THÀNH DŨNG CÀ RỠN MÀ CẮT CỨA NỖI ĐAU - Tác giả: Khang Quốc Ngọc (Sài Gòn)

Leave a Comment

 

(Nguồn ảnh: internet)

THÀNH DŨNG

CÀ RỠN MÀ CẮT CỨA NỖI ĐAU

*

(Tác giả Khang Quốc Ngọc)

Mến nhau qua facebook, chắc cũng do cái duyên hội ngộ nó ghị níu nên đôi khi người ta tin nhau đến kì lạ. Đối với người viết, còn có gì quý hơn con chữ sản phẩm mình đã tạo ra? Và anh đã đem nguyên cả tập thơ của mình mới ở dạng bản thảo file nén thảy qua messengert cho tôi. Dĩ nhiên là tôi rất vui, vui vì được một người anh, cả tuổi đời lẫn tuổi viết, đã rất tin tưởng trao đứa con tinh thần của ảnh cho mình đọc trước. Còn gì trân trọng hơn!?

Thế là tôi đã đọc tập thơ “Tương đối hẹp” của nhà thơ Thành Dũng trong một tâm thế như vậy, kể cũng thú vị!

Ấn tượng và cảm nghĩ ban đầu khi tôi đọc tập thơ “Tương đối hẹp” của anh là thấy bao trùm lên tác phẩm một cảm giác nao niết buồn. Nỗi buồn phủ lên không gian cảnh vật và đằng đẵng mỏi mòn theo thời gian. Phải vậy chăng mà câu thơ lục bát của tác giả thường bị xé nhỏ ra nhiều mảnh, rồi loi thoi cất tiếng ở từng dòng. Cái này không mới trong thơ nhưng đến với Thành Dũng thì nó trở nên một ý đồ, một lợi thế cho sự chọn lựa. Dòng một chữ, hai chữ, rồi ba chữ… cứ lơ thơ rạc rời ra như thế nhưng khi đọc xong bài thơ người đọc lại bị ám ảnh bởi phía sau cách dụng ngôn kia là ngồn ngộn những suy nghĩ được tác giả khoác vào câu từ khiến cho mỗi chữ dường như có sức nặng tự thân mà vẫn đảm bảo được ý liền mạch của toàn bài.

“bao giờ              

số hóa ruộng đồng

trăng về ngơ ngác

bên song

phố

lầu”

 (Phố lầu)

Thơ Thành Dũng mạnh ở tứ và táo bạo về cách sử dụng từ. Anh không ngần ngại treo lên ý thơ những con chữ lạ lẫm đầy tự tin. Vẫn là những câu chữ quen thuộc đấy thôi nhưng qua bàn tay gọt đẽo xếp đặt của anh, con chữ biết nhảy múa, đôi lúc chữ nghĩa nó còn quay cuồng, diễn đạt rất hay và ấn tượng những điều anh gửi gắm.

Nhìn bề ngoài thơ Thành Dũng có vẻ tưng tửng khác đời, thêm giọng giễu nhại đùa bỡn:

“Tôi đi

ừ…

(tôi đi đây)

phố là phố Sóc mỗi ngày vẫn yêu”

(Miền xa)

Nhưng ẩn bên trong là những thao thức, cắt cứa đến xót xa. Những thay đổi manh nha rạn nứt (Cối đá đã rêu), những ồn ào hào nhoáng nhưng lại đang đe dọa xóa nhòa bao hồn cốt di sản (Phố làng, Quê bây giờ)… Nỗi đau có lúc tưởng rằng được giấu kín đi nhưng qua xàng xê câu chữ nó như lại được nổi phồng lên ám ảnh. Có những lúc, nỗi niềm ấy được ẩn trong sự từng trải chân thành mà da diết. Anh gửi gắm những suy tư và khát khao xóa tan đi khoảng cách của những suy nghĩ vùng miền hẹp hòi, cục bộ thường gặp trong xã hội thời hậu chiến:

“mỗi một lần qua là chặng đời ở đó

dẫu chẳng chôn nhau cũng da diết những cung đường

Đã lâu rồi hình như quên nỗi quê hương

vì quê hương mình giờ đâu đâu cũng có

miền Bắc miền Trung miền Nam chẳng rõ

bởi quê hương sao chỉ có mỗi vùng miền?”

(Quê bây giờ)

Thơ Thành Dũng trong “Tương đối hẹp” thường chắc phần đầu và lỏng phần sau, có những bài vì đầu tư quá nhiều ở phần đầu mà phần sau có vẻ hụt hơi, ý buông ra mông lung chứ không chặt như ta thường thấy. Đây là sự đáng tiếc hay là có ý đồ của tác giả? Kiểu gì thì khi cầm ngọn đuốc thi luật mà soi vào thơ anh, người đọc cũng sẽ thấy rõ ràng có gì đó như là sự thòm thèm lơ lửng phía sau một số bài.

Tôi đồ rằng Thành Dũng làm thơ thường ở trong tâm trạng đùa giỡn hoặc trong những lúc bù khú bia rượu khề khà nâng cốc với anh em bầu bạn. Nên giọng thơ anh vừa như tưng tửng chọc ngoáy người ta lại vừa như xót xa chiêm nghiệm mang hơi hướng sẻ chia với cuộc đời. Đọc lướt qua có bài tưởng anh giỡn cợt tung hứng câu chữ cho vui nhưng đọc kĩ lại ta không khỏi ngồi thừ người ra vì đụng phải dư âm chát đắng nỗi người:

“rót trăng tràn chén mà say

uống đi!

nhấm nháp đọa đày 

nỗi nhau

sụt sùi ấm chén bờ lau

cay xè đọt mắt

trắng phau phận mình

nuốt vào dạ

mủi, sầu ên

hà hơi đắng

lả đoạn mình khói mây

đêm nay

ừ lạ đêm nay

uống cho

tỉnh

biệt khúc ngày xát đêm.”

(Rót)

Đọc “Tương đối hẹp” người ta còn bắt gặp một Thành Dũng có biệt tài xếp đặt những con chữ lạ hoắc lạ huơ những tưởng chả liên quan gì đến nhau nhưng khi chúng được đặt gần lại với nhau để diễn tả một ý nào đó thì nó lại có sức tỏa sáng và cộng hưởng độc đáo, câu chữ có hồn có vía và cựa quậy ngay: “sụt sùi ấm chén bờ lau, cay xè đọt mắt/ trắng phau phận mình” (Rót); “Cơ trời/ bứng chữ trồng thơ/ tưới cây lêu lổng/ phun khờ khạo sương/ cắt cành tỉa lá/ đả thương/ buộc/ gô/ kéo/ nắn/ tróc thương nỗi mình” (Bon sai, con chữ). Thơ cũ nói mắt có đuôi nhưng với Thành Dũng thì mắt như có ngọn, diễn tả nỗi đau được lạ hóa và hình ảnh hóa khiến độc giả dễ mường tượng và chia sẻ hơn.

Đọc xong “Tương đối hẹp”, người ta có cảm tưởng rằng sức nặng của tập thơ hình như vẫn dồn cả vào giai điệu lục bát. Lục bát vẫn là sở trường của Thành Dũng. Với lục bát anh như nghệ sĩ xiếc chữ trên dây ngôn ngữ, con chữ được anh làm mới và được anh đảo lộn xoay vòng, độc giả có tí mệt nhưng bù lại là sự thú vị bởi có nhiều điều lạ lẫm. Anh ví chuyện làm thơ như là “cơ trời” đầy những nhọc nhằn “bứng” và “trồng” cây, nhưng cây ấy là “cây lêu lổng” và được tưới tẩm bằng những hạt “sương khờ khạo”; làm đẹp thơ là đang tự “đả thương” mình; làm thơ là làm “bon - sai câu chữ”, mặc cho “bon - sai chữ” là những bộ cánh “khóc, cười” và cả sự đọa đày “làm tình tội nhau”:

“Cơ trời 

bứng chữ trồng thơ

tưới cây lêu lổng

phun khờ khạo sương

cắt cành tỉa lá

đả thương

buộc 

kéo 

nắn 

tróc thương nỗi mình

 

bon- sai chữ

mặc trọng khinh

mặc cười 

mặc khóc 

mặc tình tội nhau

rồi một ngày 

không phải lâu

vục trăng

xuống

tiễn nông sâu phận mình!”

(Bon-sai, con chữ)

Có thể nói, với “Tương đối hẹp” Thành Dũng đã đem đến cho độc giả một bữa tiệc ngôn ngữ đùa cợt mà đầy những chất chứa nỗi lòng của mình. Anh như đang cà rỡn với cuộc đời bằng ngôn ngữ mà dai dẳng cắt cứa nỗi đau đến độ âm ỉ. Anh chiêm nghiệm thân phận thế thái nhân tình qua kiểu tếu táo câu từ. Đùa mà lại không đùa. Đôi khi tưởng thản nhiên như không đấy mà lại móc níu bao nhiêu những vật vã kiếp nhân sinh.

Xin mượn câu nói của danh y, nhà văn Hải Thượng Lãn Ông để kết thúc bài viết này: “Thơ cốt ở ý, ý cốt sâu xa thì thơ mới hay. Không phải bất cứ điều gì phải nói ra bằng lời thì mới là thơ có giá trị. Ý hết mà lời dừng là cái lời hết mực. Song lời dừng mà ý chưa hết thì lại càng hay tuyệt”.

*.

Sài Gòn, cuối thu 2020

KHANG QUỐC NGỌC (tên thật Nguyễn Ngọc tân)

Địa chỉ: Chung cư 1050, đường Phan Chu Trinh,

phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Sài Gòn.

Email: nntantvt@gmail.com

Điện thoại: 090.742.54.76  

 

 


 

 

…………………………………………………………………………

- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 12.06.2021.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại. 

.

0 comments:

Đăng nhận xét