Truyện ma - truyện liêu trai: MỘT NHÀ ĐĨ HỒ - Nhiều Tác Giả

Leave a Comment

 

MỘT NHÀ ĐĨ HỒ

*

CHIẾC XE MA

 (Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Khởi hành lúc hơn năm giờ chiều tại thành phố, vài người đã khuyên Luân:

- Thiếu gì giờ đi Vũng Tàu, cớ gì phải đi vào giờ này?

Luân cười nhẹ:

- Đi ra Vũng Tàu chỉ khoảng 3 tiếng là tới, như vậy khoảng hơn 8 giờ mình đã có mặt ngoài ấy, còn sớm chán!

- Nhưng ngại là ngại đường ban đêm kia. Quốc lộ 5[1]45[1] đâu đã sửa chữa, còn hẹp và gồ ghề, mà tính ông lại hay lái ẩu, tụi tôi lo lắm!

Luân siết chặt tay bạn, quả quyết:

- Ăn thua gì! Đà Lạt mà tôi còn dám lái đêm nữa là.

Thật ra, sở dĩ Luân phải vội đi trong đêm là vì anh có cuộc hẹn làm ăn khá quan trọng ở Vũng Tàu. Anh phải có mặt ngoài đó trước 9 giờ đêm nay, nên vừa ra khỏi thành phố là anh tăng tốc độ ngay, bất chấp đoạn đường từ Thủ Đức, suối Xuân Trường hẹp và đông người qua lại. Lúc ngang qua núi Châu Thới, Luân định ghé Tấn Vạn rước thêm một người bạn cùng đi, nhưng nhìn đồng hồ tay, anh lại đổi ý, thời gian bây giờ quý như vàng, phải tranh thủ đi nhanh.

Qua khỏi Biên Hoà lúc 6 giờ 15, Luân đắc ý:

- Như thế này thì kịp chán?

Anh lại tăng tốc. Chỉ một lúc sau đã thấy dốc 47 hiện ra. Mấy người lái xe đêm đi Vũng Tàu thường hay ngán cái dốc này, nó không cao lắm nhưng lại nguy hiểm, bởi có nhiều xe chở cát, đá hay đổ đốc ẩu. Hóa hơi cảnh giác, lái cẩn thận hơn và khi vượt qua dốc rồi mới thở phào, bởi trước mắt anh là hình ảnh một chiếc xe be bị lật nhào, có lẽ tuột thắng hay tránh gấp chiếc xe khác. Nhiều người còn lu bu cứu hộ. Thấy xe Luân trờ tới, một người chặn lại và đề nghị:

- Anh giúp giùm cô gái này, cô ấy đi chiếc xe đó kìa, bị xe be này quẹt phải, chết máy không thể đi được nữa, mà cô ấy thì cần đi gấp ra Vũng Tàu.

Luân không muốn vướng mắc, nhưng chợt nhìn thấy cô gái mặc nguyên chiếc áo dài nhung đen, anh bật rùng mình! Cô gái đẹp chưa từng thấy! Sắc đẹp mà bất cứ ai nhìn cũng phải bị hớp hồn?

- Nhưng...

Luân chưa kịp nói hết câu thì cô gái đã mở cửa trước leo lên ngồi, vừa quay sang gật đầu chào như thầm cám ơn. Rõ ràng Luân không thể nào từ chối. Anh vừa rồ xe vừa hỏi:

- Cô đi tới Vũng Tàu?

Cô gái giờ mới lên tiếng:

- Dạ không, em chỉ xin quá giang tới cầu Cỏ May thôi.

Luân ngạc nhiên:

- Ban đêm mà cô đi tới đó làm gì, hay nhà ở đó?

Cô gái nhẹ lắc đầu:

- Dạ không. Em lái xe đi Vũng Tàu, tới đó thì xe hư, không sửa được nên em quay về Sài Gòn gọi thợ ra. Hy vọng quá giang được xe anh thì khi em ra còn kịp xe sửa chữa ra tới.

- À thì ra vậy. Cô đi Vũng Tàu một mình sao?

- Dạ không, còn hai người bạn gái nữa. Họ đang ở ngoài đó chờ. Sao anh đi biển mà chỉ một mình?

- Tôi không đi chơi, mà có công việc gấp ngoài đó:

Cô nàng giờ mới cười:

- Nếu vậy khi sửa xe xong, sáng mai ra ngoài đó tụi này thế nào cũng gặp anh. Anh làm bạn với tụi em nhé?

Luân nghe vui vui trong lòng:

- Ý hay đó? Ngày mai tôi xong công việc cũng định ở lại chơi một buổi.

- Em tên Hạnh, còn anh?

- Hóa. Hân hạnh được quen với người đẹp nhất Vũng Tàu ngày mai!

Thấy anh chàng biết nịnh, Hạnh cũng cởi mở:

- Đẹp nhất trên xe lúc này thì chính xác hơn!

Hóa cười phá lên:

- Chắc chắn như vậy rồi, so với cô thì tôi là người xấu nhất rồi!

Qua khỏi Long Thành, câu chuyện giữa hai người trở nên thân mật hơn, Hạnh hỏi:

- Anh Hóa đã có người yêu rồi chứ?

Hóa cười:

- Nếu tôi nói là chưa thì Hạnh có tin không?

Hạnh gật đầu ngay:

- Tin.

- Sao vậy?

- Bởi nếu đã có vợ hoặc người yêu thì chắc chắn giờ này họ đã không để anh đi một mình. Đàn ông thời buổi này ra đường dễ bị...

Nàng bỏ lửng câu nói, Hóa quay sang hỏi:

- Theo Hạnh thì dễ bị cái gì? Con gái bắt cóc à?

- Cũng có thể lắm!

Đáp xong, nàng phá lên cười! Hóa cũng vui lây, anh nói to:

- Cũng mong được cô gái đẹp nào đó bắt cóc thì sung sướng biết mấy!

- Anh coi chừng đó!

Nói xong, nàng quay mặt đi chỗ khác. Hóa nhìn từ phía sau, anh ngây ngất thật sự trước nhan sắc như liêu trai này. Lúc đầu, anh có vẻ không bằng lòng việc mình mất thời giờ cho quá giang, nhưng lúc này lại thấy là mình gặp may?

- Nhà cô Hạnh ở Sài Gòn mà khu nào?

- Đường Paul Blanchy, anh biết đường đó?

- Biết chứ, người ta đang định đổi tên thành đường Trưng Nữ Vương hay Hai Bà Trưng đó!

Nàng đột ngột hỏi:

- Anh có sợ ma không?

Hóa lại cười lớn:

- Nếu ma mà đẹp cỡ như cô Hạnh này thì có một chục con tôi cũng xin quỳ xuống rước về nhà!

- Dám không đó?

- Sao lại không dám! Xưa nay người ta hay hình dung ma là kẻ gớm ghiếc, có nanh có vuốt, chớ nếu ma mà đẹp thì còn ai sợ ma nữa!

Rồi nàng lại hỏi một câu khá bất ngờ:

- Theo anh thì ma khổ hay sướng?

- Sướng! Hóa đáp cũng bất ngờ.

Nàng trố mắt nhìn anh:

- Ma là hồn người chết, sao lại sướng?

- Làm ma được mọi người sợ, thì sướng chớ sao!

- Nhưng có anh không sợ!

Hóa ném cho nàng cái nhìn sắc như dao:

- Không sợ là ma đẹp cỡ như Hạnh kìa!

Mải nói chuyện mà xe đã qua khỏi Bà Rịa lúc nào không hay, nàng chỉ tay phía trước nói:

- Sắp phải nói lời cảm ơn anh rồi. Em không ngờ trong cái rủi hư xe lại có cái may là quen với một người thú vị như anh. Đó, anh thấy chiếc xe Peugelt 203 đậu bên lề kia không? Xe em đó.

Hóa rà xe chậm lại rồi thắng bên cạnh chiếc xe đen, anh ngạc nhiên:

- Các bạn Hạnh đâu?

Nàng chỉ tay vào xóm nhà gần đó:

- Chắc họ đi ăn uống gì đó quanh đây. Thôi, cám ơn anh. Hẹn gặp lại.

Hóa hơi ái ngại:

- Trời tối như vậy mà nhóm sửa xe cũng chưa thấy. Hay là...

Anh tính trong đầu rồi nói:

- Do có việc quá gấp ngoài đó, nên tôi không thể ở lại giúp cô được. Vậy bây giờ tôi đi, chừng một giờ sau tôi quay lại, có thể giúp gì đó cho cô...

Xa xa trong xóm, Hóa nhìn thấy vài cô gái đang vẫy tay với Hạnh nên cũng yên tâm rồi rồ xe đi...

*            *

*

Trở lại cầu Cỏ May lúc 10 giờ. Hóa ngạc nhiên khi không thấy chiếc Peugelt 203. Anh nghĩ có thể xe đã sửa xong và Hạnh cùng các bạn đã ra Vũng Tàu.

Thất vọng, Hóa lưu lại đó một lúc rồi quay trở lại khách sạn ở bãi trước, nơi anh thuê một phòng ở Hotel Pacific. Vừa mở cửa phòng vào, Hóa đã nhận ra ngay có một mảnh giấy trên bàn viết. Nét chữ con gái trên đó:

"Chào con người đẹp trai dễ thương!

Quá tiếc vì duyên hạnh ngộ quá ngắn, mong sẽ gặp lại dịp nào đó!

Mỹ Hạnh cầu Cỏ May."

- Cô nàng làm sao lọt vào phòng mình được?

Hóa thắc mắc và xuống hỏi tiếp tân, người ta lắc đầu:

- Khách đi ra gửi lại chìa khóa, chúng tôi chỉ trả lại chìa cho đúng khách nghỉ trong phòng đó, làm gì có người nào khác vào được!

Sáng lại...

Sau khi kể lại câu chuyện cho một người bạn ở Vũng Tàu nghe, người ấy kêu lên:

- Cậu gặp phải ma rồi!

Hóa ngạc nhiên:

- Sao lại có chuyện đó?

Người kia quả quyết:

- Cách đây mấy năm, có một vụ tai nạn ôtô xảy ra tại cầu Cỏ May, nạn nhân là cô Hạnh, con gái của một nhà tỷ phú, ở Sài Gòn. Cô ấy lái chiếc Peugeot 203 cùng mấy người bạn gái nữa đi tắm biển Vũng Tàu, ra tới cầu Cỏ May có lẽ do buồn ngủ hay đùa giỡn sao đó, chiếc xe đã lái thẳng xuống cầu, cả mấy người trên xe đều chết! Sau này, thỉnh thoảng người ta gặp một người con gái hay đứng bên cạnh chiếc xe ở chỗ đầu cầu vào lúc nửa đêm, nhiều người tưởng xe cô bị hư nên ngừng lại hỏi thăm, thì... xe và người đều biến mất! Có lần có người còn nhìn thấy một chiếc xe lao xuống cầu, nhưng khi nhìn lại thì chẳng thấy gì hết!

Hóa lặng người đi. Tuy có chút rờn rợn, nhưng dẫu sao anh cũng cảm thấy nhớ nhớ người con gái đẹp như liêu trai ấy...

 

VI CÔNG TỬ

 (Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Công tử họ Vi dòng dõi thế gia ở Hàm Dương (*) tính buông thả dâm dật. Những người hầu gái có nhan sắc trong nhà không ai thoát khỏi bàn tay chàng. Chàng từng mang mấy nghìn vàng ra đi, tính thưởng thức hết kỹ nữ danh tiếng trong thiên hạ. Các chốn phồn hoa không đâu không tới. Không phong nhã lắm thì ngủ một đêm rồi đi ngay. Còn như vừa ý thì lưu lại hàng trăm ngày.

Chú ruột chàng cũng là một vị quan có tiếng, mới hồi hưu, thấy hạnh kiểm cháu như vậy thì giận lắm, bèn mời thầy giỏi về nhà, dựng một cơ ngơi riêng, bắt cháu cùng các con đóng cửa học tập. Tối đến, công tử chờ thầy ngủ rồi, trèo tườing trốn về, sáng mới trở lại; như thế đã thành quen. Một hôm bị trợn chân ngã, gãy cánh tay, thầy mới biết, báo cho chú. Ông liền đánh cho một trận bò lê bò càng rồi mới thuốc thang cho. Khi khỏi ông lại giao hẹn: nếu học vược hẳn các em, văn hay chữ tốt, thì đi chơi không cấm. Nhưng vụng trộm giở trò phóng dật thì sẽ bị đánh đòn như trước.

Công tử rất thông minh, học thường vượt mức. Vài năm sau đậu khoa thi hương. Chàng muốn bỏ lời ước cũ, nhưng người chú vẫn ra sức kiềm chế. Chàng lên kinh đô, ông sai người lão bộc đi theo, giao cho một quyển sổ nhật ký, dặn phải ghi chép lời nói việc làm của chàng hàng ngày. Vì vậy liền mấy năm, chàng không có hành vi gì sai trái.

Sau khi đậu tiến sĩ, ông chú mới hơi nới lệnh cấm. Công tử muốn làm gì vẫn sợ chú biết. Vào chơi các ngỏ hẻm, phải giả danh là họ Ngụy. Một hôm, qua Tây An, thấy một thiếu niên làm con hát tên là La Huệ Khanh, tuổi độ mười sáu mười bảy, xinh đẹp như con gái. Chàng thích lắm đêm giữ lại quấn quít, rồi cho rất nhiều tiền. Ngh nói cô vợ mới cưới của Huệ Khanh lại còn phong nhã, tình tứ hơn, chàng ngỏ ý riêng với Huệ Khanh. Huệ Khanh không tỏ ra khó chịu, tối đến dấn vợ tới thực. Ba người ngủ chung một giường. Lưu lại vài hôm, quyến luyến yêu đương rất mực. Bàn tính đem nhau cùng về. Hỏi tới người nhà, Huệ Khanh đáp rằng:

- Mẹ mất sớm chỉ còn cha. Tôi vốn không phải họ La. Mẹ tôi hồi nhỏ hầu hạ nhà họ Vi ở Hàm Dương. Bị bán hết nhà họ La được bốn tháng thì sinh ra tôi. Nếu được theo công tử về, may ra cũng hỏi thăm được gốc gác.

Công tử kinh ngạc, hỏi đến họ của người mẹ. Khanh đáp:

- Họ Lã.

Chàng kinh hãi cực độ, mồ hôi toát đầm mình mẩy. Vì mẹ Khanh chính là thị tỳ nhà chàng trước kia.

Chàng không nói một lời. Lúc ấy trời đã sáng. Chàng cho Huệ Khanh rất nhiều tiền và khuyên cậu nên bỏ nghề. Rồi vờ thác còn có việc phải đi, hẹn khi nào trở về sẽ cho gọi, thế là chàng từ giã bỏ đi tuốt.

Sau được bổ làm quan huyện ở Tô Châu. Ở đây có một con hát tên là Thẩm Vi Nương, xinh nhã tuyệt trần. Chàng rất yêu, giữ lại cùng chung chăn gối. Đùa cợt, hỏi nàng rằng:

- Tiểu tự của em có phải lấy ý tứ câu thơ: " Xuân phong nhất khúc Đỗ Vi Nương" chăng?

Nàng đáp:

- Không phải thế. Mẹ em mười bảy tuổi đã là kỳ nữ nổi tiếng. Có vị công tử ở Hàm Dương cùng họ với ngài, lưu lại cùng mê em ba tháng, thề thốt chuyện cưới xin. Công tử đi rồi, tám tháng sau thì sinh ra em. Do đó mới đặt tên là Vi. Thực ra đó là họ của em. Lúc lâm biệt công tử có tặng mẹ em đôi chim uyên ương bằng vàng, đến nay hãy còn. Sau khi công tử bỏ đi, bặt không tin tức. Mẹ em vì phẫn uất buồn rầu mà chết. Tư thuở lên ba, em được bà Thẩm nuôi nấng, bèn lầy theo họ Thâm.

Công tử nghe nói xấu hổ không còn chịu nổi. Lặng đi một lúc, chợt nảy ra một kế. Chàng chợt nhỏm dậy khêu đèn, gọi Vi Nương vào uống rượu rồi ngầm bỏ thuốc độc vào trong chén. Vi Nương vừa nuốt khỏi cổ, lliền vật vã kêu rên, mọi người chạy tới, thì đã tắt thở. Chàng gọi con hát đến, giao phó tử thi, rồi đút lót cho chúng rất nhiều tiền.

Nhưng những kẻ giao hảo với Vi Nương hết thảy lại là đám con nhà thần thế. Nghe tin chúng đều bất bình, cho tiền và xúi giục con hát kiện lên quan trên. Chàng hoảng sợ, phải dốc sạch túi chạy vạy dập đi. Cuối cùng chàng bị cách chức vì tội sa đà bừa bãi.

Trở về nhà, tuổi đã ba mươi tám, chàng rất hối hận về những việc làm làm khi trước, mà vợ và hầu gái năm sáu người đều không có con. Muốn xin đứa cháu nội của ông chú về làm con kế tự, nhưng ông nghĩ cửa nhà ấy vô hạnh, vợ trẻ con nhiễm phải thói xấu, nên tuy nhận lời cho thừa kế, song phải đợi khi nào chàng già yếu mới cho sang. Chàng phẫn uất muốn cho gọi Huệ Khanh, người nhà đều cho là không được, bèn thôi.

Vài năm sau, chàng bỗng lâm bệnh, thường đấm vào ngực mà nói rằng: "Dâm bôn với con hầu, ngủ với kỹ nữ không phải là giống người". Ông chú nghe thấy thế bảo:

- Thế này thì sắp chết rồi.

Bèn cho đứa con của người con trai thứ sang nhà chàng để sớm hôm nâng giấc. Hơn một tháng, quả nhiên chàng mất.

---------

Chú thích

(*) Hàm Dương : một huyện thuộc tỉnh Thiểm Tây.

 

CÔ GÁI HỌ MAI

 (Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Phong Vân Đình, người Thái Hàng (1) tình cờ lên quận, ban ngày nằm ngủ ở nhà trọ. Hồi ấy tuổi đang trẻ đã góa vợ, những lúc quạnh vắng thường hay tơ tưởng. Giữa lúc mắt đang đắm vào đâu đấy, bỗng thấy trên giường có bóng một cô gái, thấp thoáng như vẽ, tự nghĩ hẵn vì lòng mơ tưởng nên mới sinh ra.Mãi lâu không thấy động, cũng không tan đi, mới lấy làm lạ. Nhổm dậy thì hóa ra người thật; lại gần thêm, thì rõ ràng là một thiếu nữ, mặt cau lưỡi thè, một sợi dây vòng quanh cái cổ thanh tú. Chàng sợ hãi nhìn không thôi, thấy rụt rịt muốn bước xuống. Biết là ma thắt cổ, nhưng vì đang giữa ban ngày, tính cũng bạo, nên không sợ lắm.

Hỏi rằng:

Nương tử như có điều gì oan khuất, tiểu sinh xin hết sức giúp.

Bóng ma thong thả bước xuống, nói:

- Con người bèo nước, đâu dám vội vàng đem việc hệ trọng làm phiền quân tử, nhưng nắm xương khô ở dưới suối vàng, lưỡi không rụt vào được, dây không cắt bỏ được; xin chàng chặt cây xà ngang đem đốt đi, thì ơn ấy thật sáng tày non.

Chàng nhận lời. Bóng liền biến mất. Bèn gọi chủ nhân đến, hỏi về những điều mình vừa thấy. Chủ nhân đáp:

- Nhà này mười năm trước là nhà cũ của họ Mai, đang đêm có một tên trộm nhép lẻn vào nhà, bị Mai bắt được giải lên quan điển sử (2). Điền sử nhận ba trăm lạng bạc của tên trộm, vu cho con gái họ Mai tư thông với tên này, toan bắt nàng lên tra khám. Cô gái nghe tin thắt cổ chết. Về sau, vợ chồng họ Mai lần lượt chết cả, ngôi nhà mới về tay tôi. Khách trọ vẫn thường nhìn thấy quái dị, nhưng không có phép gì yểm cho yên cả.

Phong đem lời ma nói kể lại với chủ nhân. Chủ nhân tính phải dỡ nhà, thay thanh dầm khác, phí tổn không ít, nên ngần ngại. Phong bèn góp tiền trợ lực thêm. Chữa xong lại dọn về đấy ở.

Đến đêm, cô gái họ Mai đến cảm tạ, sắc mặt đầy vẻ vui mừng, phong thái thật tươi đẹp. Phong yêu thích lắm, muốn cùng nàng giao hoan. Nàng đưa mắt nhìn xuống, thẹn thùng nói:

- Khí âm héo hắt, không phải chỉ bất lợi cho chàng thôi đâu; nếu làm việc đó thì cái tiếng nhơ nhuốc của thiếp lúc còn sống, dẫu nước sông Tây Giang cũng không thể rửa sạch. Đôi ta rồi sẽ có ngày sum họp, bây giờ thì chưa.

Hỏi đến bao giờ, chỉ cười mà không nói. Phong lại hỏi có biết uống rượu không, đáp rằng không uống được. Phong nói:

- Trước người đẹp mà cứ đưa mắt ảo não nhìn nhau thì còn gì là thú vị?

Nàng đáp:

-Bình sinh thiếp chỉ biết mỗi trò chơi đánh cờ ngựa; nay hai người ngồi cô quạnh, đêm đã khuya, lại khỗ nỗi không tìm ra đâu bàn cờ. Canh dài chẳng có gì tiêu khiển, hay là hãy cùng nhau chơi trò giao tuyến (3) vậy!

Phong nhận lời. Cùng ngồi bó gối, đưa đẩy mấy ngón tay, trao qua chuyền lại rất lâu, đến lúc Phong loạn cả mắt, không còn biết đâu mà lần. Cô gái miệng vừa nhắc vừa hấc hàm chỉ trỏ, càng đánh càng biến ảo, kỹ xảo tinh diệu vô cùng. Phong cười bảo:

- Đây là ngón nhà nghề nới khuê phòng đây.

Nàng đáp:

- Trò này thiếp tự nghĩ ra, chỉ cần hai sợi dây là có thể chơi được. Người khác không chịu để ý đấy thôi.

Canh về khuya có phần mỏi mệt, liền ép nàng đi ngủ. Nàng đáp:

- Người cõi âm chúng em không biết ngủ, chàng cứ ngủ đi. Thiếp có biết qua thuật xoa bóp, xin trổ hết tài nghệ để giúp chàng ngon giấc.

Phong theo lời. Nàng chụm hai tay lại, rồi xoa nhẹ một lượt từ đỉnh đầu đến gót chân; tay đưa tới đâu gân cốt tê mê tới đó. Kế đấy lại nắm tay lại đấm sẽ, giống như cầm nắm bông thúc nhẹ, khắp mình thư thái không thể nói hết. Đấm đến lưng thì mắt đã ríu lại, đến đùi thì chìm luôn vào giác ngủ. Tỉnh dậy trời đã gần trưa, cảm thấy các đốt xương đều nhẹ nhàng khoan khoái, khác hẳn mọi ngày. Lòng càng thêm ái mộ, bèn đi vòng quanh nhà cất tiếng gọi, tịnh không một lời đáp lại.

Chiều tối, cô gái mới đến. Phong hỏi:

- Nàng ở đâu để tôi gọi khắp nơi không thấy?

Đáp:

- Ma thì chẳng có chỗ nào nhất định, chỉ ở dưới đất thôi.

Hỏi:

- Dưới đất có chỗ trống, có thể ở được sao?

Đáp:

- Ma không thấy đất cũng như cá không thấy nước vậy.

Phong nắm lấy cổ tay nàng nói:

- Nếu nàng sống lại thì xin dốc hết cơ nghiệp để cưới nàng.

Cô gái cười đáp:

- Cần gì phải dốc hết cơ nghiệp mới được!

Chơi đến nửa đêm, Phong cố sức nài ép. Cô gái bảo:

- Chàng đừng ép buộc thiếp; có cô ca kỷ ở đất Triết tên là Ái Khanh vừa mới đến trọ ở nhà láng giềng phía Bắc, vẻ người cực kỳ phong nhã; để tối mai thiếp sẽ rủ nàng cùng đến, tạm thay cho thiếp có được không?

Phong bằng lòng. Tối hôm sau, quả nhiên nàng dắt một thiếu phụ đến, tuổi chừng ba mươi trở lại, mắt liếc mày đưa, có vẻ lẳng lơ ngầm. Ba người ngồi sát vào nhau, chơi trò đánh cờ ngựa. Xong cuộc cờ, cô gái đứng lên nói:

- Cuộc vui đang nồng, thiếp phải đi đây.

Phong toan giữ lại, nàng đã phất phới biến mất. Hai người bèn lên giường, vẫy vùng thỏa thích. Hỏi về gia thế thì cứ lấp lửng không chịu nói rõ. Chỉ bảo:

- Nếu chàng có yêu thiếp, thì chỉ cần gõ tay lên tường phía Bắc, khẽ gọi "Hồ Lô Tử" là thiếp đến ngay. Gọi ba lần không thưa, ấy là thiếp không rổi, đừng gọi thiếp nữa.

Trời sáng, chui vào khe tường phía Bắc mà đi.

Hôm sau, cô gái đến. Phong hỏi Ái Khanh đâu, nàng đáp:

- Bị công tử họ Cao gọi đi hầu rượu rồi, vì thế mới không đến đây được.

Nhân đốt đèn cùng trò chuyện. Cô gái có điều gì muốn nói, mấy lần đã mở miệng lại thôi. Cố gặng hỏi, rốt cuộc vẫn không chịu trả lời, chỉ thở dài. Phong ép nàng bày trò cùng chơi, đến hết canh tư mới ra đi.

Từ đấy hai nàng đến luôn. Tiếng cười thường rộn rã thâu đê. Vì thế hàng phố đều biết hết. Có viên điển sử nọ, cũng là con nhà thế tộc ở đất Triết, vợ cả gian dâm với đầy tớ, bị truất, cưới tiếp ngưòi vợ kế họ Cố, yêu thương nhau nồng nàn, nhưng mới đầy tháng đã chết yểu. Đau điếng trong lòng, nghe Phong có ma thiêng, muốn nhờ hỏi về người vợ mình ở dưới âm ty, bèn cưỡi ngựa đến tìm Phong. Mới đầu Phong không chịu tiếp, chàng nọ ra sức khẩn cầu không thôi. Phong bày tiệc rượu, mời ngồi, và nhận lời gọi nàng kỹ nữ ma tới. Trời bắt đầu tối, chàng gõ lên vách mà gọi. Chưa dứt ba tiếng, Ái Khanh đã bước vào. Vừa ngẩng đầu nhìn thấy ông khách, mặt nàng biến sắc định chạy. Phong lấy mình chắn lối ngăn lại. Chàng nọ nhìn kỹ, bỗng giận sôi lên, ném luôn cái bát lớn vào nàng. Thoắt cái nàng biến mất. Phong hoảng hốt, không biết duyên cớ ra sao, đang định hỏi, thì bỗng nhiên từ trong ngôi nhà tối, một bà lão bước ra mắng rằng:

- Thằng giặc tham lam bỉ ổi kia! Làm hỏng mất cả một "cây tiền" của nhà ba rồi đấy! Đền ngay ba chục quan tiền đây!

Nói rồi cầm gậy đánh chàng nọ, trúng vào đầu. Chàng ta ôm đầu kêu lên rằng:

- Nó là Cố thị, vợ tôi, chết non. Đang đau đớn xót xa vì nó, có ngờ đâu nó lại là con ma bất trinh. Có can dự gì đến bà nào?

Bà lão giận mắng rằng:

- Mày vốn là tên tặc tử vô lại ở Triết Giang, mới mua được một giải thắt lưng nạm miếng sừng đen (4) mà mũi đã hếch ngược lên. Mày làm quan mà có kể gì đen trắng? Đứa nào trong tay áo có ba trăm quan thì mày thưa bẩm bằng ông! Thần căm người oán, giờ tận số đã đến sau lưng. Cha mẹ mày phải kêu xin ở dưới Âm ty, tình nguyện cho con dâu quý vào ở lầu xanh, để trả món nợ tham nhũng của mày, thế mà còn chưa biết sao?

Mắng xong lại đánh. Chàng nọ lạy lục kêu xin. Phong đang kinh ngạc, chưa biết làm cách nào cứu gỡ cho y, chợt thấy cô gái họ Mai từ trong phòng bước ra, trợn mắt lè lưỡi, khuôn mặt thay đổi kỳ dị, lại gần rút cây trâm dài đâm vào tai hắn. Phong hết sức kinh hoảng, lấy mình che cho ong khách. Cơn thịnh nộ của cô gái vẫn không nguôi. Phong lựa lời khuyên can:

- Ông này tuy có tội, nhưng nếu chết ở nhà trọ, thì lỗi rơi vào tiểu sinh. Xin hãy nhớ lời răn ném chuột đừng để vỡ lọ quý.

Cô gái bèn kéo tay bà lão mà nói:

- Bà hãy nể mặt tôi mà nghĩ đến chàng Phong, tạm tha cái mạng sống thừa của nó.

Chàng nọ bàng hoàng lủi nhanh như chuột. Về dinh, lo sợ, phát bệnh buốt óc, nửa đêm thì chết. Đêm hôm sau, cô gái hiện ra nói:

Khoái cực! Thế là mọi uất ức đã trúc sạch rồi!

Hỏi :

- Thù oán thế nào?

Nàng đáp:

- Hồi trước thiếp đã từng nói: ăn của đút rồi vu cho người ta thông gian, mối hờn ngậm đã từ lâu. Nhiều lần định kể với chàng, mong mượn tay chàng vì ai rửa hờn, nhưng thẹn vì chưa có chút ơn đức gì, nên toan nói lại thôi. Đêm qua nghe thấy tiếng huyên náo, lén đến rình xem, ngờ đâu lại gặp chính kẻ thù.

Phong ngạc nhiên hỏi:

- Đấy chính là kẻ vu cáo cho nàng đấy ư ?

Đáp:

- Hắn làm điển sử ở đây đã được mười tám năm, mà thiếp chết oan đã được mười sáu mùa nóng lạnh rồi.

Hỏi:

- Bà lão là ai?

Đáp:

- Là một kỹ nữ về già.

Lại hỏi đến Ái Khanh, nàng đáp rằng đang ốm. Nhân tươi cười bảo chàng:

- Trước thiếp từng nói đôi ta thế nào cũng có ngày sum họp, nay quả thật không xa nữa. Chàng vẫn thường muốn dốc hết gia sản để chuộc thiếp, còn nhớ không?

Phong đáp:

- Bây giờ tôi vẫn có bụng ấy.

Nàng bảo:

- Nói thực với chàng, ngày thiếp chết đã đầu thai vào nhà ông hiếu liêm họ Triển ở Diên An. Chỉ vì oan lớn chưa giải, nên còn dùng dằng ở đây. Xin hãy lấy tấm lụa mới may thành cái túi quý, để thiếp được theo chàng cùng đi, rồi đến nhà họ Triển cầu hôn thì chắc thế nào cũng xong.

Phong lo gia thế hai bên quá cách biệt, sợ họ không bằng lòng. Cô gái bảo:

- Hãy cứ đi, đừng lo.

Phong nghe theo lời. Cô gái dặn rằng:

- Trên đường nhớ thận trọng, đừng có gọi thiếp, đợi đến đêm hợp cẩn thì lấy cái túi ra chụp lên đầu cô dâu,rồi gọi thật gấp rằng: "Đừng quên! Đừng quên!"

Phong vâng lời. Vừa mở túi, cô gái đã nhảy luôn vào.Mang đến Diên An hỏi thăm, quả có nhà ông hiếu liêm họ Triển, sinh được một gái, dung mạo cực kỳ xinh nhã, chỉ phải bệnh ngẩn ngơ, lại thường thè lưỡi ra ngoài môi, như con chó những lúc thở dốc. Tuổi đã mười sáu mà chưa có người làm lễ dạm hỏi, cha mẹ lo buồn thành bệnh.

Phong tìm đến cổng đưa danh thiếp, tỏ bày dòng dõi, gia thế. Khi trở ra cậy bà mối tới. Họ Triển mừng rỡ, giữ chàng gửi rể tại nhà mình.

Cô gái quá ngây ngô, không biết làm lễ, phải bảo hai con hầu dìu đỡ vào buồng. Khi đám con hầu đã trở lui, cô gái phanh ngay vạt áo, để hở cả vú ra, đứng trước Phong, ngây mặt cười. Phong úp túi lên đầu nàng rồi gọi. Cô gái sững lại nhìn chăm chú, tựa như có điều gì nghĩ ngợi, Phong cười hỏi:

- Nàng không nhớ tiểu sinh nữa ư?

Rồi giơ cái túi cho xem. Nàng chợt tỉnh ra, vội che vạt áo lại. Mừng rỡ , cùng nhau chuyện trò vui vẻ.

Sáng ngày, Phong vào thăm bố vợ. Họ Triển an ủi rằng:

- Con bé ngớ ngẩn không biết gì, may được anh để mắt xanh thương đến; nếu anh có lòng, thì trong nhà bọn hầu gái sáng sủa không thiếu gì, ưng ai xin tặng anh không tiếc.

Phong cố sức biện bạch rằng vợ mình không ngớ ngẩn. Triển rất lấy làm ngờ. Lát sau con gái đến, mọi cử chỉ đều đoan trang, thân thế càng lạ lùng khó hiểu. Cô gái chỉ che miệng tủm tỉm cười. Triển gạn hỏi, cô gái ngập ngừng, e thẹn nói không nên lời. Phong bèn đỡ lời, kể sơ qua ngành ngọn. Triển hết sức mừng rỡ, yêu thương con hơn lúc bình thường. Bèn bảo con trai là Đại Thành cùng chung sách đèn với con rể, cung cấp thật đầy đủ.

Được hơn một năm, Đại Thành dần dần đâm ra khinh rẻ Phong. Nhân vì anh rể em vợ không hợp nhau, bọn đầy tớ cũng bới lông tìm vết. Triển ngấm mãi những lời xúi giục của chúng, đối đãi cũng nhạt nhẽo hơn trước. Nàng biết chuyện bảo Phong rằng:

- Nhà bố vợ không thể ở lâu được. Phàm những kẻ ở nhà vợ quá lâu, đều là những kẻ hèn hạ. Nay chưa đến chỗ căn thẳng, nên về mau.

Phong cho là phải, vào thưa với Triển. Triển muốn giữ con gái lại, nàng không nghe. Cha và anh đều giận, không cho xe ngựa đưa về. Nàng tự bỏ tư trang mua ngựa mà về.

Về sau, Triển gọi con về thăm nhà, nàng cố từ, không đi. Mãi tới khi Phong thi đậu hiếu liêm, hai nhà mới giao hảo trở lại.

---------

Chú thích

(1) có núi Thái Hàng và cửa ải Thái Hàng, một trong tám cửa ải lớn của núi này, nay thuộc tỉnh Hà Nam.

(2) điển sử: chức quan ngang hiệu úy, chuyên coi việc trộm cắp.

(3) giao tuyến: dùng hai sợi dây mắc vào ngón tay để chơi. Ở vùng Giang ,Tả thường gọi là "cải cổ" (thay đổi bắp chân) chưa rõ cách chơi.

(4) giải thắt lưng nạm miếng sùng đen: theo quan chế ngày xưa, chức điển sử được dùng giải thắt lưng nạm miếng sừng đen. Ở đây muốn nói tên vô lại nay bỏ tiền ra mua chức điển sử.

 

CỞI TRUỒNG RỢT MA

(Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Vệ Huy Thích, người tuổi trẻ chín chắn, có gan dạ dám làm. Lúc đó, một họ lớn trong làng có toà nhà to, giữa ban ngày thấy ma hiện lên, người ở kế tiếp nhau chết, thành ra sợ hãi, tình nguyện bán rẻ.

Chàng thấy giá rẻ liền mua để ở. Nhưng nhà rộng mà người ít, những lầu gác ở phía đông cỏ mọc như rừng, đành bỏ hoang phế. Thường đêm gia nhân kinh hoảng, la sợ có ma. Được hai tháng, chết một con hầu. Cách ít lâu, vợ chàng mò đến khu lầu gác hoang phế kia trong lúc chiều hôm, trở về phát bệnh được mấy hôm cũng chết.

Gia nhân sợ quá, khuyên chàng dời đi chỗ khác. Chàng không nghe. Bây giờ vợ goá, trơ trọi một mình đã buồn cho thân, lại thêm lũ tôi tớ thường đem những chuyện quái lạ trong nhà ra nói, chàng phát cáu, ôm chăn gối ra nằm ngủ độc thân ở giữa căn nhà bỏ hoang bấy lâu.

Chàng để đèn sáng, chờ xem có sự gì lạ xảy đến không. Đợi lâu chẳng thấy gì, rồi ngủ quên đi.

Bỗng có người thò tay vào chăn, rờ mò sờ soạng. Chàng tỉnh giấc ngó thấy một mụ vú già, mặt mày đầu tóc trông nhăn nheo bù rối gớm ghiếc. Chàng biết là ma, nắm cánh tay đẩy ra, vừa cười vừa nói:

- Bà thì tôi không dám chơi.

Mụ hổ thẹn, khựng tay lại, bước cao bước thấp chuồn đi mất.

Giây lát một thiếu nữ từ mé tây bắc đi ra, dáng dấp xinh đẹp, đến thẳng dưới đèn, giận dữ la mắng:

- Thằng học trò ngông cuồng ở đâu? Sao dám đến chỗ này nằm ngất ngưởng như thế?

Chàng trỗi dậy cười nói:

- Tôi là chủ nhà này, nằm đợi cô đến để đòi tiền thuê nhà đó.

Rồi đứng phắt lên, cởi trần truồng mà rượt bắt nàng. Nàng vội vàng chạy trốn. Chàng mau lẹ đến trước mé tây bắc mà chặn đường. Nàng cùng đường bí lối, ngồi phịch trên giường chịu trận. Chàng đến tận nơi, thấy dưới ánh đèn nàng đẹp như tiên, lần hồi ôm nàng vào lòng. Nàng cười hỏi:

- Cuồng sinh không sợ ma ư? Ta sẽ vật cho xem.

Chàng cởi tuột áo quần của nàng, nàng cũng không mấy chống cự. Kế đó dịu dàng biện bạch:

- Em họ Chương, tên là A Đoan, sinh thời lấy phải thằng chồng lêu lổng chơi bời, tính nó hung dữ bất nhân, thường đánh đập thẳng tay, khiến em buồn rầu chết yểu, xác chôn tại đây trên 20 năm rồi. Dưới nền nhà này, toàn là mồ mả.

Chàng hỏi mụ vú già là ai, nàng đáp:

- Mụ cũng là một con ma cũ ở đây, theo em để hầu hạ. Trên có người sống ở, thì ma quỷ ở dưới không yên, vì thế vừa rồi em sai mụ ra đuổi chàng đi.

Chàng lại hỏi mụ rờ rẫm là nghĩa thế nào, A Đoan nhoẻn cười và đáp:

- Mụ đó từng sống hơn 30 năm mà chưa được nếm mùi đời thú vị ra sao, nghĩ tình đáng thương, nhưng mụ rờ rẫm chàng như vậy, kể ra thật không tự biết xét mình chút nào. Tóm lại, người nào nhút nhát thì ma chòng ghẹo, còn người cứng cỏi thì chẳng dám phạm đến.

Nghe chuông chùa bên xóm gõ rền, nàng mặc quần áo rồi bước xuống giường nói:

- Nếu chàng không nghi ngại, thì đêm em lại tới.

Trời tối, quả thật nàng lại đến, cùng nhau ôm ấp mây mưa cực vui vẻ. Trong lúc đầu gối tay ấp, chàng thở dài và nói:

- Vợ tôi chẳng may qua đời, tôi nghĩ thương nhớ không lúc nguôi, nàng có thể làm cách nào dắt hồn y về được không?

Nàng nghe nói càng chạnh lòng tủi thân:

- Tội nghiệp, em đây chết hai chục năm nay, có ai đâu đoái hoài tưởng nhớ em như thế. Anh thật là người đa tình, em xin ráng sức giúp anh việc đó. Nhưng nghe nói chị đã đi đầu thai rồi, chẳng rõ còn ở dưới âm ti hay không?

Qua đêm sau nàng đến báo tin:

- Chị sắp được đầu thai vào nhà sang trọng anh ạ. Nhưng vì sinh thời có lúc mất đôi hoa tai, nghi con hầu ăn cắp, đánh nó, nó bực trí tự tử. Vụ án đó hiện nay chưa xong, nên còn hoãn lại. Bây giờ chị đang bị tạm giam ở trước công đường Diêm Vương, có lính canh giữ. Em sai mụ vú đi lo lót hối lộ có lẽ sắp về.

Chàng hỏi sao nàng lại được thong thả. Nàng đáp:

- Phàm những ma quỷ uổng tử, nếu không tự xuống âm ti đầu thú, thì Diêm Vương cũng không biết tới.

Hết canh hai, mụ vú già dẫn vợ chàng cùng đến. Chàng nắm tay vợ khóc lóc bi thảm, vợ chàng cũng sướt mướt, nói không ra tiếng.

Nàng từ giã đi, nói:

- Thôi để anh chị hàn huyên với nhau, em xin đi, tối mai lại đến nhé.

Chàng yên ủi mà hỏi thăm vụ án con hầu tự tử, vợ đáp:

- Không hề chi, đã xử xong rồi.

Hai người đi ngủ, ôm ấp yêu đương y như lúc còn sống. Từ đó vợ chồng sum họp như thường. Sau năm bữa, vợ bỗng khóc ròng và nói:

- Ngày mai em phải đi Sơn Đông, thế là vợ chồng ta vĩnh quyết, biết làm thế nào?

Chàng nghe nói ôm mặt mà khóc vùi, hết sức thống thiết. A Đoan khuyên giải hiến kế:

- Em có một cách, làm cho anh chị tạm thời sum họp được.

Hai người cùng gạt lệ hỏi cách thế nào? Nàng xin lấy mười xấp giấy tiền, đem đốt ở dưới gốc cây hạnh, trước nhà hướng nam, để nàng đem xuống âm ti hối lộ với kẻ phụ trách áp dẫn những người phải đi đầu thai, cầu xin trì hoãn ngày giờ lại ít lâu. Chàng làm y theo.

Tối đến, vợ trở về nói:

- May nhờ cô Đoan lo lót đắc lực, nay được tụ họp thêm mười bữa.

Chàng mừng quá, không cho Đoan bỏ về như mọi đêm, cố giữ nàng lưu lại, cùng nằm chung giường, suốt đêm tới sáng, chỉ sợ cuộc vui chóng hết.

Qua bảy tám ngày, thấy kì hạn sắp hết, vợ chồng khóc nức nở suốt đêm, lại hỏi Đoan xem có mẹo cao gì khác. Nàng nói:

- Xem chừng bận này khó tính quá! Tuy vậy, em cũng thử làm xem, nhưng không có giấy tiền trăm vạn không xong.

Chàng mua đủ số trăm vạn giấy tiền về đốt như trước.

- Em cậy người nói lót với chú cai áp dẫn, ban đầu ra vẻ khó khăn, chừng trông thấy tiền nhiều mới xiêu lòng. Bây giờ đã chọn con ma khác đi đầu thai thế chân chị rồi.

Từ đó ban ngày cùng ở với nhau, chẳng đi đâu nữa. Đoan bảo chàng dán giấy bịt kín cửa sổ, bên trong đèn thắp sáng luôn không lúc nào tắt.

Sống như vậy hơn một năm, bỗng dưng nàng mắc bệnh, mê man rầu rĩ, luôn luôn hoảng hốt như thấy ma làm. Vợ chàng rờ vào mình nàng và nói:

- Đây là bệnh ma thật.

Chàng ngạc nhiên hỏi:

- Quái lạ! Đoan đã là ma rồi, lại còn ma nào làm bệnh nữa kia?

Vợ cắt nghĩa:

- Không phải vậy đâu. Sự thật ma chết thành mị. Ma sợ mị cũng như người sợ ma vậy.

Chàng muốn đi mời thầy phù thuỷ về cúng lễ, vợ không nghe.

- Bệnh ma phải có thầy ma, chứ người chữa sao được. Mụ già họ Vương ở xóm ta hiện đang làm nghề cúng lễ ở dưới âm ti, để tôi đi gọi. Nhưng mụ ở cách xa hơn mười dặm, mà chân cẳng tôi yếu lắm, không thể đi được, vậy mình đốt cho tôi con ngựa giấy.

Chàng làm theo lời. Ngựa giấy chưa cháy tàn đã thấy con tớ gái dắt con ngựa lông đỏ tới trước sân. Vợ chàng leo lên, chớp mắt biến mất. Giây lát cùng một mụ già cưỡi ngựa đến, cột ở dưới thềm. Mụ vào bóp mười ngón tay nàng, rồi thì ngồi xếp bằng ngay ngắn, tay bưng đầu lắc lư lên đồng, giây lát ngã xuống đất, rồi bò dậy nói:

- Ta là thần Hắc Sơn đại vương đây. Người con gái này bệnh nặng, gặp ta thật là phúc lớn. Bệnh này là bệnh ma làm nhưng không hề gì. Muốn khỏi bệnh, phải cúng ta thật hậu, vàng trăm nén, tiền trăm quan, cỗ bàn một tiệc, không được thiếu món nào cả.

Vợ chàng đứng bên, vâng dạ răm rắp. Mụ đồng lại ngã xuống mà hồi tỉnh, hướng về phía bệnh nhân la hét ít tiếng rồi thăng đồng, thế là xong việc. Mụ xin đi, vợ chàng đưa ra ngoài sân tặng luôn con ngựa, mụ hớn hở lên đường.

Trở vào xem nàng, dường như hơi tỉnh, hai vợ chồng rất mừng vỗ về thăm hỏi, bỗng dưng nàng nói:

- Em sợ không sống ở đời được nữa. Hễ nhắm mắt là thấy oan quỷ hiện lên, âu cũng là số mệnh đã đến lúc hết rồi.

Nói đonạ khóc mướt.

Qua đêm sau bệnh càng trầm trọng thêm, nằm co run rẩy, như là trông thấy yêu quái gì nhát sợ vậy, kéo chàng nằm chung, rúc đầu vào bụng chàng, sợ ai đến bắt đi. Chàng đứng dậy đi chỗ khác, nàng liền kinh hoảng kêu la dữ dội. Như thế luôn sáu bảy ngày, vợ chồng hết phương, không còn biết tính liệu cách nào.

Một hôm chàng có việc đi khỏi, nửa ngày mới về, nghe tiếng vợ gào khóc, té ra Đoan nương đã tắt nghỉ trên giường, thi hài phủ chăn còn đó. Chàng mở ra xem, thấy xương trắng một đống, thương khóc cực thảm rồi lấy lễ tống táng như người, chôn cất bên cạnh mồ mả ông bà.

Đêm nọ, vợ đang ngủ mà khóc thổn thức. Chàng lại hỏi chuyện gì, vợ nói:

- Vừa rồi tôi chiêm bao thấy Đoan nương về, kể chuyện thằng chồng cô đã hoá ra mị (ma chết thành mị), tối đến đòi mạng. Cô xin vợ chồng ta làm một tuần chay cho vong linh cô.

Sáng ra chàng thức dậy sớm, sửa soạn, đi rước thầy chùa và mua sắm các thứ để làm tuần chay, vợ ngăn lại và nói:

- Làm chay siêu độ ma mị, chàng biết đâu mà sắm sửa. Để đó tôi lo.

Nói rồi đi liền, một chặp trở về, cho hay đã sai người đi mời thầy chùa, bây giờ phải đốt giấy tiền trước cho họ làm lộ phí.

Chàng làm y lời.

Mặt trời vừa lặn, đã thấy lũ thầy chùa kéo đến, trống mõ đồ cúng mọi thứ giống như trần gian. Vợ chàng kêu trống mõ làm đinh tai nhức óc, nhưng chàng tuyệt nhiên không nghe tiếng động gì hết.

Cúng xong, vợ lại chiêm bao thấy Đoan nương về tạ ơn, nhân dịp cho biết oan cừu đã rửa sạch rồi, sắp sửa đi thác sinh làm con gái của một vị Thành hoàng, nhờ chị nói lại cho anh hay.

Vờ chàng ở nhà với chồng ba năm, ban đầu gia nhân nghe thì sợ hãi, lâu dần trở nên quen thuộc, thân cận như thường. Chàng đi đâu vắng thì tôi tớ đứng ngoài cửa sổ, thưa bẩm công kia việc nọ cho bà chủ biết.

Một đêm, tự dưng vợ khóc và nói với chồng:

- Mình ơi! Người lính áp dẫn đầu thai độ nọ đã bị tiết lộ công việc man trá mà bị mất chức và bị tội rồi. Nay âm ti lùng bắt tôi gắt lắm, e vợ chồng ta không còn được sum họp bao lâu nữa.

Mấy hôm sau, quả nhiên sinh bệnh, nàng nói:

- Mối tình gắn bó, chỉ mong được chết mãi còn hơn, chẳng vui sướng gì được đi thác sinh. Thế mà nay chúng ta sắp phải vĩnh quyết nhau, chẳng phải tự số trời xếp đặt ư?

Chàng bi thương hết sức, hỏi xem còn có mưu kế gì để được đoàn tụ mãi với nhau, vợ nói:

- Bây giờ không còn có cách gì nữa.

- Thế, mình trốn bấy lâu, có bị trừng phạt gì không?

- Có, nhưng chỉ phạt xoàng thôi. Trốn sống mới có tội to, trốn chết qua tội nhỏ.

Nói đoạn, không nhúc nhích cựa quậy gì cả, dòm kĩ lại thì mặt mày hình thể biến đi lần lần tới hết.

Chàng thường nằm ngủ một mình trong gian nhà hoang, mong được tái ngộ, nhưng không có chi lạ. Từ đó, nhà cửa hết có ma quỷ quấy nhiễu, gia nhân ở yên.

 

MỸ NHÂN CỨU MẠNG

(Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Một kiếp tài hoa chẳng hổ danh

Khen ai lấy vợ khéo đa tình

Cô Tùng sắc đẹp, cô Na cứu

Lưỡi búa thiên lôi chết chẳng đành.

Khổng Tuyết Lạp dòng dõi Khổng Thánh Nhân, tính tình đằm thắm, tài làm thơ, có người bạn đồng học cũ làm huyện lệnh Thiên Thai, gửi thư mời chàng đến huyện chơi.

Chàng tới nơi thì ông huyện vừa mới qua đời, bơ vơ không có tiền trở về quê quán, phải ở đậu trong chùa Bồ Đà, viết thuê chép mướn cho mấy thầy sãi để nuôi thân.

Cách chùa hơn trăm bước về phía Tây, có toà nhà của Đơn tiên sinh. Tiên sinh vốn con nhà quan, vì kiện cáo mãi mà nhà hiu quạnh, gia quyến lại ít người, ông liền dời vô trong xóm thành ra tòa nhà bỏ không.

Một hôm tuyết xuống, trên đường vắng tanh không có người qua lại, Khổng sinh chợt đi ngoài cửa thấy một thiếu niên từ trong đi ra, vẻ người rất lịch sự. Thiếu niên trông thấy chàng liền chào hỏi rất niềm nở, rồi mời vào trong nhà chơi.

Chàng vui vẻ theo chân vào liền.

Nhà không rộng rãi mấy nhưng chỗ nào cũng treo màn gấm, trên tường đầy những tranh vẽ và chữ viết của người xưa. Trên bàn có một quyển sách, ngoài bìa đề chữ "Loan hoàn tỏa ký" (nghĩa là chuyện vặt ở động Loan Hoàn).

Chàng mở ra xem qua một lượt toàn thấy chép những cảnh mình chưa được thấy bao giờ. Nhân nghĩ thiếu niên ở tòa nhà họ Đơn, vậy tất là chủ nhà, cho nên không màng hỏi thăm về gia thế làm gì. Thiếu niên gạn hỏi tình cảnh của chàng, tỏ ý thương xót khuyên bảo chàng nên mở lớp dạy học.

Chàng than thở:

- Tôi là người bơ vơ lữ thứ thế này, có ai chịu dương danh mách mối cho mình?

Thiếu niên nói:

- Nếu đừng chê tôi đơn hèn, thì chính tôi xin thụ giáo đây!

Chàng mừng rỡ, nhưng không dám nhận là thầy học, chỉ xin làm bạn, nhân dịp hỏi thăm tại sao nhà này đóng cửa bịt bùng đã lâu?

Thiếu niên đáp:

- Đây là nhà của ông Đơn, lúc trước vì ông dời vào ở trong làng, cho nên chốn này bỏ hoang đã lâu. Tôi họ Hoàng Phủ, quê quán ông bà vốn ở đất Thiểm, vì nhà cửa tôi bị cháy rụi, phải đến tạm ở nhà này.

Bấy giờ chàng mới rõ thiếu niên không phải là Đơn Ngay đêm hôm đó hai người chuyện vãn rất vui vẻ, khi ngủ nằm chung một giường. Tảng sáng, đã có thằng nhỏ dậy đốt lò than trong nhà. Thiếu niên thức dậy trước, đi vào nhà trong, chàng vẫn còn ôm mềm trên giường. Thằng nhỏ vào nói có ông cụ đến. Chàng sửng sốt vùng dậy. Một cụ già bước vào, râu tóc bạc phơ, chào hỏi rồi ngỏ lời cảm tạ chàng:

- Tiên sinh có lòng thương đến thằng con khờ dại của lão mà chịu ở lại đây dạy dỗ, lão rất cám ơn. Nó mới bắt đầu tập viết và tập đọc, vậy xin đừng lấy nê làm bạn, coi nó như cùng trang lứa.

Đoạn lão sai mang ra biếu chàng một bộ áo gấm, và mũ lông cùng giấy vở, mỗi thứ một món. Lão săn sóc cho chàng rửa mặt chải đầu xong rồi, gọi bưng cơm rượu ta thết đãi. Các thứ áo giường ghế không biết gọi tên là gì, chỉ thấy bóng lộn sáng ngời, choáng cả mắt.

Ngồi tiếp một hai chén rượu, lão đứng dậy từ tạ, chống gậy đi vào. Cơm xong, thiếu niên đem văn bài ra trình, toàn là giọng điệu cổ văn không có lối khoa cử theo thời một chút nào...

Chàng hỏi tại sao, thiếu niên cười và nói:

- Tôi không cần học để thi đỗ làm quan chi hết.

Tối đến thiếu niên sai bày tiệc rượu lại nói rằng đêm nay uống thật say rồi thôi, ngày mai trở đi không được uống rượu nữa. Rồi gọi thằng nhỏ và nói:

- Mày xem ông cụ đã đi nằm ngủ chưa, hễ nằm ngủ rồi thì lên bảo Hương Nô ra đây nghe.

Thằng nhỏ đi một lát trở lại, ôm cái túi thêu đựng cây đàn tỳ bà mang ra trước. Giây lát một nàng hầu bước vào, mặc áo đỏ tuyệt đẹp. Thiếu niên sai gảy khúc Tương Phi. Nàng cầm thẻ ngà gảy đàn bổng trầm bi tráng, bài bản nhịp nhàng, không phải như người ta thường nghe. Laị sai nàng mang chén lớn tới chuốc rượu, canh ba mới tan.

Ngày hôm sau cùng dậy sớm đọc sách. Thiếu niên rất thông minh, đọc qua là nhớ. Hai ba tháng sau, câu văn viết cực rắn rỏi. Đôi bên hẹn nhau năm ngày uống rượu một lần. Mỗi lần có tiệc rượu, đều gọi Hương Nô tới góp vui.

Một hôm, rượu say nóng mặt, chàng ngó Hương Nô đăm đăm.

Thiếu niên hiểu ý nói:

- Người nàng hầu này, ông cụ tôi nuôi dạy đã lâu. Nay anh trơ trọi không có gia đình, ngày đêm tôi vẫn trù tính cho anh về chuyện đó. Để tôi sẽ tính một người vợ thật đẹp.

Chàng nói:

- Nếu cậu có lòng tốt, phải tìm cho tôi một người như Hương Nô mới được.

Thiếu niên cười đáp:

- Anh này thật là người thấy ít, lạ nhiều. Hạng như con Hương Nô mà anh cho là đẹp, té ra sở nguyện của anh muốn được vừa lòng cũng dễ lắm nhỉ.

Ở được nửa năm, chàng muốn ra ngoài dạo chơi, nhưng đến cửa thì hai cánh khóa trái. Hỏi thiếu niên cắt nghĩa rằng: "ông cụ nhà tôi sợ giao du làm rộn tâm trí nên đóng cửa tạ khách đó thôi!" Chàng tin như thế, yên tâm ở nhà.

Lúc đó nắng bức gắt gao, phải dời nhà học ra ngoài vườn, giữa bụng chàng nổi một cái ung, to như trái đào, qua đêm lớn bằng cái chén, đau đớn rên la. Sớm tối thiếu niên chăm nom săn sóc, đến nỗi bỏ ăn quên ngủ.

Mấy ngày nữa chỗ đau lại nặng thêm, cũng tuyệt ăn uống. Cụ già cũng ra thăm, đứng nhìn và thở dài. Thiếu niên nói:

- Đêm trước con nghĩ chứng bịnh của tiên sinh chắc em Kiều Na chữa được, nên đã cho người đến nhà bà ngoại kêu nó về. Không hiểu sao đến chừng này còn chưa thấy đến.

Bỗng thằng nhỏ vào thưa:

- Cô Na đã tới, cả dì và cô Tùng cũng đến một lượt.

Hai cha con lật đật đón vào trong nhà, một lát thiếu niên đưa em lại thăm bênệ cho chàng. Cô này lối chừng mười ba mười bốn tuổi vẻ hoa lộng lẫy, vóc liễu thước tha, chàng ngó thấy nhan sắc, bỗng quên cả đau đớn rên la, tinh thần tự nhiên khoẻ khoắn.

- Anh này là bạn thân không khác chi ruột thịt, vậy em rán xem mạch, điều trị cho anh.

Nàng bèn nén vẻ thẹn thùng, vén tay áo lên đến cạnh giường bắt mạch. Trong lúc tay chạm tay, chàng nghe mùi thơm phức, hơn mùi bông lan. Nàng bắt mạch rồi cười nói:

- Phát ra chứng bệnh này là phải, vì mạch tâm động lắm. Bệnh tuy rằng nguy, nhưng có thể trị đặng. Có điều cái nhọt đã cương, không bóc da khoét thịt không đặng.

Đoạn nàng tháo chiếc xuyến vàng đeo ở cánh tay mình ra, đặt vào chỗ nhọt của chàng, từ từ đè xuống, nhọt bỗng nỗi lên chừng một tấc, cao hơn bên ngoài chiếc xuyến, nhưng cả vùng tím bầm dưới chân đều thu gọn cả vào bên trong chứ không loang rộng bằng cái chén như trước. Nàng vén áo móc lấy con dao đeo bên mình, lưỡi mỏng tang như tờ giấy, rồi tay đè xuyến, tay cầm dao nhẹ nhàng lựa theo quanh nhọt mà cắt, máu tím chảy phun, ướt đẫm giường chiếu.

Chàng thèm thuồng gần kề sắc đẹp, cho nên chẳng những không thấy dau đớn, lại còn lo công việc mổ xẻ mau xong thì vái khoái mình kề, tay ấp không hưởng được lâu.

Không mấy chốc, nàng khoét xong thịt thối, từng hòn từng cục như cái bướu ở trên thân cây cắt xuống vậy. Nàng gọi đem nươớ lại để rửa chỗ mới cắt, rồi nhá một hoàn thuốc màu đỏ ở trong miệng ra, nhỏ như viên đạn, đặt trên thịt chàng và thoa khắp xung quanh.

Mới một vòng đầu, chàng nghe khí nóng phừng phừng, vòng thứ hai thì làm như xốn xang ngứa ngáy, vòng thứ ba thì khắp thân thể mát mẻ thấu đến xương tủy. Nàng thu lấy hồng hoàn bỏ vô miệng và nói:

- Thế là khỏi bệnh rồi!

Miệng nói chân rảo bước đi ra.

Chàng vùng trỗi dậy chạy theo cảm tạ. Bao nhiêu bệnh tật lê mê dường đã tiêu tan đâu hết, trong trí tưởng nhớ vẻ đẹp của n không thể nào khuây.

Từ hôm đó trở đi, bỏ cả sách vở không đọc chỉ ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ, không được hoạt bác vui vẻ như cũ. Thiếu niên nhòm thấy, hiểu ý, nói:

- Em đã vì anh kén chọn được một người vợ đẹp rồi!

Chàng hỏi người nào? Thiếu niên đáp:

- Người đẹp cùng họ hàng với em.

Chàng lặng nghĩ giây lâu, chỉ thốt ra hai tiếng:

- Thôi đừng!

Rồi day mặt vào tường ngâm hai câu thơ cổ:

Ngoài ra biển cả khôn tìm nước

Nếu bỏ non Vu đâu có mây.(1)

Hoàng Phủ công tử nghe qua hiểu ý, nói rằng:

- Thân phụ tôi vẫn mến tài anh, thường muốn kết làm hôn nhân.

Ngặt vì tôi chỉ có một con em bé, tuổi còn nhỏ quá, nhưng bà dì tôi có người con gái tên là A Tùng năm nay đã mười bảy tuổi, nhan sắc không đến nỗi xấu xa. Nếu anh không tin lời toi nói, thì Tùng nương sớm nào cũng dạo chơi ngoài vườn, anh đứng núp trước hiên, dòm coi sẽ biết.

Chàng y lời dặn, quả thấy Kiều Na dắt một mỹ nữ ra vườn, mắt vẽ mày ngài, chân mang giày phượng, sắt mặt xấp xỉ Kiều Na. Chàng rất mừng nhờ công tử làm mối dùm.

Qua hôm sau, công tử ở trong nhà đi ra, chúc mừng chàng và nói:

- Việc xong rồi!

Đoạn, công tử sai dọn một nhà riêng, lo việc làm đám cưới cho chàng.

Đêm ấy, nhạc trỗi vang nhà, hương bay khắp chốn, chàng thấy như mình được nàng tiên cung trăng bỗng cùng chăn gối, bất giác đâm ngờ cung điện Quảng Hàn chưa chắc ở trên mây xanh tuyệt vời kia mới có.

Sau khi thành vợ chồng, đôi bên rất tâm đầu ý hợp.

Bỗng một đêm công tử đến nói với chàng:

- Cái ơn của anh dùi mài bảo tôi học, không có ngày giờ nào tôi quên được, Mới rồi, Đơn tiên sinh kiện cáo đã xong, đòi lại nhà này rất gấp. Vì đó, gia đình tôi muốn bỏ chốn này mà dời đi phía Tây, thế khó tụ họp với nhau thành ra nông nỗi lìa tan khiến tôi vấn vương trong bụng.

Khổng sinh tình nguyện đi theo, nhưng công tử khuyên chàng trở về quê quán. Chàng lấy chuyện ấy làm khó khăn. Công tử nói:

- Đừng lo, bây giờ tôi có thể đưa chân anh về.

Một chốc cụ già dẫn Tùng nương ra, lấy một trăm lượng vàng tặng cho hai vợ chồng. Công tử đưa hai tay, dặn phải nhắm mắt đừng nhìn. Thế rồi vùn vụt bay trên không, bên tay chỉ nghe gió thổi. Chặp lâu công tử nói:

- Đến nơi rồi đây!

Chàng mở mắt ra trong thấy quê quán mình, bây giờ mới rõ công tử không phải là người. Đến nhà gõ cửa, bà mẹ không ngờ thấy con về, mừng rỡ khôn tả lại thấy con có vợ đẹp, càng mừng hơn nữa. Mẹ con hớn hở chuyện trò, chừng nghoảnh lại thì công tử đã biến đâu mất.

Tùng nương thờ phụng mẹ chồng rất hiếu thảo, đức hiền, sắc đẹp đồn dậy xa gần.

Sau khi chàng đậu tiến sĩ, được bổ chức Tự Lý ( coi việc hình án) ở quận Diên An, muốn đem cả gia quyến đi theo, nhưng bà mẹ ngại đường xa, ở nhà không đi.

Tùng nương sinh đứa con trai đặt tên là Tiểu Hoạn.

Chàng vì tính khí cương trực, trái ý quan khâm sai, nên bị bãi chức. Nhưng vì còn có chuyện ngăn trở, chưa tiện trở về quê nhà. Hôm đó ngẫu nhiên đi săn ngoài đồng, gặp một chàng thiếu niên đẹp trai cưỡi một con ngựa nhỏ, đôi ba phen đưa mắt nhòm chàng: Nhìn kỹ té ra là Hoàng Phủ công tử! Hai người cùng dừng ngựa buông cương, nói chuyện mừng mừng tủi tủi.

Công tử mời chàng đi tới một xóm cây um tùm không trông thấy mặt trời. Vào trong nhà, thì đâu đó thiếp vàng chạm nổi, rõ ràng là một đại gia quý tộc. Hỏi thăm cô em, thì cô em đã xuất giá, bá nhạc cũng đã qua đời, chàng rất động lòng thương tiếc.

Ngủ có một đêm rồi từ biệt ra về, hôm sau dắt vợ con cùng đến.

Kiều Na cũng tới, ẵm đứa con chàng nựng nịu hôn hít và nói bỡn:

- Bà chị làm loạn mát dòng giống nhà rồi!

Khổng sinh ta ơn Kiều Na đã cứu mạng ngày trước. Nàng cười và nói:

- Nay dượng sang trọng rồi. Vết thương đã hàn, có nhớ hồi đó đau rên như thế nào không?

Ngô lang là chồng nàng cũng đến thăm nhà vợ, ở một hai bữa rồi đi.

Một hôm công tử có sắc lo, hớt hải bảo chàng:

- Trời giáng tai họa, có cứu được nhau chăng?

Chàng không biết tai họa gì, nhưng cứ hăng hái nhận lời. Công tử chạy dẫn cả gia nhân cùng vào, quì lạy la liệt. Chàng kinh ngạc vội hỏi chuyện gì. Công tử nói:

- Thú thực chúng tôi là hồ tinh, chứ không phải là người. Hôm nay có số kiếp bị sét đánh, nếu anh chịu lấy thân ra cứu nạn, thì cả nhà tôi có trông được sanh toàn. Bằng không thì xin anh phải bồng con đi trước, đừng ở đây mà phải vạ lây!

Chàng kêu trời thề sống chết. Công tử bèn nhủ chàng cầm gươm đứng trấn ngoài cửa và căn dặn kỹ lưỡng:

- Sấm sét đùng đùng, anh đừng nhúc nhích!

Chàng y theo lời dặn quả thấy mây mù kéo tới, đen tối như mực, nghoảnh lại chỗ ở cũ, không còn thấy tòa ngang dãy dọc gì nữa, chỉ thấy đá cao lù lù, hang hốc thăm thẳm. Giữa cơn kinh ngạc, một tiếng sét đánh dữ dội, vang động núi non, mưa to gió lớn, đánh bậc cả những gốc cây đã già. Chàng hoa mắt choáng tai, nhưng cứ đứng nguyên, không hề cục cựa.

Bỗng trong đám mây đen gió thét hiện ra một con quỷ, mỏ dài nanh nhọn cắp một người từ trong hang ra, bay thẳng lên mây. Chàng trông thoáng áo giày giống hệt Kiều Na, vội vàng nhảy lên khỏi mặt đất, hươ kiếm đánh với theo. Người đó theo tay rớt xuống. Thế rồi núi non rung chuyển, sấm sét đùng đùng, chàng té rụi xuống đất chết giấc.

Một lát sau, trời quang mây tạnh, Kiều Na đã tự tỉnh hồn trông thấy chàng chết cạnh, cất tiếng khóc rống:

- Khổng lang vì ta mà chết, thì ta còn sống làm gì?

Lúc ấy Tùng nương vừa ra đến nơi. Chị em xúm lại vực chàng đem về nhà.

Kiều Na sai Tùng nương ôm đầu, thoạt tiên lấy cây trâm cạy hàm răng, dùng lưỡi đẩy viên hồng hoàn vào trong miệng, lại kề môi mà hà hơi vào. Hồn hoàn theo hơi thở vào cuống họng, nghe tiếng ừng ực.

Một lát chàng tỉnh dậy, trông thấy vợ con, người nhà đông đủ trước mặt, nghĩ như cơn mộng bừng tỉnh.

Bấy giờ hết sợ tới mừng, cả nhà sum họp. Chàng nghĩ nơi mồ mả âm u chẳng nên ở lâu, bèn đề nghị cùng về quê nhà mình.

Ai nấy cũng tán thành, chỉ có Kiều Na không vui. Chàng xin mời cả Ngô lang cùng về ở chung, nhưng lại lo ngại ông cụ không chịu xa lìa cô bé. Vì thế suốt ngày bàn soạn chưa biết nhất định thế nào?

Chợt thấy thằng nhỏ ở bên nhà họ Ngô, mồ hôi nhễ nhại hơi thở hổn hển, từ ngoài bước vào. Mọi người sửng sốt hỏi thăm nguyên do, thì ra cũng ngày hôm đó. Ngô gia bị số kiếp lôi đình, cả nhà chết ráo.

Kiều Na dậm chân gào khóc, nước mắt tuôn mãi không thôi. Ai nấy xúm lại an ủi khuyên lơn, rồi đó cái mưu toan tính cùng về mới được quyết định.

Chàng vào trong thành, mua bán, cách vài ngày sửa soạn hành lý lên đường. Về đến nơi, chàng để một khu vườn cất riêng cho công tử ở. Nhà thường khóa trái, lúc nào chàng và Tùng nương đến mới mở cửa ra.

Chàng với anh em công tử, chén rượu cuộc cờ, chuyện trò thân mật như người một nhà.

Tiểu Hoạn lớn lên, mặt mày xinh đẹp, hơi có vẻ chồn. Mỗi khi nó đi chơi phố phường, ai cũng biết là con chồn đẻ ra.

-----------

Chú thích:

(1) Nguyên văn:

Tằng kinh thương hải nan vi thủy

Trừ khước Vu Sơn bắt thị vân.

Thơ của một thi sĩ đời Đường khóc vợ, cực tả nỗi niềm thương nhớ, trên đời không có ai đáng cho mình yêu quý hơn nữa, cũng như đã ra biển cả mênh mông , thì nước sông nước hồ chẳng có nghĩa gì: đã lên tận Vu sơn trông thấy mây đẹp thì mây ở chỗ khác chỉ là đám khói chứ không phải mây.

Khổng sinh mượn hai câu thơ này ngâm nga cảm khái, muốn tỏ ra trước mắt mình không còn ai đẹp hơn Kiều Na và chỉ Kiều Na mới đáng để cho mình lấy làm vợ thôi!

 

MÊ SÁCH

(Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Lang Ngọc Trụ quê Bành Thành. Ông bố làm quan đến chức thái thú, rất liêm khiết, được bổng lộc không tính chuyện làm giàu, chỉ tích sách đầy nhà. Đến Ngọc Trụ lại càng mê sách, gia cảnh nghèo khó phải bán hết đồ đạc, nhưng số sách cha để lại vẫn không suy suyển một quyển.

Khi còn sống, người cha đã viết cả thiên Khuyến học (1) dán lên vách bên phải toà nhà ở:

Nhà giàu chẳng cần bán ruộng tốt

Trong sách tự có nghìn chung thóc

Ăn ở chẳng cần nhà cao to

Trong sách tự có lầu kim ốc

Lấy vợ chớ e mai mối xoàng

Trong sách có nàng mặt như ngọc

Hàng ngày Lang thường ngâm đọc, lại còn viết bài ấy vào bức lụa trắng, chỉ sợ mờ rách mất. Anh ta cũng không mơ tưởng đường công danh vì đinh ninh tin rằng trong sách thế nào cũng có vàng có thóc. Suốt ngày suốt đêm, anh ta chỉ mải mê đọc sách, bất kể lúc nóng nung người khi rét cắt da. Tuổi ngoài đôi mươi, anh ta chả thiết gì tìm vợ vì hi vọng người đẹp trong sách sẽ tự đến. Bạn bè thân thích đến chơi, anh ta cũng chẳng thiết chuyện trò, chỉ qua quýt hỏi đáp vài câu rồi lại lớn tiếng ngâm đọc, khách ngồi chán rồi đi. Mỗi lần sát hạch, anh ta đều được lấy đứng đầu, nhưng khổ nỗi thi hoài không đỗ.

Một hôm Lang đang ngồi đọc sách, chợt có cơn gió lớn thổi bay sách, anh ta vội đuổi theo, chợt chân bị sụt xuống đất. Hoá ra chỗ đó có hố thóc mục đã tơi như đất mùn, do người xưa cất giấu. tuy không ăn được thứ ấy, nhưng anh ta càng tin mấy chữ "nghìn chung thóc" là không sai, cho nên lại càng chăm đọc sách. Hôm khác bắc thang trèo lên giá sách cao, trong đám sách vở linh tinh, vớ được cái xe vàng độ hai gang, anh ta mừng quá, cho rằng nghiệm với chữ "kim ốc" (nhà vàng). Đưa xe cho người ta xem thì hoá ra là vàng mạ, không phải vàng thật. Anh ta có ý oán cổ nhân lừa dối mình. Không bao lâu, có người khuyên Lang cúng cái xe ấy vào việc xây dựng tháp Phật. Người bạn đồng khoa với cha Lang, đang làm quan ở đất ấy, vốn là người mộ đạo Phật liền tặng hai con ngựa, ba trăm đồng vàng. Lang mừng quá cho là ứng nghiệm với chữ "xe ngựa, nhà vàng" cho nên lại càng khổ công dùi mài kinh sử.

Tuổi đã ba mươi, người ta khuyên lấy vợ đi. Lang chỉ trả lời: "Đã có câu Trong sách có nàng mặt như ngọc, ta lo gì không có vợ đẹp." Rồi lại miệt mài đọc sách, hai ba năm nữa vẫn không thấy kiến hiệu gì. Người ta chế giễu quá. Lúc ấy trong dân gian có thành ngữ: "Chức Nữ trên trời đã trốn rồi", người ta dựa vào đó mà đùa Lang rằng: "Cháu Trời (2) đi mất là vì anh đấy". Lang cho là chuyện đùa, bỏ ngoài tai.

Một tối, đọc sách Hán thư đến quyển thứ 8, bỗng thấy hình một mĩ nhân cắt bằng lụa mỏng ép giữa hai trang giấy, Lang kinh ngạc tự nhủ: "Câu Trong sách có nàng mặt như ngọc ứng ở đây chăng?". Nhìn kĩ mĩ nhân thì đầu mày cuối mặt y như người sống, sau lưng mờ mờ có chữ "Chức Nữ", anh ta càng lấy làm lạ lắm. Từ đó, Lang thường đặt hình mĩ nhân lên trên sách, trở đi lật lại ngắm nghía đến quên ăn quên ngủ.

Một hôm, Lang đang bần thần ngắm nghía thì mĩ nhân bỗng nhỏm dậy, ngồi trên sách mà hé môi cười mỉm. Lang hãi quá, phục lạy trước bàn. Mĩ nhân đứng dậy đã cao tới hai gang. Lang càng sợ, cứ lạy như tế sao. Mĩ nhân thong dong bước xuống đất, đứng thẳng lên nghiễm nhiên trở thành một trang giai nhân tuyệt thế. Lang vừa vái vừa đánh bạo hỏi:

- Bẩm, Người là vị thần gì?

Mĩ nhân cười đáp:

- Thiếp họ Nhan tên Như Ngọc mà chàng đã biết từ lâu (3). Hàng ngày được chàng rủ mắt xanh tới, thiếp mà không đến sợ nghìn năm sau sẽ không còn ai tin ở cổ nhân.

Lang mừng quá, để ở cùng phòng chung chăn chung gối bội phần thân ái. Song khổ nỗi chàng ta ngú ngớ quá, không biết cách thể hiện bản lĩnh của trang nam tử như thế nào. Từ đó, mỗi khi đọc sách, thế nào anh ta cũng kéo cô gái ngồi kề. Cô gái bảo thôi đừng học cách như thế nữa, nhưng anh ta nhất định không nghe. Cô rành rọt khuyên bảo:

- Chàng sở dĩ không thành đạt được chính vì đọc sách nhiều quá mê muội đi đấy. Thử xem những ông nghè ông cống, hỏi mấy người đọc được như chàng? Can chàng chẳng nghe, em bỏ đi đấy!

Lang nể lời nghe theo, nhưng chốc lát quên mất, lại cất tiếng sang sảng ngâm đọc, lúc sau nhớ ra ngoái tìm cô gái thì cô đã biến đâu mất. Thần hồn hoảng hốt, chàng ta vội vã quỳ xuống cầu khấn song nàng vẫn biệt tăm. Sực nhớ ra nơi ẩn cũ của người đẹp, chàng ta vội mở lại sách Hán thư, kiểm kĩ đến chỗ cũ thì thấy hình mĩ nhân. Gọi mãi vẫn không động tĩnh, chàng phải phục xuống khóc lóc, van xin, cô gái mới hiện ra và doạ ngay:

- Còn không nghe, nhất định sẽ vĩnh biệt!

Rồi nàng lấy bộ quân cờ, cỗ bài để hàng ngày cùng chơi. Nhưng Lang chẳng để ý gì lắm, hễ nàng vắng lại giở trộm sách. Vẫn sợ nàng biết nên anh ta ngầm cất quyển 8 sách Hán thư vào một chỗ khác, hòng để nàng không còn tìm thấy chốn ẩn cũ.

Hôm khác, đang say đọc thì nàng tới. Chợt thấy bóng, Lang vội gấp sách, song nàng lại đã biến đâu mất. Lang cả sợ, tra soát khắp các sách không thấy đâu cả, đến giữa quyển 8 sách Hán thư lại thấy Nhan Như Ngọc, không sai số tờ. Chàng phải van lạy, thề thốt không đọc nữa, lúc ấy cô gái mới ra, bắt phải cùng đánh cờ. Nàng hẹn trước: "Nếu ba ngày đánh không được, sẽ lại đi". Đến ngày thứ ba, Lang thắng hai ván. Cô gái tỏ lời khen, trao đàn bắt tập, hẹn năm ngày phải chơi được một khúc. Lang chăm chú, tập trung mắt nhìn tay gảy, lâu sau đã quen với tiết tấu, giai điệu. Rồi cô gái rủ cùng uống rượu, đánh bài, Lang vui thích mà bớt dần việc đọc sách lu bù. Cô gái lại thúc giục Lang ra ngoài gặp gỡ bạn bè, giao du ngày càng rộng rãi. Lúc ấy nàng mới bảo:

- Chàng có thể đi thi được rồi đấy.

Một đêm, Lang tỉ tê hỏi nàng:

- Phàm, người ta nam nữ ở với nhau sẽ sinh con đẻ cái. Nay tôi với mình chung đụng đã lâu mà sao không thấy gì cả?

Cô gái nhoẻn cười:

- Chàng cứ mê mải vùi đầu vào sách hoài, em đã bảo khéo kẻo mà vô tích sự. Bởi vậy cho đến nay chàng vẫn chưa hiểu nổi chương "chồng vợ" và hai chữ "gối chăn" cũng phải dày công đấy.

Lang ngẩn mặt hỏi:

- Công phu gì cơ?

Cô gái cười ngặt nghẽo, không nói. Lát sau vắng vẻ, mới tỉ tê bày vẽ cho Lang những ngón bí mật chốn buồng the. Lang thực hành ngay, khoái lắm bảo nàng:

- Tôi không nghĩ rằng cái lạc thú chồng vợ lại không thể truyền bá cho nhau được.

Thế rồi gặp ai anh ta cũng thông thốc kể lại mọi sự "thú lí tình" với người đẹp, không giấu giếm điều chi. Cô gái biết trách Lang. Lang đáp:

- Kẻ khoét ngạch trèo tường mới không dám ngỏ với ai. Còn cái lạc thú trong đạo thiên luân ai cũng vậy cả, việc gì phải giấu giếm, kiêng kị.

Chín tháng sau, nàng đẻ con trai, thuê một người vú trông nom đứa trẻ. Một hôm nàng bảo chồng:

- Em ở với chàng hai năm đã nghiệp dĩ sinh con. Nay có thể chia tay, ở lâu sợ gây tai hoạ cho chàng, hối không kịp.

Lang nghe nói cứ khóc ròng, phục xuống mà nói:

- Em không nghĩ đến đứa hài nhi còn oa oa đó chăng?

Cô gái cũng buồn rầu, lâu sau mới ra điều kiện:

- Nếu chàng muốn em ở lại, phải phá tán hết sách trên giá đi!

Lang từ chối:

- Đó là cố hương của em, là tính mệnh của tôi, sao em lại nói thế?

Cô gái không ép nữa, chỉ thở dài bảo:

- Em cũng biết là có số mệnh cả, song không thể không dự báo cho chàng.

Trước đây, thân thích trong họ Lang dòm thấy cô gái đã khả nghi lắm, lại chưa nghe thấy mối lái cưới xin, cho nên họ kéo đến chất vấn. Lang không thể đặt điều nói dối, song cũng úp mở không để lộ chuyện, cho nên họ lại càng ngờ. Lời đồn đại loan truyền đến tai quan huyện họ Sử, xuất thân tiến sĩ người đất Mân. Nghe chuyện lạ về Lang, quan huyện trẻ tuổi đã động lòng thèm khát, muốn được tận mắt nhìn ngắm dung nhan người đẹp, liền ra lệnh bắt giải cả Lang và mĩ nhân lên huyện. Cô gái biết, bỏ trốn biệt tích. Quan huyện càng nổi giận, sai lột hết quần áo Lang rồi cùm lại, hòng cô gái thương người tình mà tự dẫn thân đến.

Song Lang bị đày đoạ gần chết vẫn không chịu nói một lời. Tra khảo đến con hầu, nó mới cung ra đôi điều loáng thoáng. Quan huyện phán quyết đúng là yêu quái trá hình, cho nên tự thân đến nhà Lang khám xét. Quan thấy sách chất đầy nhà, nhiều không kiểm xuể liền ra lệnh đốt sách, khói kết lại không tan, âm u mù mịt.

Sau Lang được thả vì chàng xin được thư can thiệp của người học trò cũ của cha đang có quyền thế, cho nên chàng được miễn tội, khôi phục các quyền lợi. Năm ấy chàng đi thi đỗ cử nhân, năm sau đỗ luôn tiến sĩ. Trong lòng chứa chất mối hận thù khắc cốt ghi xương, chàng thiết lập bài vị Nhan Như Ngọc, sớm chiều khấn vái: "Nàng có khôn thiêng xin phù trợ cho ta làm quan ở đất Mân".

Sau quả nhiên Lang được cử đi thanh tra đất Mân. Ở ba tháng chàng tra hỏi các tội ác của Sử, tịch biên nhà cửa. Rồi lại được cử làm tư lí. Lang bức Sử phải nộp người thiếp yêu, thác cớ mua thị tì hầu hạ trong dinh. Vụ án kết thúc, Lang lập tức đưa cả người thiếp đi theo.

-----------

Chú thích:

(1) Đó là bài thơ của Tống Chân Tông, trong đó có câu (nguyên văn):

Phú đa bất dụng mại lương điền

Thư trung tự hữu thiên chung túc

An cư bất khả giá cao đường

Thư trung tự hữu hoàng kim ốc

Thu thê mạc hận vô lương môi

Thư trung tự hữu nhan như ngọc

(2) Nguyên văn: Thiên Tôn, tên một ngôi sao, cũng gọi là Chức Nữ. Theo truyền thuyết, Chức Nữ là cháu trời, trốn xuống trần lấy anh chăn trâu (Ngưu Lang).

(3) Tên từ trong câu thơ của bài Khuyến học: "Thư trung tự hữu nhan như ngọc"

 

THỨ CỎ GIẾT NGƯỜI

 (Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Chén ngọc trà xinh cũng thế thôi

Cô em mời mọc quá non xơi

Dù ai đã khát trong khi ấy

Mảnh vải chiêu hồn biết mượn ai?

Thủy mảng là loài cỏ độc, mọc tràn dưới nước như dây sắn leo, bông nó sắc tím giống như đậu ván. Ai lỡ ăn lầm, chết ngay hoá thành con thủy mảng. Tục truyền thứ ma này không được luân hồi phải có người khác trúng độc chết thay, bấy giờ mới được thác sinh. Vì thế, ở đất Sở, suốt một dọc sông Đào Hoa rất nhiều ma đó.

Người Sở có tục nhìn nhận những người cùng sinh ra một năm với mình là đồng niên, đến nơi đưa thiếp yết kiến, gọi nhau là canh huynh canh đệ, hàng con cháu gọi bề trên là canh thúc canh bá, thói quen từ xưa như thế.

Một hôm, Chúc sinh đi thăm bạn đồng niên, nửa đường khát nước thèm uống, chợt thấy bên đường có một cụ già bày cái quán để bố thí nước uống cho người qua lại. Chàng liền ghé và nhà, bà cụ niềm nở chào mời và rót trà rất ân cần.

Chàng ngửi nước có mùi lạ, không giống mùi trà, để đó không uống, đứng dậy đi ra. Bà cụ vội ngăn khách lưu lại rồi nói:

- Tam nương ơi! Pha một chén trà thật ngon ra đây.

Giây lát, có một thiếu nữ bưng trà từ sau quán bước ra, tuổi chừng mười bốn mười lăm, nhan sắc tuyệt đẹp, tay đeo nhẫn vòng vàng bóng lộn, có thể soi gương được. Chàng đỡ lấy chén trà, tâm hồn ngây ngất. Ngửi trà có mùi thơm ngào ngạt, chàng uống một hơi cạn chén, lại xin cho chén nữa. Thừa lúc cụ già vắng mặt, chàng đùa bỡn nắm cánh tay nàng, tháo ra một chiếc nhẫn. Nàng đỏ mặt mỉm cười, khiến chàng bị cám dỗ thêm, nhân dịp hỏi về gia thế, nàng nói:

- Buổi tối cậu đến, em còn ở đây.

Chàng xin một nắm trà, lại lấy luôn chiếc nhẫn mà đi. Đến nhà bạn đồng niên thì ruột gan quằn quại, chàng nghi nước trà làm đau bụng, kể chuyện tình đầu cho bạn nghe. Bạn hoảng hồn và nói:

- Thôi chết rồi! Đó là con ma thủy mảng. Thân phụ tôi ngày xưa chết cũng vì nó, không thể cứu đưọc! Biết làm thế nào bây giờ?

Chàng sợ quá, đưa gói trà cho bạn xem, quả thật là cỏ thủy mảng. Lại khoe chiếc nhẫn và tả hình dạng người thiếu nữ. Bạn ngẫm nghĩ, nhớ ra:

- Chắc là Khấu Tam nương đó!

Chúc sinh thấy đúng tên, hỏi bạn vì sao mà biết, bạn nói:

- Con gái nhà họ Khấu ở Nam thôn, vốn có tiếng sắc đẹp, mấy năm trước ăn nhầm thủy mảng mà qua đời, tất cả là nàng làm yêu quái để giết anh đó. Có người nói rằng ai bị con yêu quái ấy hành, nếu biết được tính danh của nó, mà xin được cái quần đũng nó mặc, đem về nấu nước uống thì sẽ có thể lành mạnh vô sự.

Bạn lập tức đến nhà họ Khấu, kể rõ thật tình và năn nỉ xin cứu mạng. Khấu nghĩ rằng: Chúc sinh sắp chết, đặng thay thế con gái mình đi đầu thai, cho nên ích kỷ không cho cái quần cũ. Bạn tức giận ra về mà nói cho chàng hay. Chàng cũng nghiến răng tức giận nói:

- Tôi chết, nhất định không cho con gái nhà nó đi đầu thai.

Bạn sai người cõng chàng về nhà, gần tới nơi thì chết, mẹ chàng khóc lóc mà lo việc tống táng cho con.

Chàng mất để lại một thằng bé mới đầy năm. Vợ chàng không ở góa được, cách nửa năm bỏ đi lấy chồng khác. Tội nghiệp bà cụ ôm đứa cháu mồ côi cho ăn dỗ ngủ, vất vả không kham, sớm chiều nhớ thương con cháu, gàu khóc thảm thiết.

Một hôm bà đương ôm cháu ngồi trong nhà, bỗng thấy chàng sừng sững bước vào, lấy làm sợ hãi, gạt nước mắt mà hỏi rõ nguồn cơn. Chàng nói:

- Con ở dưới đất nghe mẹ khóc mãi rất đau lòng xót ruột, cho nên con trở về để sớm hôm hầu hạ giúp đỡ mẹ đây. Con tuy chết nhưng đã lập thành gia thất, nay vợ con cũng theo về đặng chia sẻ khổ cực với mẹ, xin mẹ đừng bi thương nữa.

Bà mẹ hỏi :

- Vợ con là ai?

Chàng thưa:

- Họ Khấu đành lòng để con chết, con hết sức oán hận. Chết rồi con muốn tìm kiếm Tam nương mà không biết nàng ở chỗ nào, gần đây gặp một vị canh bá trỏ đường lối, con đến nơi thì Tam nương đã đi đầu thai ở nhà quan thị họ Nhiệm. Con lập tức đuổi theo bắt nàng trở về và buộc phải làm vợ con. Vợ chồng con cũng tâm đầu ý hợp, chẳng khổ sở chi.

Giậy lát, tiến vào một người con gái, ăn mặc xinh đẹp, quì xuống đất lạy mẹ. Chàng nói:

- Thưa mẹ, người này là Khấu Tam nương, vợ con.

Tuy con trai con dâu chẳng phải là người sống, nhưng bà mẹ được trông thấy cũng khuây khỏa nỗi lòng. Chàng hối Tam nương làm công việc trong nhà. Nàng không quen làm lụng, nhưng biết chiều chuộng mẹ chồng, ở luôn nhà cũ, không đi.

Nàng xin mẹ chồng báo tin cho bên nhà nàng hay. Chàng bảo đừng, song mẹ chiều lòng con dâu, sai người đi báo cho nhà họ Khấu biết.

Ông bà Khấu nghe tin hãi hùng, lập tức mướn xe đến nơi, trông quả là Tam nương, nhìn nhau khóc thất thanh. Nàng khuyên can mãi mới thôi.

Khấu bà thấy cảnh nhà chàng nghèo khổ, có vẻ thương hại con gái mình vất vả. Nàng nói:

- Con đã thành ma rồi, cần gì giàu nghèo. Huống chi mẹ con Chúc lang đối với con tình nghĩa ân cần, con lấy thế làm an phận lắm rồi.

Nhân dịp, Khấu bà hỏi thăm bà lão bán trà là người nào, nàng nói:

- Bà ấy họ Nghê, tự thẹn tuổi già, không thể cám dỗ được khác qua lại, cho nên cậy con giúp sức, vậy thôi. Nay mụ đã thác sinh vào một ngôi nhà bán rượu trong thành.

Nói đoạn lại quay sang bảo chàng:

- Mình đã làm rể mà không lạy mẹ vợ thì lòng em sao đành?

Chàng liền lạy chào theo lễ.

Rồi đó nàng xuống bếp đỡ tay mẹ chồng, nấu cơm để đãi ông bà xui gia.

Khấu bà trông thấy động lòng thương xót sau khi trở về, liền sai hai con tới phục dịch. Thêm vàng trăm cân, vải lụa mấy chục tấm. Thỉnh thoảng, cho người mang rượu thịt đến biếu xén, thành ra Chúc mẫu trở nên một nhà giàu nho nhỏ.

Cũng có lúc Khấu gia kêu nàng về thăm bên nhà nhưng ở được vài ba ngày, nàng liền đòi về, nói rằng:

- Nhà chồng con vắng vẻ không có ai, phải đưa con về sớm mới được.

Có khi cha mẹ kiếm cớ lần khân chưa cho người đưa về, thì nàng vụt đi một mình.

Khấu ông xuấ tiền cất nhà đàng hoàng cho Chúc sinh, mọi việc xếp đặt đầy đủ. Nhưng chàng chưa hề bước chân tới nhà cha mẹ vợ lần nào.

Một hôm trong làng có người trúng độc cỏ thủy mảng chết rồi sống lại, thiên hạ đồn rùm là một chuyện lạ.

Chàng nói:

- Ta cứu nó sống đó. Nguyên nó bị ma Lý Cửu hãm hại, ta vì nó mà đánh con ma ấy đi.

Bà mẹ hỏi:

-Sao con không tìm người khác để thay thế cho mình?

Chàng nói:

- Con vẫn đương oán hờn tụi đó đáo để, đương ra sức khu trừ cho hết giống. Vậy khi nào con thèm làm cách ích kỷ hại nhân như chúng nó. Vả lại con được phụng sự mẹ, thấy vui sướng lắm rồi, không muốn thác sinh nữa.

Từ đó về sau, những người trúng độc thường bày cỗ bàn ở giữa sân mà khấn vái chàng , đều thấy hiệu nghiệm.

Trải hơn mười năm sau, bà mẹ qua đời, hai vợ chồng cũng thương theo lễ, nhưng không ra mặt tiếp khách, chỉ sai con mặc sô chống gậy, cử hành tang lễ thay mình mà thôi.

Chôn cất mẹ già rồi, lại ở hơn hai năm nữa, cớ vợ cho con, nàng dâu tức là cháu gái ông Nhiệm thị lang.

Nguyên trước người thiếp của Nhiệm công sinh ra đứa con gái được mấy tháng thì chết, nghe chuyện lạ của Chúc liền đến tận nhà đính ước xui gia. Đến giờ gả cháu gái cho con Chúc sinh, hai nhà qua lại với nhau luôn luôn.

Một bữa chàng bảo con:

- Thượng đế xét ta có công với người đời nên phong ta làm Tứ Độc Mục Long Quân. Bây giờ ta đi nhậm chức đây.

Giây lát thấy giữa sân có bốn con ngựa, thắng vào cỗ xe mui vàng, cẳng ngựa đều mọc vảy lân. Vợ chồng cùng mặc áo tốt bước ra, ngồi chung một xe. Đứa con trai và vợ nó khóc lạy tiễn chân. Trong nháy mắt ngựa xe đều mất tăm dạng.

Cũng trong ngày hôm đó Khấu gia thấy con gái hiện về từ giã mẹ cha, cũng nói những lời như chàng đã nói trên đây. Khấu bà muốn lưu lại, nàng nói:

- Mẹ để con đi, Chúc lang đã đi trước rồi!

Nói đoạn đi ra khỏi cửa biến mất.

Đứa con trai của chàng tên là Ngạc, tự Lý Trần, đến xin phép Khấu ông cho lấy hài cốt Tam nương đem về hiệp táng với chàng một chỗ.

 

MỘT NHÀ ĐĨ CHỒN

 (Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Học sinh Vương Văn người Đông Xương, từ nhỏ tính vốn thật thà, đi chơi đất Sở, trời tối gặp sông lớn chưa qua được phải vào nhà trọ nghỉ ngơi, dạo bước ngoài cửa xem cảnh.

Người đồng hương là Triệu Đông Lâu, buôn bán lớn, thường mấy năm không về nhà một lần, nay gặp Vương ở xứ lạ, tay bắt mặt mừng, liền mời đi tiêu khiển chơi.

Đến nơi, chàng dòm thấy trong nhà có mỹ nhân ngồi, kinh ngạc lùi bước. Triệu cố lôi kéo, lại đứng ngoài cửa sổ kêu gọi Nật Tử, biểu nàng tránh đi, bấy giờ Vương mới chịu vào.

Triệu sai dọn cơm rượu thết đãi, chuyện vãn ân cần. Vương nói:

- Đây là nhà ai?

- Nhà này là một nhà chứa nho nhỏ – Triệu đáp. – Tôi vì sống ở quê người đất khách lâu ngày, cho nên tạm lấy chốn này làm trò vậy.

Trong lúc hai người nói chuyện, Nật Tử thường ra vào dòm ngó luôn, khiến cho Vương nhột nhạt không yên, liền đứng dậy từ biệt. Triệu cố níu chàng ngồi lại. Giây lát, một thiếu nữ đi qua trước cửa trông thấy chàng, liếc mắt đưa tình, sóng thu lai láng, mà dáng người ả có vẻ thần tiên. Thuở nay chàng vốn đứng đắn thế mà bây giờ ngây ngất xiêu lòng, hỏi thăm cô gái đẹp ấy là ai? Triệu đáp:

- Con gái út của bà chủ nhà này đó. Nàng tên là Nha Đầu, mới có mười bốn tuổi, bọn vương tôn quý khách thường đem nhiều tiền cám dỗ bà mẹ, nhưng nàng nhất định không chịu, thành ra bị mẹ đánh đập khốn khổ, chỉ vì nàng còn ít tuổi, nhờ năn nỉ lạy lục mới êm, hiện nay còn đang kén chồng đó.

Vương nghe nói cúi đầu ngồi lặng, như mộng như si, đến nỗi chuyện trò thù tạc sai cả đầu đề. Triệu hỏi bỡn:

- Nếu anh ưng ý thì tôi làm mai cho.

Vương ngậm ngùi nói mình không dám có ý nghĩ ấy đâu. Tuy nhiên, trời đã xế bóng, chàng vẫn ngồi chẳng nói gì tới sự đi về. Triệu lại đùa bỡn hỏi lại lần nữa. Vương nói:

- Bạn có lòng tốt, tôi rất cảm tạ, chỉ hiềm cạn túi biết làm thế nào?

Triệu biết tính ý Nha Đầu cứng cỏi, nếu ít tiền chắc nàng không chịu tiếp, cho nên tình nguyện giúp thêm mười lượng. Chàng bái tạ về nhà trọ, dốc hết tiền bạc trong hầu bao rồi lại đến chỗ cũ, đếm được năm lượng, năn nỉ Triệu nói giùm với mụ tào kê. Quả nhiên mụ chê ít, không thuận. Nha Đầu nói:

- Thường ngày mẹ vẫn trách con không làm cây tiền cho mẹ, nay con xin theo ý mẹ muốn. Con mới học ra đời, thế nào cũng có ngày báo đáp ơn mẹ. Vậy mẹ đừng chê món tiền nhỏ mọn, mà xua đuổi ông Thần Tài đi.

Mụ thấy tính con bướng bỉnh, giờ được nó ưng chịu như thế, hết sức mừng rỡ, bèn nhận lời ngay và sai con ở đi mời Vương Văn.

Triệu thấy vậy, không thể chạy chối lời hứa, liền xuất thêm mười lượng phụ vào món tiền của Vương mà trao cho mụ.

Vương cùng Nha Đầu vui vẻ yêu đương nhau rất mực. Đoạn, nàng hỏi Vương:

- Em là con nhà trăng hoa hèn mọn, không đáng cùng chàng sánh đôi bằng lứa. Nay được chàng đoái thương, nghĩa ấy rất nặng, em không quên. Nhưng chàng trút túi để mua cho được một cuộc vui thú đêm nay, rồi ngày mai thì sao?

Chàng cảm động, khóc lóc than thở. Nàng khuyên can:

- Xin đừng bi thường làm chi. Em gửi thân trong chốn phong trần, nhưng không phải thật tâm muốn vậy, chẳng qua chưa gặp được người thành thực như chàng, đáng cho em trao gửi tấm thân, cho nên đành phải nấn ná đó thôi. Bây giờ em xin trốn đi theo chàng đêm nay.

Vương hớn hở vùng dậy, nàng cũng đứng lên, nghe trống cảnh đã điểm ba tiếng, lật đật thay đổi y phục, giả làm con trai, cùng chàng mở cửa ra đi.

Chàng ghé nhà trọ, gõ cửa chủ nhân, lấy cớ có việc gấp rút, kêu lão bộc thức dậy thu nhặt hành lý và dắt lừa ra đi tức khắc.

Nàng lấy bùa dán vào lão và bên tai lừa, thế rồi buông cương cho chạy như bay, hai mắt nhắm nghiền, bên tai chỉ nghe gió thổi vu vu. Sáng sớm đến Hán Giang, mướn phố ở tại đó. Vương ngỏ ý kinh ngạc, nàng thú thiệt:

- Nói ra có lẽ chàng sợ hãi chăng? Sự thật em không phải là người, chính là chồn đây. Mẹ em tham dâm, hàng ngày em bị ngược đãi, chứa chất tức bực trong lòng đã nhiều, nay gặp may mắn được thoát thân bể khổ, ở ngoài trăm dặm, mẹ em chẳng biết đâu mà tìm, huống chi còn xa hơn nữa, vợ chồng ta có thể yên ổn vô ngại.

Chàng nghe nói yên lòng, chẳng còn ngờ vực chi, nhưng rồi chậm rãi thở than:

- Ngồi ngắm bông phù dung tươi đẹp, mà nhà trơ bốn vách, nghĩ thật buồn rầu, chỉ sợ mình cực khổ quá, rồi sớm muộn cũng đến bỏ tôi mà đi.

Nàng an ủi chồng:

- Sao lại lo nghĩ vớ vẩn như thế? Bây giờ ta buôn bán lặt vặt, trong nhà chỉ có ba miệng ăn, sống với nhau một cách đạm bạc có thể no đủ. Vậy chàng bán phắt con lừa kia đi mà làm vốn mua bán.

Chàng y lời, lập ngay trước cửa một quán tạp hoá nho nhỏ; hai thầy trò xuất lực làm việc, bên trong bán rượu và tương, mắm phụ thêm; còn nàng thì may thuê thêu mướn, ngày ngày kiếm được dư dật, sự ăn uống cũng được phong lưu.

Hơn một năm lần hồi nuôi được vú bõ con hầu, từ đó chàng không phải bắt tay vào việc nặng nhọc nữa, chỉ đứng chỉ bảo trông nom thế thôi.

Một hôm, bỗng dưng nàng buồn rầu và nói:

- Đêm nay phải có tai nạn đưa tới, biết làm thế nào?

Vương gạn hỏi tai nạn gì, nàng đáp:

- Mẹ em đã dò biết tung tích, chắc bà sinh sự bức bách chứ không để yên. Nếu bà sai Nật đến thì vợ chồng ta khỏi lo, chỉ sợ bà thân hành đến mới nguy.

Đêm ấy đã khuya, nàng ngỏ ý vui mừng và nói cho chồng hay rằng:

- Chị Nật sắp tới đó.

Một lúc, quả nhiên Nật Tử đẩy cửa vào. Nàng tươi cười đón rước. Nật Tử nhiếc mắng:

- Con ranh bỏ nhà theo trai đi trốn, không biết thế là xấu hổ ư? Má sai tao trói mày dẫn về xử tội.

Nói đoạn lấy dây lòi tói ra, buộc vào cổ nàng.

Nàng phát giận, chống cự lại:

- Đi theo một người mà thờ, thì có tội gì chớ?

Nật Tử càng tức, lôi kéo nàng đứt cả vạt áo. Lũ tôi tớ trong nhà nghe động, cùng tụ tập lại can thiệp. Nật Tử sợ hãi, vội vàng dông mất. Nàng nói:

- Chị về báo tin, mẹ em chắc sẽ tự đến. Vạ lớn tới nơi, ta nên tính trước.

Lập tức hô bảo gia nhân thu dọn đồ đạc để dời đi nơi khác. Bất đồ bà mẹ đã xồng xộc bước vào, nét mặt hầm hầm:

- Tao biết con khốn nạn này vô lễ, cho nên tao phải tự tới đây mới xong.

Nàng quỳ xuống khóc lóc năn nỉ. Mụ chẳng nói chẳng rằng túm tóc nàng lôi đi mất.

Chàng thương nhớ bâng khuâng, bỏ ăn quên ngủ, mau mau lên đường tới Đại Hà, mong có thể bỏ tiền ra chuộc lấy nàng về. Nhưng đến nơi thì cửa nhà y cũ, người ở khác xưa, hỏi thăm không ai biết nhà mụ dọn đi đâu. Chàng ngậm ngùi trở về Hán Giang, rồi phân tán đồ đạc cho người ta, còn bao nhiêu thì chuyển vận về quê nhà Đông Xương.

Cách mấy năm sau, ngẫu nhiên đi vào Yên Kinh, qua viện Dục Anh (tức là nhà nuôi con trẻ côi cút), trông thấy đứa bé chừng bảy, tám tuổi, người lão bộc lấy làm lạ, bởi mặt mày đứa bé thật giống chủ như đúc, cho nên chăm chăm dòm ngó mãi. Vương hỏi tại sao cứ nhìn thằng bé không chớp mắt, lão bộc cười và nói rõ nguyên nhân.

Chàng cũng cười, nhìn kĩ thằng bé bộ dạng chững chạc, tự nghĩ mình chưa có con, nhận thấy nó giống mình, liền động lòng thương yêu, xuất tiền chuộc nó.

Hỏi tên họ là gì nó tự xưng là Vương Tư. Chàng hỏi vặn:

- Khi mày còn bé tí, đã bị cha mẹ bỏ rơi cho vào viện Dục Anh, tại sao biết tên họ rành mạch như thế?

Vương Tư đáp:

- Thầy học con thường kể chuyện lúc bắt được con đem về nuôi, trước bụng có viết hàng chữ: Con của Vương Văn ở Sơn Đông.

Chàng nghe cả kinh:

- Quái lạ! Ta đây chính là Vương Văn, có con hồi nào ở đây?

Chàng nói vậy, rồi suy nghĩ tất là người nào trùng tên với mình, nhưng trong bụng mừng thầm vớ được thằng bé ngộ nghĩnh lanh lợi, cho nên hết sức thương yêu. Đưa nó về quê nhà, người ta trông thấy không cần phải hỏi, biết ngay là con của Vương Văn.

Tư lớn lên, vạm vỡ có sức, thích săn bắn chứ không lo công việc trong nhà, lại ham đánh lộn chém người. Vương chẳng ngăn cấm được. Tư lại khoe mình trông thấy ma quỷ chồn tinh, ban đầu không ai thèm tin, về sau trong làng có nhà nọ bị chồn quấy nhiễu, mời Tư đến xem giùm.

Tư đến nơi, chỉ vạch những nơi chồn ẩn núp kín đáo, sai mấy người vác gậy cứ theo ngón tay mình trỏ bảo mà đánh túi bụi, quả nhiên nghe tiếng chồn kêu rối rít và tìm thấy chỗ đó còn lông máu tơi bời. Nhờ vậy nhà này mới yên. Sau đó, người ta bàn tán với nhau, càng tin Tư là một nhân vật lạ lùng.

Một hôm, Vương đi dạo phố, chợt gặp Triệu Đông Lâu, thấy khăn áo lôi thôi, mặt mày ảm đạm, bất giác sửng sốt, hỏi ở đâu đến mà thân thể tiêu điều quá vậy. Triệu nhăn mặt xin hẹn thong thả tỉnh hồn sẽ nói. Chàng liền dẫn về nhà đãi ăn uống, rồi Triệu kể chuyện:

- Mụ đi bắt được Nha Đầu đem về, đánh đập tàn nhẫn, khi dời nhà lên phía bắc, lại muốn ép gả cho người ta, nhưng nàng thề chết không lấy hai chồng. Vì thế, mụ giam giữ trong buồng kín suốt ngày, như tù ở ngục vậy. Nàng sinh hạ đứa con trai, mụ đem bỏ ra ngoài đường. Tôi nghe người ta đưa về viện Dục Anh nuôi nấng nó, có lẽ nay đã trưởng thành, ấy là cục máu của anh bỏ rơi đó.

- Nhờ trời xui khiến tôi đã đưa con tôi về đây rồi.

Đoạn, kể chuyện đầu đuôi gặp gỡ cho Triệu nghe. Triệu thở dài và nói:

- Anh ạ! Ngày nay tôi mới biết lòng dạ bọn lầu xanh bạc bẽo, chớ có tin tưởng quá mà chết. Nhưng khi tỉnh ngộ thì đã muộn rồi, còn nói chi nữa.

Nguyên lúc mụ dời nhà lên phía bắc, tức là Yên Kinh, nơi đóng đô của Minh triều hồi đó, Triệu lấy cớ buôn bán đi theo, những hoá vật nặng nề khó chở thì bán rẻ đi hết. Dọc đường bao nhiêu phí tổn chi tiêu, Triệu đều nai lưng gánh vác; mà phí tổn rất nhiều, cho nên thâm thủng tiền vốn hết. Đã vậy, Nật Tử lại đòi hỏi bóc lột thẳng tay, trong vài năm, bạc muôn của Triệu mất sạch. Bấy giờ mụ thấy Triệu hết tiền, xoay ra bạc đãi. Nật Tử cũng bỏ nhà đi ngủ với những vương tôn quý khách, luôn mấy đêm không về là thường. Triệu tức giận quá, nhưng không biết làm cách nào.

Có bữa, mụ già đi vắng, Nha Đầu đứng cửa sổ kêu Triệu và nói:

- Chốn lầu xanh không có tình nghĩa gì cả. Họ gắn bó chiều chuộng người ta chỉ vì tiền bạc đó thôi. Anh còn luẩn quẩn ở nhà này, tất sẽ rước lấy tai vạ lớn đó.

Triệu sợ toát mồ hôi, như người ngủ mê mới tỉnh, quyết kế bỏ nhà này ra đi. Khi sắp lên đường, lén vào thăm Nha Đầu. Nàng trao cho bức thư, nhờ đưa hộ Vương. Đó rồi Triệu đi.

Nói đoạn, Triệu lấy bức thư của Nha Đầu đưa cho chàng. Đại khái thư viết thế này:

Em biết thằng Tư, đứa con yêu dấu của chúng ta, hiện đã ở bên cạnh chàng rồi. Tai ách của em ra sao, anh Đông Lâu thấy rõ, anh sẽ thuật lại cho chàng nghe. Kiếp trước em vụng tu thế nào khiến cho kiếp này khổ não, khôn xiết nói năng. Giờ em bị nhốt trong buồng kín, tối tăm không thấy bóng mặt trời, bị đánh đập tới phồng da nát thịt, mà lửa đói như thiêu đốt ruột gan. Một ngày ở đây dài đằng đẵng như một năm. Nếu chàng không quên lúc chúng ta ở Hán Giang: đêm tuyết trời lạnh mà vợ chồng chỉ có một chiếc mền đơn, co ro với nhau cho ấm; vậy chàng nên cùng con mưu tính, giải thoát cho em ra khỏi tai ách này. Mẹ em với chị em dẫu chi cũng là cốt nhục, xin chàng với con nhớ nương tay tha thứ, đừng làm thương tàn, ấy sở nguyện của em chỉ có thế thôi.

Vương xem thư khóc ngất, lấy vàng lụa ra tặng Triệu để cho Triệu đi.

Lúc này Tư đã mười lăm tuổi. Vương kể rõ gốc ngọn đầu đuôi cho con nghe, lại đưa cho con xem bức thư của mẹ nó gửi về. Tư trợn mắt tức giận, nội ngày hôm đó lên đường vào Yên Kinh, hỏi dò địa chỉ của Ngô Ổn. Giữa lúc xe ngựa đậu dày trước cửa, Tư đi thẳng vào trong nhà. Nật Tử đang ngồi uống rượu với khách, trông thấy Tư cầm dao, sợ hãi biến sắc toan chạy nhưng không kịp, vì Tư đã xông đến nơi đâm chém lia lịa.

Khách khứa cả kinh, tưởng là giặc cướp, chừng ngó lại xác Nật Tử đã thấy hiện nguyên hình là con chồn. Tư xách dao vào thẳng nhà sau, Ngô Ổn đang đốc thúc tôi tớ nấu đồ ăn, thoáng trông thấy Tư, biết có sự chẳng lành, vội vàng biến mất. Tư ngó quanh tứ phía, mau mau lấy cung lắp tên, bắn lên dầm nhà, một con chồn bị trúng tim rơi xuống chết ngay. Tư cắt lấy đầu rồi tìm đến chỗ mẹ bị giam, vác đá phá cửa mà vào. Mẹ con thấy nhau mừng mừng tủi tủi cùng la thất thanh.

Mẹ hỏi bà cụ đâu, Tư nói đã giết chết rồi. Mẹ hờn giận nói:

- Sao con không nghe lời ta dặn dò từ trước?

Nàng nói rồi bảo Tư thu nhặt thi thể bà cụ đem ra ngoài đồng chôn cất. Tư giả đò vâng lờ, nhưng lột lấy bộ da cất đi, rồi lục soát rương hòm của bà cụ, lấy hết áo xống tiền bạc trong đó, đưa mẹ lên đường trở về quê nhà.

Vợ chồng xa cách nay được trùng phùng, nửa vui nửa khóc. Chàng hỏi Tư về sự chôn cất Ngô Ổn, Tư đáp:

- Còn ở trong túi con đây này.

 

VỢ BÉ LÀ CHỒN

 (Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Lai Vu, Lưu Động Cửu, làm quan ở Phân Châu, có bữa ngồi một mình ở trong đình, nghe ngoài sân có tiếng cười nói, trước xa sau gần, rồi vào tới trong nhà, thì ra là bốn người con gái. Người lớn nhất độ bốn mươi tuổi; thứ hai chừng ba mươi; thứ ba tới hai bốn hai nhăm trở lại; cuối cùng là một cô còn để tóc xõa.

Cả bốn cùng đứng trước kỷ ngó nhau mà cười.

Lưu vốn biết trong đình nhiều chồn, cho nên mặc kệ, không buồn để ý. Giây lát cô bé tóc xõa lấy chiếc khăn đỏ ra ném giỡ trên mặt Lưu, Lưu nhặt lấy quăng lên cửa sổ, vẫn không thèm nhìn.

Bốn cô cười rồi bỏ đi.

Một hôm người lớn tuổi nhất đến nói với Lưu:

- Con bé em tôi có nhân duyên với ông, xin ông chớ chê là hèn hạ mà bỏ qua.

Lưu ậm ừ cho qua chuyện, người ấy mới đi. Lát sau, lại cùng một thị nữ dẫn cô bé đến, đặt ngồi sánh vai với Lưu rồi nói:

- Thật là tốt đôi. Đêm nay động phòng hoa chúc ráng ở với Lưu lang, chị về nhé!

Lưu nhìn kỹ, thấy nàng tươi đẹp vô song, bèn cùng chuyện trò thân mật, thăm hỏi gốc tích. Nàng nói:

- Em đây chẳng phải là người, nhưng thật cũng là người, nguyên em là con gái ông quan trấn nhậm ở đây trước, bị chồn làm chết, xác chôn trong vường. Lũ chồn làm phép cho em sống lại, cũng biến hóa như chồn vậy.

Lưu thò tay sờ phía sau. Nàng hiểu ý và cười nói:

- Ý hẳn chàng bảo chồn có đuôi phải không?

Rồi chuyển mình nói tiếp:

- Giờ thử rờ lại xem có đuôi không?

Từ đó nàng ở luôn trong đình, khi đứng ngồi đều có con hầu nhỏ bên cạnh. Gia nhân một mực tôn kính là bà nhỏ, vu bô tôi tớ lên chào, được thưởng tặng món này quà kia khá lắm.

Sắp đến ngày sinh nhật của Lưu, Lưu sợ quan khách đông đảo, tính tới ba chục mâm cỗ, vậy cần phải nhiều đầu bếp làm cỗ mới đủ. Trước đó, Lưu đã ra sức đòi ở các nơi, nhưng chỉ có một hai người tới, thành ra đâm lo. Nàng biết, bảo Lưu:

- Không can chi mà lo. Số đầu bếp đã không đủ dùng, chi bằng đuổi mấy đứa kia về. Tôi tuy kém tài nhưng làm ba chục mâm cỗ cũng chẳng khó gì.

Lưu mừng rỡ, sai mang các món rượu thịt tỏi gừng vào trong tư thất để nàng nấu cỗ. Người nhà chỉ nghe tiếng dao thớt kêu lách cách không dứt. Bên trong cửa đặt một chiếc bàn, những người tức trực bưng cỗ cứ để mâm trên đó, nghoảnh đi nghoảnh lại các món ăn đã dọn đầy mâm, họ chỉ có việc bưng đi. Hơn mười người đi lại liên tiếp, mà món ăn lấy hoài, có hoài chẳng hết.

Sau chót, một người bưng mâm vào gọi lấy bánh chay. Bên trong trả lời:

- Quan ngài có bảo trước đâu, bây giờ gấp rút quá làm sao có được?

Rồi nói tiếp:

- Thôi thì đành phải mượn đỡ của người ta vậy.

Giây lát, người đợi lấy bánh đã thấy trên bàn hơn ba chục bát còn nóng hổi, khói lên gnhi ngút.

Khi các quan khách ăn xong ra về cả rồi, nàng nói với Lưu:

- Mình đưa tiền trả tiền bánh cho nhà kia đi.

Lưu sai người đem tiền đến nhà ấy, quả thật họ mất trộm mấy chục bát bánh vừa nấu xong, đang lấy làm kinh ngạc thì có người đem đến trả tiền, bấy giờ mới hết nghi hoặc.

Một bữa, ngồi uống rượu buổi tối ,Lưu chợt nhớ rượu Sơn Đông mà thèm, nàng nói:

- Để tôi đi kiếm cho.

Nói đoạn bước ra cửa đi liền. Giây lát trở về chạy vào bảo Lưu:

- Tôi lấy về một hũ ngoài cửa kia, đủ cho mình nhắm mấy ngày.

Lưu ra xem, quả thật rượu Sơn Đông, y như thể rượu thường cất ở nhà mình như mọi lần.

Phu nhân (vợ lớn của Lưu) lúc này ở quê quán sai hai người gia bộc đến Phân Châu. Giữa đường một người nói:

- Nghe đồn "bà thứ chồn" vẫn khao thưởng rộng rãi cho con hầu người ở. Chuyến này được tiền thưởng ta để mua một chiếc áo lông chiên mặc chơi.

Nàng ngồi ở đình đã nghe biết cả rồi, bèn nói với Lưu:

- Gia nhân ở nhà quê sắp đến. Đáng ghét một thằng nói giọng xấc xược, phải trị mới được.

Sáng hôm sau, tên gia bộc mới vừa vào trong thằng đầu đã đau nhức, khi đến đình thì ôm đầu mà kêu cha kêu mẹ, ai nấy bèn đi rước thầy bốc thuốc cho y, Lưu cười:

- Bệnh này không cần phải chữa, hễ ngày giờ đến thì tự nó hết.

Mọi người hơi ngờ y phạm tội gì với bà bé chăng, nhưng y tự nghĩ mình mới tới đây, chân ướt chân ráo đã làm gì nên tội. Đến khi đầu nhức nhối quá, y không còn biết kêu van vào đâu, đành phải bò đến gần kêu bà bé.

Tiến người trong màn nói ra:

- Mi gọi bà bé là đủ, sao còn thêm một tiếng nữa là nghĩa gì?

Bấy giờ tên gia bộc mới tỉnh ngộ, kêu van chí chết.

Trong màn lại nói:

- Mi có cần áo lông, sao lại dám vô lễ?

Kế nói tiếp luôn:

- Thôi mi hết đau rồi.

Tức thời tên gia bộc thấy bệnh tiêu tan đâu mất, toan lạy tạ đi ra, chợt thấy trong màn quăng ra một cái bọc và nói:

-Một chiếc áo lông dê non đó, cho mi lấy đi!

Tên gia bộc mở ra xem, thấy bên trong có gói năm đồn bạc. Lưu hỏi thăam tin tức ở nhà, tên vô bộc thưa nội nhà đều vô sự, duy có một đêm khi không mất một hũ rượu. Tính ngày giờ chính là đêm bữa Lưu nói thèm rượu Sơn Đông mà bà bé đi lấy về cho.

Và từ đó ai cũng kinh sợ nàng có phép thần thông, bèn gọi là thánh tiên.

Lưu vẽ hình nàng để treo. Lúc đó ông Trương Đạo Nhất làm quan đề đốc sử nghe chuyện lạ lùng, lấy tình đồng hương đến chơi đình Lưu, khẩn cầu được thấy mặt nàng.

Nàng không chịu.

Lưu đưa ra tấm hình cho xem. Trương cố giật lấy đem về nhà treo cạnh chỗ ngồi, đêm ngày khấn vái cầu đảo:

Xinh đẹp như cô,muốn gì lại chẳng được? Sao lại gửi mình ở lão rậm râu. Tôi đây không kém thua Động Cửu, cớ sao không hạ cố tôi một phen?

Giữa khi đó nàng ngồi ở đình nhà, thình lình bảo Lưu:

- Này, Trương công vô lễ, ta phạt lão đôi chút cho chừa đi.

Quả nhiên một hôm, Trương đang ngồi cầu chúc lâm râm như mọi khi, thấy như có người cầm thanh bản đánh ngay giữa trán nghe cái bốp, đau điếng vội vàng cuộn hình lại không dám cầu nữa.

Lúc hỏi cớ sao lại thôi, Trương dấu chuyện bị đánh trả lời xuôi xị, Lưu cười và hỏi:

- Trán ngài có đau không?

Trương hết chối cãi, phải kể hết chuyện thật.

Cách đó ít lâu, người rể Lưu tên Nguyên đến thăm cha vợ, ngỏ ý muốn kính chào bà bé. Nhưng nàng từ chối.

Nguyên năn nỉ mãi, Lưu bảo nàng:

- Rể là con ta, chớ phải người lạ nào mà cự tuyệt nó quá vậy?

Nàng đáp:

- Rể đến ra mắt, tất phải có quà cho nó. Nhưng nó hy vọng lắm cơ. Mà tôi xét hiện tại không làm vừa lòng nó được, cho nên không muốn cho nó giáp mặt là lẽ đó.

Sau Nguyên lại ngỏ lời cầu xin lần nữa, nàng ưng chịu, hẹn mười ngày sẽ cho ra mắt.

Đến ngày hẹn, Nguyên vô đứng cách màn, chắp tay vái và kính lời thăm hỏi, nhưng thấy dung nhan một cách phản phất, chứ không dám nhìn kỹ. Khi cách xa mấy bước mới nghoảnh mặt lại ngó đăm đăm, nghe tiếng nàng nói:

- Kìa chú rể day đầu lại!

Nói đoạn cười khanh khách như tiếng quạ kêu, Nguyên nghe mềm nhũn cả chân tay, run rẩy như mất hồn phách. Lúc ra bên ngoài, phải ngồi giây lát, mới định thần nói:

- Vừa rồi nghe tiếng cười của bà như tiếng sấm sét, đến nỗi không biết thân mình còn hay mất.

Một lát, con hầu vâng lệnh nàng, mang ra ba mươi lạng tặng Nguyên, Nguyên lãnh số tiền rồi nói với con hầu:

Thánh tiên ngày ngày ở với ông nhạc ta, há không rõ tính ta xài lớn, chứ không quen những món tiền nhỏ sao:?

Nàng nghe nói trả lời:

- Ta đã biết trước mà, Hiềm vì trong túi vừa vặn hết tiền, ta đã cùng bạn bè đi Biện Lương để lấy, rủi ro trong thành bọ thần Hà Bá chiếm giữ, bao nhiêu kho bạc đều ngập dưới nước. Vì thế ta không lấy được nhiều tiền để nhồi vào túi tham không đáy của y. Nói giả tỷ ta có cho nhiều đi nữa, phước đức của y mỏng manh, cũng không được hưỏng cơ mà.

Mọi việc, nàng hay kiên trì, cho nên trong nhà gặp việc chi nguy nan cứ bàn với nàng chẳng việc gì là không xong.

Bữa nọ, vợ chồng ngồi đàm đạo, bỗng nàng ngửa mặt lên trời, tỏ vẻ cả kinh và nói:

- Đại nạn sắp tới biết làm sao đây?

Lưu hoảng sợ hỏi vợ coi trong nhà lành dữ ra sao, nàng nói:

- Tất cả vô sự, trừ ra cậu hai đáng lo. Chốn này nay mai trở thành chiến trường, vậy chàng xin quan trên cho đi công cán nơi xa, mới khỏi tai nạn.

Lưu nghe lời, xin quan trên cho đi áp tải lương thực ở miền Vân Nam, Quý Châu. Đường xá xa xôi hiểm hóc, ai cũng lo ngại cho Lưu, duy có nàng lấy làm vui mừng.

Quả nhiên ít lâu, Khương Khôi dấy binh làm phản, Phân Châu hóa ra hang ổ của giặc, con thứ hai của Lưu, từ Sơn Đông tới thăm cha, vừa gặp loạn nổi, bị giết. Thành bị giặc lấy, quan lại lớn nhỏ đều ngộ hại trừ Lưu đi việc quan xa, thoát nạn.

Chừng yên giặc xong. Lưu trở về. Rồi sau liên can vào vụ án lớn, nghèo túng tới nước thiếu cả bữa ăn. Các nhà cầm quyền ại đòi tiền đút nhiều, Lưu vừa quẫn vừa lo, muốn chết. Nàng bảo:

- Đừng lo, Còn ba nghìn đồng chôn dưới chân giường lấy lên dùng đỡ cũng được.

Lưu mừng, hỏi nàng đánh cắp của ai, nàng nói:

- Trong thiên hạ, thiếu gì của vô chủ can chi phải trộm cướp của ai.

Lưu dùng số tiền ấy lo chạy được thoát về quê quán. Nàng đi theo. Mấy năm sau, tự dưng đi mấy để lại mấy món đồ gói giấy tặng Lưu. Trong đó có cái phướn chỏ treo nhà đám ma dài độ hai tấc.

Ai cũng cho là điềm gở. Rồi ít ngày sau, Lưu chết.

 

CON GÁI NHÀ TRỜI

 (Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Ngô Thanh Am tên thật là Quân, tuổi trẻ đã nổi tiếng. Quan thái sử họ Cát, xem văn của chàng thường tấm tắc khen ngợi, bèn nhờ người quen mời đến nhà chơi cho được thấy rõ diện mạo và nghe chàng đàm luận. Thái sử nói:

- Lý nào một người có tài như Ngô sinh, mà lại nghèo hèn mãi ư?

Rồi ông sai người lối xóm đánh tiếng cho chàng biết rằng: "Nếu Thanh Am gắn chỉ mây xanh, thì ta gả con cho".

Lúc đó thái sử còn một người con gái nhan sắc tuyệt đẹp, chàng nghe mừng rỡ hết sức tự tin mình bề nào thi cũng đậu.

Không ngờ đến khi thi khoa hương, chàng bị đánh rớt, cậy người đến nói với quan thái sử rằng: "Sự giàu sang nhật định sẽ có không biết sớm hay muộn đó thôi. Vậy xin tiểu thư rán đợi tôi ba năm nữa, nếu tôi không thành danh, cô sẽ đi lấy chồng."

Từ đó chàng ra sức học càng chăm.

Một đêm sáng trăng, có một vị tú tài đến thăm, da trắng râu cụt, vóc người nhỏ nhắn, móng tay để dài. Hỏi khách ở đâu lại chơi, khách tự giới thiệu mình họ Bạch tên chữ là Vu Ngọc.

Chàng cùng Bạch nói chuyện mấy câu, trong lòng thấy khoan khoái cho nên vui mừng tiếp rước, mời ở nghỉ đêm.

Sáng ngày, Bạch sử soạn ra đi, chàng căn dặn mỗi khi đi qua tiện đường , bề nào cũng nhớ ghé chơi, Bạch cảm cái tính niềm nở ấy, tình nguyện lần sau đến, sẽ xin trọ ngay ở nhà này, rồi hẹn ngày tái ngộ và giã từ lên đường.

Tới kỳ hẹn, một tên nô bộc đem các vật dụng nấu ăn đến trước. Giây lát Bạch tới, mình cỡi ngựa vạm vỡ tướng như con rồng.

Chàng để căn nhà riêng Bạch ở, Bạch sai đầy tớ dắt ngựa đi, còn mình thì ở lại, sớm tối cùng Ngô gần gũi tương đắc.

Ngô để ý thấy sách vở của Bạch của Bạch xem, không phải là thứ sách vở bình thường trông thấy. Lại cũng không thấy quyển sách nào là sách văn chương khoa cử. Chàng kinh ngạc và hỏi tại sao, Bạch cười đáp:

- Kẻ sĩ hiền đều có chí riêng, ai tùy thích nấy! sở dĩ tôi không có loại sách thơ phú vì tôi chẳng phải là người trong vòng khoa cử công danh.

Thường đêm Bạch mời chàng uống rượu, đưa ca một quyển sách cho chàng xem, toàn là thuật tu tiên, luyện đạo, nhiều chổ xem không hiểu nghĩa. Chàng thấy vu vơ không hợp với mình, không buồn để ý.

Lần khác, Bạch nói với chàng:

- Quyển sách tôi đưa cho anh hôm nọ, chính là con đường bất lão, nấc thang lên tên đó.

Chàng cười:

- Việc gấp của tôi không phải ở chỗ đó. Vả lại muốn được thành tiên, tất cả chấm dứt nhân duyên, để cho mọi điều tư tưởng đều tuyệt mới được. Khốn nhưng tôi còn có tật đa mang làm sao mà tu được?

- Xin hỏi vì cớ gì?

- Vì cớ phải lo sinh con nối dõi.

- Thế sao lớn tuổi vẫn chưa lấy vợ?

- Bởi tôi có tật hiếu sắc!

Chàng vừa nói vừa cười, Bạch cũng cười:

- Chỉ xin ông đừng hiếu cái sắc tầm thường nhé! Và muốn hỏi cái sắc ông biết ra thế nào?

Ngô đem hết câu chuyện Thái sử muốn gả con gái cho Bạch nghe.

Bạch ngờ cô ả của Thái sử chưa chắc thật là người đẹp. Chàng nói:

- Nhan sắc của Cát tiểu thư xa gần đều biết, chẳng phải là tôi hạ mình. Bạ ai cũng yêu được đâu.

Nói đoạn mỉm cười bỏ đi nơi khác.

Hôm sau bỗng dưng Bạch sửa soạn hành lý để đi. Chàng thấy vậy sinh buồn, cùng Bạch quyến luyến nói chuyện mãi chưa chịu thôi.

Bạch sai thằng nhỏ đội hành lý đi trước, mình còn nán lại cùng Ngô chuyện vãn từ biệt. Hai người bịn rịn không nỡ rời tay.

Chợt thấy con ve xanh kêu rít rít và đáp xuống bàn. Bạch nói:

- Ngựa xe tới rước rồi đó. Tôi xin giã từ ông từ đây. Nếu tưởng nhớ tôi thì quét chỗ giường tôi lên đó mà nằm sẽ thấy.

Chàng đang muốn hỏi han nhiều chuyện, nhưng trong chớp mắt Bạch đã thu hình nhỏ lại như ngón tay, ngồi lên lưng con ve mà bay lên không, biến vào trong mây.

Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ Bạch chẳng phải người thường, rồi đứng ngẩn ngơ nghĩ giây lâu, vẻ buồn hiện rõ lên mặt.

Mấy hôm sau, trời đêm mưa phùn, lòng càng tưởng nhớ họ Bạch, ngó lại giường thấy bụi trắng xóa chân chuột in tứ tung. Chàng thở than rồi lấy chổi quét dọn sạch sẽ, trải chiếu lên nằm ngủ liền.

Một lát sau thấy tiểu đồng của Bạch đến mời, chàng vui vẻ theo liền.

Vừa lúc đó có một con chim ngũ sắc bé nhỏ từ trên mây đậu xuống bên , tiểu đồng thưa:

- Đường tối đen khó đi, xin mời ông đỡ chân bằng con chim này.

Chàng lo chim bé nhỏ quá làm sao mang nổi. Tiểu đồng nói:

- Xin ông thử leo lên coi.

Chàng y lời leo lên mình chim. Té ra ngồi rộng rãi có thừa. Tiểu đồng bám ở khúc đuôi. Chim xòe cánh nghe một tiếng vù, cất mình lên không bay đi vùn vụt. Không bao lâu tới một cái cổng sơn đỏ. Tiểu đồng nhảy xuống trước, đỡ chàng xuống sau. Chàng hỏi đây là chỗ nào, tiểu đồng thưa:

- Thưa, đây là cửa trời!

Bên cửa có con cọp lớn nằm phục. Chàng sợ run. Tiểu đồng lấy mình che đỡ cho chàng khỏi sợ hãi.

Chàng nhìn phong cảnh, chỗ nào cũng lạ lùng tốt đẹp, khác hẳn thế gian.

Tiểu đồng dẫn chàng vào cung Quảng Hàn, bậc thềm đều lót bằng thủy tinh, người bước lên trên như đi lên tấm gương. Hàng bên hai cây quế cao ngất và ôm lấy nhau, mùi hoa theo gió thơm phức. Trong cung san sát những tòa nhà, trổ cửa sơn đỏ, thấp thoáng có mỹ nhân ra vào, người nào người ấy, xinh đẹp lạ thường, thế gian không sao bì kịp.

Tiểu đồng nói cho chàng biết rằng: ở cung Vương Mẫu con gái còn mỹ miều gấp trăm, nhưng nó sợ ông chủ đợi lâu cho nên không dám đưa chàng đi thơ thẩn xem người, ngoạn cảnh nhiều nơi, đành phải dắt chàng trở ra.

Một lát đi tới toà lầu đài kia, đã thấy Bạch đứng đón chàng ở ngoài cửa. Bạch nắm tay chàng cùng bước vào trong nhà. Chàng nhận thấy trước thềm có bãi cát trắng, suối nước trong nghe chảy rả rích. Khắp nhà dát ngọc sơn son, y như cung điện vua chúa.

Chủ với khách vừa ngồi xuống, liền có một cặp mỹ nữ bưng trà thơm ngát ra dùng. Kế đó Bạch sai người dọn rượu thì có bốn mỹ nhân khác bôn tẩu hầu hạ chung quanh. Đến vừa thấy trên lưng hơi ngứa, tức thời mỹ nhân thò tay vào áo mâm mê gãi dùm. Chàng thấy tấm thân khoan khoái lạ thường. Đến lúc hơi men ngà ngà, chàng không giữ vẻ nghiêm trang được nữa, cười cợt dòm liếc mỹ nhân, muốn kéo nàng lại nói nhỏ . Mỹ nhân mỉm cười và lánh đi.

Bạch truyền lệnh đàn hát để chuốc rượu, một nàng mặc áo sa bóng, bưng chén rượu đến trước mặt khách, rồi đứng tại đó, cất tiếng hát du dương, các mỹ nhân khác gõ xênh phách mà hát phụ họa theo, nghe rất nhịp nhàng réo rắc.

Qua lớp ấy, tới một cô áo xanh cũng chuốc rượu và hát. Còn một cô áo tím và cô áo trắng thì cười khúc khích, cô nọ khều cô kia, không ai chịu ra trước.

Bạch sai một cô mời một chén, hát một bài.

Cô áo tím bước tới bưng chén rượu mời khách. Chàng mượn cớ tiếp lấy chén rượu mà nắm cánh tay. Cô bật cười tuột tay, chén rượu nghiêng đổ xuống đất. Bạch rầy mắng. Cô lượm chén lên, miệng cố nhịn cười và cúi đầu nói khẽ:

- Da lạnh buốt như bàn tay ma, thế mà cố véo vào tay người ta đó!

Bạch cả cười, phạt nàng tự múa tự hát một mình. Múa hát xong tới phiên cô áo trắng tiến lên mời chàng một chén.

Chàng từ chối:

- Say quá rổi, uống không kham nổi!

Cô bưng chén rượu có vẻ hổ thẹn, chàng bèn gượng uống cạn chén cho cô vui lòng.

Nhìn kỹ bốn cô dấp dáng hay hay, không một cô nào mà chẳng kiều diễm tuyệt thế. Chàng nói với chủ nhân:

- Sắc đẹp trên đời, tôi đây mong có lấy một người mà còn khó khăn, sao ông tụ tập cả đám giai nhân mỹ sắc đến thế, liệu có sẵn lòng chia cho anh em hưởng với không nào?

Bạch ngó chàng cười và đáp:

- Sao! Tự ông đã có giai nhân trong tâm ý rồi mà. Lũ này đâu có xứng đáng lọt vào mắt xanh của ông?

Chàng phải thú thật:

- Hôm nay tôi mới tự biết sự thật của mình còn hẹp hòi quá.Bạch bèn gọi hết cả đám mỹ nhân đến trước để cho chàng tự chọn lấy.

Chàng thấy cô nào cũng đẹp thành ra phân vân, không thể tự quyết định. Bạch nghĩ cô áo tím đã có cái duyên khều véo cánh tay, liền sai cô sửa soạn chăn gối để hầu khách hôm nay.

Cố nhiên đầu gối tay ấp, hết sức yêu đương không cần phải nói. Chàng đòi tặng món chi làm kỷ niệm, nàng tháo ngay chiếc xuyến cho chàng.

Giữa lúc đó tiểu đồng chạy vào nói:

- Tiên phàm khác nhau, ở lâu không tiện, vậy xin mời ông đi ngay.

Nàng vội vàng trỗi dậy đi mất. Chàng hỏi ông chủ đâu. Tiểu đồng nói:

- ông chủ tôi đi chầu Ngọc Hoàng. Lúc ra đi có dặn tôi lo việc tiễn khách về trần.

Chàng buồn bã theo chân ra đi, lại noi theo đưòng lối cũ. Gần ra tới cổng ngoài, quay lại ngó tiểu đồng, thì nó đã biến đi từ lúc nào. Con cọp gầm thét chồm lên. Chàng sợ hãi cắm đầu chạy trông xuống dưới thăm thẳm mù khơi, chẳng biết đâu là đâu, nhưng hai chân đã lỡ rơi tuột xuống rồi. Chừng đó kinh hồn tỉnh dậy thì trời đã hửng sáng.

Lúc sắp đứng lên, có một vật rớt xuống nhẹ nhàng xuống chiếu, nhìn lại thì là chiếc vòng. Chàng càng lấy làm lạ.

Từ đó, ý nghĩ lúc trước thành ra nguội lạnh, thường muốn đi tìm ông Xích Tùng Tử để học đạo tu tiên, nhưng còn lo về nỗi không có con để nối dõi tông đường.

Cách hơn mười tháng, một hôm chàng đang ngủ say giữa ban ngày, mộng thấy cô áo tím ở ngoài đi vào tay ẳm đứa con nhỏ và nói:

- Xương máu của chàng đây. Trên trời không giữ vật này đặng, vậy nay tôi đem xuống trả cho anh.

Nói đoạn cô đặt đứa nhỏ trên giường, kéo vai áo chàng mà đắp cho nó rồi vội vàng muốn đi. Chàng kéo lại đòi giao hoan. Cô áo tím nói:

- Chuyến trước là động phòng, chuyến này là vĩnh quyết vợ chồng trăm năm đến đây là hết. Nếu chàng có chí thì , may ra còn có lúc ta lại được gặp nhau.

Chàng tỉnh ngủ, mở mắt ra quả thấy đứa hài nhi nằm trên giường liền ôm vào trong nhà nói với bà mẹ.

Bà thấy được cháu rất mừng, tìm vú nuôi, đặt tên là Mộng Tiên.

Bấy giờ chàng sai người đến nhà ông Thái sử, báo tin cho ông hay rằng chàng sử soạn đi ẩn, vậy xin ông lo kén rể khác cho tiểu thư.

Nàng nói:

- Xa gần chẳng ai không biết rằng con hứa làm vợ họ Ngô lang rồi. Bây giờ thay đổi thế là hai chồng còn gì?

Thái sử đem ý chí đó ra ngăn bảo chàng. Chàng vẫn khăng khăng một mực:

- Ngày nay chẳng những tôi không có chí về công danh, lại tuyệt tình về đường gia thất nữa. Nên tôi chưa bỏ nhà vào núi ngay chỉ vì còn mẹ già đó thôi.

Thái sử lại bàn soạn với con gái, nàng ta trả lời:

- Ngô lang nghèo con cam sống với rau muối Ngô lang đi con xin thờ bà mẹ chồng, nhất định con không lấy người nào khác đâu.

Sứ giả lại đi thương thuyết đôi ba phen, đều không xong việc. Thái sử bèn chọn ngày lành cho xe ngựa chở tư trang và đưa tiểu thư về nhà chồng.

Chàng cảm là người hiền đức, hết lòng kính yêu. Nàng thờ mẹ chồng rất hiếu, nâng niu hầu hạ còn hơn gái nhà nghèo.

Qua hai năm bà mẹ chồng mất, nàng cầm bán tư trang để lo liệu ma chay đủ lễ. Chàng nói:

- Tôi được người vợ hiền như nàng, còn lo gì. Nhưng nghĩ đến xưa kia một người đắc đạo, cả nhà cùng theo gót lên tiên, còn tôi ngày nay sắp sửa đi xa mà nàng ở lại, trăm ngàn công việc đều phó thác cho nàng hết thảy.

Nàng thản nhiên không có ý bịn rịn chút nào.

Thế rồi chàng bỏ nhà ra đi.

Nàng ở nhà, ngoài việc đồng áng ra, trông dạy nuôi con, đâu đó ngăn nắp. Mộng Tiên dần dà khôn lớn, tính chất rất thông minh, mười bốn tuổi đã nổi tiếng thần đồng và đậu thi hương, mười lăm tuổi vào hàn lâm. Thường khi triều đình hỏi thăm cha mẹ để phong tặng cho nhưng Mộng Tiên không biết tên họ của mẹ đẻ là gì, chỉ khai một mình Cát mẫu mà thôi.

Đến ngày sinh nhật cha, Mộng Tiên hỏi Cát mẫu chỗ ở của cha nơi nào. Cát mẫu nói rõ sự thật, Mộng Tiên muốn treo ấn từ quan để đi tìm cha, nhưng bà mẹ gạt đi:

- Cha con bỏ nhà vào núi đã ngoài mười năm, có lẽ nay đã lên tiên rồi, con biết chỗ nào mà tìm.

Sau có dịp, Mộng Tiên dâng chỉ nhà vua sai đi tế núi Nam Nhạc, chẳng may giữa đường gặp cướp, trong xe lúc nguy cấp, thấy một đạo sĩ xách gươm xông vào đánh cướp, cướp thua chạy tán loạn. Nhờ vậy Mộng Tiên được giải vây, cảm ơn đạo sĩ, muốn tặng tiền bạc nhưng đạo sĩ không lấy, chỉ đưa ra một phong thư và căn dặnL

- Bần đạo có một ông bạn cũ cìng làng với quan lớn, vậy xin dám nhờ quan lớn thay lời hỏi thăm hộ.

- Nhưng bạn cũ của ông tên họ là gì?

Thưa tên Vương Lâm!

Mộng Tiên nhớ kỹ trong làng không có ai tên ấy. Đạo sĩ nói:

- Hắn ta con nhà hàn vi nên quan lớn không biết đó thôi.

Lúc giã từ đưa ra một chiếc vòng vàng nói tiếp:

-Đây là món đồ khuê các, bần đạo lượm được, cũng chẳng biết dùng làm gì, vậy xin biếu ngài luôn dịp.

Mộng Tiên cầm lấy xem, thấy chạm trổ tuyệt khéo, đem về trao cho phu nhân.

Phu nhân sai thợ khéo cứ y mẫu cũ mà làm một chiếc nữa, nhưng nét tinh xảo vẫn kém ca. Lại dò hỏi khắp trong làng, chẳng ai có tên là Vương Lâm. Bấy giờ Mộng Tiên mới lén mở phong thư của ong đạo sĩ ra xem, phía trên có viết mấy hàng chữ như sau:

Ba năm loan phượng

Phân cách tới nay

Nuôi con chôn mẹ

Nhờ nàng một tay

Lâý gì báo đức

Tặng hoàng thuốc này

Mở ra uốnc xong

Lên tiên có ngày.

Sau chót là chữ: Kính gửi Lâm nương phu nhân!

Mộng Tiên đọc không hiểu là ai, liền đưa trình Cát mẫu. Cát mẫu xem thư khoc sướt mướt:

- Đây là thư của cha con gửi về cho ta. Lâm là tên chữ của ta đó!

Bấy giờ mới hiểu ra tên Vương Lâm là tên Cát mâẫ hồi nhỏ.

Mộng Tiên ân hận than tiếc mãi, vì chính mình đã gặp cha mà không ngờ. Chàng lại đưa vòng cho Cát mẫu xem. Bà nói:

- Vật kỷ niệm mẹ đẻ con đó. Hồi cha con ở nhà thường lấy ra, ta xem rồi.

Xem tới hoàn thuốc, thấy nhỏ bằng hạt đậu, Mộng Tiên mừng nói:

- Cha đã thành tiên, ngài cho hoàn thuốc này mẹ ta ăn hẳn trường sinh bất lão.

Nhưng Cát mẫu còn để dành, chưa muốn ăn vội, bèn gói cất đi. Gặp lúc quan Thái sử qua thăm, bà đọc bức Ngô lang cho cụ nghe, nhân dịp mang hoàn thuốc ra tặng cụ.

Thái sử cắt ra làm hai , mỗi người ăn một nửa, trong giây lát đã thấy tinh thần thay đổi mạnh mẽ. Lúc ấy thái sử đã gần thất tuần, mắt mờ sức yếu lắm rồi. Thế mà vừa ăn nửa hoàn thuốc vào, bỗng thấy gân sức khỏe ra đến nỗi b65n về, bỏ xe đi bộ mà đi rất mau gia nhân theo mướt mồ hôi mới kịp.

Năm sau do thành có nạn cháy nhà, lửa bốc suốt ngày không ngớt. Cả nhà Mộng Tiên lo sợ, đêm không dám ngủ, tụ tập quây quần giữa sân, thấy lửa cháy lan, gần đến lối xóm. Cả nhà luýnh huýnh, chẳng biết làm thế nào.

Bỗng chiếc vòng vàng ở tay phu nhân nghe đánh vụt một tiếng, cất nhẹ bay đi. Trông lên thấy nó to lớn bằng mấy mẫu ruộng, úp quanh lên nhà, hình như vầng nguyệt, miệng vòng thì hướng về phí Đông Nam, ai nấy đều thấy rõ ràng, hết sức kinh ngạc.

Một lát lửa cháy từ phía tây lan tới chiếc vòng thì tạt qua hướng Đông. Tới khi lửa dịu dần, mọi người thầm nghĩ chiếc vòng chắc mất, không lâý lại được, tự dưng ngọn lửa vừa ngớt, thì chiếc vòng rơi xuống dưới chân nghe có tiếng kêu.

Trận hỏa hoạn này đốt hết mấy muôn căn nhà, trước sau tả hữu đề ra tro, chỉ có nhà họ Ngô không can gì, trừ ra một lầu nhỏ ở phía Nam bị đốt tức là nơi miệng vòng để hở vậy.

Cát mẫu ngoài năm mươi tuổi, trông còn trẻ đẹp như người mới độ hai mươi.

 

HỒ HAY ĐÙA

 (Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Vạn Phúc - tự Tử Đường, người Bắc Hưng thuở nhỏ đã theo đòi nghiệp nho, của nả không có gì lắm mà vận lại chậm, đã hai mươi có lẻ mà vẫn chưa giật được mảnh tú tài. Theo lệ tục hương thôn lúc ấy, nhiều người bị khoác chức trưởng lý đến nỗi khuynh gia bại sản. Vạn bị ép sung chức ấy, sợ quá bỏ trốn đến Tế Nam, thuê quán trọ ở.

Ban đêm có cô gái lần tới, nhan sắc cũng khá. Vạn vừa lòng, cùng nhau tư tình. Hỏi họ tên, cô ta đáp:

- Thú thực tôi là hồ ly, nhưng không làm hại anh đâu.

Van mạùng, không nghi ngờ gì cả. Cô gái còn dặn Vạn chớ ở chung với ai, hàng ngày cô sẽ tới cùng ăn nằm một giường. Thế là từ đấy mọi chi phí hàng ngày của Vạn đều do cô ta cung cấp.

Được ít lâu, vài ba người quen biết đến thăm hỏi, rồi ở lì cả đêm không về. Vạn ớn họ quá, song không nỡ cự tuyệt, bất đắc dĩ phải nói thực. Khác ngỏ ý muốn được chiêm ngưỡng dung nhan người đẹp, Vạn nói thẳng với Hồ nữ. Hồ bảo khách:

- Xem tôi làm gì? Tôi cũng như mọi người vậy thôi! Nghe tiếng nói thỏ thẻ cứ như ở trước mặt, nhìn khắp bốn chung quanh lại chẳng thấy đâu.

Khách có người tên là Tôn Đắc Ngôn vốn giỏi khôi hài cố ý xin gặp mặt. Anh ta năn nỉ:

- Được nghe giọng oanh, hay bay phách lạc. Còn giấu dung nhan làm gì khiến người mới nghe tiếng đồn mà lăn ốm tương tư.

Hồ cười đáp:

- Cháu hiền muốn vì bà cụ tổ họa bức hình hành lạc ( bức họa về những biểu hiện khoái lạc, những động tác trong tình dục) chăng?

Khách có mặt lại cười. Hồ lại nói:

- Tôi là hồ, xin vì khách kể chuyện hồ, khách có vui lòng nghe không?

Mọi người đều vân dạ, hưởng ứng. Hồ kể:

- Xưa ở lữ quán nọ có nhiều hồ lắm, thường hiện hình làm hại khách. Khách qua lại biết, rỉ nhau đừng trọ ở đó. Nửa năm sau hàng quán tiêu điều, chủ nhân lo quá, rất kiêng nói đến Hồ. Bỗng có một khách phương xa, tự xưng là người nước ngoài, đến cửa quán ấy thì dừng lại nghỉ. Chủ nhân đon đả rước vào. Lập tức có người đi đường mách kín với khách: nhà ấy có Hồ đấy! Khách sợ, nói thẳng với củ nhân rồi định bỏ đi nơi khác. Chủ nhân ra sức biện bạch, đó là lời nói bậy. Khách ở lại, vào nhà,, vừa ngã lưng đã thấy đàn chuột rút rích dưới gầm giường. Khách sợ quá, chạy bổ ra đường, hét tướng lên: "Có hồ!" Chủ nhânn hoảng hỏi sự tình, khách oán trách:

- Tổ Hồ ở đây, sao nói dối ta không có?

Chủ nhân lại hỏi: "Hình thù nó thế nào?" Khách đáp:

"Ta nay mới thấy, nó nho nhỏ, không phải là Hồ con tất là Hồ cháu".

Hồ kể xong, tất cả khách trong nhà đều không nhịn được cười. Tôn lại dọa:

- Nếu không cho xem mặt, bọn tôi ngủ lại; cũng xin ai đó đừng bỏ đi, bỏ lỡ cuộc hẹn đợi mây mưa.

Hồ lại cười:

- Các ông cứ nghỉ lại, không sao. Nếu có làm điều gì ngỗ nghịch một tý, xin các ông chớ có trệ bụng ra thôi. Khách sợ bị cợt nhã quá đáng, đều cùng nhau chia tay ra về.

Sau đó, cứ vài ngày họ lại đến, quần tụ, đòi Hồ trêu cợt. Hồ khôi hài thậm giỏi, hễ cất tiếng là khách cười ngả cười nghiêng, đến ngay những người có tài hoạt kê cũng không thể hơn được, mọi người gọi đùa nàng là "Hồ nương tử".

Một hôm, bày rượu tụ hội vui mừng. Vạn ngồi ghế chủ, Tôn và hai khách nữa chia ngôi tả hữu. Còn đặt một cái giường để mời Hồ, Hồ kiếu từ vì không hay rượu. Tất cả đều mời Hồ cùng ngồi nói chuyện, Hồ nhận. Rượu được vài tuần, khách bày trò ném súc dắc làm tửu lệnh "qua man" ( dây dưa). Khách trúng màu dưa, phải uống rượu, liền đùa nâng chén đưa lên giường nói:

- Hồ nương tử, bậc đại tinh, xin tạm cạn một chén.

Hồ cười:

- Tôi vốn không uống, xin kể một câu chuyện để góp vui cho cuộc rượu.

Tôn đã bị nhiều vố, nên bịt tai lại ra vẻ không muốn nghe. Những người khác đều đồng thanh:

- Nếu còn trêu chọc người thì phải phạt.

Hồ cười:

- Nếu tôi trêu chọc Hồ thì sao?

Tất cả đáp "được", rồi cùng nhau giỏng tay nghe. Hồ kể:

- Ngày xửa ngày xưa có một bậc đại thần đi sứ nước Hồng Mao (chỉ nước Anh hoặc Hà Lan) đội mũ lông hồ, vào yết kiến quốc vương nước ấy. Vua trông thấy cái mũ lạ, hỏi lông gì mà vừa dầy vừa mềm như thế? Quam đaị thần thưa: lông hồ. Quốc vương bảo: Bình sinh ta chưa được nghe nói tới, tự dạng chữ "hồ" như thế nào. Vị đại thần lấy tay vạch lên không tâu rằng: bên phải là chữ "qua" lớn, bên trái là chữ "khuyển" nhỏ (1). Thế là chủ kah1ch cười ầm cả nhà.

Trong số ba người khách, ngoài Tôn ra, có hai anh em họ Trần một người tên Sở Kiến, một người tên Sở Văn. Họ thấy Tôn bị hố nhiều quá, liền nói chọc Hồ:

- Hồ đực đi đâu mà để Hồ cái ác hại thế này?

Hồ nói thêm:

- Ấy, câu chuyện còn chưa hết thì đã bị sủa loạn lên, giờ xin kể tiếp. Quốc vương Hồng Mao thấy sứ thần cưỡi một con la, cũng lấy làm lạ. Sứ thần thưa rằng: con này do con ngựa đẻ ra. Vương lại càng lạ lắm. Sứ thần giải thích: Ở Trung Quốc chúng tôi, con ngựa đẻ ra con la, con la đẻ ra con ngựa choai. Vương hỏi rõ hình dáng chúng. Sứ thần đáp: Ngựa đẻ la đó là Thần Sở Kiến; la đẻ ra ngựa choai đó là Thần Sở Văn (chú ý tên hai ông khách họ Trần là Sở Kiến và Sở Văn).

Cử tọa lại cười ầm ĩ.

Họ cho là không thể địch nổi mồm mép Hồ nữ. liền giao hẹn đây nếu ai khơi ra chuyện ngạo ngược nữa thì phạt làm chủ rượu, phải bỏ tiền khao.

Lát sau, rượu ngà ngà, Tôn nói đùa với Văn:

- Tôi có vế đối, thách các vị đối.

Hỏi như thế nào, Tôn đọc:

- "Kỹ giả xuất môn phỏng tình nhân, lai thời: vạn phúc, khứ thời: vạn phúc (2).

Mọi người trên bàn rượu nghĩ mãi không ai đối được. Hồ lúc ấy mới khẽ cười:

- Tôi có câu đây.

Mọi người lắng tai nghe. Đọc:

- "Long vương hạ chiếu cầu trực gián, miết dã đắc ngôn, quy dã đắc ngôn. (3)

Mọi người lại cười rũ ra. Tôn giận lắm, trách Hồ:

- Đã giao hẹn thế, sao còn dám phạm.

Hồ cười dàn hòa:

- Đúng là tôi có lỗi, song nếu không thế thì không thể đối cho sát được. Sớm mai xin đặc tiệc để chuộc lỗi.

Mọi người cười xòa ra về.

Hồ khôi hài như thế, không thể kể hết được. Ở với nhau được vài tháng. Hồ cùng với Vạn về quê. đến địa giới Bắc Hưng, Hồ bảo với Vạn:

- Ở đây tôi có người bà con xa, đã lâu không qua lại, không thể không vào thăm hỏi. Trời cũng đã tối, ta cùng vào nghỉ, đợi sáng mai lại đi.

Vạn hỏi ở khoảng nào? Hồ nói:

- Không còn xa nữa.

Vạn ngờ ngợ, trước đây chốn này làm gì có làng mạc nào, song cứ đi theo. Qua hai dặm đường quả thấy một trang trại mà Vạn chưa bao giờ đến. Hồ gõ cổn, một người hầu ra mở cửa. Vào trong thì cửa tiếp cửa, gác nối gác, ra dáng là cảnh thế gia. Lúc sau, chủ nhân ra, hai ông bà lão, bái Vạn mời ngồi bày tiệc linh đình, khoản đãi như họ hàng thân thích. Hai người nghỉ lại đấy.

Sáng sớm hôm sau, Hồ bảo Vạn:

- Tôi về ngay cùng với anh, sợ đột ngột cho mọi người. Anh cứ về trước, tôi đi tiếp sau.

Vạn theo lời, về nhà trước nói rõ với gia nhân. Lát sau Hồ cũng tới, nói cười với Vạn, mọi người đều nghe rõ, song không nhìn thấy người.

Năm sau, Vạn lại có việc đi Tế, Hồ cùng đi. Bỗng có mấy người tới, Hồ đi theo hàn huyên mọi nỗi. Sau đó Hồ nói với Vạn:

- Tôi vốn gốc ở Thiểm Trung, cùng chàng có mối túc duyên cho nên theo chàng gả ngã bấy lâu. Nay anh em tôi đã đến, tôi sẽ theo về, không thể ở chung vui trọn đời.

Vạn cố sức lưu lại không được.

------------

(1)Theo tự dạng chữ Hán, chữ "hồ" (狐) gồm có hai chữ "qua" (瓜) và "khuyển" (犭) . Trong truyện, trò tửu lệnh này gọi là "qua man": khách ngồi bên phải vừa bắt phải "màu dưa" (qua) còn khách ngồi bên trái bị ám chỉ là khuyển. Hồ lanh trí chơi chữ xỏ khách.

(2) nghĩa là: kỳ nữ ra khỏi nhà thăm tình nhân , lúc đến chữa "vạn phúc"l úc đi chữ "vạn phúc". Vạn phúc: lời chào hỏi chúc tụng.

(3) chơi chữ, nghĩa là: long vương hạ chiếu cầu lời nói thẳng, ba ba cũng được, ruà cũng được. Chỗ hay và ẩn ý của câu này ở chỗ chữ "miết" (鼈) dùng nghĩa đen là con ba ba, "quy" (龜)là con rùa, thì có thể hiểu như trên. Song hai chữ ấy đối với vế trên được dùng như một động từ (đối với lai và khứ) thì lại có nghĩa khác: quy là thả rông cho vợ con đi lang chạ.

 

MA HỌC ĐÀN

 (Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Ông như Xuân, con nhà dòng dõi đất Thiểm Tây, mê say đàn cầm từ nhỏ, ngày nào cũng luyện tập, dù đi đâu cũng không sao nhãng.

Có lần chàng đi chơi Sơn Tây,qua một ngôi chùa cổ, buộc ngựa ngoài cổng rẽ vào nghỉ cho đỡ mệt.Trên hành lang có một đạo sĩ mặc áo vải ngồi xổm ở đó, gậy trúc tựa vách, cây đàn đựng trong túi vải thêu bông. Xuân thấy đàn hợp ý bèn cất tiếng hỏi làm quen:

- Đạo sị cũng sành nghề chơi này?

Đáp:

- Cũng chẳng sành. Chỉ mong gặp được bậc nào giỏi để học thêm.

Vừa nói ông vừa mở túi lấy đàn đưa cho Xuân xem. Chàng thấy cây đàn có vân tuyệt đẹp, thử dạo một vài tiếng thấy trong ấm lạ thường, liền nổi hứng gãy luôn một khúc ngăn ngắn. Đạo sĩ nhếch mép có ý cho đó là chưa được. Xuân trổ tài luông một khúc khác nữa. Đạo sĩ khen gượng:

- Cũng khá! Cũng khá! Nhưng chưa thể làm thầy ta được.

Xuân nghe nói có vẻ khoe khoang, muốn xem tài thực, liền xin cho được nghe ông thử đàn. Đạo sĩ tiếp lấy đàn đặc trên đầu gối, vừa mới gãy vào dây tơ đã nghe như có gió mát thoảng đến. Khúc đàn rung lên thì có cả trăm thứ chim lượn tới, đậu kín trên cây trước sân chùa. Xuân sửng sốt kính phục, vội vàng sụp lạy xin được dạy bảo cho.

Đạo sĩ đàn luôn ba lượt, chàng chăm chú nghe dần dần hiểu được khúc điệu. Đạo sĩ biểu chàng gảy lại chỗ nào sai thì uốn nắn cho. Cuối cùng ông nói:

- Như thế là trần gian không ai sánh bằng anh rôì!

Từ đó trở đi Xuân ra sức nghiền ngẫm tập dượt, tài đàn trở thành tuyệt giỏi.

Sau đó chàng trở về quê, còn cách nhà mấy chục dặm thì trời tối bỗng mưa to, không biết nghỉ chân vào đâu. Nhìn quanh quất bên đường thấy có một xóm nhỏ liền rảo bước tới, không kịp hỏi han chọn lựa, chỉ thấy có một cái cửa ngỏ là bước luôn vào, đến tận nhà giữa vẫn thấy vắng tanh.

Lát sau có một thiếu nữ độ mười bảy đến mười tám tuổi ở trong nhà đi ra, đẹp như tiên sa. Chợt thấy khách lạ, cô ta ù té chạy quay vào. Còn là trai tân, vừa nhìn thấy cô nàng, Xuân đã không kìm được lòng.

Rồi một bà lão ra tiếp khách. Chàng xưng tên họ, xin ngủ trọ một đêm. Bà lão cho biết, trọ lại cũng được, chỉ hiềm nhà không có giường chõng gì cho khách, chỉ có thể trải một thứ gì xuống đất nghỉ tạm. Nói xong, bà lão thắp đèn bưng ra ôm cỏ khô rãi xuống đất. Thấy thái độ ân cần, niềm nở của bà, chàng liền hỏi họ tên để làm quen. Bà trả lời:

- Già họ Tiêu.

- Còn cô em lúc nãy là ai?

- Đó là con gái nuôi của già, tên là Hoạn Nương.

Xuân đánh bạo tán luôn:

- Nếu cụ không chê tôi nghèo, tôi nhờ mối đến hỏi cô em có được không?

Bà cụ lắc đầu:

- Điều đó thì già không chìu lòng được.

Xuân căn dặn vì sao? Bà chỉ đáp: Khó nói!

Câu chuyện giữa chủ và khách đến đó chấm dứt. Bà lão vào nhà trong để khách đi nghỉ. Nhưng xem đến cỏ trải ổ thì ướt và mục không thể nào nằm được. Xuân đành ngồi gảy đàn cho qua đêm dài. Mưa tạnh, chàng từ giã chủ nhà ra về.

*

Trong làng có quan Lang trung họ Cát về hưu. Ông xưa nay vẫn quý những người có tài văn nghệ. Nhân đó Xuân tìm đến chơi. Ông Cát biết tài Xuân bảo gảy đàn cho nghe. Khi tiến đàn rung lên, thấp thoáng trong mành có bóng đàn bà con gái rình nghe. Một cơn gió thổi mạnh lay động bức mành. Xuân vội liếc mắt nhìn, thấy một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần. Đó chính là con gái chủ nhân tên là Lương Công, vừa giỏi văn chương từ phú lại nổi tiếng là bậc tiên nữ trong vùng.

Chàng xiêu lòng, về thưa với mẹ cậy người đến hỏi, nhưng ông Cát chê nhà Xuân sa sút không chịu gả.

Từ khi Lương Công được nghe Xuân trổ ngón đàn, lòng đã hâm mộ lắm, chỉ ước được nghe nữa. Song vì chuyện dạm hỏi không thành,Xuân phẫn chí không muốn lui tới nữa. Một hôm nàng ra vườn chơi, ngẫu nhiên nhặt được một tờ hoa tiên không còn mới lắm, trong có viết bài từ "Tiếc xuân thừa". Nàng thích văn hay, ngâm ngợi ba bốn lần rồi đem vào buồng riêng, lấy vải hoa nền gấm chép cẩn thận thành một bản khác để trên án. Nhưng lạ quá, chỉ lát sau tờ giấy có bài từ ấy đã biến đâu mất. Nàng cứ ngỡ là gió thổi bay đi. Không ngờ ông Cát đi qua phòng ấy, nhặt được, tin là con gái làm ra. Thấy lời lẽ lẳng lơ, ông ghét lắm đem đốt đi mà không nói ra om sòm, chỉ mong mau chóng gả chồng cho con, khỏi ngại.

Vừa lúc ấy quan Lưu Phương Bá ở làng bên đến dạm hỏi cho con. Ông Cát lấy làm ưng, song muốn đợi xem mặt chàng rể mới quyết. Hôm ấy Lưu công tử ăn vận cực kỳ sang trọng đến ra mắt. Ông Cát thấy công tử đẹp trai, ưng ngay, bày tiệc khoản đãi rất hậu hĩ. Khi công tử đứng dậy ra về, trên chỗ ngồi rớt lại một chiếc giày con gái. Ông Cát thấy vậy, phát ghét anh chàng này là kẻ bờm xơm, đàng điếm, liền nói bà mối đến nói rõ lý do không gả con gái cho nữa. Công tử ra sức biện bạch rằng oan, nhưng ông Cát nhất định bỏ ngoài tai.

Họ Cát có giống hoa cúc xanh, không truyền cho ai. Lương Công đem trồng một chậu cúc quý ấy trong buồng riêng. Và lạ thay vườn cúc nhà Xuân bỗng nhiên cũng nảy ra hai giò màu xanh. Mọi người nghe thấy đua nhau đến ngắm xem. Xuân coi như được của báu. Sáng hôm sau ra vườn hoa sớm, chàng nhặt được bên luống hoa một tờ giấy viết bài "Tiếc xuân thừa". Không biết nó từ đâu tới chỉ thấy trong bài có chữ Xuân là tên mình, đọc đi đọc lại, suy ngẫm càng thấy làm lạ. Chàng liền đem về bàn, ra công tô điểm, bình luận, lời lẽ có phần thô lỗ.

Nghe nói cúc nhà họ Ông biến ra màu xanh, ông Cát ngạc nhiên thân hành đến nhà học của Xuân để xem thực hư. Ngẫu nhiên trông thấy bài từ, ông cầm lấy toan đọc. Xuân chợt nhớ lời bình của mình trót lỡ sổ sàng không muốn cho ông xem, sợ mang tiếng, vội giàng vò nát. Ông Cát chỉ kịp lướt một hai câu thì đúng là bài từ ông đã nhặt được ở buồng con gái. Ông lấy làm nghi ngờ lắm. Lại cả giống cúc xanh, ông cũng nghĩ là con gái ông tặng cho Xuân không thì anh đào đâu ra?

Về nhà ông nói chuyện với vợ, gọi Lương Công ra tra hỏi. Nàng khóc lóc kêu oan, xin chết để tỏ lòng thực. Mà nghĩ cho cùng việc chẳng có chứng cứ gì đích thực xác, tất cả chỉ là nghi hoặc, không rõ thực hư thế nào? Bà vợ sợ tai tiếng vỡ lở, bàn với chồng gả quách con gái cho Xuân là xong chuyện. Ông Cát đến lúc ấy cũng cho là phải, bèn nhắn tin cho chàng hay.

Xuân bất ngờ mừng quá đỗi, ngay ngày hôm ấy mời bạn bè tới dự tiệc cúc xanh rồi đốt hương thơm gảy đàn cho tới khuya. Chàng về phòng ngủ rồi, đứa tiểu đồng trông coi nhà học nghe đàn cứ tự nhiên thánh thói kêu hoài. Ban đầu nó nghi hay là bọn tôi tớ trong nhà đùa giỡn. Sau thấy không phải, nó chạy vội đi báo với chủ.

Chàng liền đến nhà học, quả thấy sự là đàn kêu, nghe kỹ thì tiếng đàn như cố bắt chước khúc mình chơi, nhưng âm điệu còn chưa chuẩn, chưa nhuyễn. Chàng lập tức cầm đèn xộc vào buồng học thì vẫn thấy vắng tanh không có ai, đem đàn đi, từ đấy mới im. Bấy giờ anh chàng mới nghi là hồ tinh, chắc là nó muốn học đàn. Từ đấy mỗi tối chàng gảy đàn một khúc rồi để đàn lại cho hồ tập, làm y như một thầy dạy đàn vậy.

Hàng đêm chàng lại rình nghe qua sáu bảy đêm tiếng đàn đã réo ráo xuôi tai.

*

Sau khi thành hôn, hai vợ chồng Xuân đọc lại bài từ bỏ rơi hôm trước mới biết cuộc hôn nhân được tác thành đầu mối từ đó. Song còn tại sao nó lại bay tới nhà Xuân thì không rõ. Về sau tiếng đàn tự nhiên kêu, Lương Công cũng rình nghe. Nàng đoán:

- Không phải là hồ ly đâu. Nghe âm điệu não nùng ai oán lắm như có ma ở trong. Vậy chắc là ma.

Xuân không tin. Lương Công khoe ở nhà mình có cái gương cổ có thể soi rõ ma quỷ. Một hôm, nàng sai người về lấy, rình một lúc tiếng đàn nổi lên, lập tức ập vào trong đưa gương chiếu rồi thắp đèn lên. Quả có người con gái đang luống cuống ở góc nhà, không trốn đi đâu được. Xuân nhìn thì chính là Hoạn Nương mà chàng đã gặp ở nhà trọ hồi nào. Chàng cả kinh gặng hỏi tại sao nàng lại ẩn náo nơi đây. Nàng rớt nước mắt đáp lại:

- Thiếp làm mai mối cho chàng và tiểu thư nên duyên nên lứa, đâu phải không có chút công lao. Nay sao nỡ bức bách nhau quá vậy?

Xuân bảo vợ đem cất gương nhưng giao hẹn Hoạn Nương đừng có vội biến đi. Hoạn Nương ưng thuận, ngồi xuống hơi xa mà kể:

- Thiếp là con quan thái thú, sớm thiệt phận đã trăm năm nay. Còn nhỏ rất thích đàn cầm, đàn tranh. Về đàn tranh thì đã tập được ít nhiều, chỉ còn đàn cầm thì chưa được học cho nên dù đã xuống suối vàng vẫn ấm ức mãi. Khi chàng tránh mưa, ghé vào trọ, trộm nghe được điệu đàn, lòng đã hâm mộ, say mê lắm. Chỉ thiệt phận mình là ma, không thể theo đòi nâng khăn sửa túi cho chàng được. Bởi vậy đã ngầm tính cách dun dủi cho chàng gá gá duyên được với nàng tài cao sắc đẹp, đặng báo đền chút tình đoái thương của chàng. Chiếc giày công tử họ Lưu để rơi và bài từ "Tiếc xuân thừa" bay đến, đều là do thiếp tạo ra. Việc báo ơn thấy học đến thế không phải là mệt trí tốn công!

Vợ chồng Xuân nghe xong, rưng rưng cảm động, vội vàng vái tạ. Hoạn Nương tiếp:

- Ngón đàn của chàng thiếp đã luyện được quá nửa rồi, chỉ còn chưa lột được hết tinh thần. Vậy phiền chàng gảy cho tập một lần nữa.

Xuân nhận lời và vừa gảy mẫu vừa chỉ bảo cách thức, Hoạn Nương mừng lắm.

Thiếp nhận được hết chỗ hay rồi. Nói đoạn định đứng dậy từ biệt.

Lương Công vốn giỏi đàng tranh, nghe Hoạn Nương cũng sở trường, bèn xin nàng gảy cho nghe. Hoạn Nương vâng ngay, tiếng đàn vừa rung lên, âm điệu thật tiêu tao réo rắt, cõi trần khó ai sánh kịp. Lương Công trầm trồ khen ngợi, xin Hoạn Nương truyền bảo lại cho. Nàng lấy bút ghi lại bản đàn thành mười tám chương, xong rồi đứng dậy cáo biệt.

Cả hai vợ chồng Xuân cùng cố giữ lại. Giọng Hoạn Nương buồn thảm:

- Chàng và tiểu thư nên duyên cầm sắt tức là bạn tri âm của nhau. Thiếp là kẻ bạc phận có đâu được hưởng phúc ấy. Nếu có duyên trời gặp gỡ thì họa may sum họp kiếp sau.

Nói xong lấy ra một cuốn giấy đưa cho Xuân và nói:

- Đây là bức hình của thiếp. Nếu như không quên bà mối thì xin đem treo ở buồng nằm. Khi nào khoái ý, đốt nén hương thơm, gảy một khúc đàn, tức là thiếp được hưởng vậy.

Nói dứt, bước ra khỏi cửa biến mất.

 

 MỘT NHÀ ĐĨ HỒ

Chịu trách nhiệm xuất bản:

       BÙI CAO TIÊU

Biên tập:   NGUYỄN CẨM HƯƠNG

Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG

Trình bày bìa: SONG THÀNH

 

In 1.200 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT

Số trích ngang xuất bản: 382-2009/CXB/27-53/ThaH,

In xong và nộp lưu chiểu Quý IV năm 2010

.............................................................................................................

- Cập nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

..

0 comments:

Đăng nhận xét