ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO
TRONG PHÁP
LUẬT TRIỀU LÝ
*
Lời
tác giả: Bài tiểu luận
"Ảnh hưởng Phật giáo trong pháp luật triều Lý" đã được
viết vào tháng giêng năm 1971 tại Saigon. Tạp chí Từ Quang đã đăng từ số 225
đến 258 (từ tháng 6 đến 9 năm 1974). Tạp chí Từ Quang là Cơ quan truyền bá đạo
Phật của Hội Phật Học Nam Việt, trụ sở ở chùa Xá Lợi tại Saigon (bên hông
trường Gia Long cũ), do cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, cố Quốc Vụ Khanh đặc trách
Văn Hoá thời Đệ Nhị Cộng Hoà miền Nam, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Sau khi cụ
Mai Thọ Truyền qua đời thì cụ Minh Lạc Vũ Văn Phường làm chủ nhiệm kiêm chủ
bút. Tôi xin trân trọng cống hiến quý độc giả Đặc San Chánh Giác của Chùa Hoa
Nghiêm ở Toronto.
Toronto, ngày 01 tháng 04 năm 1991
Nguyễn Vĩnh Thượng
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển
tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia. Mỗi cá nhân trong tập thể đó
không thể tự sống riêng mà cũng không thể có tự do hoàn toàn để muốn làm gì thì
làm. Cá nhân trong tập thể phải tuân theo một số qui luật mà tập thể đưa ra để
lấy nó làm tiêu chuẩn hướng dẩn đời sống của mình, và chính những tiêu chuẩn
sống này sẽ giúp cá nhân hòa hợp được giữa cá nhân mình với người khác sống
trong cùng một xã hội. Do đó, trong một xã hội nào cũng phải đưa ra một số qui
luật để mỗi cá thể sống trong đó tuân theo, và có như vậy thì xã hội mới có một
trật tự, mới có một nếp sống tương hợp với tất cả mọi người. Những qui luật của
xã hội có thể do một số người có đời sống đạo đức khả kính đưa ra để mọi người
lấy đó làm ánh sáng soi tỏ các hành động của mình; nhưng thông thường những qui
luật này được thể hiện dưới hình thức những luật lệ xã hội, các luật lệ xã hội
này do những người đang nắm vận mệnh của quốc gia đặt ra. Người đang nắm quyền
chủ tể của quốc gia bao giờ cũng muốn điều khiển quốc gia theo những định hướng
của mình; nhất là bình định những rối loạn trong xã hội, và sau đó có thể cũng
cố địa vị, ngai vàng của mình cho được lâu bền. (Tác giả Nguyễn Vĩnh Thượng)
Khi ban hành một bộ luật, vị chủ tể quốc gia đưa
vào đó một quan niệm, một thái độ sống của mình trước cuộc đời, và nói đúng hơn
là họ sẽ lấy một căn bản triết lý để làm nền tảng cho bộ luật của mình trước
khi ban hành nó. Trong phạm vi bài này, chúng tôi sẽ tìm hiểu và xác định một
căn bản triết lý của pháp luật triều Lý. Chúng ta đều biết rằng bất cứ một hệ
thống tư tưởng nào, bất cứ một triết lý nào, hay nói hạn hẹp trong phạm vi ta
đang nghiên cứu là một bộ luật nào ra đời cũng đều chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh
lịch sử, của xã hội lúc đó. Thật vậy, chính hoàn cảnh lịch sử sẽ tạo nên một
quan niệm cai trị của vị chủ tể để thích ứng và đương đầu với thời cuộc.
Một bộ luật ra đời là do hậu quả của một hoàn cảnh
lịch sử, lấy nền tảng qua một căn bản triết lý. Do vậy, chúng ta sẽ lần lượt
tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử của triều đại nhà Lý, và nguyên nhân ban hành bộ
luật nhà Lý; rồi sau đó chúng ta sẽ xác định một căn bản triết lý cho bộ luật
của triều đại nhà Lý.
Triều đại nhà Lý kéo dài từ năm 1010 đến năm 1225 trải
qua chín vị vua là:
1* Lý Thái Tổ (1010 - 1028)
2* Lý Thái Tông (1028 - 1054)
3* Lý Thánh Tông (1054 - 1072)
4* Lý Nhân Tông (1072 - 1127)
5*Lý Thần Tông (1128 - 1138)
6* Lý Anh Tông (1138 - 1175)
7* Lý Cao Tông (1176 - 1210)
8* Lý Huệ Tông (1211 - 1224)
9* Lý Chiêu Hoàng (1224 - 1225)
Đây là một triều đại đáng lưu ý về mọi phương diện vì nó
kéo dài hai trăm mười sáu năm (216 năm), với hai thế kỷ này, nhà Lý đã đặt một
nền tảng vững chắc cho chính thể quân chủ và nền độc lập cho nước ta. Có thể
nói nhà Lý đã đảm nhiệm một sứ mệnh lịch sử quan trọng trong quá trình tiến hoá
của dân tộc Việt-Nam.
Vua Lý Thái Tổ đã sáng lập ra nhà Lý, nguyên là Lý Công
Uẩn, thuở nhỏ đã vào sống ờ chùa từ năm lên ba, được nhà sư Lý Khánh Vân trú
trì chùa Cổ Pháp nuôi nấng. Khi đến tuổi trưởng thành, ông vào phụng sự nhà
Tiền Lê ở Hoa-lư, trong suốt thời gian này ông đem tất cả mọi khả năng để chu
toàn các nhiệm vụ, ông có nhiều đức độ đáng kính để đối xử với mọi người
nên đã được nhiều người quý mến.
Nguyên Lê Long Đỉnh, vị vua cuối cùng của đời Tiền Lê,
tính tình bạo ngược và ác độc. Lòng dân đã oán giận Long Đỉnh và chán ngán nhà
Tiền Lê. Năm 1009, Lê Long Đỉnh bị bệnh mất giữa lúc nước nhà đang nguy ngập:
nước Tàu lăm le xâm lăng, các phe phái tranh chấp ngôi vị, nhân dân mất niềm
tin nơi nhà Tiền Lê. Bởi vậy nên thiền sư Vạn Hạnh và đại quan Đào Cam Mộc đã
vận động các triều thần, tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua.
