TỪ BÀI THƠ
‘KHÓC ÔNG
PHỦ VĨNH TƯỜNG’
ĐƯỢC CHO LÀ
CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG
*
Nhà thơ
Hồ Xuân Hương luôn được sự chú ý của dư luận, nhất là từ khi tập thơ Lưu Hương kí của bà được
phát hiện từ những năm 60 của thế kỉ trước. Tập thơ (bản gốc), chỉ có duy nhất
1 bản, bị thất lạc nhiều năm, rất may, theo một nguồn tin mà tôi được biết,
Viện Văn học Việt Nam đã tìm lại được. Theo nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại, thì
chữ Lưu có bộ ngọc ở bên, chỉ quê hương Quỳnh Lưu, không phải
là lưu biệt hay lưu truyền, còn Hương là
tên tác giả: Hồ Xuân Hương. Vậy đây là thơ của người Quỳnh Lưu tên
là Xuân Hương, đã được ký (ghi lại).
Đặc biệt, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại khẳng định: “Lưu
Hương kí là một tài liệu chân chính,
đáng tin cậy, và trong trường hợp này, không thể có vấn đề, có kẻ nào đó muốn
chơi khăm, làm ra tài liệu giả mạo để đánh lạc hướng nghiên cứu của chúng ta”. (Lưu Hương kí và lai lịch phát
hiện nó - Trần
Thanh Mại, toàn tập, tập III, Nhà xuất bản Văn học, 2004). (Tác giả Trần Nhuận Minh)
Gần đây,
báo Văn Nghệ số ra ngày 26/ 5/ 2018, có đăng bài của
nhà thơ Thạch Quỳ: “Về bài thơ Khóc ông Phủ Vĩnh Tường của Hồ Xuân
Hương”. Trong bài này, ông Thạch Quỳ đã có một nhận xét rất đúng và
rất đáng chú ý: “Rõ ràng là đang
có vấn đề khúc mắc và chưa hợp lí ở đây!”. Ông nhận ra như thế, nhưng
cách lí giải của ông trong việc tìm ra ngọn nguồn bài thơ lại có tính suy đoán.
Mà ông cũng nói rõ ràng là ông chỉ suy đoán có thể là như vậy thôi. Vì ông được
coi là ông phủ Vĩnh Tường đã chết vì án tử hình năm 1819, mà 3 năm sau, năm
1822, mới có tên phủ Vĩnh Tường. Hay là bà Hồ Xuân Hương trở về nơi có tên mới
là phủ Vĩnh Tường sau năm 1822?
Ông
Thạch Quỳ thấy trong tập thơ Lưu
Hương kí của Hồ Xuân Hương không có bài thơ Khóc ông
phủ Vĩnh Tường, thực ra, toàn bộ thơ Nôm được truyền tụng và được coi là
của Hồ Xuân Hương, số này theo các tài liệu biên khảo là non 200 bài, sau thu
lại còn khoảng 50 – 60 bài, với khoảng 130 dị bản - vì là thơ dân gian, mỗi
nơi, mỗi người, chép mỗi khác, rồi cứ thế mà đem in, do bán rất chạy- trong đó
có khoảng 20-30 bài được in đi in lại nhiều lần, coi là “bản chính thức của thơ
Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương”. Tất cả đều có một nét chung là nói về “cái ấy”
và “chuyện ấy”…. và đều không có trong Lưu
Hương kí. Và những dấu ấn đó được coi là “độc đáo, kì lạ”, mà trong
công trình nghiên cứu của nhà thơ Xuân Diệu, viết và sửa trong 22 năm (1958 –
1980) Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm có đoạn, Xuân Diệu viết “hiện tượng độc đáo kì lạ, có thể nói là có một
không hai trong văn học Việt Nam, có lẽ trong văn học thế giới. Đó là một kĩ nữ.” (trang
377- 378, Các nhà thơ cổ điển
Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, 1988 – tác phẩm đã được
trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, đợt 1 năm 1996 ).
