NGUYỄN
DU,
TRĂM NĂM TRONG CÕI NGƯỜI
TA…
*
Với những chỉ dấu mang tính đặc trưng, tác phẩm “Nguyễn
Du” của Nguyễn Thế Quang có thể xếp vào loại hình tiểu thuyết sử thi.
Vì là sử thi nên tác giả có tham vọng muốn bao quát một giai đoạn lịch sử
khoảng hai mươi năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ lịch sử
dân tộc Việt đầy biến động với những cuộc xung đột đẫm máu giữa hai tập đoàn
phong kiến Tây Sơn và Nguyễn Ánh sau khi vương triều Lê Trịnh đã cáo chung.
Trên cơ sở ấy, tác giả chọn một lát cắt mang tính điển hình làm nền tảng cho
quá trình triển khai nội dung cuốn sách. (Tác giả Đặng Văn Sinh)
Tuy nhiên, nội hàm “Nguyễn Du” thực ra không chỉ giới hạn
trong phạm vi lát cắt. Cấu trúc tổng thể chỉ là phần cứng, còn trong quá trình
diễn giải, tác giả lại khá linh động qua các thủ pháp hồi cố, nhằm kéo dài thời
gian về trục quá khứ tạo nên những trường đoạn bổ sung cho các sự kiện đang
diễn ra ở thời hiện tại. Các sự kiện lịch sử này bao giờ cũng song hành với cuộc
đời nhân vật chính Nguyễn Du.
Hệ thống nhân vật của “Nguyễn Du” rất đông đảo, kể có đến
vài chục, nhưng, thực chất, nhân vật chính chỉ có hai, là Nguyễn Ánh và Nguyễn
Du. Nguyễn Ánh, sau khi lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, một hoàng đế Việt Nam
thời cận đại, được tái hiện như một bản sao nhòe nhoẹt của vương triều phong
kiến Mãn Thanh, tuy tính cách quyết đoán, nhưng đa nghi, tàn bạo và xem ra
không phải là vị quân chủ có tài kinh bang tế thế. Còn Nguyễn Du, tuy giữ chức
tham tri bộ Lễ của vương triều Nguyễn Gia Miêu nhưng vốn là cựu thần nhà Lê,
nên trong tâm khảm lúc nào cũng hoài niệm về một thời vàng son đã thuộc về quá
vãng.
Có một điều buộc ta phải thừa nhận, hoàng đế Gia Long và
thi sĩ Nguyễn Du đều là những nhân vật lịch sử đặc biệt, nhưng người đời sau
chỉ biết họ qua những điều sử quan ghi chép khái quát trong nhật lịch. Giống
như tảng băng chìm trên đại dương mênh mông, phần ngập sâu dưới nước đã giấu đi
những điều khuất khúc, những bí mật mang tầm cỡ quốc gia, cho đến nay vẫn là ẩn
số không lời giải. Cả hai đều là những nhân vật lớn của thời đại, nhưng do đặc
thù văn hóa, lịch sử, nên sau này, hậu thế rất khó tái hiện chân dung một cách
chính xác. Chưa nói đến ở nơi sâu thẳm tâm hồn, mà ngay cả những nét khái quát
về thân thế, sự nghiệp được chính sử ghi lại vẫn còn những chỗ mờ nhòe, mà ánh
sáng lịch sử, cho dù soi rọi từ góc nào cũng không hiển lộ đúng với bản chất
của nó.
May thay, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, có
một người cầm bút tự nhận sứ mệnh giải mã hiện tượng này. Nói vậy, có nghĩa là,
trước Nguyễn Thế Quang đã có những người viết về Gia Long và Nguyễn Du nhưng
chỉ là loại hình biên khảo hay mẩu chuyện, trong đó tác giả chủ yếu cung cấp
các dữ liệu, các chi tiết về đời tư được rút tỉa từ dân gian như một thứ “dật
sự” nửa hư nửa thực. Trong khi ấy, chính sử như “Khâm định Việt sử thông giám
cương mục”, “Đại Nam liệt truyện”, “Đại
Nam thực lục” (tiền biên và chính biên) có tới 587 quyển, nhưng những
phần chép về Gia Long đều không một chút tì vết. Có thể nói, Nguyễn Thế Quang
đã làm cuộc viễn du tìm về quá khứ, lặng lẽ, cô đơn trên một hoang mạc mênh
mông dưới ánh nằng hè thiêu đốt, tìm trong hằng hà sa cát bỏng câu trả lời Gia
Long và Nguyễn Du là ai?
Cũng như với Gia Long, những tác phẩm viết về Nguyễn Du,
người đời đều biết cả, ngay cả câu đối vua Minh Mệnh viết tặng sau khi ông qua
đời cũng chỉ khắc họa chân dung nhà thơ ở phần nổi:
一代才花為使為卿生不忝
百年事業在家在國死猶榮
(Nhất đại tài hoa, vi sứ vi khanh, sinh bất thiểm
Bách niên sự nghiệp, tại gia tại quốc, tử do vinh).
Giải mã Gia Long, Nguyễn Du cũng chính là giải mã lịch
sử. Tuy chỉ là một lát cắt nhưng Nguyễn Thế Quang đã chọn một lát cắt điển
hình, sinh động, phong phú, hầu như bao quát được cả một giai đoạn lịch sử bi
tráng của Việt nam thời kỳ trung đại.
Gia Long và Nguyễn Du, với Nguyễn Thế Quang, luôn là một
cặp song hành, cùng đi vào lịch sử với vô vàn nghịch lý. Nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp coi Gia Long và Nguyễn Du đều là những “vật quốc bảo” nhưng Nguyễn nhẹ
đồng cân hơn, vì Nguyễn chỉ là thần tử, còn Gia Long đóng vai quân chủ. Gia
Long vĩ đại ở chỗ ông thao túng lịch sử, xem lịch sử như một tấn bi hài kịch và
ông đóng vai kép nhất trong trò chơi đế vương. Ông đùa cợt với số phận, đem cả
dân tộc đặt cược cho ván bài chính trị của mình. Gia Long tàn bạo, cười cợt với
số phận nhưng, xét đến cùng là bởi ông có chân mệnh đế vương. Nguyễn Thế Quang
còn cụ thể và chi tiết hơn. Ngoại trừ sự vô cảm và tàn nhẫn, Gia Long còn là
một hoàng đế có tâm hồn nghệ sĩ. Không ai có thể ngờ Gia Long rất sành chữ Nôm
và say mê “Đoạn trường tân thanh” đến mức cho mời Nguyễn Du vào vườn ngự
uyển. Chuyện có thể là thật nhưng cũng có thể là hư cấu, nhưng là sự cấu trong
một tổng thể “chân thực thẩm mỹ”. Ở đây, tiểu thuyết đặt ra một tình huống mà
chính Nguyễn, tác giả của câu thơ “Chọc
trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” lạnh sống lưng,
tưởng như, chỉ trong khoảnh khắc, sẽ phải đi gặp Đặng Trần Thường hay Nguyễn
văn Thành dưới âm tào địa phủ. Trường đoạn Nguyễn Ánh thích “Kiều”, ưu ái
Nguyễn, cùng Nguyễn đàm đạo văn chương chứng tỏ, vị thế tổ triều Nguyễn có một
tầm văn hóa đáng nể, chí ít đủ để “chăn dắt” đám văn nghệ sĩ đương thời chỉ giả
vờ thần phục, còn trong thâm tâm họ vốn chẳng ưa gì. Mọi sự so sánh đều khập
khiễng, nhưng xét về bản chất, cả Nguyễn Ánh và Nguyễn Du đều có mối liên hệ
nội tại nào đó trong tấn trò đời mà họ buộc phải sắm vai. Cái tinh tế trong
cách dẫn giải câu chuyện của Nguyễn Thế Quang là nương theo lịch sử nhưng không
phụ thuộc vào lịch sử khi đặt các nhân vật trong mối tương quan với lịch sử.
Không ít lần tác giả phản biện lịch sử, kéo nhân vật Gia Long được suy tôn như
thần thánh trở lại làm người thường. Chi tiết Gia Long khóc Nguyễn Văn Thành
ngay trước bá quan văn võ, cho dù là đóng kịch đi chăng nữa thì nó vẫn có giá
trị như một sự sáng tạo của người viết tiểu thuyết lịch sử.
Trong lịch sử văn học Việt Nam cận đại và hiện đại, hai
nhân vật lịch sử Nguyễn Ánh và Nguyễn Du thuộc đẳng cấp cao vốn được người đời
kính trọng, thậm chí sợ hãi nên hầu như các nhà văn, kể cả những tay đại bút
đều lấy lời dạy “kính nhi viễn chi” của Khổng phu tử làm phương châm hành xử.
Nguyễn Thế Quang lại khác. Ông không sợ, trái lại, chủ động tiếp cận họ bằng sự
mạo hiểm có tính toán của một người cầm bút biết lượng sức mình. Và cũng lần
đầu tiên, tác giả tái hiện hình tượng nhân vật lịch sử tầm cỡ nhưng đã gặt hái
được những thành công. Giải mã Gia Long và Nguyễn Du, trước hết phải làm chủ
được ngòi bút của mình, mặt khác phải am hiểu cả những sự kiện không ghi trong
chính sử, phải luôn có tâm thế phản biện. Tôn trọng các sử gia của Quốc sử quán
triều Nguyễn là một chuyện, nhưng nhất nhất tin vào những điều họ ghi chép lại là
chuyện khác. Đó là chưa kể, viết được “Nguyễn Du”, Nguyễn Thế Quang phải
sưu tầm và đọc hàng đống sách với đủ các loại hình từ lịch sử, biên khảo,
truyện ký, tiểu thuyết đến các giai thoại dân gian. Đó là chưa kể ông còn dành
nhiều thời gian điền dã từ cố đô Huế đến trấn thành Gia Định phương nam xa xôi
rồi lại ngược về Thăng Long, Kinh Bắc, Thái Bình tìm dấu vết người xưa… Chính
bởi sự bền bỉ, khổ công trong nhiều năm như vậy, chân dung Nguyễn Ánh và Nguyễn
Du mới hiện lên với đủ các sắc thái, đầy mâu thuẫn những cũng rất sinh động như
nó vốn có.
Tính sử thi trong “Nguyễn Du” không chỉ được thể hiện ở
hệ thống nhân vật, bố cục mạch truyện, hay ngôn ngữ diễn đạt, mà tác giả còn
khá vững tay nghề trong những đoạn hồi tưởng, độc thoại và đối thoại tư tưởng.
Trong tác phẩm, xuyên suốt năm phần, mỗi phần lại chia thành nhiều chương nhỏ,
những màn độc thoại thường được chèn vào như một cách mở rộng không gian nghệ
thuật, tạo nên sự căng thẳng, mệt mỏi của một cộng đồng dân tộc lạc hậu, bế
tắc, đói nghèo dưới sự cai trị của ông vua độc tài lúc nào cũng lấy các điển
chế Trung Hoa làm khuôn mẫu.
Xã hội phong kiến mà Nguyễn Du tuy bất đắc chí nhưng vẫn
phải làm quan là một xã hội đầy mâu thuẫn, nhiều nghịch lý, vì thế, mỗi cá nhân
đều buộc phải đóng tròn vai kịch của mình nếu không muốn sớm “quy tiên”. Nghịch
lý và mâu thuẫn nhất ở đây chính là các hoàng đế Việt Nam luôn coi Trung Quốc
là khuôn mẫu lý tưởng, từ đó sao chép một cách cách mù quáng cả những phần độc
hại, cặn bã mà chính người Hán hay người Mãn đã chủ động loại bỏ. Vương triều
nhà Nguyễn bắt trước Bắc Kinh từ cách đặt niên hiệu. Thanh Hoằng Lịch thì Càn
Long (乾隆),còn Nguyễn Phúc Ánh thì Gia Long (嘉隆).Bắc quốc có chín đỉnh tượng
trưng cho chín châu từ thời cổ đại, Nam bang cũng thu gom đồng làm chín đỉnh nhưng
chẳng biểu tượng cho cái gì cụ thể ngoài việc điêu khắc phong cảnh bày trong
Đại Nội.
Nhưng Nguyễn Du thì khác. Một mặt, Nguyễn là sản phẩm của nền văn hóa Trung
Hoa, trong đầu chứa đầy điển tích, nhưng mặt khác, ông luôn tìm cách thoát khỏi
nó, mà cách thoát ngoạn mục nhất là viết “Đoạn trường tân thanh” từ một cuốn
sách chữ Hán vốn chẳng có gì nổi tiếng. Có thể thấy, qua văn bản “Truyện
Kiều”, bạn đọc rất dễ nhận ra, các cặp phạm trù “Tài mệnh tương đố”,
“Chữ tình – chữ hiếu”, “Tu là cõi phúc –
tình là dây oan” hay tuyên ngôn nổi tiếng qua lời Từ Hải “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào
biết trên đầu có ai”, đều chỉ ra, cái thiết chế văn hóa, giá trị đạo đức
đang khủng hoảng nghiêm trọng. Nó không bền vững mà cần phải xác lập lại trên
nền tảng một hệ giá trị mới. Với “Truyện Kiều”, Gia Long có những nhận
xét tinh tế. Tư tưởng Nguyễn Du không phải lúc nào cũng chịu sự chi phối (ràng
buộc) của Tứ thư, Ngũ kinh mà luôn có xu hướng vượt qua thời đại mình. Phải
chăng đó chính là nguyên nhân khiến Nguyễn cô đơn. Đây là sự cô đơn về tư
tưởng, không phải cô đơn tâm lý. Ở một khía cạnh nào đó, Gia Long cũng cô đơn,
nhưng là sự cô đơn của một hoàng đế đứng trên đỉnh cao quyền lực. Ông đóng trò
trong chốn triều đường, đóng trò cả trong hậu cung giống như một nhân thần
giáng thế, lúc nào cũng lo lắng, sợ hãi bị người khác soán ngôi. Nỗi cô đơn của
Nguyễn Ánh, qua ngòi bút Nguyễn Thế Quang, chúng ta không khó nhận ra, hoàn
toàn là cô đơn tâm lý.
Hơn thế nữa, hình tượng Nguyễn Ánh được Nguyễn Thế Quang
tái hiện khác xa chính sử. Các sử quan đương thời không dám ghi chép những góc
khuất trong hành trạng Gia Long. Theo Nguyễn Du, hoàng đế cũng là một con
người, cũng có tình cảm ái, ố, hỷ, nộ, đồng thời cũng mắc những sai lầm, thậm
chí sai lầm chiến lược. Nếu xâu chuỗi tất cả những đoạn độc thoại hay đối thoại
tư tưởng của Nguyễn, ta sẽ nhận thấy, Gia Long, thực tế không hoàn toàn là một
vị hoàng đế anh minh nhưng lại có thừa thói kiêu ngạo, đa nghi và hiếu sát. Gia
Long là một kẻ gian hùng, tâm cơ tàn nhẫn, sẵn sàng hy sinh một vài khai quốc
công thần như Nguyễn Văn Thành, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định, Vũ Trinh…, để đổi
lấy sự trung thành tuyệt đối của đám võ quan, bởi bọn này nắm quân đội trong
tay, sẵn sàng “cứu giá” khi triều đình có biến.
Suy nghĩ của Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Du đôi khi “chúng
khẩu đồng từ”. Lịch sử vận hành theo quy luật thời gian tuyến tính và không có
“nếu”. Tuy vậy, nếu bàn cờ thế sự cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, tương quan
lực lượng khác đi, Nguyễn Huệ không đột ngột qua đời, liệu Nguyễn Ánh có thâu
tóm được giang sơn? Công bằng mà nói, khi vua Quang Trung còn tại thế, Nguyễn
Ánh bị Tây Sơn truy đuổi ráo riết, mấy lần xuýt bỏ mạng, đến nỗi phải cầu cứu
ba vạn quân Xiêm như một hành vi “cõng rắn cắn gà nhà” nhưng vẫn bị Nguyễn Huệ
đánh cho tan tác trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút. Xét đến cùng, Gia Long chỉ
đánh bại một ông vua trẻ con Nguyễn Quang Toản mà thôi. Sự thất bại của quân
đội Tây Sơn, tuy có chút tác động của Nguyễn Ánh, nhưng nguyên nhân chính vẫn
là nội bộ bất hòa, anh em, chú cháu đánh lẫn nhau dẫn đến sụp đổ cả một vương
triều.
Đương nhiên, sự thành công của Nguyễn Thế Quang về nhân
vật Nguyễn ở đây là sự bứt phá về nhận thức bản chất xã hội phong kiến và những
giá trị văn hóa đạo đức. Nguyễn đã thể hiện lòng “nhân” và sự bất lực trong
chốn quan trường. Ông tận mắt nhìn ra sự bất cập này khi cầm đầu đoàn sứ bộ
sang “thượng quốc” tuế cống. Ông suy ngẫm, trăn trở về những vụ án văn tự đẫm
máu cả ở Bắc triều lẫn Nam quốc. Những bài thơ chữ Hán nổi tiếng như “Kỳ lân
mộ”, hay “Thái bình mại giả ca” ở xứ Mãn Thanh đều ẩn chứa nỗi niềm tâm sự quê
nhà.
Đọc “Nguyễn Du”, bất cứ ai cũng cảm nhận
được một cách rõ ràng, xã hội do Gia Long cai trị là một xã hội đầy khuyết tật
được tác giả phục dựng bằng gam màu xám. Đó là cộng đồng người nghèo đói, lạc
hậu lặn ngụp trong một không gian sinh tồn tù túng. Ở đó, những kẻ cai trị, từ
vua quan đến tầng lớp nha dịch, đều tìm mọi cách gieo rắc nỗi khiếp sợ, lòng
nghi kỵ và sự dối trá khiến cho mọi giá trị sống vốn bền vững từ cả ngàn năm,
giờ bỗng nhiên bị hoán đổi. Khắp hang cùng ngõ hẻm, nơi đâu lương dân cũng sợ
đám quan lại triều đình như sợ cọp, đến nỗi, mặc dù đã cáo quan về cố hương làm
một chân “Hồng Sơn lạp hộ” như Nguyễn mà lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bản thân có
thể bị Gia Long tống vào thiên lao bất cứ lúc nào.
Theo Nguyễn Thế Quang, cách hành xử “khôn khéo” của
Nguyễn Du trong chốn miếu đường cũng là một vai kịch. Ông sắm vai kép hạng bét,
luôn khúm núm vâng dạ trước Gia Long và các đại thần là để được sống mà trước tác.
Món nợ văn chương đối với Chiêu Bảy còn nặng hơn cả nợ áo cơm. Sống trong vòng
cương tỏa của một thiết chế độc tài, tác giả “Đoạn trường tân thanh”
biết rõ, rất có thể sẽ được ban tấm lụa trắng hay chén rượu độc nếu chót lỡ
miệng. Vũ Trinh là một ví dụ điển hình chỉ vì muốn làm bậc chính nhân quân tử,
đứng về phía lẽ phải bênh vực học trò của mình.
Qua những dòng độc thoại nội tâm của Nguyễn, giống như
văn bản thứ hai mà Nguyễn Thế Quang đã cho ẩn đi giữa các trường đoạn, chúng ta
còn nhận ra, trong lòng Nguyễn luôn canh cánh một chữ “nhẫn”. Nhẫn để lập ngôn,
nên trong suốt quá trình sáng tác “Đoạn trường tân thanh”, hoặc là ông
từ quan lấy cớ chữa bệnh, hoặc là cứ giả vờ mũ ni che tai mặc kệ sự đời khiến
đám tay chân Lê Văn Duyệt, Lê Chất, thậm chí cả tai mắt của Gia Long cũng không
“ngửi” thấy điều gì bất thường ở viên tham tri bộ Lễ. Chính vì thế, sau khi đại
công cáo thành, Nguyễn mới qua mặt được bọn nha sai mẫn cán của Duyệt, Chất,
tiếp xúc với Chaigneau Thắng. Và chỉ sau khi nói chuyện nhiều lần với viên quan
người Pháp này, ông mới hiểu khái niệm TỰ DO, BÌNH ĐĂNG, BÁC ÁI. Nó có sức mạnh
lay chuyển lương tri đến mức, trước khi qua đời, ông còn để lại DI NGÔN này.
Như bạn đọc đã từng tri nhận, trong con người Chiêu Bảy
luôn có hai Nguyễn Du cùng tồn tại. Một Nguyễn Du tham tri bộ Lễ, hàm cấp đến
bậc á khanh, tước hầu, đường danh vọng đến thế tưởng đã là viên mãn. Bên cạnh
đó, một Nguyễn Du thi sĩ, vốn thuộc dòng dõi trâm anh, từng nếm đủ cay đắng của
kiếp người dưới đáy xã hội, nhưng lại là tập đại thành của những giá trị tinh
túy của dân tộc Việt. Hai con người ấy, cho dù trong cùng một thân xác nhưng
luôn mâu thuẫn nhau. Nguyễn Du quan chức thì lúc nào cũng phải quỳ gối khom
lưng, luôn miệng dạ vâng. Đã không ít lần, Nguyễn tự nhủ, đại để, cái nhục nhất
của bậc sĩ quân tử là phải quỳ trước kẻ ngụy quân tử. Trong khi ấy, triều đình
của Gia Long hầu hết là bọn tiểu nhân, trâng tráo và không ít kẻ còn vô liêm sỉ
nữa. Lê văn Duyệt, Lê Chất, Phạm Như Đăng, và ngay cả Đặng Trần Thường cũng đều
thuộc thành phần bất hảo này. Thành ngữ Hán có câu, “thượng bất chính, hạ tắc
loạn”. Gia Long, khi đã ở ngôi cao tót vời, nếu không có hành vi đào mả Nguyễn
Huệ, cưỡng chiếm công chúa Ngọc Bình, tàn sát cựu thần Tây Sơn, thì Đặng Trần
Thường sao dám đánh đòn hạ nhục Ngô Thời Nhiệm trước Văn Miếu Quốc Tử Giám, Lê
Văn Duyệt, Lê Chất sao dám vu oan hãm hại Nguyễn Văn Thành, và Nguyễn Nễ, rất
có thể không bị tên tri huyện ép phải uống thuốc độc tự tận chỉ vì thù hằn cá
nhân?
Nguyễn Du thi nhân, tuy sống cùng thời với đồng liêu
nhưng ông có tầm nhìn xa hơn thời đại mình. Gia Long biết rõ điều này nên tìm
mọi cách vừa phủ dụ vừa hăm dọa. Đây cũng chính là một trong những sách lược
đối phó với tầng lớp văn nghệ sĩ có tài nhưng bất tuân phục của những nhà chính
trị gian hùng.
Sau chuyến đi sứ về, Nguyễn càng nhận thức rõ, triều đình
Gia Long chỉ là một bản sao nhợt nhạt của đế chế Mãn Thanh với tất cả những mặt
tiêu cực của nó. Thần dân của Càn Long, Gia Khánh nghèo khổ, đói rét, quan lại
thì tham nhũng, ức hiếp dân. Đó chính là những nguyên nhân dẫn đến các cuộc
khởi nghĩa nông dân làm cho đất nước rộng lớn này trở thành “Trung quốc bệnh
phu”.
Lịch lãm, từng trải và có hùng tâm tráng chí như một Từ
Hải trong “Đoạn trường tân thanh”, muốn tung phá cái hệ ý thức Khổng Mạnh
cổ hủ, lạc hậu, trói buộc con người trong mớ học thuyết “tam cương ngũ thường”,
Nguyễn tìm đến Chaigneau Thắng như một lẽ đương nhiên. Sau cái đêm cùng người
lái đò bí ẩn lênh đênh trên sóng nước sông Hương ngắm trăng, Nguyễn càng hiểu
hơn về thế sự bởi mình đã gặp một thức giả. Và, chỉ sau cuộc trao đổi ngắn gọn
với viên cận thần đã thất sủng của Nguyễn Ánh, Nguyễn mới ngộ ra, Gia Long là
một ông vua bài ngoại một cách cực đoan. Chuyện chiếc bật lửa giữa triều đình
thật hài hước và đáng thương. Với những đầu óc ngu muội và bệnh hoạn như thế
làm sao có thể giúp nhà vua canh tân đất nước, chấn hưng dân tộc?
Một người từng trứ tác “Đoạn trường tân thanh”
với những vần thơ nhỏ máu cho số phận nàng Kiều và đặt người anh hùng Từ Hải
sánh ngang với bậc quân vương không bao giờ “cả tin” trước ngôn từ ve vuốt của
Gia Long. Nguyễn Du vĩ đại hơn Gia Long nhiều bởi ông đại diện cho cái phần u
uất, tủi hờn của dân tộc. Bằng thể loại thơ lục bát truyền thống, ông đã khơi
dậy được khát vọng làm người lương thiện với mỗi cá thể chúng sinh trong đám
nhân quần bụi bặm.
Cũng may Nguyễn Du không gặp kiếp nạn khi mà thiêm sự
Hình bộ Nguyễn Hữu Nghi khám nhà Vũ Trinh tìm được một bản “Đoạn trường tân
thanh” đem trình Gia Long để lập công. Trong sự kiện này, Nguyễn Thế Quang đã
phân tích đúng. Nguyễn Ánh là một ông vua ngồi trên pháp luật, hành sự tùy hứng
theo trạng thái tâm lý. Và cũng thật may cho dân tộc Việt, nếu “Đoạn trường tân
thanh” biến thành vụ án văn tự thì chưa chắc ngày nay lớp hậu sinh chúng đã
được đọc những trang thơ “quỷ khốc thần sầu” của Du Đức hầu tiên sinh.
Gia Long mất đi, chẳng những tên tuổi được ghi vào quốc
sử mà còn để lại một tòa lăng tẩm. Năm 2006, trong lần viếng thăm Cố đô, cảm
khái trước lịch sử bi tráng của vương triều Nguyễn Gia Miêu, tôi đã viết bài
“Thiên Thọ lăng cảm tác” bằng chữ Hán, phiên âm như sau:
Tàn dương lưu cố tháp
Ngọc điện lãnh vô đăng
Thế Tổ(1) kim hà tại
Do tồn nhất thạch lăng?(2)
Tuy nhiên, “Thiên thọ lăng” rồi cũng đến lúc thành cát
bụi khi vật đổi sao dời, còn “Đoạn trường tân thanh” sẽ mãi mãi
trường tồn cùng dân tộc Việt.
“Nguyễn Du” là cuốn tiểu thuyết sử
thi về danh nhân văn hóa lỗi lạc thời cận đại, được viết bằng thứ ngôn ngữ đặc
trưng của phong cách sử thi tạo nên sự tương thích giữa nội dung và hình thức.
Sự hấp dẫn của cuốn sách còn được thể hiện ở kỹ năng vận dụng các lớp từ, ngữ
Hán -Việt kết hợp với lối dẫn chuyện luôn biến hóa, đưa người đọc từ ngạc nhiên
này sang ngạc nhiên khác với hàng loạt chi tiết, tình tiết hấp dẫn. Câu văn của
Nguyễn Thế Quang không phải bao giờ cũng cố định mà luôn có sự chuyển đôi tùy
vào văn cảnh. Khảo sát một vài đoạn cụ thể, chúng tôi nhận thấy, không ít
trường hợp tác giả sử dụng mô hình câu của tiểu thuyết lịch sử viết từ đầu thế
kỷ XX, rất mềm mại, gợi cảm nhưng man mác nỗi buồn nhân thế. Có điều, cho dù sử
dụng lớp từ vựng nào, cấu trúc câu văn kiểu gì thì, văn bản “Nguyễn
Du” của Nguyễn Thế Quang bao giờ cũng tạo ra được hiệu ứng đa chiều với
đối tượng tiếp nhận. Đó là kết quả của sự chuyển hóa “năng lượng” thẩm mỹ giữa
cốt truyện, hệ thống nhân vật và cấu trúc văn bản.
Đương nhiên, đọc xong “Nguyễn Du”, mỗi chúng ta
đều có quyền hình dung ra một tác giả “Đoạn trường tân thanh” cho riêng
mình, nhưng phần cốt lõi nhất như hoàn cảnh lịch sử, không khí thời đại cũng
như tư tưởng thẩm mỹ của tác phẩm phải được nhìn nhận như là mẫu số chung.
Nguyễn Thế Quang còn làm được hơn thế, bởi lẽ, bạn mở bất
cứ trang nào trong cuốn sách này, đọc rồi nhắm mắt lại suy ngẫm. Vào thời khắc
ấy hình ảnh Chiêu Bảy lại hiện ra giữa cõi trần bụi bặm cách ngày nay hai thế kỷ
như một thợ săn bất đắc dĩ ở chân núi Hồng…
------------
GHI
CHÚ:
(1)
Gia Long là vị vua mở đầu triều đình nhà Nguyễn, miếu hiệu là Thế tổ
(2)
Nguyên tác bài tứ tuyệt như sau:
天授陵感作
鄧
文 生
殘
陽 留 故 塔
玉
殿 冷 無 燈
世
祖 今 何 在
猶
存 一 石 陵
天授陵,丙
戌 年,仲 秋
Dịch
nghĩa :
CẢM
XÚC TRƯỚC LĂNG GIA LONG
Nắng chiều còn sót lại trên
tháp cổ
Cung điện lạnh lẽo không ánh
đèn
ĐứcThế Tổ bây giờ ở đâu?
Chỉ còn lại một tòa lăng đá.
(Lăng Thiên Thọ, tháng chín,
năm BínhTuất)
Đặng
Văn Sinh
Dịch
thơ:
Tháp cổ vương nắng chiều
Cung điện quạnh cô liêu
Thế Tổ đâu còn mãi
Lăng đá lạnh đìu hiu.
Nguyễn
Đào Trường
*
Chí Linh, 22 tháng 9 năm 2019
ĐẶNG VĂN SINH
Địa chỉ: nhà văn, giáo viên nghỉ hưu -
An Bình, Nam Sách, Hải Dương.
.
........................................................................................
- Cập nhật từ messenger Nguyễn Anh Tuấn
gửi ngày 11.11.2020
- Bài viết không thể
hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại..
0 comments:
Đăng nhận xét