Lên ngôi xong, ngài dời kinh đô từ Hoa-lư là nơi hiểm trở
về đất Đại-la mà sau này đổi ra Thăng Long thành, là nơi trù phú rộng rãi và
bao quát cả thiên hạ. Do chỗ xuất thân từ cửa chùa, nên Lý Công Uẩn rất hậu đãi
và khuyến khích việc khuếch trương đạo Phật; và các vị vua sau cứ tiếp tục truyền nối công việc ấy cho đến năm
1224 khi công Chúa Chiêu Thánh lên ngôi tức là Lý Chiêu Hoàng thì quyền hành đã nằm trong
tay của Trần Thủ Độ, để rồi trước thế lực quá mạnh của họ Trần, nhà Lý phải cáo
chung từ năm đó.
Với cái nhìn tổng quát trên hai thế kỷ của triều đại nhà
Lý, chúng ta nhận thấy nhà Lý đã lãnh hội và rút tỉa nhiều kinh nghiệm của các
triều đại trước, nên các vua nhà Lý đã hết sức củng cố chính quyền trung ương
để tạo một nền quản chủ vững chắc, và lập một nền độc lập hoàn toàn đối với
Trung-hoa sau hơn một ngàn năm lệ thuộc dưới ách của người Tàu. Sau khi uy
quyền đã vững mạnh, nhà Lý bắt đầu mở mang và kiến thiết quê hương xứ sở trong
các lãnh vực văn học, tôn giáo, chính trị, kinh tế... Nhà Lý đã kiến tạo một
công trình văn hoá vĩ đại và dồi dào cho dân tộc Việt Nam và tạo một niềm tin
vào tinh thần tự lập của một dân tộc đang vươn mình lên khỏi sự lệ thuộc của
nền văn hóa Trung-hoa. Đồng thời cho thấy một cá tính độc lập của văn hoá
Việt-Nam đối với các nền văn hoá Á châu đương thời. Do những đặc điểm này,
chúng ta sẽ thấy rõ vì sao mà nhà Lý đã vượt qua được mọi trở ngại và kiến tạo
một sự phồn thịnh cho triều dại mình.
Về nội bộ, nhà Lý vẫn phải đối phó với nhiều cuộc nổi
loạn, nhất là các cuộc âm mưu tiến chiếm vương quyền. Bất cứ triều đại nào cũng
vậy, mối ưu tư của nhà cầm quyền là phải đề phòng mọi âm mưu đảo chính, mọi mưu
toan lật đổ ngai vàng. Trong suốt triều đại nhà Lý đã xảy ra nhiều cuộc nổi
loạn tại vương cung nhầm lật đổ nhà Lý; những cuộc nỗi loạn thường xảy ra vào
lúc có một vị vua vừa băng hà. Có thể kể cuộc nổi loạn trong Vương triều tiêu
biểu nhất là sau khi Lý Thái Tổ vừa băng hà (năm 1028), anh em Vũ Đức Vương,
Dực Thánh Vương, Đông Chính Vương đem quân đại náo kinh thành. Nhưng nhờ có Võ
Vệ tướng quân là Lê Phụng Hiểu dẹp tan được loạn này và thái tử Phật Mã mới lên
ngôi tức vua Lý Thái Tông. Còn trong dân gian thì cũng có một vài cuộc nỗi loạn
của các người Thổ ở vùng thượng du Cao-bằng, Lạng-sơn do giòng họ Nùng cầm đầu.
Về đối ngoại, nhà Lý phải đương đầu với nhiều mối lo âu
lớn lao là nhà Tống lăm le thôn tính Việt-Nam. Nhờ binh chế Việt-Nam lúc bấy
giờ đã tổ chức hoàn bị, và còn có các vị tướng lãnh tài ba là Lý Thường Kiệt đã
áp dụng các phép dụng binh đặc sắc để chiến thắng quân Tống trong các trận đánh
vào cuối năm 1075 tại Quảng-đông, tại Quảng-tây vào năm 1076. Và nhất là trận
đại thắng quân Tống vào cuối năm 1076 khi nhà Tống cử binh sang báo thù, Lý
Thường Kiệt đã làm tiêu hao binh lực của Tống, tạo ra một ưu thế cho Đại Việt
để nghị hòa với quân Tống. Chúng ta còn thấy mộng mở mang bờ cõi của nhà Lý
trong việc chinh phạt Chiêm-thành để mở rộng biên cương về phương Nam, điển
hình là các cuộc chinh phạt Chiêm-thành vào các năm 1044, năm 1069, năm 1079 và
năm 1082.
Nói tóm lại, chúng ta thấy các vua thuộc triều đại nhà Lý
đã phải đối phó với những kẻ nội phản ở vương triều và vài cuộc nổi loạn của
bọn người Thổ trong dân chúng, còn bên ngoài thì phải đối phó với nạn ngoại xâm
của đế quốc Trung-hoa. Nhưng đồng thời nhà Lý cũng không quên việc mở mang bờ
cõi về phía Nam bằng các cuộc chinh phạt Chiêm-thành. Ngoài việc củng cố uy quyền Lý triều nói riêng và của
nước Đại Việt nói chung, nhà Lý còn lo kiến thiết xứ sở trong mọi lãnh vực, đặc
biệt đáng lưu ý nhất là dưới các triều Vua Thái Tổ (1010 -1028), Thái Tông
(1028 - 1054), Nhân Tông (1072 - 1127), Anh Tông (]138 - 1175).