Sách Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, Trung
tâm Từ điển học và Nhà xuất bản Đà Nẵng, in năm 2002, do Giáo sư Hoàng Phê chủ
biên, có bút tích của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, giải nghĩa: Kĩ nữ là gái
mại dâm (là làm đĩ). Còn nhà thơ họ Hồ Quỳnh Đôi không phải là “kỹ
nữ” thì đã rõ, không cần phải bàn. Trong bài Tựa của Tốn Phong in ở đầu tập Lưu Hương kí, Hồ Xuân Hương nói
với Tốn Phong rằng: “Đây là toàn bộ thơ của cuộc đời tôi từ trước
đến nay, nhờ ông viết cho một bài tựa” Vậy theo lời của
chính Hồ Xuân Hương thì bài thơ Khóc
ông phủ Vĩnh Tường và tất cả các bài thơ Nôm truyền tụng đã
nói trên, vẫn gán cho bà - những bài hoàn toàn không có trong tập Lưu Hương kí - là không phải thơ
của bà vậy. Đánh giá thơ bà mà lại
cứ tự ý và đơn phương gạt bỏ ý kiến xác nhận bản quyền của chính tác giả là rất
buồn cười và hoàn toàn không khoa học. Đây cũng chính là việc chúng
ta cần làm, để trả lại giá trị đích thực cho bà, minh oan cho bà là bà không
từng là kĩ nữ, ở trong các “nhà chứa”, trong các “lầu xanh”, như một số sách
giai thoại và biên khảo trước đó đã in ra, từ trước và sau năm 1913, mà Xuân
Diệu căn cứ vào đó để viết đoạn văn đã dẫn trên.
Vậy ông
“phủ Vĩnh Tường” là ai? Là ông Trần Phúc Hiển, chồng bà Hồ Xuân Hương, từng làm
quan Tham hiệp trấn Yên Quảng (tỉnh Quảng Ninh hiện nay) bị tử hình năm 1819 vì
tội ăn hối lộ 700 quan tiền, trong việc giải quyết đất đai tại châu Hải Ninh,
thuộc trấn / tỉnh này. Năm 1822 phủ Tam Đái (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) mà ông
Hiển từng làm quan ở đó 10 năm trước, mới đổi tên là phủ Vĩnh Tường. Vậy ông
Hiển “không liên quan gì đến hai chữ Vĩnh
Tường”, ông Thạch Quỳ nói đúng. Xin lưu ý, năm 1822, cũng chính là năm bà Hồ
Xuân Hương mất (theo bia đá dựng ở đầu làng bà ở Nghệ An, ghi rõ bà mất năm
1822 ) thì rất có thể, chính bà Hồ Xuân Hương cũng không hề biết có phủ tên là
phủ Vĩnh Tường. Và như thế, bà Hồ Xuân Hương cũng “không liên quan gì đến hai chữ Vĩnh Tường”.
Ông Tốn
Phong nhận xét: Thơ Hồ Xuân Hương "xuất
phát từ cảm hứng nhưng biết dừng lại ở phạm vi lễ nghĩa. Vui mà không đến
nỗi buông tuồng ..." Đọc lời Tựa Lưu Hương kí mới thấy Tốn Phong nhận xét thơ Hồ Xuân
Hương, tháng 3 năm 1814, như thế là rất chuẩn xác. Xin hãy đọc toàn bộ Lưu Hương kí để thấy Hồ Xuân
Hương “học rộng mà thuần thục, dùng
chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ, thơ đúng phép tắc mà văn hoa, thực là
một bậc tài nữ”, như nhận xét rất đúng của Tốn Phong. Tuyệt đối không
có bất cứ một câu nào, một chữ nào, hay một “ý tại ngôn ngoại” nào… ngay cả kẻ gian dâm có đọc thơ bà trong tập
đúng là của bà này, cũng không bao giờ thấy váng vất “cái ấy” và “chuyện ấy”,
với nhiều góc nhìn cận cảnh và các động tác cụ thể chỉ có ở “cánh mày râu“… Thơ
thật của bà, đúng như ông Tốn Phong đã khẳng định giá trị, hoàn toàn không phải
thế. Đẳng cấp xã hội (phải là quí tộc) và phẩm chất thơ của bà phải như thế nào
(có văn hoá cao, hào hoa trang nhã) – đúng như nó đã có trong Lưu Hương kí - mới được Tùng
Thiện vương Miên Thẩm, con trai thứ 10 của vua Minh Mạng, em ruột vua Thiệu
Trị, cháu nội vua Gia Long nhà Nguyễn, chú ý, đọc và viết về bà những dòng thơ
rất trân trọng và đồng cảm như trong bài Long
Biên trúc chi từ (1842) mà nhiều người đã biết. Và tôi tin, tác giả
Lưu Hương kí (nhà nghiên cứu
Trần Thanh Mại đã khẳng định “Lưu
Hương kí là một tài liệu chân chính” - đã dẫn ở trên), dứt khoát
không thể viết những câu rất mất vệ sinh: “Chành ra ba góc, da còn thiếu” / “Trưa trật nào ai móc kẽ rêu“/ “Dưới khe nước rỉ mó lam nham…” vân
vân và vân vân …, vì 2 loại thơ này, trái ngược nhau như nước với lửa. Đây là
thơ Nôm dân gian đầu thế kỉ XX, sớm nhất cũng là cuối thế kỉ XIX - nghĩa là sau
khi bà đã mất từ 50 – 60 năm đến non 100 năm, mới có (năm 1842, khi Tùng Thiện
vương viết Long Biên trúc chi từ, chắc chắn chưa có) - với ngụ ý
chống mọi lề thói phong kiến cổ hủ ràng buộc con người và thói đạo đức
giả “Ban ngày quan lớn như thần
/ Ban đêm quan lớn lần mần như ma” mà có người cho là thơ của Nguyễn
Công Trứ, thời Nguyễn. Bài thơ Khóc ông phủ Vĩnh Tường… nằm trong
số ấy. Tôi rất tin là không bao giờ có một bà vợ, dù ngu độn hoặc dở người đến
mấy, lại khóc chồng (chưa kể chồng chết vì tội phải tự hình) mà
khóc là cái “cán cân tạo
hóa” của ông đã rơi mất, và cái “miệng túi càn khôn” của tôi đã khép lại từ lúc ông
chết rồi… rất thiếu văn hóa và vô cùng phản cảm… (chúng ta đều biết
hai cái đó là cái gì rồi); bây giờ trong gia đình của bất cứ ai,
nếu có một bà vợ khóc chồng chết mà khóc như thế, liệu anh em con cháu nhà
chồng có để cho bà ta yên không? Gán bài thơ này cho bà, vô hình chung, chúng
ta đã xúc phạm bà. Còn thơ dân gian thì lại khác, hoàn toàn khác. Nhưng ta
không bàn điều đó tại đây.
Do đó tôi nghĩ, đây là thơ dân gian như nhà nghiên
cứu rất đáng kính Trần Thanh Mại đã viết, đó là thơ “nhảm nhí” của “đám mày râu
chúng ta”, làm ra cho vui, qua sự nhuận sắc và truyền bá của các ông đồ, rồi cứ
thế mà gán cho bà. Tất nhiên, về ý thức phản phong và giá trị nghệ thuật, nó
phải thật sự có giá trị thì mới tồn tại được cùng với Truyện Trạng Quỳnh và Truyện
Trạng Lợn… Bây giờ đã ở thế kỉ
XXI, với tầm trí tuệ của ngày hôm nay, cái điều “uẩn khúc và chưa hợp lí” này,
đã có thể làm rõ và kết thúc được rồi. Vấn đề chỉ còn ở chỗ, ta có “dám” kết
thúc nó hay không mà thôi, bởi nó đã được giáo sư Lê Tâm đưa vào sách giáo khoa
từ năm 1950 và từ đó tồn tại đến nay, đã trải qua rất nhiều thế hệ. Nhưng tôi
rất tin, vấn đề này, sẽ được giải quyết dứt điểm và sòng phẳng trên tinh thần
khoa học, chỉ còn là thời gian, sớm hơn hay muộn hơn mà thôi....
*.
TRẦN NHUẬN MINH
Địa chỉ: số nhà 47, Lê Thánh
Tông, Hồng Gai,
thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh.
Email: trannhuanminh44@gmai.com
Điện thoại: 091.326.81.28
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác
giả gửi qua email ngày 12.04.2020.
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét