Thu Hường ba bốn tuổi. Ban đầu mình ngỡ đó là giọt máu rơi của anh ấy, nhưng sau hỏi kỹ lại thì mới biết do quá ham có được đứa con, nên Sử đã nhờ một người bạn xin giùm một đứa trẻ mồ côi về làm con nuôi. Đứa trẻ ấy là thằng Thanh Tú. Nó lớn hơn con Hường nên đương nhiên là anh, đẩy con Thu Hường xuống là em. Đó cũng là ý Sử, anh ấy không muốn con của tình địch lại là con trưởng trong nhà! Mình cũng phải chấp nhận và cũng hết lòng yêu thương thằng Tú, để làm vui lòng chồng..."

Đọc đến đây Liên Hương thừ người ra, cô thốt lên:

- Thì ra là vậy. Thảo nào...

Nhớ lại những cử chỉ thân mật, những cách đối xử với nhau lúc cả hai còn sống, Liên Hương bất giác thốt lên:

- Có điều gì đó!

Cô bất chợt nhìn thấy một mẩu giấy khắc nằm bên dưới. Mẩu giấy với chữ viết của bà Phán!

"Sử vừa mất thì mình lại nhận được tin khác khiến lòng mình đau như cắt. Con Thu Hường và thằng Thanh Tú yêu nhau. Trời ơi, sao lại có chuyện đó được, trong khi mình đã cưới vợ cho thằng Tú rồi mà!

Thằng Tú làm chuyện này rồi làm sao với vợ nó đây! Khi mình kêu hỏi nó thì thằng Tú nói thật nó và con Thu Hường đã yêu nhau ngay từ khi con Thu Hường được mười lăm tuổi. Đó là kết quả của những ngày chung sống trong cùng một nhà.

Dù hai đứa nó không phải là ruột thịt, máu mủ gì của nhau nhưng mình làm sao chấp nhận cho được chuyện đó? Mình phản đối quyết liệt và hăm đuổi Tú ra khỏi nhà nếu nó không chấm dứt hành động ấy! Nó lặng lẽ bỏ đi khỏi nhà suốt mấy ngày liền, trong khi con vợ nó, Liên Hương thì không biết gì, cứ tưởng chồng mình có việc gì đó vắng nhà. Để rồi... trời ơi, chuyện không ai ngờ đã xảy ra! Tụi nó âm thầm hẹn nhau đi chơi và... cùng lao xuống vực sâu! Chúng nó tự tử vì tình, trong lúc những kẻ đau khổ lại chính là mẹ và vợ con của chúng!"

- Trời ơi!

Lần này là tiếng kêu thảng thốt của Liên Hương! Cô bủn rủn tay chân, người lảo đảo sắp ngã. Trời đất như sụp đổ trước mắt người vợ suốt đời chỉ biết thương chồng, chung thủy với chồng cho đến phút cuối cùng.

Tú ngoại tình, với anh thì còn có thể tin được, nhưng sao lại là Thu Hường? Điều khó tin nhất trên đời lại là sự thật!

- Thảo nào...

Liên Hương cứ vân vê những tờ giấy trong tay mà không biết phải làm gì. Cuối cùng cô xếp nắp rương lại, bước ra khỏi phòng mà trong lòng trống rỗng, xót xa...

- Mẹ ơi! Cô giáo...

Cả hai đứa con của Liên Hương đều chạy lên, chúng hớt hãi nói không tròn câu:

- Cô giáo... Cô giáo đã...

Liên Hương hốt hoảng:

- Cô giáo sao rồi?

Thằng Hải bình tĩnh hơn đáp:

- Cô giáo bị cô út dẫn đi rồi!

- Trời ơi!

Liên Hương vừa chạy vừa hỏi:

- Đi hướng nào?

Thằng bé Sơn chỉ tay ra ngoài sân sau:

- Hướng này.

Liên Hương chỉ kịp bảo hai đứa:

- Hai con trở về phòng đóng cửa lại, để mẹ đi tìm cô giáo.

Cô chạy ra vườn vừa nghĩ đến khu mộ hai cái chôn gần nhau của Tú và Thu Hường. Quả nhiên khi gần tới nơi cô nghe giọng của Thu Hường cất lên:

- Tao đã mất người yêu về tay một đứa con gái lạ, bây giờ gặp bất cứ đứa lạ nào vào nhà thì thà tao diệt nó trước, hơn là phải hối hận về sau!

Không nghe tiếng trả lời, nhưng từ xa nhìn thấy một người nằm dài dưới đất, Liên Hương đoán ra ngay đó là Cẩm Hà. Bước tới gần hơn thì người đang đứng nói giọng của Thu Hường chỉ là một cái bóng xõa tóc, phất phơ theo gió đêm!

- Hồn ma Thu Hường!

Giọng cô ả lại cất lên:

- Ta yêu suốt năm năm nhưng chưa hưởng được một giây của cuộc sống vợ chồng, vậy mà đứa lạ vào đây cướp mất người yêu của tao, rồi còn sinh ra hai đứa con cho anh ta nữa! Cũng vì hai đứa trẻ này mà tao không ra tay báo thù kẻ cướp tình yêu của mình được, tao hận thấu xương và tao quyết giết bất cứ đứa con gái nào xuất hiện trong nhà. Mày là đứa tao ra tay đầu tiên, vậy hãy khóc cho đã đời đi rồi nhận cái chết!

Cô ta vừa nói vừa giơ thẳng cánh tay lên như sắp giáng xuống. Liên Hương thu hết can đảm nói lớn:

- Cô út, hãy dừng tay!

Nghe tiếng Liên Hương, Thu Hường gầm lên:

- Ước gì tao giết được con tiện nhân này!

Rồi cô ả quay phắt người lại, lúc này Liên Hương mới nhìn thấy được gương mặt xanh như tàu lá cùng với hai chiếc răng nanh nhô ra hai bên khóe miệng.

- Mày muốn cứu con này hả, còn lâu!

Chẳng còn cách nào hơn, Liên Hương liền đưa ra những trang giấy mình cầm trên tay và ném mạnh về phía cô ả, vừa nói to:

- Người đó là chị em ruột của cô đó!

Lạ thay, những tờ giấy vừa nằm trong tay cô ta tức thời cháy bùng lên như có ai đốt! Thu Hường không nao núng, vẫn giữ lấy vật đang cháy, gương mặt vẫn tỉnh táo như không...

Những tờ giấy vừa cháy xong thì cũng là lúc Thu Hường nhảy lùi một bước, lần này ả kêu lên:

- Sao lại có chuyện này?

Liên Hương chợt hiểu, đối với hồn ma thì cách đọc thư là phải đốt cháy, giống như khi cúng vái giấy tiền vàng bạc vậy! Vừa rồi nàng ta đã làm cho những tờ giấy gồm thư của ông Phán, nhật ký của bà Phán... và cô ta đã hiểu mọi chuyện!

- Trời ơi!