Trên kia chúng ta đã điểm qua những biến cố quan trọng
của triều đại nhà Lý về quân sự và chính trị. Như đã biết, vua Lý Thái Tổ xuất
thân từ chốn thiền môn nên hết lòng sùng mộ đạo Phật, và với sự hổ trợ của nhà
Sư Vạn Hạnh nên Lý Thái Tổ đã từ chốn Phật đài mà bước vào chính trị để cuối
cùng thu giang sơn về tay mình. Do lẽ đó, nên ngài đã đặc biệt ưu đãi và hết
lòng phù trợ cho Phật giáo đạt đến chỗ phát triển cao nhất và các vua kế nghiệp
vẫn tiếp tục việc tôn sùng Phật giáo. Vua Lý Thái Tổ đã xây gần hai mươi cảnh
chùa. và sai Nguyễn Đạo Thành sang Tống thỉnh Tam Tạng kinh điển vào năm 10l8.
Vua Lý Thái Tông đã cho lập chùa Diên Hựu (tức chùa Một Cột) với lối kiến trúc
đặc biệt mà hiện nay vẫn còn di tích ở tại Hà-nội. Lý Thánh Tông xây tháp
Bảo-thiên cao 12 tầng. Lý Nhân Tông đã cho xây trên một trăm cảnh chùa tại các
nơi danh lam thắng cảnh khắp nước.
"Nếu ở Trung-hoa, đời Đường là đời Phật giảo được
thịnh hành nhất, thì ở Việt-nam, đời Lý là đời Phật giáo được thạnh hành
nhất." (Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông, khoá V, trang 51).
Thêm vào đó, triều đình cũng đã thành lập một hệ thống
tăng già rộng lớn từ triều đình trung ương ở thành Thăng-Long đến các thôn xóm
nhằm mục đích hướng dẩn mọi tầng lớp quần chúng trong nhân dân, và nắm vững
nhân tâm. Song song với mặt này, triều đình cần phải sử dụng một lớp người trí
thức để giữ việc cai trị và phổ biến những văn thư và các hịch do triều đình
trung ương ban hành. Nhưng số trí thức lúc bấy giờ hiếm hoi, mà các nhà sư phần
lớn đều là những người thông thái và hiểu biết hơn cả, nên triều đình còn trưng
dụng các nhà sư vào các dịch vụ hành chánh và làm việc như các quan lại. Ngoài
công việc này, các nhà sư còn giữ một vai trò quan trọng trong việc giáo dục
quần chúng ở khắp mọi nơi trong nước. Do đó, "mỗi ngôi chùa vào thời
ấy là một nơi diễn dàn, một chốn học đường mà số người theo học không những là
thường dân mà là cả những công hầu khanh tướng. Mỗi chùa có thể gọi là một
trường đại học về tâm học. Ở đó có sự học hỏi nhất luật bình đẳng, không phân
biệt sang hèn, già trẻ. Học trò không quản công lao gian khổ, các bực danh thần
như Thái-uý Tô Hiến Thành và Thái-bảo Ngô Hoà Nghĩa cũng phải xin thụ giáo theo
lễ, học với thiền sư núi Cao-dã, trải qua mười năm học mới được gặp mặt thầy.
Người nào được thầy truyền cho tâm ấn mới là mãn nguyện". (Trần Thạc
Đức, Phật giáo Việt-nam và hướng đi nhân bản đích thực, Sài-gòn 1967,
trang 22-23).
Nói tóm lại, các vị cao tăng là tầng lớp trí thức quan
trọng trong buổi đầu của thời kỳ độc lập, và tầng lớp này đã gây nhiều uy thế
ảnh hưởng đến quần chúng trong xã hội Việt-Nam lúc bấy giờ về mọi phương diện
chính trị, kinh tế, văn hoá và trong phạm vi riêng biệt, chúng ta có thể nói là
Phật giáo đã ảnh hưởng đến pháp luật của nhà Lý rất nhiều. Nói cách khác, luật
pháp nhà Lý đã lấy đạo Phật làm nền tảng căn bản cho triết lý của bộ luật đương
thời. Ai cũng biết rằng sự ra đời của một bộ luật của một nước về nội dung cũng
như hình thức đều tuỳ thuộc vào chế độ chính trị đương thời của nước ấy. Sự tìm
hiểu pháp luật đời Lý sẽ giúp ta thấu triệt được lịch sử của thời đại ấy cũng
như mọi khía cạnh khác, là vì luật pháp là sản phẩm riêng của một thời đại và
do sự kết thành của những sự kiện lịch sử của dân tộc ta trong giai đoạn đó.
Sau đây chúng ta sẽ xét về nguồn gốc phát sinh luật triều
Lý, ảnh hưởng của triết lý Phật giảo đối với luật triều Lý và cuối cùng xét
hiệu quả của pháp luật triều Lý sau khi được đem ra áp dụng.
I. Nguồn gốc phát sinh bộ luật
triều Lý:
Duyệt qua các sử liệu còn lưu lại, chúng ta thấy những sử
liệu về luật pháp triều Lý rất thiếu thốn. Bộ luật triều Lý không còn lưu lại,
do đó chúng ta không thể tìm hiểu nội dung cũng như hình thức của bộ luật triều
Lý một cách trực tiếp được. Chúng ta chỉ có thể tìm hiểu nội dung cũng như hình
thức của bộ luật triều Lý một cách gián tiếp qua các quyển sách còn lưu lại sau
đây:
-Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú,
có lẽ được soạn vào khoảng năm 1821. Tác phẩm này cung cấp một nguồn tài liệu
rất dồi dào về vấn đề luật pháp của các triều dại.
- Việt sử lược của một tác giả khuyết danh dưới
đời Trần vào khoảng năm 1377. Đây là một tài liệu xưa nhất do người Việt-nam
biên soạn, và cung cấp rất nhiều tài liệu về luật pháp nhà Lý.
- An-nam chí lược của Lê Tắc được soạn ra dưới đời
Trần vào khoảng năm 1333. Tác phẩm này cũng đã cung cấp nhiều tài liệu về luật
pháp đời Lý.
- Đại Việt Sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên dựa
vào Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu. Bộ sách này được viết vào cuối thế kỷ thứ
15, có lẽ soạn ra vào năm 1474. Tác phẩm này cũng giúp cho ta nhiều tài liệu
đáng lưu ý về pháp luật đời Lý.
- Khâm-định Việt Sử Thông giám cương mục do cụ
Phan Thanh Giản làm chủ biên, soạn xong vào năm 1859. Đây là tác phẩm sử học do
các quan triều Nguyễn hợp soạn, cũng cung cấp cho chúng ta nhiều tài liệu để
biết về tinh thần pháp luật triều Lý.
Và trong một số tác phẩm mới viết về triều Lý, đặc biệt
đáng lưu ý là quyển Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn. Tác phẩm này đã được
xuất bản lần đầu tiên vào năm 1950 tại Hà-Nội và được tái bản lần thứ nhứt vào
năm 1967 do Đại học Vạn Hạnh ở Sài-gòn ấn hành với nhiều điểm bổ sung mới mẻ
của tác giả. Đây là một tác phẩm trình bày rất rõ ràng và đầy đủ về quá trình
lịch sử ngoại giao và tôn giáo của triều đại nhà Lý; đồng thời tác phẩm này
cũng cung cấp cho chúng ta nhiều tài liệu liên quan tới luật pháp triều Lý.
Ngoài ra, các quyển Dân luật khái luận và Cổ
luật Việt-Nam của giáo Sư Vũ Văn Mẫu hiện đang dùng làm tài liệu giáo khoa
cho sinh viên Đại học Luật khoa Sài-gòn (năm 1971) cũng đã ghi lại nhiều khảo
cứu có giá trị về luật pháp đời Lý.
Theo Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan
Huy Chú đã chép lại tại quyển số 33, thì nguyên nhân đã khiến cho vua Lý Thái Tông
ban hành quyển Hình thư vào năm 1042 như sau:
"Trước các cuộc cải cách quan trọng ở trong nước,
các vụ án gia tăng gấp bội, vì vậy các quan giữ việc xử kiện, đã áp dụng luật
một cách quá nghiêm khắc, nhiều khi đã trở nên bất công. Tình trạng ấy đã khiến
vua Lý Thái Tông phải động lòng trắc ẩn và ra lệnh cho viên quan Trung-thư san
định lại luật hình."
Như vậy, vua Lý Thái Tông ( 1028 - 1054) đã ra lệnh cho
viên quan Trung-thư san định bản Hình-thư bằng cách lấy những luật lệ cũ, châm
chước với những phong tục tập quán đương thời để qui định lại các hình phạt và
các cách điều tra phạm nhân. Ngoài ra, pháp luật bấy giờ còn định rõ những cấm
lệ về việc mua bán nô lệ, sự trừng phạt các tội ăn trộm, tội thông gian với vợ
của người khác, tội ăn trộm trâu bò, tội trộm của công. Cho đến đời Lý Thần
Tông (1128-1138), triều đình lại hai ba lần hạ những dụ qui định việc mua bán
và việc tranh tụng về điền thổ, những dụ này có thể nói là đã mở đầu cho nền
luật hộ của Việt-Nam về sau này.
Thêm vào đó, sử liệu cũng đã có ghi chép rằng: "Vua
Lý Thải Tông đã ban hành quyển Hình-thư vào năm 1042" (Phan Huy
Chú, Lịch triều Hiến chương loại Chí, 1821, quyển 33).
Qua những sử liệu trên, chúng ta nhận thấy rằng mặc dầu
quyển Hình-thư không còn lưu lại nữa, nhưng có thể quyết đoán rằng quyển
Hình-thư đã được vua Lý Thái Tông ban hành vào năm 1042, và có thể lấy đó làm
bộ luật căn bản cho luật pháp triều Lý.
Triều đại nhà Lý đã trị vì trên hai thế kỷ (1010 - 1225),
với thời gian cai trị lâu dài như vậy thì tất nhiên phải có một bộ luật để áp
dụng. Hơn nữa. lúc ấy văn hoá nước ta đã mở mang và hiện còn lưu lại nhiều bài
kệ và bài thơ của các vị thiền sư đời Lý, điều này chứng tỏ là lúc bấy giờ
chúng ta đã sử dụng Hán tự để ghi chép. Nói tóm lại, dưới triều đại nhà Lý, dân
tộc ta đã có một bộ luật thành văn và pháp luật triều Lý là pháp luật thành văn
đầu tiên của dân tộc ta vậy. Đó là một nền pháp luật đã được đem thi hành trên
khắp lãnh thổ nước Đại Việt lúc bấy giờ, có thể nói rằng bộ Hình-thư của vua Lý
Thái Tông là một điểm son quan trọng trong lịch sử pháp quyền tại nước Việt Nam
ta và bộ luật này chứng tỏ rằng bộ máy cai trị của triều đại nhà Lý đã có một
cơ cấu khá hoàn bị.
II.- Ảnh hưởng triết lý Phật giáo
trong pháp luật triều Lý:
Pháp luật thường lấy căn bản triết lý hoặc là pháp trị
hoặc là nhân trị.
Đối với quan niệm pháp trị thì các nhà làm luật
nghĩ rằng con người không có bản tính thiện và con người thường có lòng vị kỷ
và vị lợi nên thường gây ra những xáo trộn trong xã hội. Do đó, để giữ trật tự
trong xã hội, cần phải áp dụng luật pháp một cách nghiêm minh tức là phải đưa
ra những hình phạt cứng rắn để sửa sai các việc vi phạm. Quan niệm pháp trị cho
rằng càng nghiêm khắc và công minh thì những kẻ mưu toan phạm pháp sẽ sợ hãi và
không dám vi phạm. Do đó trật tự xã hội được ổn định và con người sẽ được hạnh
phúc.
Còn đối với quan niệm nhân trị, các nhà làm luật tin
tưởng rằng con người có một bản tính thiện vốn sẵn có. Do đó chỉ cần tu dưỡng
nhân cách và phát triển bản tính thiện ấy thì trật tự xã hội sẽ ổn định. Phái này
cho rằng luật pháp là điều thừa và chỉ cần lấy lễ, lấy đạo đức, lấy tình thương
để cảm hoá con người là đủ.
Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy cả hai quan niệm pháp trị
và nhân trị đều có nhiều khuyết điểm khi áp dụng vào trong thực tế của xã hội
con người. Chúng ta biết rằng pháp trị là một biện pháp rất cần thiết để tạo
lập một trật tự, nhưng nếu áp dụng quá nhiều biện pháp khắt khe và sử dụng
nhiều hình phạt cứng rắn thì nhiều khi con người không thể chịu đựng nổi mà đâm
ra trở thành những kẻ hung dữ, đó là những mầm mống đi đến chỗ sa đọa và gây ra
sự rối loạn trong xã hội. Phái nhân trị thì quá lý tưởng khi chú trọng vào lễ,
nhạc để cảm hoá và hướng dẫn con người, nhưng trong thực tế khi áp dụng chính
sách nhân trị cũng khó mà đưa đến kết quả tốt.
Có lẽ vì những khuyết điểm của quan niệm nhân trị và quan
niệm pháp trị đã nêu trên mà nhà cầm quyền triều Lý đã áp dụng một luật pháp
theo con đường chiết trung. Tức là khi thì nhân trị, khi thì pháp trị, tuỳ theo
trường hợp mà áp dụng. Khi áp dụng con đường chiết trung, luật
pháp nhà Lý đã chịu ảnh hưởng sâu xa của triết lý Bát-nhã của Phật giáo.
Triết lý Bát nhã đưa ra quan niệm về trung đạo với quá trình biện
chứng bát bất để phủ nhận tất cả mọi cực đoan và không chấp nhất vào
một quan điểm nào cả. Do đó, triết lý Bát-nhã đã đưa ra quan niệm "Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (Đừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào -
Kinh Kim Cang). Hơn nữa, việc áp dụng khi thì nhân trị, khi thì pháp trị tuỳ
theo trường hợp của luật pháp nhà Lý, đã cho chúng ta thấy rằng đó là đường lối
của Phật giáo trong quan niệm “Khế lý và Khế cơ” tức là phải tùy duyên mà
áp dụng, tuỳ theo mỗi hoàn cảnh mà áp dụng những giáo lý cho thích ứng. Việc
"thích ứng với hoàn cảnh" là một đặc điểm của pháp luật nhà Lý, vì nó
không chấp vào tội mà chỉ xét xử tội ấy trong một hoàn cảnh riêng biệt.
Tinh thần chiết trung của luật pháp nhà Lý có thể được
soi sáng qua hai vụ xử án như sau:
- Theo Khâm-định Việt sử Thông giám Cương
mục (được soạn dưới triều Nguyễn), chính biên. quyển ba, tờ II chép về luật
lệ thời Lý: "Theo luật lệ định trước: phàm các quan chức, hể ai bỏ trốn,
phạt 100 trượng, thích 50 chữ vào mặt và phải tội đồ. Quân lính đào ngũ mà cướp
của cã, đồ vật của người khác, phạt 100 trượng, thích 30 chữ vào mặt. Người giữ
trấn hay trại mà bỏ trốn cũng bắt tội như vậy. Quân lính bỏ trốn hơn một năm,
phạt 100 trượng, thích 50 chữ vào mặt. Người nào bỏ trốn không theo xa giá khi
vua đi chơi, phạt 100 trượng, thích 10 chữ vào mặt.
Nay định rõ lại điều lệ cấm: quân lính nào bỏ trốn thì
khép vào một tội trong ba hạng tội lưu. Kẻ coi ngựa không được sai khiến làm
việc cho mình, nếu kẻ nào vi phạm, phạt 80 trượng và bắt đi phối dịch."
Đoạn văn trên cho thấy rõ tinh thần pháp trị trong pháp
luật triều Lý.
- Theo Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ
Liên, quyển 2 chép: "Năm 1038. Lý Thái Tông thân chinh đi đánh giặc và bắt
được Tồn Phúc cùng con trưởng là Trí Thông, một đứa con thứ là Trí Cao trốn
thoát. Sau khi đem bọn Tồn Phúc về Thăng Long, có xuống chiếu cho rằng họ Nùng
phản quốc nên ra lệnh xử tử.
Đến năm 1041, Nùng Trí Cao trở về chiếm lại đất cũ, đổi
tên nước là Đại Lịch, Lý Thái Tông lại thân chinh đi đánh giặc một lần nữa và
bắt được Nùng Trí Cao. Nhưng lần này nhà vua lại khoan hồng cho tên phản
nghịch, và nói rằng thương tình vì cha là Tôn Phúc và anh là Trí Thông đều bị
giết mà tha tội, cho giữ Châu Nguyên như cũ, lại phụ thêm cho 4 động Lôi-hoả,
Bình-an, Bà châu và Tư-lang nữa."
Đoạn Văn trên cho thấy rõ tinh thần nhân trị trong luật
pháp triều Lý.
Đó cũng là đặc điểm của dân tộc ta là "bên
ngoài là lý, bên trong là tình", lý và tình phải đi đôi với nhau thì việc
áp dụng luật pháp mới không gây ra sự bất công quá đáng.
Thật vậy, theo kinh nghiệm thì có nhiều vụ án thật là tế
nhị, nếu chỉ căn cứ hoàn toàn vào các bộ luật hiện hành để áp dụng và tuyên án
thì thấy tội nhân sẽ gánh chịu những hình phạt e răng quá nghiêm khắc. Do đó
cần phải chọn con đường chiết trung của đạo Phật, tức là ngoài việc căn cứ vào
pháp luật hiện hành, còn nên lấy tình thương để quyết định việc tuyên án tội
nhân.
Ngoài việc chịu ảnh hưởng tinh thần trung đạo của Phật
giáo, luật pháp nhà Lý còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật ở các khía cạnh
khác như sau:
Đạo Phật quan niệm phải lấy đức từ bi làm triết
lý hành động trong đời sống đạo đức. Từ bi là một tình thương bao la không phân
biệt giai cấp trong xã hội, người theo đạo Phật cần phải thương xót tất cả mọi
người khi họ gặp cơn hoạn nạn. Chính lòng từ bi đã giúp cho ta cảm thương được
những người đang gặp khốn khổ, và do đó, ta sẽ tìm cách giúp đỡ họ. Các vị
Bồ-tát trong Phật giáo cũng đều vì lòng từ bi mà chấp nhận một hạnh nguyện
là đi vào cuộc đời lầm than để cứu độ chúng sinh. Do chỗ thấm nhuần
tinh thần của đạo Phật về đức hạnh từ bi, nên ta thấy ngay trong việc ban hành
bộ Hình-thư, vua Lý Thái Tông đã biểu lộ rõ rệt lòng từ bi của mình đối với
phạm nhân, khi thấy nhiều người có thể bị tội oan và phải nhận lãnh những hình
phạt nặng nề nên ngài mới sai viên Trung-thư (quan Trung-thư, theo chế độ nhà
Tống, là người chuyên dự thảo những kế hoạch để tâu lên vua về mọi việc cải
cách, mọi việc tuyển bổ quan lại, và vận truyền các mệnh lệnh) biên soạn quyển
Hình-thư. Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư thì: "Trước kia, trong việc
kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ hình câu nệ luật văn, cốt làm khắc nghiệt, thậm
chí oan uổng. Vua lấy làm thương xót, sai viên Trung-Thư san định luật lệ châm
chước cho thích dụng với thời bấy giờ, chia ra môn loại, biên ra điều khoản,
làm sách hình luật của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu."
Trang 8/13
Đại Việt sử ký toàn thư đã cho chúng ta biết rõ rằng
sở dĩ Hình thư được ban ra chỉ vì hình luật lúc bấy giờ không được thống nhất;
do đó đã đưa đến nhiều hình phạt khắc nghiệt mà hậu quả là các tội nhân phải
gánh chịu. Nhà vua cũng rất thương tội nhân, vì họ chỉ là nhũng người lầm lỡ mà
phạm tội, chớ đâu có phải hầu hết tội nhân đều muốn gây ra tội ác để gánh chịu
hình phạt và ngục tù đâu. Do đó việc ban hành Hình thư là một biện pháp thích
nghi để chỉnh đốn lại những hình phạt xử bất công mà nhân dân nước ta lúc bấy
giờ phải gánh chịu và hành động này có thể quả quyết là xuất phát từ lòng từ bi
mà Đức Phật đã dạy bảo cho hàng Phật tử chúng ta tuân theo vậy.
Lòng từ bi còn được thấy rõ khi vua Lý Thánh Tông cảm
thương cho các tội nhân phải chịu cảnh lạnh lẽo và đói khát nơi nhà giam, nên
ngài đã truyền lệnh cung cấp đủ thực phẩm và chiếu mền cho họ. Tình thương này
quả rất rộng lớn không còn bị ngăn cách bởi một biên giới nào nữa cả. Cũng
theo Đại Việt sử ký toàn thư: "Mùa đông năm Ất Mùi (1055), trời giá
lạnh khủng khiếp, Lý Thánh Tông phán với các vị quan lại rằng: Ta ở trong cung
kín, sưởi lò than, khoác áo lông mà còn rét run như thế này, ta nghĩ đến tù
nhân bị nhốt trong lao chịu đói lạnh khổ sở, chưa biết phải trái ra làm sao. Ăn
không đầy bụng, mặc không đủ che thân, vì gió rét nên có kẻ chết không nơi
nương tựa. Ta thật lấy làm thương. Rồi vua truyền lấy chiếu cho tù nhân và cho
mỗi ngày hai bữa ăn."
Thật là một hành động hiếm có đối với các bậc vua chúa
dưới thời đại quân chủ chuyên chế. Chúng ta thấy sống trong cung kín, nhà vua
được hưởng biết bao nhiêu là tiện nghi dồi dào, nào là ăn những món cao lương
mỹ vị, nào là có cung phi mỹ nữ, nào là có kẻ hầu người hạ. Nhưng nhà vua vẫn
luôn luôn nghĩ đến hàng thứ dân, nghĩ đến đời sống của người dân coi có được
sung túc không? Và ngay cả những tội nhân là kẻ đã gây ra xáo trộn trong xã hội
mà vẫn được nhà vua thương xót và lo lắng cả đến việc ăn mặc nữa. Như vậy, vua
nhà Lý đã đi sát với đời sống của nhân dân để tìm hiểu đời sống của họ và lo
lắng cho họ.
Do chỗ thương xót các tội nhân, nên vua Lý Thánh Tông đã
áp dụng nhiều biện pháp khoan hồng, vì ngài nghĩ rằng những kẻ phạm tội phần
lớn là vì không hiểu rõ luật lệ nên họ mới phạm pháp. "Năm 1064, vua Lý
Thánh Tông ra ngự ở điện Thiên Khánh xét án, có Đông Thiên công chúa đứng hầu
bên cạnh; Thánh Tông chỉ vào con gái yêu mà nói với các quan rằng: Ta yêu con
ta, như là cha mẹ dân yêu dân; vì dân không hiểu luật lệ nên mới bắt tội, ta
lấy làm thương. Vậy từ rày về sau không kể tội nặng hay nhẹ, các người phải xử
một cách khoan hồng cả." ( Đại Việt sử ký toàn thư). Nhận xét của vua
Lý quả thật là xác dáng. Trong thực tế, có nhiều vụ án mà phần lớn tội nhân khi
ra trước vành móng ngựa đã hối tiếc vì mình không hiểu biết luật lệ nên mới
phạm pháp.
Ngoài việc khoan hồng trong lúc xử án, nhà vua còn áp dụng
các biện pháp đại xá và ân xá tội nhân trong các dịp khánh thành một ngôi chùa,
một đền đài. Như năm 1010, cung Thúy Hoa làm lễ xong, xá thuế ba năm cho cả
nước, những loại thuế thiếu năm trước đều được xoá bỏ, những tù binh người Mán
bắt từ năm Cảnh Thuỵ (1008 - 1009) đều được phát quần áo và tha cho về quê
quán. Trong nhiều trường hợp gặp thiên tai, nhà vua cũng ra lệnh cho ân xá tội
nhân. Có năm, xảy ra những hiện tượng thiên nhiên lạ lùng như có sự xuất hiện
của những vì sao lạ, nhà vua cũng coi đó là một duyên cớ để ân xá tội nhân.
Thậm chí, nhiều khi nhà vua hạ lệnh xá tội một cách rộng rãi, ví dụ như trường
hợp năm 1128, những tội nhân ở Đô hộ phủ đều được tha, lại xá tội cho cả 130
người bị biếm truất.
Sự khoan hồng còn được áp dụng đến mức triệt để khi nhà
vua tha tội cho những kẻ nổi loạn để lật đổ vương triều nhà Lý. Đó là hành động
xoá bỏ hận thù để thực thi chính sách "hoà giải" ngõ hầu cảm hoá được
kẻ thù. Đây là một thái độ chính trị rất thích hợp trong hoàn cảnh lịch sử thời
bấy giờ, vua Thái Tông đã tha tội chết cho Nùng Trí Cao là tên giặc đã âm mưu
lật đổ vương triều nhà Lý (đã dẩn ở trên): "Đến năm 1041, Nùng Trí Cao …
và Tư Lang nữa”.
Đối với tên tội phạm là Nùng Trí Cao đáng lẽ ra phải chịu
hình phạt tử hình mà nhà vua lại tha tội chết, lại còn phong tước, ban ấn tín
và cho thêm vài châu quận nữa, quả là một hành động "hoà giải" tuyệt
mức vậy.
Ngoài ra, chúng ta nhận thấy nhà Lý còn tiết giảm các
hình phạt xử tử có lẽ để thực thi giới cấm sát sanh trong ngũ giới cấm. Sát
sanh là một trong điều mà đạo Phật ngăn cấm. Do ảnh hưởng này mà chúng ta thấy
có nhiều vụ án đáng xử tử như vụ án vừa dẫn trên, hoặc những tội sát nhân lại
được giảm xuống còn phạt trăm trượng, thích 50 chữ và phải tội.
Nhà Vua còn ấn định việc cho chuộc tội bằng tiền, chỉ trừ
tội thập ác thì không được chuộc. Tội thập ác được qui định trong luật của đời
Đường bên Tàu mà triều Lý đã dựa theo đó, gồm có mười tội ác như sau:
1. Mưu phản: Lật đổ nền cai trị của vua đương thời.
2. Mưu đại nghịch: Phá đền đài, lăng tẩm, cung điện
của nhà vua.
3. Mưu bạn: Phục vụ cho nước địch, làm gián điệp
(trong tiếng Hán Việt, bạn có nghĩa là phản quốc đi phục vụ cho nước địch).
4. Ác nghịch: Đánh hay giết Ông, Bà, Cha, Mẹ, Tôn thuộc.
5. Bất đạo: Vô cớ giết ba người cùng nhà.
6. Đại bất kính: Lấy trộm đồ tế lễ trong lăng tẩm,
làm giả ấn vua.
7. Bất hiếu: Tố cáo hay chửi rủa Ông, Bà, Cha, Mẹ
hoặc Ông, Bà, Cha, Mẹ chồng, không phụng dưỡng cha mẹ, tự ý bỏ nhà phân chia
tài sản, cưới xin khi có tang Cha Mẹ, vui chơi trang sức trong khi tang chế,
được tin Ông Bà và Cha Mẹ chết không chịu tang hoặc Ông, Bà, Cha, Mẹ còn sống
mà nói dối là chết.
8. Bất mục: Mưu giết hay bán các thân thuộc, đánh
hoặc cáo giác chồng, hay các tôn thuộc.
9. Bất nghĩa: Giết trưởng cơ quan của mình, giết
quan lại tại chức, hoặc thầy dạy học, không để tang chồng, vui chơi bỏ tang
phục để lấy chồng khác.
10. Nội loạn: Thông dâm với người trong họ phải để
tang từ bực thứ tư trở lên, thông dâm với các vợ bé của Cha hay của Ông, và cả
người đàn bà bằng lòng tư thông cũng bị tội.
Trong Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, chính
biên, quyển 3 tờ b, đã ghi lại việc khoan hồng đã kể trên như sau: "Phàm
nhân đản, người từ 70 tuổi trở lên, người có nhược tật (bệnh hoạn) và người có
họ thân với nhà vua phải để tang nhau từ chín tháng trở lên, nếu phạm tội đều
được cho chuộc tội, chỉ trừ người nào phạm vào tội thập ác thì không tha."
Đạo Phật đã ảnh hưởng trong pháp luật không những về lòng
từ bi, lòng khoan dung mà còn ảnh hưởng về cách đối xử với phạm nhân nữa. Đạo
Phật rất tôn trọng giá trị của con người và vì giới cấm nói dối cũng được giữ
gìn, nên không bao giờ dám kết tội ai một điều gì khi chưa nắm đủ yếu tố buộc
tội; và do chỗ đó nên phải đối xử tử tế với người không có tội. Bởi vậy nên vua
Lý Thánh Tông mới xét thấy cảnh khổ của các tù nhân đang bị giam cầm khổ cực
trong khi tội vạ chưa xét rõ, và truyền đối đãi với họ rất tử tế: "Mùa
Đông năm Ất Mùi (1055) ...... .. mỗi ngày hai bữa ăn." (đã dẩn ở trên).
Quan niệm về cách đối xử tử tế với người đang bị giam cầm
mà chưa định tội lỗi bằng một phiên xử công khai đã cho ta thấy pháp luật triều
Lý tôn trọng nhân quyền, đây có thể nói là bước đầu tiên công nhận nhân
quyền trong lịch sử nước ta vậy. Quan niệm tôn trọng nhân quyền đã được Bản
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền công nhận và đã ghi: "Phàm ai bị cáo về một
tội phạm gì đều được đoán coi như là vô tội, cho đến khi tội trạng ấy được
chứng minh rõ rệt trang một vụ xử công khai có đủ hết đảm bảo cho bị cáo
về quyền bào chữa." Quan niệm tôn trọng nhân quyền là một đặc điểm
mới mẻ trong pháp luật hiện đại, như vậy chúng ta nhận thấy pháp luật triều Lý
đã vượt qua thời đại, đó quả là một đặc điểm đáng lưu ý trong pháp luật nhà Lý.