Tiếng kêu trời của một hồn ma nghe là lạ, khiến Liên Hương hơi yên tâm, cô giải thích thêm:

- Đây là đứa chị em song sinh của cô út. Cô ấy hoàn toàn không hay biết chuyện của má với ông Huyện Thời ba ruột của cô. Cũng như tôi, làm sao tôi biết chuyện cô và anh Thanh Tú yêu nhau, chứ nếu biết thế thì tôi đời nào chen vào làm chi cho khổ cả ba người. Dẫu sao thì tôi cũng cám ơn cô đã tha cho mạng sống để tôi nuôi mấy đứa con, chúng nó đâu có tội tình gì.

Thu Hường ngã gục xuống như tàu lá rụng. Trong lúc đó thì Cẩm Hà vừa mới tỉnh lại, cô ngơ ngác hỏi:

- Em... em bị sao vậy chị Liên Hương?

Nhìn bên cạnh thấy một đống quần áo nằm sóng soài, cô càng ngạc nhiên hơn:

- Cái gì đây chị...

Liên Hương biết có nói thì Cẩm Hà cũng không tin, cô liền nắm tay lôi đi, và bảo:

- Đi vào gặp má. Em sẽ nghe chính má kể lại tất cả mọi chuyện.

Vùa bước đi Cẩm Hà vừa nhìn lại sau lưng, chợt cô ngạc nhiên kêu lên:

- Chị Liên Hương xem kìa!

Trước mắt họ, ngay chỗ ngôi mộ của Thu Hường, có một đống lửa đang bùng cháy dữ dội! Liên Hương lẩm bẩm:

- Không lẽ cô ấy đã...

Liên Hương nghĩ tới chuyện hồn ma từ giã cõi trần. Người ta thường nói khi một oan hồn ra đi thường bốc cháy thành khói hoặc biến thành hơi sương. Phải chăng từ nay Thu Hường sẽ siêu thoát?

Nắm chặt tay Cẩm Hà cô nói khẽ:

- Oan hồn của Thu Hường lúc nãy đòi giết em phải không nào?

Cẩm Hà dè dặt gật:

- Dạ, đúng rồi, em sợ lắm, chẳng hiểu sao cô ấy lại cứ theo đòi giết em hoài?

- Chỉ vì cô ấy tưởng em vào nhà này để cướp người yêu của cô ta lần nữa!

Cẩm Hà ngạc nhiên hơn:

- Người yêu nào?

- Đó chính là chồng của chị, là anh của Thu Hường. Được rồi, để chị kể sơ lượt cho em nghe trước khi đi gặp má.

Cô kể lại mọi chuyên. Nghe xong Cẩm Hà ngơ ngác:

- Sao lại có chuyện đó? À mà cũng có lý...

Cuối cùng Cẩm Hà nhận ra:

- Em nhớ rồi, ba em từng nói rằng ông có một mối tình tội lỗi. Nhưng em không ngờ em lại rơi vào mối tình ấy.

Cô khóc rấm rức...

*           *

*

Bà Phán chợt tỉnh. Đây là lần tỉnh đầu tiên của bà sau gần một tuần lễ. Việc đầu tiên sau khi mở mắt ra bà hỏi ngay:

- Con Cẩm Hà đâu?

Cẩm Hà đã ngồi bên cạnh, vội lên tiếng:

- Dạ, con đây.

Quay lại nắm chặt tay Cẩm Hà, bà òa lên khóc! Liên Hương vội ngăn lại:

- Má đừng quá xúc động. Con đã nói sơ với Cẩm Hà rồi, cô ấy hiểu và chờ má nói đó.

Bà Phán kéo Cẩm Hà vào lòng, giọng trìu mến:

- Má xin lỗi con, vì hoàn cảnh ngày đó má ra đi mà không kịp đem con theo để con phải mang tiếng mồ côi từ nào đến giờ. Mà phải chỉ có con cùng với con Thu Hường thì chắc nó...

Bà lại sắp khóc, nên Liên Hương lại phải chen vào:

- Vừa rồi Cẩm Hà và cô út cũng đã gặp nhau rồi. Má không cần phải lo nữa, họ đã thông hiểu nhau rồi!

Bà Phán mừng vô kể:

- Cả đời má vẫn nơm nốp sợ chuyện hai chị em nó không biết nhau vô tình sinh hận thù nhau. Bây giờ trong cái rủi còn có cái may. Tuy con Thu Hường chết rồi nhưng trời còn thương má, cho con Cẩm Hà trở về!

Rồi bà nói thêm:

- Lúc mới gặp con má đã giật mình rồi, không phải cái tên mà bởi tướng đi, dáng vóc, nó giống y con Thu Hường!

Rồi bà lại ôm cứng con gái, như sợ Cẩm Hà thoát ra.

Cẩm Hà cũng khóc, hai mẹ con thi nhau khóc vì niềm vui đoàn tụ. Lát sau bà Phán tiếp lời:

- Để má kể lại chuyện tại sao ông Phán Sử suốt đời hận cha con con Cẩm Hà...

Liên Hương nói nhanh:

- Dạ, con mạng phép má, con đã đọc hết những gì trong phòng cấm trên lầu. Và cũng nhờ vậy mà vừa rồi con đã cứu được cô út Cẩm Hà đó!

Kể sơ lại cho bà nghe, bà Phán gật đầu:

- Má không trách gì con hết. Căn phòng đó vì tôn trọng ông ấy nên từ khi ông ấy qua đời má vẫn giữ lại, mặc dù má rất sợ khi phải lên đó.

Bà đứng lên, kéo tay Cẩm Hà và con dâu:

- Đi, mình ra ngoài một chút.

Liên Hương tính ngăn, nhưng nghĩ sao cô lại thôi, dìu một bên cùng mẹ chồng ra ngoài vườn. Cẩm Hà xúc động lắm, cô vừa đi vừa đưa tay lau nước mắt...

Khi đứng trước ngôi mộ bà bỗng trố mắt nhìn cảnh cháy đen và hốt hoảng:

- Sao vậy? Ai đốt vậy?

Liên Hương thuật lại, cô kết luận:

- Có thể hồn phách của cô út và cả anh Tú nữa đã ra đi vĩnh viễn rồi.

Sau gần nửa giờ đứng đó, cả ba trở vào nhà. Bà Phán yêu cầu dẫn bà lên lầu, chỉ cái phòng cấm, bà nói:

- Má muốn lên đó lạy ông Phán ba lạy, má xin lỗi ông ấy.

Nhưng khi đứng trước bức tường, chính bà và Liên Hương cùng kêu lên:

- Ủa, đâu mất rồi?

Chữ "Hận" cực lớn trên tường đã biến mất không để lại một dấu vết gì! Cả chiếc rương gỗ cũng không cánh mà bay!

Bà Phán lắp bắp:

- Hay là... hay là...

Liên Hương nói thầm:

- Chắc là họ rút khỏi nhà này rồi.

Bà Phán đứng lâm râm khấn một lúc rồi bà lặng lẽ bước một mình xuống lầu, không cho ai kè. Có lẽ bà thấy nhẹ người, khỏe khoắn lại như lúc bình thường.

 

LIÊM SĨ CỦA KẺ LÀM QUAN

 (Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Tiếu mạ do tha tiếu mạ gia.

Lão nhân trường lạc tín kham khoa.

Ðường khai hoạ cẩm tiêu doanh thiếp.

Thử thị tam triều tể tướng gia.

Triều Minh, có viên quan họ Chu, tên Chính Khang làm quan trải ba đời vua, được phong đến chức tể tướng. Có lần Chính Khang được nhà vua sai cầm quân đi dẹp giặc. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Chính Khang đầu hàng, chịu để giặc bắt. Triều đình phải giảng hòa với giặc để giặc thả cho Chính Khang ra về. Khi về, Chính Khang lại được nhà vua cho phục chức nên bị dân chúng đương thời khinh khi.

Khi về quê hưu trí, Chính Khang thuê thợ xây cất một gia miếu. Trước ngày khánh thành miếu, Chính Khang sai gia nhân ra ngủ đêm ở miếu để trông coi, đề phòng kẻ phá hoại.

Sáng sau, đúng vào ngày khánh thành, gia nhân hớt hải chạy về báo tin có kẻ lẻn vào miếu lúc nào chẳng rõ, treo một bức hoành ngang trên tường với một đôi câu đối dọc theo hai cột. Chính Khang lấy làm lạ, vội dẫn con cháu tới miếu coi. Tới nơi, mọi người đều thấy trên bức hoành có đề bốn chữ Tam Triều Nguyên Lão và trên đôi câu đối có đề mười bốn chữ Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất và Hiếu Ðễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm. Ai cũng hiểu ý nghĩa của bốn chữ trên bức hoành là Ông Già Làm Quan, Trải Ba Ðời Vua song chẳng ai hiểu ý nghĩa của mười bốn chữ trên đôi câu đối là gì.

Câu chuyện lan khắp vùng. Dân chúng đua nhau giải thích song rút cục cũng chẳng có ai giải thích được thỏa đáng.

Ít lâu sau, có một danh sĩ trong vùng giải thích như sau:"Ðúng ra đôi câu đối ấy phải có mười sáu chữ là Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất Bát và Hiếu Ðễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm Sỉ. Người viết cắt bớt chữ Bát ở vế đầu và chữ Sỉ ở vế sau là có ý nói Chính Khang mất chữ Bát và không có chữ Sỉ. Trong Hán tự, mất chữ Bát gọi là Vong Bát, không có chữ Sỉ gọi là Vô Sỉ. Cả hai cặp chữ Vong Bát và Vô Sỉ đều có cùng một nghĩa là vô liêm sỉ" Ai cũng chịu lời cắt nghĩa của danh sĩ ấy là thỏa đáng.

Kẻ sĩ đời sau bình luận việc tể tướng Chu Chính Khang được triều đình sai cầm quân đi dẹp giặc mà lại đầu hàng giặc là một việc làm thiếu liêm sỉ của kẻ làm quan.

 

GIỌT MÁU CÒN LẠI

 (Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Mặc dù đã về hưu từ nhiều năm, nhưng quan tri phủ họ Hoàng, tục gọi Hoàng Nhân đại gia, vẫn được mọi người biết tiếng. Dù là tiếng ác, nhưng dẫu sao không một ai ở phủ Diên Sơn, vùng ven biển này lại không quen tên, thuộc nết ông ta. Họ Hoàng còn khá nổi tiếng ở khoảng dù giàu sang tột bậc, chức trọng quyền cao, cái gì cũng có, chỉ tiếc một đều là không có con! Đây là điều bất hạnh duy nhất mà vợ chồng ông ta mắc phải. Đến nỗi khi ngã bệnh nặng, dẫu thầy thuốc cấm đoán, nhưng suốt mấy tháng trời nằm trị bệnh, ông ta cũng bắt bà vợ trẻ hơn ông đến hơn chục tuổi phải ngày đêm ở bên cạnh. Một phần để hầu hạ, chăm sóc bệnh, nhưng mặt khác, quan trọng hơn là để giúp lão ta có con!

Với người khác thì chuyện có một vài đứa con nó dễ như ăn cơm, uống nước hằng ngày, vậy mà lão Hoàng lại cực khó, đúng hơn là nan giải vô cùng!

Biết chồng bệnh, nhưng vì thấy ông quá thiết tha, gần như là lời trối trăng mỗi khi yêu cầu bà cho lão một đứa con nối dõi. Hoàng phu nhân, tên tục là Nguyệt Ánh đã phải hứa để chồng yên tâm:

- Mình cứ ráng uống thuốc, nhất là thuốc bổ, em sẽ cố có kết quả kỳ này!

Và hình như trời không phụ lòng lão ta, một tuần trăng sau Hoàng phu nhân báo tin:

- Em đã... có dấu hiệu!

Đang rất yếu sức, vậy mà khi nghe tin ấy, lão Hoàng đã bật dậy ngay, hổn hển nói:

- Nếu đúng vậy... tôi... tôi tri ân bà. Tôi...

Lão chỉ nói được có vậy rồi ngã vật ra nằm thiêm thiếp. Đó là hậu quả của nhiều lần thức dậy nửa đêm (theo lời dặn của thầy thuốc) ráng sức lên đỉnh vu sơn đi tìm con!

Lão Hoàng qua đời chỉ sau đó một tuần. Bà Nguyệt Ánh thương khóc chồng thì ít mà lo cho cái thai mới tượng hình thì nhiều. Chẳng hiểu sao, kể từ khi bà cấn thai thì hầu như đêm nào cũng thấy ác mộng. Mà những cơn ác mộng đều giống nhau: bà thấy một đứa bé khôi ngô tuấn tú cứ đứng ngay trước mặt bà mà cười và đòi đánh!

Khi tỉnh dậy, bà thắp nhang khấn vái. Mỗi lần như vậy thì bà yên được vài giờ, rồi sau đó lại tiếp tục bị ác mộng hành hạ.

Chuyện tưởng chỉ có vậy. Nào ngờ khi cái thai được chín tháng mười ngày theo thông lệ thì bà Ánh chẳng có dấu hiệu gì của một cuộc chuyển dạ, chờ thêm chục ngày nữa vẫn chẳng có tín hiệu. Đi khám thai thì thầy thuốc sau khi xem mạch đã phán một câu gọn lỏn:

- Chưa có dấu hiệu sinh, ít nhất cũng một tháng nữa!

Bà Nguyệt Ánh cãi lại:

- Tôi tính ngày tháng rất kỹ, sao lại có chuyện trễ đến như vậy?

Vị lương y quả quyết:

- Đó là tôi nói sớm, chớ thật ra chẳng hề có một biểu hiện gì về sinh sản trong vòng một vài tháng tới cả!

Không tin ông thầy thuốc này, bà cho gia nhân đi rước những lương y nổi tiếng hơn về. Sau khi khám kỹ, họ cũng nói y như vậy:

- Chưa có dấu hiệu sinh!

Có đến mười thầy thuốc đã nói như vậy cho nên bà Ánh không còn nhờ ai nữa. Bà tự an ủi:

- Có lẽ do mình lớn tuổi rồi nên mang thai không như người bình thường. Thôi thì mặc, lúc nào sinh cũng được miễn không có biến chứng gì thì không cần lo.

Kết quả thật ngoài sức tưởng tượng: Bà Ánh mang thai đến tháng thứ mười bốn thì có triệu chứng thất thường.

Bà ta nghe đau bụng rồi kêu gào đau đớn. Cuộc chuyển dạ sinh kỳ lạ đã trải qua năm ngày ròng lăn lộn, kêu la mà bà ta vẫn chưa sinh được! Thật ra đó không phải là chuyển bụng sinh.

Một buổi chiều, trong lúc người nhà đi vắng thì có một vị đạo sĩ mặc đạo bào màu đen rất lạ, đột ngột ghé qua. Vừa bước vào tới cửa ông ta đã lên tiếng:

- Ở đây nghiệp chướng nặng quá, sao không giải nó đi?

Bà Ánh đang nằm kêu la trên ghế trường kỷ, nghe vậy ngẩng lên nhìn và khó chịu khi thấy người lạ. Tuy nhiên, lúc đó vị đạo sĩ lại lên tiếng:

- Nghiệp chướng nơi này nặng lắm, không khéo lại nguy đây!

Gợi tò mò, Nguyệt Ánh hỏi:

- Nghiệp chướng gì?

Ông ta chỉ thẳng vô bụng của bà Ánh, bảo:

- Ở đây!

Nghĩ lão ta điên, bà Ánh quát lớn:

- Ông ở đâu vào đây nói nhảm, đi đi!

Mặc cho bà ta đuổi, lão đạo sĩ vẫn trầm tĩnh nói tiếp:

- Tôi chẳng mắc mớ gì chuyện này, nhưng khi đi ngang qua đây phát hiện được, tôi chẳng thể làm ngơ. Bà sắp gặp tai nạn lớn, một là bà chết, hay là... đứa bé trong bụng phải chết!

Vừa nghe lão ta nói tới đó, bà Nguyệt Ánh đã thét lên:

- Nói bậy!

Rồi bà ta ôm lấy bụng của mình, như sợ bị xâm hại.

- Đây là đứa con mà chồng tôi lúc sắp chết cũng muốn có nó cho bằng được. Ông chẳng biết gì thì hãy đi ra đi!

Bà lớn tiếng, đáng lý phật ý, nhưng vị đạo sĩ vẫn không tỏ ra chút phiền lòng, ông tiếp tục nói:

- Mạng sống của bà tùy thuộc vào vật trong bụng mà bà đang mang.

- Ông im đi!

Bà Nguyệt Ánh cố đứng lên để đi vào trong, tránh phải nghe người khách lạ này nói nữa. Đứng nhìn theo bà, vị đạo sĩ khẽ lắc đầu:

- Nghiệp chướng khó trừ!

Nói xong, ông lặng lẽ bỏ đi. Khi ra tới ngoài rồi ông vẫn còn ray rứt nên quay vào nói, cố tình cho chủ nhà nghe:

- Vẫn còn chưa muộn! Nếu bà muốn sống thì chiều nay tìm tôi ở bến đò.

Ông ta đi rồi, lúc này trong nhà bà Ánh bỗng gào lên:

- Trời ơi!

Bà kêu được mấy tiếng đó rồi ngất đi.

Đến chiều, lúc vừa tỉnh lại thì bà nôn nóng đòi người nhà dẫn đi ra bến đò. Bà dặn:

- Phải tìm cho được lão đạo sĩ. Ông ta sẽ làm hại con tôi.

Lúc ra tới chỗ bến vắng, bà đã gặp ngay ông đạo sĩ mà không cần tìm. Vừa trông thấy bà, ông chỉ một chiếc xuồng nhỏ và bảo:

- Bà hãy xuống xuồng đi, nó sẽ giúp bà được toại nguyện. Vẫn còn kịp!

Bà Nguyệt Ánh nhìn thẳng vào ông ta, giọng giận dữ:

- Tôi tìm để hỏi tội ông, tại sao ông cứ muốn hại con tôi? Lúc hôn mê, tôi được nó báo là ông đang tìm cách giết nó. Vậy là sao?

Vị đạo sĩ nghiêm giọng:

- Chỉ bởi tôi muốn cứu bà. Bà đâu biết thứ bà mang trong người là mối họa lớn cho bà, cho cả sản nghiệp của bà nữa! Hãy làm theo lời tôi đi!

Ông nói dứt lời thì bất thần dùng tay đẩy nhẹ, khiến cho bà Ánh mất thăng bằng nhào ngay xuống chiếc xuồng đang không có người. Cũng may là dù ngã bất ngờ nhưng bà chẳng sao, kể cả cái thai trong bụng cũng không hề hấn gì.

Chiếc xuồng không ai bơi nhưng đã tự động rời bến, khiến bà Ánh phải la lên:

- Tôi không biết lội, không biết bơi xuồng, phải kéo tôi vào mau lên!

Vị đạo sĩ vẫn lờ đi, ông ngửa mặt lên trời, lẩm bẩm gì trong miệng mà người đứng gần cũng không nghe được.

Trời đang lặng gió, bỗng sóng nổi lên, rồi gió như lốc xoáy, khiến chiếc xuồng quay như chong chóng. Tiếng của bà Ánh lúc đầu còn la lớn, nhưng chỉ một lúc sau thì im bặt.

Khi gió ngừng thì chiếc xuồng đã tự động cập bến, Bà Ánh hầu như chẳng còn biết gì nữa. Lúc này ông đạo sĩ mới gọi lớn:

- Đưa bà ấy về, nhớ là không được để bà ấy một mình đi ra ngoài.

Dặn xong, ông vừa định bước đi thì bất ngờ ông nghe một tiếng khóc của trẻ con vang lên. Sững sờ giây lát, rồi ông nhẹ lắc đầu thở dài:

- Số kiếp cả thôi! Đành chịu.

Đứa hài nhi do bà Ánh sinh ra trong hoàn cảnh này đáng lý rất lo ngại, tuy nhiên nhìn nó chòi đạp và cất tiếng khóc thì có vẻ bình thường. Giây lát sau nó lại nín khóc và đưa tay quơ quơ như thèm sữa hay khát nước, ông đạo sĩ phải xua tay bảo mấy gia đinh của bà Ánh vừa có mặt kịp thời:

- Hãy mang bà ấy về. Mọi việc là do số trời cả!

Ông bước đi vừa lắc đầu chán nản...

***

Bà Nguyệt Ánh dù sinh nở bất thường, nhưng cuối cùng cũng có được một đứa con trai như bà hằng mong đợi. Thằng bé ra đời chậm hơn bình thường đến bốn tháng, nên sau khi sinh đã có những biểu hiện khác người. Nó biết đi khi vừa được sáu tháng tuổi và biết nói như một đứa trẻ lên năm khi mới tám tháng! Điều ấy là bất thường và kỳ lạ, nhưng vì quá thương con, quý trọng giọt máu duy nhất của chồng còn để lại, nên bà Ánh hầu như không quan tâm những gì khác, ngoài tình thương yêu dành cho con, ngày đêm nâng niu chăm sóc cho cậu quý tử của mình.

Khi thằng bé Bảo An đầy năm, bà Nguyệt Ánh chuẩn bị một lễ thôi nôi thật lớn, mời hầu như khắp mọi người trong vùng. Dẫu chồng không còn đương chức, nhất là ông đã chết, nhưng tiếng tăm của nhà họ Hoàng vẫn còn lớn, nên lời mời của bà vẫn được hưởng ứng tích cực.

Mới sáng sớm ngày lễ thôi nôi mà đã có mấy chục người từ những nơi rất xa kéo đến. Đến trưa, tức thời khắc chính thức khai tiệc thì hầu như cái khuôn viên rộng lớn của dinh thự Hoàng Nhân đã không còn một chỗ trống. Trong số khách dự có cả vị đạo sĩ áo đen lần trước. Ông lặng lẽ chen vào giữa đám đông như mọi người, rồi hầu như chẳng còn thấy bóng dáng nữa...

Một đứa bé ở tuổi thôi nôi thì thông thường đều do mẹ hoặc người nhà bế ra để chào khách dự tiệc, nhưng ở đây thì khác. Bởi cậu bé Bảo An đã lớn như một đứa bé lên năm tuổi nên chính nó tự đi ra và bất ngờ đứng lên bàn cất tiếng:

- Chào bà con! Bữa nay bà con xa gần đều có mặt, trong số này có người tốt cũng có kẻ xấu, nên tôi muốn nhìn mặt kẻ xấu trước. Vậy ai là kẻ xấu hãy bước ra!

Dĩ nhiên không ai chịu nhận mình là kẻ xấu, cho nên thằng bé kêu gọi tới lần thứ hai mà vẫn chưa một ai bước ra. Chẳng những thế, trong số khách mời có nhiều người tỏ ra bực bội, tự hỏi, tại sao lại để một đứa nhóc con như thế nói năng hỗn láo, phạm thượng!

- Tư cách gì mà thằng nhỏ này lại ăn nói như thế?

Người vừa lên tiếng chính là anh rể của lão Hoàng. Tuy ông nay đã khá lớn, nên khi giận phát âm có phần run và nghẹn. Ông ta vừa dứt lời thì thằng bé phá lên cười:

- Chờ hoài cuối cùng cũng chường mặt ra. Lão tính tới đây hôm nay là nhằm mục đích khác, chứ đâu chỉ đi dự đám thôi nôi, phải không?

Bị thằng nhóc nói đúng tim đen, nên lão già tên gọi là Sáu Hết quát luôn:

- Tao tới đây đòi món nợ mà ba mày còn nợ của tao ngày trước, mẹ con bay phải trả lại cho tao!

Lão vừa nói vừa bước ra, tới ngay trước mặt bà Nguyệt Ánh và thằng bé Bảo An đưa tay chỉ vào nó:

- Thím dạy con như vậy sao? Nó là con nít, sao đủ tư cách để hoạnh họe người lớn đáng tuổi cô bác nó? Kẻ xấu là sao mà người tốt là thế nào?

Bà Ánh chưa kịp đáp thì thằng bé đã hớt ngang:

- Tốt là không bòn rút nhà này, còn kẻ xấu là tìm cách chống lại nhà họ Hoàng và còn đi vu khống, nói xấu ba tôi nữa. Chính ông đã đi rêu rao là ba tôi ở ác, tham lam đủ điều, ông còn chối không?

Ông Sáu Hết giận đến run người:

- Thằng ranh con hỗn láo. Chính ba mày ngày còn làm quan đã lấy hết đất đai của tao đem bán, rồi còn vu cáo tao là phản tặc, khiến tao bị tù đày nhiều năm trời, gia đình ly tán, sản nghiệp tiêu tan, đây tay trắng lại mang bệnh sắp chết đây!

Chẳng những không nao núng, thằng bé còn ngửa mặt cười vang:

- Vui quá, lại có một thằng hề già ra làm trò! Còn ai là kẻ xấu nữa không, bước ra hết đi.

Noi gương lão Sáu Hết, có đến gần chục người nữa bước ra đứng dàn hàng ngang vừa lên lếng:

- Bữa nay chúng tôi tới đây là để đòi nợ, đòi sự công bằng. Nhà họ Hoàng phải trả ngay đất đai, tài sản cho chúng tôi!

- Còn ai nữa ra luôn!

Giọng thằng bé đầy thách thức, nó lại quay khắp hướng với nụ cười nửa miệng y như một người trưởng thành. Bỗng một người xuất hiện, người mà vừa trông thấy thì bà Ánh đang đứng cạnh con đã phải giật mình.

Đó là ông đạo sĩ mặc đạo bào đen. Bà lắp bắp:

- Ông... ông tới đây làm gì? Đâu có ai mời.

Lão vẫn bình tĩnh:

- Ở đây hôm nay chỉ có một số người được mời, còn lại là những người tới để đòi nợ như quý vị đây vừa nói. Tôi cũng đòi nợ như mọi người đây!

Thằng bé quen thói trịch thượng như nãy giờ, nó nhìn ông đạo sĩ vừa hất hàm:

- Ông bước lại gần đây coi!

Bà Nguyệt Ánh muốn ngăn con lại nhưng không còn kịp nữa, ông đạo sĩ đã bước tới và với giọng chậm rãi như thường lệ:

- Nghiệt súc quá ngông cuồng! Lần trước ta không cương quyết nên ngươi mới lọt ra đời được, còn bây giờ...

Lão đưa tay lên, từ trong tay áo rơi ra một tấm vải màu vàng, vừa chụp lấy lão vừa hô to:

- Nghiệt súc, biến!

Bị bất ngờ nên thằng bé chới với, đến khi thấy nguy nó chỉ còn biết thụp người xuống. Cũng may vừa khi ấy bà Nguyệt Ánh đã nhanh trí, lấy cả thân mình của bà đè lên con vừa bảo:

- Nằm yên!

Mọi người chỉ nghe một tiếng kêu thét lên sau đó và khi nhìn lại họ đều hốt hoảng, bởi bà Nguyệt Ánh đã nằm bất động, khóe miệng tuôn đầy máu! Trong khi thằng bé thì đã nhanh chân lủi trốn mất trong đám đông khách khứa.

Lão đạo sĩ một lần nữa thở dài:

- Trời hại nhà họ Hoàng này rồi!

Nhiều người chưa hiểu chuyện đã vây quanh ông, hỏi dồn:

- Chuyện gì đã xảy ra vậy? Liệu bà Hoàng có sao không?

Lão đạo sĩ sau khi đưa tay bắt mạch cho bà Ánh đã trấn an:

- Bà ấy không sao, chỉ bị nội thương nhẹ thôi, rồi sẽ tỉnh lại ngay mà.

Rồi lão giải thích thêm:

- Lúc nãy nếu bà ấy không che chở cho nó thì thằng con nghiệt súc kia đã phải tàn đời rồi. Tôi phải ra tay như vậy là chỉ để cứu cái nhà này khỏi họa diệt vong thôi. Nó là oan gia là kết tinh của bao nhiêu oan hồn uổng tử đầu thai về để hại dòng họ Hoàng này táng tận, tiêu vong!

Vài người trong thân tộc vốn không rõ chuyện ác của Hoàng đại nhân ngày trước, nên tỏ ra không đồng tình.

- Dù sao thằng bé cũng là giọt máu hiếm hoi còn lại của họ Hoàng, sao ông làm như vậy?

Lão đạo sĩ lắc đầu:

- Các vị không biết đó thôi, nó đâu phải là người! Không thấy sao, mới có một tuổi mà nói năng hành động như một người lớn và còn hỗn láo, trịch thượng nữa. Nếu để nó tồn tại thì cái nhà này không mấy chốc chẳng còn gì.

- Nhưng dẫu sao...

Vừa lúc đó bà Nguyệt Ánh tỉnh lại, bà quên cả đau đớn gào khóc, kêu gọi con trai:

- Bảo An ơi, chạy đi con! Hãy chạy và trốn đi, đừng để lão ta giết con!

Lão đạo sĩ nhẹ giọng:

- Tôi không giết nó, chỉ muốn thu nạp để tách nó ra khỏi đây. Nhưng tôi đành chịu thất bại, bởi ngoài có bà đỡ cho nó còn được lũ yêu tinh đồng bọn theo rất đông, lần này tôi không làm gì được thì lần sao khó mà thành công. Thôi, tùy bà, tôi xin cáo từ!

Ông đi nhanh ra cửa rồi mất dạng.

Bà Nguyệt Ánh hơi ngượng với mọi người, nên chống chế:

- Do nó là con cầu tự mà, nên tôi cưng chiều, khiến nó hỗn hào. Nhưng trẻ con mà, rồi mình sẽ uốn nắn nó từ từ...

Bà lủi thủi đi vào nhà, miệng cứ gào kêu tên con...

***

Bà Nguyệt Ánh không chết, nhưng từ hôm đó bà hầu như hôn mê. Bảo An bỏ đi đâu mất không thấy bóng.

Nhưng trong nhà lại xảy ra những chuyện khá ly kỳ: Bọn gia nhân báo rằng ở phòng ngủ của bà Ánh đêm nào cũng có bóng người ra vào!

Bà Ánh hôn mê có đến cả tuần sau. Rồi cuối cùng bà tỉnh lại trong trạng thái như người đau nặng lâu ngày. Người bà gầy rạc sụt cân đến không ngờ, trọng lượng mất đi gần phân nửa!

Người nhà kể chuyện về bóng người ra vào phòng bà mỗi đêm, bà Ánh nhẹ lắc đầu bảo:

- Đâu có ai ra vào. Tôi không ăn uống, cũng không dậy được thì làm sao tiếp xúc với ai.

Khi xem lại đồ đạc trong phòng, bà giật mình:

- Sao mất hết nhiều thứ?

Bà ráng dậy, lần tới chỗ tủ đựng nữ trang tiền bạc thì bàng hoàng:

- Trời ơi. Tiền bạc... nữ trang... không còn...

Bà chỉ nói được mấy tiếng rồi lại ngất. Tôi tớ trong nhà bị nghi là thủ phạm nên cùng tập trung lại, chờ bà hồi tỉnh họ cùng thề thốt:

- Tụi con ở với bà từ lâu nay, không hề dám tham lam gì, xin bà đừng nghi oan!

Bà Ánh dịu giọng hơn thường khi:

- Ta biết ai lấy rồi, các ngươi không phải lo.

Bà nói xong thì ôm mặt khóc nức nở. Đám gia nhân không hỏi, nhưng họ đều có chung nhận định như bà.

Vài người trong số họ nói với nhau:

- Thằng Bảo An chắc là ma quỷ, chứ người gì mà mới một tuổi đã lớn xác và khôn lanh như vậy? Chính nó đó chứ không ai, nó đã vào phòng bà chủ để lấy cắp tiền.

- Nhưng nó còn con nít thì lấy nhiều tiền để làm gì? Nếu có, chắc là cũng do ai đó xúi giục. Mà mấy hôm nay nó đi đâu không thấy về, hay là đã bị ông đạo sĩ bữa đó làm gì rồi?

Họ lo lắng cũng bằng thừa, bởi ngay chiều hôm đó Bảo An ra về. Nó khinh khỉnh với mọi người trong nhà, cũng chẳng lên phòng thăm mẹ, nó vào phòng riêng vốn là thư phòng của ông Hoàng ngày trước và đóng cửa lại. Khi họ đem chuyện báo lại cho bà Ánh nghe, chẳng những không rầy la, bà còn dặn mấy đứa phục vụ:

- Tụi bay phải canh xem cậu cần gì thì phục vụ cho cậu. Đừng nói gì chuyện mất đồ hết.

Vú em của Bảo An là Thị Hai nhận trách nhiệm chuyện đó. Chị lên phòng gõ cửa thì từ trong, Bảo An nạt lớn:

- Để tao yên!

Thị Hai lên tiếng:

- Tôi nè cậu Hai, nếu cậu cần gì thì cứ gọi, tôi nằm ngủ ở ngay ngoài này chờ phục vụ cậu!

Giọng của Bảo An dịu lại:

- Thị Hai hả, ừ được. Mày vào đây tao bảo.

Thị Hai đã là vú nuôi nó từ lúc mới lọt lòng, cả việc bú mớm chị cũng đích thân lo, bởi chị là gái một con, từng có sữa con so rất ngon, bởi đứa con mới sinh ra của chị đã phải bỏ do bạo bệnh.

Nghe giọng điệu không bình thường của Bảo An, chị có hơi lạ, nhưng không nghĩ gì khác, chị đẩy cửa bước vào phòng.

- Gài cửa lại...

- Dạ, cậu Hai.

Việc phải xưng dạ thưa với một thằng nhóc đã là kỳ, lại còn phải nghe nó kêu mình bằng mày này mày nọ nữa, Thị Hai bực lắm nhưng ráng chịu đựng bởi thân phận tôi đòi.

- Lại gần đây bóp chân cho tao coi, đi qua nay mỏi nhừ cả hai chân!

Thị Hai đẩy đưa:

- Bà kiếm cậu khắp nơi, bà khóc thương vì nhớ cậu đến phát bệnh nằm liệt giường mấy hôm nay.

Chợt nó hỏi:

- Bà ấy có hỏi gì tôi không?

- Dạ có, à mà không! Bà chỉ hỏi không biết cậu đi đâu.

- Vậy thôi sao? Còn chuyện tiền bạc...

Thị Hai ngạc nhiên:

- Cậu hỏi tiền bạc gì? Bộ cậu...

Bỗng nó phá lên cười:

- Hỏi chơi vậy chớ tôi biết bà ấy phát hiện ra vụ mất tiền, và bà ấy nghi cho tôi lấy! Mà haha... tôi lấy thì đã sao, bà ấy còn thiếu gì tiền ba tôi để lại nữa!

Thị Hai trố mắt:

- Cậu Hai lấy thật hả?

Thằng bé trợn mắt nhìn lại Thị Hai:

- Làm gì ngạc nhiên dữ vậy? Mày có muốn xài không tôi cho?

Thị Hai hốt hoảng:

- Cậu Hai đừng làm tôi sợ! Tôi không bao giờ dám...

Thằng bé bất thần vùng dậy, chụp lấy Thị Hai kéo về phía mình khiến chị ta không làm chủ được, phải ngã sấp lên người nó:

- Đừng làm vậy cậu Hai! Đừng...

Nhưng chị ta đã bị Bảo An chặn ngang miệng bằng sức mạnh đáng ngạc nhiên...

- Kêu lên là tao giết chết liền. Tao đâu phải là thằng bé con Bảo An đâu, cứ nhìn lại tao coi.

Lúc này Thị Hai không còn hồn vía nữa, nhưng cũng liếc nhanh về phía nó, rõ ràng người đang khống chế chị là một ai đó khác, chứ chẳng phải Bảo An!

Tuy nhiên, giọng vẫn là giọng của nó:

- Tao đi lang thang mấy ngày nay mà tới đâu người ta cũng từ chối không cho tao vào mặc dù đó là những kỹ viện, những lầu xanh. Họ nói tao còn con nít, cấm vào! Mà tao thì đang phát triển thành người lớn, tao muốn được cái mà người lớn có. Vậy thôi, mày chiều tao, lén lút giữa tao với mày thôi, mọi việc sẽ không ai hay... rồi tao cho tiền đời mày sẽ hết khổ, hết cơ cực. Nghe tao thì yên mà không nghe thì mày biết rồi, tao có thể giết chết bất cứ đứa nào mà tao muốn! Thế nào theo tao chứ? Hãy nói ừ đi trong khi tao còn năn nỉ...

Thị Hai chết điếng trong lòng, nói thuận thì quyết là không, mà chống cự lại thì chỉ có nước chết! Thằng tiểu quỷ này xưa nay muốn gì được nấy. Nay hình dáng nó hiện tại lại không phải là nó, mà với sức một đứa cường tráng như vậy làm sao chị chống lại được?

Đang còn lưỡng lự, bỗng có người gọi bên ngoài:

- Bà chủ kêu Hai ơi!

Chỉ chờ có thế, Thị Hai vùng ra định chạy đi, thì bất chợt thằng quỷ kéo mạnh lại, chị ta vô phương cựa quậy.

- Để tao!

Hắn nói vọng ra:

- Tao sai con Hai đi chợ rồi!

Có thể bên ngoài biết Thị Hai chưa đi đâu nhưng ai dám cãi lời. Họ lên báo cho bà chủ như vậy rồi nhìn nhau lắc đầu.

Bà Nguyệt Ánh thay vì rầy con, bà lại chỉ đăm chiêu một chút rồi im lặng. Từ đó, bà cũng chẳng nhắc tới số tiền bạc nữ trang bị mất.

Thằng con tiểu quỷ của bà thì đang làm một chuyện động trời ngay trong nhà mà hầu như bà không quan tâm, hay là có biết mà lờ đi...

Nửa đêm hôm đó, chính tên khốn kiếp ấy bước ra khỏi phòng rồi tỉnh như không, hô lớn:

- Con Hai chết rồi!

Khi mọi người chạy lên thì thấy Thị Hai nằm sóng sài dưới sàn, chết mà không kín thân thể! Lúc này, chính bà Ánh khi nhìn Bảo An trước mặt mình cũng phải kinh ngạc, bởi đó là một thanh niên lực lưỡng chứ không phải là đứa con bé bỏng của bà!

Trong khi mọi người hãi hùng thì Bảo An dửng dưng bước ra ngoài, buông lại một câu lạnh lùng:

- Đổi phòng khác cho tôi!

Bà Nguyệt Ánh cũng chiều theo:

- Đổi phòng cho cậu Hai.

Rồi bà cố bước theo con ra ngoài định nói gì đó nhưng Bảo An hình như biết mà vẫn tảng lờ, đi luôn. Người mẹ đau khổ chỉ biết nhìn theo rồi ôm mặt khóc.

***

Nhờ tiền bạc và cũng nhờ mối quan hệ cũ của ông Hoàng nên chuyện động trời về cái chết của cô hầu gái bị xếp hồ sơ, không truy cứu. Bà Ánh phải tốn khá bộn. Rõ ràng là bà muốn được yên thân và cũng muốn cho đứa con trai cầu tự của mình không bị tai tiếng.

Nhưng chừng như nghiệp chướng không giới hạn đó. Chỉ một tháng sau thì chuyện gì đến đã đến!

Một buổi sáng, khi bà Ánh còn đang nằm trong phòng riêng thì bên ngoài có tiếng người la hét vang. Lát sau mấy con hầu chạy vào báo tin dữ:

- Bà ơi, cậu Hai nguy rồi!

- Chuyện gì mà nguy?

- Người ta kéo tới đòi bắt cậu Hai vì tội... gian dâm với vợ và con người ta!

Bà Ánh vừa chạy ra đã nhìn thấy cả chục người đang ra sức xô đổ cổng rào. Cũng may, vừa khi ấy có mấy tay lính lệ của làng tới, họ chặn lại:

- Có chuyện gì thì ra nhà làng mà kiện cáo, sao lại phá nhà người ta?

Mấy người đang giận dữ đã gào lên:

- Làng xã các người bênh nhau, có thưa kiện cũng như không! Thằng tiểu yêu nhà này nó làm loạn xóm làng, gây tang tóc cho mọi người mà quân lính các người có ra tay không, hay là để yên cho nó làm tới?

Một lính lệ nói lớn:

- Sao không ra tay! Mới rồi làng đã bắt nó ra đóng gông ngoài sân làng rồi!

Anh ta quay sang bà Ánh:

- Thằng con nhà bà phạm tội tày trời, hãm hiếp giết cả nhà người ta, nên bị bắt sắp giải lên quan rồi!

- Trời ơi, con tôi!

Bà Ánh chỉ kêu được mấy tiếng rồi đứng như trời trồng. Lát sau, bà mới xua tay:

- Không. Không có chuyện đó! Con tôi còn nhỏ làm sao nó làm được chuyện tày đình ấy mà mấy người vu oan!

Khi mấy tên lính lệ dìu bà ra tận nhà làng thì rõ ràng trước mắt là Bảo An đang bị cùm tay chân. Vừa nhìn thấy mẹ, nó đã lồng lộn lên:

- Thả tao ra, không thì cả lũ bay phải chết hết!

Bà Ánh bất nhẫn khi nhìn con trong tình cảnh ấy, nhưng bà cũng đành phải chịu thôi. Ngay trưa hôm đó, người ta áp giải thằng tiểu quỷ lên quan huyện. Người này vốn là bạn đồng liêu với ông Hoàng ngày trước, cũng muốn nhẹ tay với Bảo An. Tuy nhiên, vừa gặp mặt ông thằng khốn kiếp đã chỉ thẳng vào ông hét lớn:

- Mày phải cứu tao ra, không thì tao sẽ giết hết cả nhà mày!

Trước thái độ quá đáng của nó, bà Ánh phải lên tiếng:

- Không được hỗn!

Bất ngờ, nó quay sang bà trợn mắt lên:

- Bà chết tới nơi mà còn chưa biết sao?

Huyện lệnh Đinh Liêm đập bàn quát lớn:

- Súc sinh!

Rồi ông ra lệnh cho lính lệ nọc hắn ra đánh hai chục hèo. Rất lạ là dù bị đánh tóe máu, nhưng hắn vẫn gào thét chửi bới chứ không kêu đau. Bà Ánh bất nhẫn quay mặt đi chỗ khác, hồi lâu khi quay lại thì người ta đã đưa Bảo An đi rồi. Hỏi thì bà được viên huyện lệnh đáp vắn tắt:

- Phải đưa ngay nó lên phủ, để người ta trị tội nó. Thằng bé này tuy tuổi còn trẻ con, nhưng hành động là người lớn nên không thể xem thườmg được.

***

Do Bảo An tuổi còn nhỏ nên không ghép tội hết được, mặc dù đó là trọng tội, phải chết. Khi đưa lên phủ, họ truyền giam vào nhà lao chờ lệnh. Huyện quan Đinh Liêm muốn làm tiền nhà họ Hoàng, nên cho người tâm phúc tìm tới nhà gặp bà Nguyệt Ánh. Nhưng khi họ tới nơi thì hay tin bà Ánh đã về thành phố để khiếu nại.

Tưởng bà ta cố ý lánh mặt, nên huyện quan ra lệnh hành quyết ngay, dù đó là một lệnh trái luật. Tuy nhiên, khi lính vào nhà lao để dẫn phạm nhân ra thì chỉ còn thấy cái xác của một đứa bé nằm đó, nhưng không phải là xác của Bảo An!

Chuyện báo lên quan huyện, lão Đinh Liêm hốt hoảng đến tận nơi xem thực hư. Và lão ta chết điếng khi nhìn thấy cái xác. Đó là đứa con trai lên ba của ông ta...

- Trời ơi!

Lão kêu lên và ngất tại chỗ.

Trong khi đó thì ở bến đò nơi bà Nguyệt Ánh trên đường đi khiếu kiện, đã bất ngờ gặp lại vị đạo sĩ. Bà hơi khó chịu nhưng không cách nào hơn là phải chào hỏi lấy lệ, rồi định xuống đò thì ông đạo sĩ đã lên tiếng:

- Bà đi làm gì cho mất công. Nó tới đây bây giờ.

Bà Ánh nhìn lại phía sau thì thấy một xe ngựa chạy nhanh tới và thả xuống một người.

- Con!

Bảo An không đáp, chạy nhanh xuống đò và đuổi hết những người cùng đi:

- Lên hết, để tôi đi!

Mấy người kia biết nó nên vừa thấy đã muốn tránh xa. Còn lại trên đò chỉ có hai mẹ con. Nhưng thằng khốn ấy không hề nhìn mẹ nó, lại tự tay chèo con đò ra giữa dòng.

Lão đạo sĩ kêu lớn:

- Bà hãy nhảy xuống sông lội vào bờ đi, nếu không muốn chết chung với thằng đó!

Bà Nguyệt Ánh đời nào chịu nghe, bà còn bước lại gần con hơn, cất giọng trìu mến:

- Làm sao con thoát ra được vậy? Mẹ lo cho con quá.

Bất ngờ tên khốn kiếp dùng tay gạt ngang, khiến cho bà Ánh lảo đảo và ngã xuống sông. Đã không ra tay cứu mẹ, mà hắn còn ngửa mặt lên trời cười như điên như dại! Nhanh như chớp, lão đạo sĩ phóng xuống và nhanh tay chụp được bà Ánh kéo lên.

Vừa lúc ấy, con đò mà Bảo An đang chèo chống bỗng chao đảo rồi quay tít như chong chóng. Tiếng la hét vang lên:

- Cứu tôi! Cứu!

Nhưng chẳng một ai nhảy xuống cứu. Khi con đò ngừng lại thì người ta chẳng còn thấy bóng dáng Bảo An đâu. Mặt nước chỗ gần con đò ấy có máu trào lên. Rồi mọi thứ trở lại bình yên...

Ông đạo sĩ thở dài:

- Đành thôi, chẳng còn cách nào hơn.

Bà Nguyệt Ánh chợt hiểu, bàng hoàng định kêu lên, nhưng vội ngừng lại ngay. Trong đầu bà sáng ra và hiểu rằng mình không nên làm gì.

Giọng lão đạo sĩ vẫn đều đều:

- Đáng lý nó đã chết trong ngục rồi, nhưng bọn bảo hộ cho nó là lũ oan hồn cứ cố tình giải thoát cho nó, còn giết hại thêm một mạng người nữa, để cho nó ra đây gặp bà, trừ nốt người mà nó cho là cản trở việc tiêu diệt nhà họ Hoàng. Cũng may tôi đã hay được. Giờ đây thì mọi việc qua rồi, đứa con nghiệp chướng đó đã vĩnh viễn không trở lại nữa. Nó chính là một giọt máu gần ngày sinh của một người đàn bà bị chồng bà giết hại khi chị ta cự tuyệt sự cưỡng bức của ông Hoàng. Nó đầu thai vào là để báo oán đó.

Bà Ánh không còn cố tình bênh vực cho con nữa, bà lẳng lặng nghe rồi ôm mặt khóc. Lão đạo sĩ phải an ủi:

- Bà may mắn thoát nạn rồi. Tuy rằng sau này bà sẽ chẳng còn gì cả. Nhưng ở đời đâu chỉ giàu sang mới sống được. Rồi mọi việc sẽ đâu vào đó...

Ông nói xong lại bỏ đi.

Bà Nguyệt Ánh thẫn thờ một lúc rồi cũng trở về nhà.

Ngày hôm sau...

Toàn bộ gia sản của dòng họ Hoàng đều bị tịch biên bởi quan huyện Đinh Liêm. Chẳng biết có phải đó là từ trên hay không, chỉ biết là sau khi thực hiện được việc ấy thì ông ta vui lắm. Hình như đó là một việc trả thù riêng tư!

Bà Nguyệt Ánh trắng tay, khăn gói trở về quê cũ. Đáng lý thất vọng lắm, nhưng tự dưng lòng bà cảm thấy thanh thản không còn vướng bận bất cứ chuyện gì nữa...

 

GIỌT MÁU CÒN LẠI

Chịu trách nhiệm xuất bản:

       BÙI CAO TIÊU

Biên tập:   NGUYỄN CẨM HƯƠNG

Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG

Trình bày bìa: SONG THÀNH

 

In 1.200 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT

Số trích ngang xuất bản: 387-2009/CXB/27-53/ThaH,

In xong và nộp lưu chiểu Quý IV năm 2010

.............................................................................................................

- Cập nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

.

0 comments:

Đăng nhận xét