Có thể nói rằng do ảnh hưởng của triết lý Phật giáo về việc tôn trọng nhân phẩm
của con người vậy.
Ảnh hưởng Phật giáo còn thấy rõ trong việc áp dụng quan
niệm "Sám hối" vào chính sách hình sự để xử tội phạm nhận. Sám
hối là quan niệm cho rằng một người khi đã phạm phải một lỗi lầm thì có thể ăn
năn và cố gắng tìm cách chuộc tội với ước nguyện sẽ không tái phạm nữa. Chính
sự hối cải sẽ giúp họ trở về đường ngay nẻo chánh và khiến họ có thể giúp được
xã hội gây lại một trật tự ổn cố hơn. Do quan niệm về sám hối, chính sách hình
sự của pháp luật triều Lý đã áp dụng chính sách cải hoá tội nhân, chính sách
này được thể hiện một cách rõ ràng nhất qua chỉ thị của vua Lý Thánh Tông về
việc xử các tội nhân một cách khoan hồng không kể nặng hay nhẹ: "Năm 1064,
..... .. một cách khoan hồng cả." (đã dẫn ở trên)
Chính sách cải hoá tội nhân là một chính sách mới phát
triển ở Âu Mỹ vào thời cận kim. Theo quan niệm của chính sách này thì các phạm
nhân được coi như là một nạn nhân của xã hội. Do đó, đối với các phạm nhân, nhà
cầm quyền không nên dùng những hình phạt quá nghiêm khắc như thể loại họ ra
khỏi xã hội, nhà cầm quyền cần phải xét xử các phạm nhân như là một bệnh nhân
cần phải được chữa trị, vì vậy, các sự trừng phạt phải được cân nhấc và ấn định
một cách hợp lý và nhân đạo để giúp họ sám hối và hối cải tội lỗi.
III.- Hiệu quả của pháp luật triều
Lý:
Nói tóm lại, pháp luật triều Lý đã chịu ảnh hưởng của
Phật giáo rất nhiều, nhất là ở các điểm khoan hồng và nhân đạo đối với phạm
nhân. So sánh với các nền pháp luật trong thời đại đó, chúng ta thấy các nước
phong kiến khác đều áp dụng những hình phạt rất nặng nề và ác nghiệt, nhất là
đối với tội phản nghịch chống chế độ của vương quyền đương thời. Trong khi nền
pháp luật triều Lý đã áp dụng một nền pháp luật nhuốm đượm một tinh thần rộng
rãi và khoan dung. Đó là do sự ảnh hưởng lòng từ bi của đạo Phật, vì như chúng
ta đã biết dưới thời Lý, Phật giáo được tôn sùng và ảnh hưởng sâu đậm vào các
tầng lớp vua chúa, quí tộc cũng như trong dân chúng. Nhất là trong dân
gian, Phật giáo có ảnh hưởng rất tốt, các hành động phi pháp được giảm
bớt, hành vi tàn bạo ít dần, là do những quan niệm từ bi hỉ xả, và những hành
động ăn năn, sám hối tội lỗi vẫn được thực hành luôn luôn trong đời sống
hàng ngày. Do vậy, nên qua các triều đại Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông là những
triều đại thịnh trị nhất, mà bằng chứng cụ thể là năm 1054, Lý Thánh Tông đã
xuống chiếu đốt bỏ các hình cụ trừng phạt nhân dân, đó là biểu trưng cho một sự
ổn định quốc gia mà luật pháp đã giữ một vai trò quan trọng vậy.
Nhờ áp dụng chính sách khoan dung trong pháp luật, nên
triều đại nhà Lý đã thu phục được nhân tâm. Thật vậy, trong nhân dân ai ai cũng
hướng về Lý triều với lòng khâm phục về chính sách cai trị dân, nên triều Lý đã
kéo dài trên hai thế kỷ (1010 - 1225) và trong suốt hai thế kỷ đó đế nghiệp nhà
Lý rất vững vàng, nhân dân sống trong cảnh ấm no và an lạc. Do đó, nên khi thời
cuộc đổi thay, nhà Trần chiếm ngôi vua của họ Lý vào năm 1225 dưới thời Lý
Chiêu Hoàng, triều Lý đã đi vào lịch sử, mà trong quần chúng nhân dân vẫn còn
lưu luyến tiền triều; trong dân gian, người dân đã diễn tả tâm trạng lưu
luyến ấy qua hai câu ca dao sau đây:
"Trống chùa ai đánh thùng
thùng,
Của chung ai khéo vẫy vùng nên
riêng."
(Ca dao)
KẾT LUẬN:
Qua việc tìm hiểu pháp luật triều Lý, chúng ta đã thấy
được một quá khứ vinh quang của dân tộc trong suốt thời đại nhà Lý. Triều đại
nhà Lý đã cho chúng ta thấy rõ một sinh lực dồi dào của truyền thống dân tộc là
sẵn sàng hy sinh để chống lại sự xâm lăng và âm mưu thôn tính đất nước Việt Nam
của ngoại bang.
Tinh thần chống ngoại xâm được biểu lộ rõ rệt trong việc
Lý Thường Kiệt đem quân đánh ba châu Khâm, Liêm, Ung của Trung hoa mà dân
chúng Việt Nam đã khen tặng qua hai câu ca dao sau đây:
"Đem chuông đi đánh xứ người,
Chẳng kêu cũng đánh vài hồi lấy
danh.”
(Ca dao)
*
Saì Gòn, tháng Giêng.1971.
NGUYỄN VĨNH THƯỢNG
Địa chỉ: định cư tại tỉnh Alberta, Canada.
......................................................................................................
- Cập nhật từ email: quanboyman1992@yahoo.com.vn
ngày 23.10.2020
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét