DƯ LUẬN
TRƯỚC CHỦ TRƯƠNG
SÁT NHẬP MỘT
SỐ TỈNH
*
KHẮC NHẬP KHẮC XUẤT
Tác giả: Sen Hoa
Vốn là câu thần chú có trong truyện cổ
tích “Cây Tre Trăm Đốt” lưu hành trong chốn nhân gian cả ngàn năm nay, nhưng
“khắc nhập khắc xuất” hình như cũng là ý chí của các nhà quản trị thời nay.
Chuyện tách ra nhập vào, từ các cơ quan tổ chức nhà nước “nhỏ như con thỏ” đến
các đơn vị hành chính từ xã đến tỉnh là chuyện vẫn thường xảy ra. Câu hỏi đặt
ra là tại sao phải nhập hay tách tỉnh này tỉnh nọ mấy ngày nay đang nóng trên
công luận sau khi có thông báo chính thức của một quan bà, chị của cái ông giám
đốc sở đi buôn chổi đót mà kiếm được tiền xây biệt phủ, mua được đất làm trang
trại bạt ngàn trên núi. Lý do chính được nêu ra là các vị trong cung phát hiện
thấy có tình trạng các đơn vị hành chính ngày càng phình to về cơ cấu và tăng
lên về số lượng. Năm 1986 Việt Nam chỉ có 44 đơn vị hành chính cấp tỉnh, nhưng
đến 2021 đã tăng lên 63 đơn vị cấp tỉnh (tăng thêm 19 tỉnh, 178 huyện, và 1.136
xã). Từ đây, số lượng các quan từ xã đến tỉnh cũng tăng chóng mặt, dân gù lưng
đóng thuế cũng không đủ nuôi bộ máy quan chức khổng lồ này, đến nỗi một vị đại
biểu của dân đã phải thốt lên giữa nghị trường rằng tiền lương nhà nước trả cho
đội ngũ này có vài triệu một tháng thì họ không sống được, chính những bà bán
trà đá trên phố, các bà các chị buôn thúng bán rong trên chợ, và hàng ngàn
người nghèo kiết xác bán vé số dạo đã nuôi đội ngũ quan lại triều đình cấp
phường xã đấy, mà với mức lương khủng chứ không bèo như của chính phủ đâu. Thật
là một câu trả lời đích đáng! Tuy nhiên, làm cách nào để hạn chế nạn “phềnh
quan” thì triều đình đã nghĩ nát nước gần chục năm nay và cuối cùng đưa ra giải
pháp can thiệp bằng cách sáp nhập dựa trên hai cái tiêu chí là quy mô dân số và
diện tích tự nhiên. Các tỉnh miền núi có dân số từ 900 ngàn người và diện tích
tự nhiên từ 8.000k2 trở lên sẽ không bị sáp nhập. Những tỉnh không phải miền
núi có quy mô từ 1,4 triệu người và diện tích tự nhiên từ 5.000 km2 trở lên.
Theo cách tính như vậy, phải có đến 20 tỉnh thành nằm trong nhóm nguy cơ cao,
nhưng quan chị bảo từ nay đến 2026 sẽ chỉ sắp xếp lại và sáp nhập khoảng 10
tỉnh thành thôi. Tôi dám chắc các vị chức việc từ xã đến tỉnh nằm trong nhóm
nguy cơ đang sốt sình sịch, quên cả phải làm gì cứu dân trong cơn dịch dã đang
hoành hành khắp thôn cùng ngõ hẻm!
Tôi kịch liệt ủng hộ chủ trương giảm thiểu bộ máy quan liêu
cồng kềnh nhiều tầng nhiều lớp chỉ hành dân kiếm ăn mà chả giúp được gì cho họ.
Đó là việc cần làm và phải làm, cấp bách lắm rồi, nguy cấp lắm rồi. Trên thực
tế dân ta không chỉ nuôi một bộ máy nhà nước mà có đến ba bộ máy đều ăn lương từ
thuế của dân. Một là bộ máy hành chính từ trung ương đến xã thôn; hai là một bộ
máy cũng từng ấy nhân sự và ban bệ của hệ thống chính trị; và ba là bộ máy vệ
tinh chỉ biết ăn theo nói leo, khi cần thì tiền hô hậu ủng: đó là các đoàn hội
được lập ra cho có vẻ… của dân nhưng chỉ ăn lương của dân chứ chả làm gì cho
dân! Nói thật dân ta (trong đó có tôi) ngoan quá, hiền quá, sợ cường quyền quá
nên không dám ho he, cứ gù lưng làm nuôi thằng ngay lưng ăn chứ trên thế gian
này, ít có quốc gia nào mà người ta khai thác đến cạn kiệt nguồn nhân lực và
tài nguyên thiên nhiên chỉ để nuôi bộ máy cai trị đông đúc lúc nhúc như thế mà
dân cứ ngoan hiền, cứ ca tụng được! Cái lỗi hệ thống ấy mới là cội rễ của vấn
đề, là đích đến của giải pháp. Còn sáp nhập thì có lẽ chỉ quậy đục nước lên cho
cá chạy thôi. Tôi thực sự có nhiều băn khoăn về giải pháp giảm thiểu bộ máy
bằng cách sáp nhập tổ chức các tỉnh huyện xã. Một mặt nó cho thấy sự bất lực
của chính quyền trung ương đối với đám tiểu yêu chuyên trị cát cứ bên dưới, mặt
khác, đấy không phải là liều thuốc độc để trị thói phềnh quan và nhũng lạm.
Không nói lịch sử đâu xa, từ trước những năm 1990 thôi, người
ta đã nhân danh “sắp xếp lại giang sơn”, tiến hành một cuộc sáp nhập ồ ạt các
tỉnh, huyện, xã với khí thế đầy ắp sự lãng mạn để “kiện toàn bộ máy nhà nước”
và biến “mỗi huyện thành một pháo đài kinh tế-quốc phòng”. Tiêu chí dân số và
diện tích cũng được nêu ra như một cái cớ để tiến hành sáp nhập. Nhưng các cuộc
hôn nhân cưỡng bức giữa các tỉnh huyện xã một cách duy ý chí đã thất bại thảm
hại. Cuộc hôn nhân nào bền cũng được hai chục năm, còn thì khi đã hết hóc môn
tình yêu, họ đều rã rời nhau ra hết. Cho đến trước năm 1991, khi các cặp uyên
ương do sáp nhập này đã rã đám xong thì một làn sóng mới chia nhỏ các tỉnh “cho
dễ quản lý” lại được tiến hành. Năm 2004, Tỉnh Lắc bị chia làm đôi, tỉnh Nông
ra đời. Cũng năm ấy, chị em Biên-Lai xẻ đàn tan nghé thành Điện Biên và Lai
Châu. 1996, tỉnh Cà Mau bị xẻ làm hai, tái lập Bạc Liêu và đẻ ra tỉnh mới Cà
Mau. Cuộc chia tay sớm hơn của chị em nhà Hậu Giang xảy ra năm 1991, trả lại
cái xác cũ cho Sóc Trăng, đẻ ra cái thành phố Cần Thơ và nhào nặn lại Hậu Giang.
Nhìn lại lịch sử hình thành các tỉnh, huyện ở xứ ta, có thể
nhận thấy các bậc tiên hiền thường căn cứ vào các tiêu chí lịch sử lãnh thổ,
nguồn gốc dân cư và đặc điểm văn hóa để lập ra các đơn vị hành chính cấp tỉnh
và huyện nhằm đạt được mục tiêu cai trị, phát triển bền vững và bảo vệ đất
nước. Bây giờ lại lấy tiêu chí dân số và diện tích làm xuất phát điểm thì có lẽ
cái việc xuất-nhập sẽ còn tiếp tục dài dài mà không bền vững. Nếu cứ độ chục
năm lại cho ly dị và xáo trộn đơn vị hành chính thì cả quan lẫn dân lấy đâu ra
được sự yên ổn mà làm ăn? Nếu cứ lập ra bộ máy cai trị khổng lồ ba tầng bốn
lớp, xây trụ sở, tượng đài ngàn ngàn tỷ, xong rồi lại bỏ rơi và xây mới vì sáp
nhập thì tiền nào chịu nổi? Nếu cứ ông này bà kia lo lắng bị mất ghế, phải
giành ghế, chia chác ghế, ông phó bà trưởng, kèn cựa, chia bè kéo cánh ngấm
ngầm hạ bệ nhau, thì làm sao bộ máy ấy còn đầu óc toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp
trị dân và bảo vệ đất nước?
Theo thiển ý của tôi thì tiêu chí dân số và diện tích không
nên là động cơ của sáp nhập, không nên sử dụng như một khuôn vàng thước ngọc để
vận dụng một cách cơ học máy móc như vậy vào việc sáp nhập các đơn vị hành
chính. Tỉnh, huyện không chỉ là cái khung của một đơn vị hành chính đơn thuần,
nó còn là tâm lý cộng đồng, là tình cảm quê hương, là lối sống, là văn hóa, gắn
với mỗi vùng, miền, mỗi cá nhân, tạo thành một sợi dây liên kết con người, vô
hình nhưng bền vững. Khi chúng ta bỏ qua tiêu chí này để sáp nhập hay chia
tách, sẽ chẳng khác nào bác thợ mổ lia một nhát dao vào cơ thể của một cấu
trúc, một thực thể văn hóa, và do đó làm tổn thương tình cảm và lịch sử.
Tôi vẫn cứ nghe truyền thông nhai nhải cái điệp khúc văn hóa và đa dạng văn hóa là nguồn nội lực vô tận để phát triển, nhưng chúng ta hầu như không làm gì để khai thác nguồn nội lực ấy. Gần đây, phong trào mỗi làng một sản phẩm đã phần nào khai thác được cái nguồn nội lực trong dân, nhưng tia hy vọng vừa lóe lên lại có thể bị tắt ngấm. Khai thác đa dạng văn hóa để phát triển tức là biến cái truyền thống ấy thành tiền, và “mỗi làng một sản phẩm” đã đáp ứng được mục tiêu ấy, đặc biệt có giá trị ở các tỉnh nghèo, đa văn hóa, đa tộc người. Sáp nhập tỉnh huyện xã cũng có nghĩa là đặt đa dạng văn hóa và mạng lưới xã hội của cư dân trước một thách thức lớn khó vượt qua bởi văn hóa của các nhóm nhỏ thường mong manh dễ vỡ lắm. Các tỉnh, huyện được hình thành trong lịch sử, bản thân nó đã trở thành những các cấu trúc địa-văn hóa-lịch sử. Nếu chúng ta lia một nhát dao để chia tách hay sáp nhập các cơ thể sống ấy, chúng ta cũng đồng thời làm tổn thương văn hóa và tình cảm của con người là những thành tố li ti nhưng liên kết chặt trong cấu trúc đó. Hiện tượng đấu đá tranh giành bè phái trong bộ máy quan liêu do chia tách hay sáp nhập chính là biểu hiện của tình trạng bị tổn thương văn hóa lịch sử, và do đó triệt tiêu tính đa dạng văn hóa như là một nguồn lực của phát triển. Nhiều quan chức nói với tôi việc sáp nhập Hà Tây vào Hà Nội là ví dụ điển hình cho sự thành công để lần này sáp nhập cả chục tỉnh. Tôi rất tiếc phải nói rằng cái thành công ở vẻ ngoài ấy thực ra là một phát súng đại bác nã vào lịch sử, bức tử nền văn hóa xứ Đoài nổi tiếng và làm tiêu tan tính đa dạng văn hóa và nguồn lực văn hóa của một vùng cho phát triển bền vững đất nước. Tôi e rằng công cuộc tách – nhập lần này không chỉ làm tiêu tán nhân tài vật lực mà các tỉnh huyện xã đã gây dựng, hồi phục lại sau cơn cớ nhập-xuất của mấy chục năm về trước, mà còn có thể tiếp tục làm tiêu tán đa dạng văn hóa vùng miền vốn là nguồn lực cho phát triển, và những tên gọi, tập tục, lối sống, mối liên kết con người của tỉnh huyện xã xưa sẽ chỉ còn lại trong hoài niệm của người đời.
------
Nguồn:https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=4495888147097244&id=100000283104576
VIỆC TÁCH NHẬP KHÔNG THỂ DUY Ý CHÍ!
Tác giả: Nguyễn
Trọng Thanh
Việc ban hành một bộ chỉ tiêu/tiêu chí về diện tích tự nhiên,
quy mô dân số… để nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã là
phương pháp thống kê, toán học. Nó giống như con rô bốt, lập trình là chạy,
vướng phải vật cản bị ngã sấp mặt cũng đựng dậy chạy tiếp thay vì tìm cách
tránh chướng ngại vật.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, chúng ta cũng đã nhập một
loạt tỉnh với lý do tương tự. Nhập một chặp mỏi mê chê chán, đấu đá nhau huỳnh
huỵch, kìm hãm phát triển, bè phái, cục bộ, phân biệt đối xử với nhau như kẻ
thù, rồi lại tách.
Chuyện hội và tan như phưởng chèo vậy.
Đất Hà Tĩnh vốn dĩ từ Nghệ An tách ra, sau một thời kỳ dài
phát triển độc lập song trùng, mỗi tỉnh có nhưng bản sắc riêng đến khi nhập vào
lại bất hợp lý. Mặc dù được gọi là “Xứ Nghệ” hay xứ “Quảng” (Quảng Nam - Đà
Nẵng) nhưng có vô vàn thứ khi chung đụng trở nên mâu thuẫn khó tìm được tiếng
nói chung. Dân Nghệ - Tĩnh xưa có câu thành ngữ ai oan: “Nghệ An có núi Quyết
cứ quyết, Hà Tĩnh có sông La cứ la”; hay là “Bình Trị Thiên” là tỉnh nhưng bộ
máy hành chính và con người là Thiên Trị Bình. Thế mới ra câu hát nhại: Ơi Huế
của ta, hai phần ba Quảng Bình. Tương tự, tỉnh Hà Bắc, Hà Nam Ninh, Nghĩa Bình,
Gia Lai - Kon Tum, Hải Hưng… cũng thế.
Dùng bộ chỉ tiêu để thống kê, phân loại là cần thiết và khoa học.
Nhưng nên nhớ rằng, việc tách nhập ngoài phần cứng nói trên, yếu tố phần mềm
như bản sắc văn hoá, truyền thống lịch sử mới đóng vai trò quyết định. Đừng phụ
thuộc quá nhiều theo con số, và lấy con số làm đầu. Nên nhớ rằng hệ luỵ về kinh
tế xã hội vô cùng to lớn, không gì có thể kiểm đếm hết. Cần cân nhắc hết sức kỹ
lưỡng, thay vì làm ào ào như phong trào.
Nhớ lại chuyện cũ sau năm 1975, đó là tư duy của lớp cán bộ
kháng chiến, từ bưng biền, từ chiến khu, từ địa đạo, từ hầm chống bom đạn mà
làm nên chính sách.
Ta không phê phán hay phỉ báng vào quá khứ, vì đó là lịch sử. Chính vì vậy, hỡi các nhà quản trị ở thời đại 4.0, trước khi dùng tư duy hiện đại để lập luận hoặc bao biện cho việc làm của mình, hãy nhớ mình là người chứ không phải rô bốt. Hãy soi chiếu từ trong chiều dài lịch sử của đất nước và đơn giản hơn hãy đọc và ngẫm câu chuyện cổ tích “Cây tre trăm đốt” mà mỗi tối ta thường kể cho con trẻ.
--------
Nguồn: https://www.facebook.com/nxdien2k15/posts/2603186206651001
NHẬP RỒI LẠI TÁCH, TÁCH RỒI
LẠI ĐỀ NGHỊ SÁT NHẬP
Tác giả: Nguyễn
Văn Nghệ
Trong những ngày qua, trên các phương tiện thông tin đại
chúng xuất hiện thông tin là Bộ Nội vụ đưa ra kế hoạch dự kiến sáp nhập các
tỉnh nhỏ, dân số ít vào với nhau.
Những người đưa ra kế hoạch này được ông Nguyễn Như Phong
nhận xét: “Đám này không biết gì về hậu quả của việc sáp nhập từ những năm
sau 1975 và cơ bản đã tan rã hết sau năm 1990”[1].
Cách nay hơn 150 năm, vào năm Quý Sửu (1853) vua Tự Đức đã
cho sáp nhập ba tỉnh nhỏ là Quảng Trị, Hà Tĩnh, Phú Yên vào các tỉnh kế cận.
Tỉnh Quảng Trị “hợp vào với phủ Thừa Thiên, bỏ tỉnh, đặt làm đạo”[2]; Tỉnh
Hà Tĩnh “bỏ tỉnh, đem phủ Đức Thọ lệ vào tỉnh Nghệ An và đổi phủ Hà Thanh
(tức Hà Hoa) làm đạo Hà Tĩnh”[3]; Tỉnh Phú Yên “đổi làm đạo, đặt quản đạo”[4].
Trước khi sáp nhập vua Tự Đức có cho thăm dò hỏi ý kiến của
giới sĩ phu. Tháng 4 năm Quý Sửu (1853) tổ chức thi Điện: “lấy trúng cách
13 người…Bèn chuẩn cho những người trúng cách phải thi lại ở nhà Duyệt Thị, đều
hỏi lấy mấy điều về việc hiện thời (về ba tỉnh Quảng Trị, Phú Yên, Hà Tĩnh nên
phân hạng, nên hợp, cũng là việc cốt yếu về việc dùng người và trị nước, phải
bàn luận rõ ràng)”[5].
Vào thi Hội đạt trúng cách thì vào thi Điện nắm chắc học vị
Tiến sĩ trong tay, nhưng cử nhân Vũ Khắc Bí làm bài nói trái ý vua. Sự kiện này
được sách Quốc triều khoa bảng lục ghi về Vũ Khắc Bí: “Cả 3 kỳ thi Hội ông
đều trúng cách nhưng đến kỳ phúc hạch, bài văn “Tam tỉnh phân hợp”[bàn về việc
chia hay nhập 3 tỉnh] ông viết trái ý vua nên bị truất xuống Phó bảng”[6].
Sau một thời gian sáp nhập thấy không thành công như mong
muốn, nên cuối thời vua Tự Đức 3 đạo: Quảng Trị, Phú Yên, Hà Tĩnh lại
được nâng lên thành tỉnh như trước đây, không lệ thuộc vào tỉnh kế cận nữa.
Trong các sách địa chí do triều đình biên soạn ghi rất rõ
ràng về phong tục tập quán của từng tỉnh, cho nên sáp nhập tỉnh này với tỉnh nọ
chỉ là cưỡng bức mà thôi. Nhập rồi lại tách tạo ra lắm điều phiền phức như chia
tài sản, tranh giành đất đai. Điển hình là hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa nhập
lại thành tỉnh Phú Khánh và khi tách ra làm hai tỉnh như cũ thì tỉnh Phú Yên
lại tranh giành vùng đất Vũng Rô nguyên của tỉnh Khánh Hòa trước khi nhập
tỉnh[7]. Ông Nguyễn Như Phong cảnh báo: “Hình như họ cũng chẳng thèm nghiên
cứu về đặc điểm văn hóa vùng miền của người Việt. Họ không biết rằng việc phân
chia địa ranh giới địa lý của các tỉnh ngoài địa dư ra thì còn căn cứ vào đặc
điểm văn hóa, phong tục, tập quán, tín ngưỡng của vùng đó. Không chỉ cơ sở văn
hóa của mỗi tỉnh khác nhau mà giọng nói, tính tình của người dân cũng rất khác
nhau…chính vì thế mà không bao giờ có sự đoàn kết, đồng lòng, đồng tâm của các
tỉnh bị sáp nhập”[8].
Kế hoạch dự kiến sáp nhập các tỉnh có diện tích nhỏ, dân số
ít vào với nhau của Bộ Nội vụ được đưa ra chẳng khác nào việc vua Tự Đức hỏi ý
về việc “Tam tỉnh phân hợp” vào năm 1853. Góp ý một cách thành thực sẽ bị mang
vạ vào thân như Phó bảng Vũ Khắc Bí! Nhìn thấy những người góp ý chống đối việc
sáp nhập, có người mượn hai câu thơ trong bài thơ “Mẹ mắng” trong tập thơ “Lao
trung lãnh vận” của cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương sáng tác khi
bị ngồi tù: “Dở hay mặc kệ thằng cha nó/Còn mất can chi lão nội mày” làm
lời cảnh tỉnh để khỏi bị mang vạ thân.
Tôi xin mượn lời ông Nguyễn Như Phong để kết thúc bài viết: “Tôi không hiểu họ đưa ra ra ‘sáng kiến’ quái gỡ này, họ có nghiên cứu cho thấu đáo: Tại sao việc sáp nhập xã, huyện, tỉnh của những năm xưa bị thất bại hay không? Và hậu quả để lại của việc làm duy ý chí đó là gì?”[9]
-----------
Chú thích:
[1][8][9] – https://baotiengdan.com/…/ho-lai-muon-dam-vao-vet-xe-do-u/
[2][3][4] – Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại
Nam nhất thống chí Tập 1,Nxb Thuận Hóa, tr. 99/ Tập 2, tr.86; Tập 3,
tr.64
[5] – Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam
thực lục tập 7, Nxb Giáo dục,tr. 272
[6] – Tuyển tập Cao Xuân Dục tập 2, Quốc
triều khoa bảng lục, Nxb Văn học, tr 145. Dưới triều nhà Nguyễn đi thi Hội, thi
Đình thà không đỗ Tiến sĩ để các khoa thi sau có thể khăn gói đi thi trở lại và
giành lấy học vị Tiến sĩ. Còn đã đỗ Phó bảng thì suốt đời không được đi thi để
lấy học vị Tiến sĩ.
Nguyễn Văn Nghệ
Diên Khánh - Khánh Hòa
--------
Nguồn: https://khoahocnet.com/2021/07/21/nguyen-van-nghe-nhap-roi-lai-tach-tach-roi-lai-de-nghi-sap-nhap/
SÁP NHẬP TỈNH KHÔNG PHẢI LÀ
BIỆN PHÁP ĐỂ VIỆT NAM HÙNG MẠNH
Tác giả: Nguyễn
Ngọc Chu
Nghe tin Bộ Nội vụ chuẩn bị phương án nhập tỉnh mà buồn. Buồn
vì thấy rằng những nhà quản lý hiện tại không học được bài học thực tiễn 50 năm
(1954-2004) chia tách và sáp nhập tỉnh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và
nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Quản lý nhà nước cần phải nắm được quy luật lúc nào thì chia
tách và sáp nhập tỉnh, và việc chia tách hay sáp nhập tỉnh dựa trên những
nguyên tắc nào? Quản lý nhà nước thì phải học từ bài học thực tiễn đã có về
tách nhập tỉnh của tiền nhân. Cả 3 vấn đề vừa nêu đều chưa được để ý.
1. KHI NÀO THÌ SÁP NHẬP TỈNH?
Địa giới hành chính tỉnh, huyện, xã là vấn đề lịch sử truyền
đời nhiều triều đại. Nó được hình thành, tồn tại và thay đổi theo quy luật. Nó
là vấn đề quốc gia, không phải là vấn đề của cá nhân, nên không thể tuỳ tiện.
Nghiên cứu lịch sử thay đổi địa giới hành chính nội quốc gia
cho thấy, việc hình thành, sáp nhập, chia tách tỉnh thường xuất hiện khi có một
trong 2 điều kiện sau đây:
1/. Lãnh thổ quốc gia thay đổi.
2/. Thay đổi căn bản phương thức quản lý quốc gia.
Để thấy rằng, ngay đến sự chiếm quyền của triều đại mới thay
thế cho triều đại cũ, cũng không phải là nguyên nhân để dẫn đến sự chia lại địa
giới tỉnh thành.
Chiếu theo theo 2 điểm nêu trên, thì tại thời điểm hiện tại,
không có nhu cầu cấp thiết cho việc chia lại tỉnh thành.
2. AI ĐƯA RA CHỦ TRƯƠNG SÁP NHẬP TỈNH?
Nhìn vào lịch sử, bao giờ thì thay đổi lãnh thổ quốc gia? Chỉ
có chiến tranh mới thay đổi lãnh thổ quốc gia. Chỉ có người đứng đầu quốc gia
đi xâm chiếm, hoặc bang giao, trao đổi, mua bán, mới thay đổi lãnh thổ quốc
gia. Cũng chỉ có người đứng đầu quốc gia mới có thể quyết định thay đổi phương
thức quản lý quốc gia.
Cho nên người đưa ra chủ trương sáp nhập tỉnh, thay đổi cấu
trúc địa lý hành chính quốc gia là người đứng đầu quốc gia. Chính các bặc quân
vương làm thay đổi biên giới quốc gia, nên thay đổi lại biên giới địa lý hành
chính nội quốc. Chính các bậc quân vương, khi lên nắm quyền, thực thi phương
thức quản trị mới, mà dẫn dến khả năng thay đổi địa giới hành chính nội quốc.
3. SỰ THẤT BẠI CỦA THỰC TIỄN NHẬP VÀ TÁCH TỈNH
Lịch sử Việt Nam, có lẽ chưa có thời nào, lại có nhiều nhập
rồi tách tỉnh như giai đoạn từ năm 1954 cho đến năm 2004.
Thời cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, sau khi thống nhất, chủ trương
quản lý thẳng đến cấp huyện, 521 huyện là 521 “pháo đài”, biến cấp tỉnh thành
khâu trung gian. Cho nên từ tháng 12/1975 về sau đã sáp nhập hầu hết các tỉnh
trong cả nước. Từ 44 tỉnh miền Nam và 25 tỉnh thành miền Bắc đã sáp nhập còn
lại 36 tỉnh, 3 thành phố và 1 đặc khu. Các tỉnh Hoàng Liên Sơn, Hà Nam Ninh,
Bình Trị Thiên, Gia Lai – Kon Tum, Phú Khánh, Minh Hải… xuất hiện là vì thế.
Đó là một vi phạm “tiên đề”. Vì không tuân thủ nguyên tắc
tuần tự từ trên xuông dưới, bỏ qua cấp tỉnh để quản lý cấp huyện, chẳng khác gì
chỉ huy quân từ tổng tư lệnh tối cao đến cấp trung đoàn mà bỏ qua quân khu và
sư đoàn. Cũng từ chính sách quản lý cấp huyện này, mà có một số đại diện cấp
huyện đã vào Trung ương, trong đó có cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Vi phạm “tiên đề” thì thất bại. Việc sáp nhập tỉnh lớn năm
1975 -1978 không đưa lại những thay đổi có lợi gì cho kinh tế và quản lý quốc
gia. Cuối cùng phải tách tỉnh lại như cũ vào các năm 1989-1997.
Sự vi phạm “tiên đề” này lặp lại trong điều hành kinh tế khi
cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bổ nhiệm trực tiếp các tổng giám đốc các tập
đoàn, bỏ qua cấp Bộ. Hậu quả là nhiều tập đoàn lao đao phá sản.
Các năm 2003-2004, thời cựu Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh lại
xuất hiện chia tỉnh. Lai Châu thành Lai Châu và Điện Biên. Đắk Lắk thành Đắk
Lắk và Đắk Nông. Cần Thơ. thành Cần Thơ và Hậu Giang.
4. SÁP NHẬP TỈNH – CÓ PHẢI LÀ BIỆN PHÁP GIẢM BIÊN CHẾ HIỆU
QUẢ?
Hãy nhìn vào thực tiễn. Việc sáp nhập Hà Tây vào Hà Nội có
giảm được biên chế không? Câu trả lời là không! Chưa nói đến lãng phí thời gian
cho việc di chuyển làm việc. Cụ thể là một bộ phận cán bộ Thành uỷ phải di
chuyển từ trung tâm Hà Nội xuống Hà Đông để đảm bảo tính đáp ứng cục bộ và
không để văn phòng Tỉnh uỷ Hà Tây trống rỗng. Các ban ngành khác cũng tương tự.
Lại câu hỏi khác, nếu vì giảm biên chế thì tại sao lại thành
lập thành phố Thủ Đức trong thành phố Hồ Chí Minh? Thành phố Hồ Chí Minh không
thể bằng Bắc Kinh về cả dân số lẫn diện tích.
Có rất nhiều câu hỏi, và thí dụ thực tiễn đã chứng minh, rằng
việc sát nhập tỉnh không đưa đến giảm biên chế. Muốn giảm biên chế phải nhờ vào
biện pháp khác.
5. THỜI ĐẠI CÔNG NGHỆ - HIỆU QUẢ QUẢN LÝ KHÔNG NẰM Ở KHÂU SÁP
NHẬP TỈNH
Những thay đổi to lớn của công nghệ đã làm thây đổi hẳn chất lượng
quản lý nhà nước. Muốn tăng hiệu quả quản lý nhà nước, muốn giảm biên chế một
cách mạnh mẽ, thì phải áp dụng công nghệ và thay đổi chất lượng nhân sự. Công
nghệ và chất lượng nhân sự mới là chìa khoa của vấn đề, chứ không phải tách
nhập tỉnh. Áp dụng công nghệ và thay đổi tỉnh trưởng quan trọng hơn sáp nhập
tỉnh với những ông tỉnh trưởng kém chất lượng.
6. TÍNH KHOA HỌC CỦA CÁC TIÊU CHÍ SÁP NHẬP TỈNH?
Bộ Nội vụ đưa ra 2 tiêu chí chính để sáp nhập tỉnh. Đó là dân
số và diện tích. Đối với các tỉnh miền núi, diện tích không nhỏ hơn 8000 km2,
dân số lớn hơn 900 000 dân.Đối với các tỉnh không phải miền núi, diện tích lớn
hơn 5000 km2, dân số lớn hơn 1,4 triệu dân
(https://tienphong.vn/de-xuat-sap-nhap-10-tinh-dan-so-it...).
Nói về diện tích thì hãy nhìn vào thành phố Hồ Chí Minh, chỉ
2 095,239 km2 mà phải thành lập thành phố Thủ Đức trong thành phố Hồ Chí Minh,
nghĩa là tách tỉnh, thì sao dưới 5000 km2 phải nhập tỉnh?
Nói về dân số, ít người rồi sẽ tăng người. Đó không phải là
tiêu chí để nhập tỉnh. Như tỉnh Kon Tum diện tích 9 674, 2 km2 – là tỉnh thuộc
loại lớn của Việt Nam. Kon Tum có dân số 540 438 người. Vậy Kon Tum sẽ nhập vào
tỉnh nào? Quay lại Gia Lai ử? Hay nhập vào Quảng Ngãi? Đăk Lắk sau 1975 cũng
chỉ có dân số khoảng 500 000 người mà nay đã 2 triệu dân. Dân số Kon Tum rồi sẽ
đạt 900 000 và còn hơn thế nữa. Dân số thưa là điều mừng, còn có đất mà tăng
dân số.
Dựa vào đâu để Bộ Nội vụ đưa ra các con số trên. Lập luận
khoa học của nó ở đâu?
Sao là 8000 km2 mà không là 7000 km2? 9000 km2, 10 000 km2?
Đó là, chẳng hạn, để cho xe chạy từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh trong vòng 4 tiếng?
Hay là để cho khoảng cách từ tỉnh lỵ đến huyện lỵ không nơi nào quá 50 km?
Nghĩa là phải có nguyên nhân tại sao lại chọn 8000 km2? Và nguyên nhân phải
được bảo vệ bởi những luận cứ khoa học không chối cãi.
Nếu nói về tiêu chí diện tích rộng? Thì thử xem 1 tỉnh (bang)
của Canada? Canada chỉ có 10 tỉnh và 3 vùng lãnh thổ. 1 tỉnh như Quebec có diện
tích 1 triệu 542 ngàn 056 km2 (lớn gần gấp 5 lần diện tích Việt Nam). Họ có
chia nhỏ thành 180 tỉnh cho diện tích trung bình mỗi tỉnh tương đương với diện
tích các tỉnh của Việt Nam không? Thế nào diện tích rộng? hẹp ?
Nói về dân số, thì một tỉnh như Quảng Đông Trung Quốc gần sát
với Việt Nam có dân số 113 triệu người, lớn hơn cả Việt Nam. Trung Quốc có 1,4
tỷ dân với diện tích 9 596 961 km2 nhưng chỉ có 27 tỉnh cùng 6 thành phố và đặc
khu. Thế nào đông dân? Thế nào là ít dân?
Có thể đưa ra nhiều đề xuất tranh cãi. Là chỉ còn 50 tỉnh
thành. Là chỉ còn 30 tỉnh thành. Là chỉ còn 10 tỉnh thành…Lúc đó lại phải nhìn
lại bài học sáp nhập chỉ còn 40 tỉnh thành và đặc khu các năm 1975-1978.
Không có cơ sở nào để xác định con số 5000 km2, 8000 km2, 900
000 dân hay 1,4 triệu dân của Bộ Nội Vụ. Đó là các con số cảm tính tự nghĩ.
Không thể sáp nhập tách tỉnh dựa trên cảm tính. Sáp nhập tách tỉnh, như trên đã
đề cập, phải được đề xuất bởi các minh quân từ đòi hỏi thực tiễn chính đáng.
7. SÁP NHẬP TÁCH TỈNH PHẢI TÔN TRỌNG TÍNH KẾ THỪA
Nếu không có các nguyên nhân mang tính căn bản (radical) như
trên đã đề cập - đột biến về lãnh thổ, thay đổi phương thức quản trị - thì việc
sáp nhập tỉnh không được đề ra.
Bởi vì việc quản trị địa lý hành chính quốc gia luôn phải tôn
trọng tính kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ chính thể này sang chính
thể khác. Cơ cấu địa lý hành chính các tỉnh thành là sản phẩm lịch sử của đời
sống kinh tế và văn hoá, nó mang tính kế thừa truyền đời, không phải tuỳ thích
muốn thay đổi mà được. Không tôn trọng tính kế thừa là vi phạm tiên đề.
Khi phải sáp nhập hay tách tỉnh, là thừa nhận sự bất hợp lý
trong cấu trúc địa lý hành chính quốc gia, một cách gián tiếp là phủ định lãnh
đạo đời trước. Sự phủ định phải biện minh bằng sự cần thiết chính đáng.
8. BÀI HỌC SÁP NHẬP VÀ TÁCH TỈNH
Khi người Pháp tham gia quản lý, họ chấp nhận địa giới hành
chính nhà Nguyễn, không sáp nhập hay tách tỉnh, chỉ bổ sung Bắc Kỳ, Trung Kỳ ở
chế độ bảo hộ và Nam Kỳ ở chế độ thuộc địa, trực thuộc liên bang Đông Dương.
Năm 1945 nước ta có 69 tỉnh thành phố.
Thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, miền Bắc năm 1954 có 34 đơn
vị hành chính, Bắc Bộ có 26 tỉnh, 2 thành phố, Trung Bộ có 4 tỉnh và 1 đặc khu,
đến năm 1975 có 25 tỉnh thành. Việt Nam Cộng hoà trước năm 1975 có 44 tỉnh.
Điểm lại thực tế, các tỉnh sáp nhập thời Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà như Phú Thọ hợp Vĩnh Phúc thành Vĩnh Phú, Hưng Yên hợp Hải Dương thành
Hải Hưng, hay các tỉnh hợp trong thời Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Hà Nam
Ninh, Bình Trị Thiên… sau hơn chục năm thì tất cả lại tách tỉnh quay về tên cũ.
Nghĩa là đã làm những điều vô ích. Chỉ sinh ra tốn kém.
Bài học sáp nhập tỉnh năm 1975-1978 luôn phải ghi nhớ. Bài
học chia tỉnh năm 1989-1997, 2004… luôn phải ghi nhớ. Trong 76 năm tồn tại nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam việc nhập tách
tỉnh huyện xã đã tiến hành nhiều lần; thực tiễn kiểm nghiệm cho thấy không lần
nào chứng minh được lợi ích, ngoài sự thiệt hại.
Việc chia tách tỉnh là việc hệ trọng. Nó phải xuất phát từ
những bộ óc sáng với những đòi hỏi thực tiễn căn bản.
Những bậc quân vương thay đổi địa giới hành chính là vì họ mở
rộng biên giới quốc gia, và vì họ đổi thay căn bản phương thức quản trị đất
nước. Thiếu 1 trong 2 nhân tố đó, đừng phá tính kế thừa lịch sử của địa giới
hành chính nội quốc. Vẽ lại địa giới hành chính nội quốc không làm nên lịch sử.
Mấu chốt vấn đề là cơ chế tuyển chọn nhân sự bộ máy quản lý nhà nước, cơ chế vận hành bộ máy nhà nước và công nghệ, chứ không phải là sáp nhập tỉnh.
ĐIẾU HÀ TÂY TỈNH
Tác giả: Phan Việt Long
1. Thế cục xoay vần càn khôn dời đổi, bước thịnh suy hồ dễ
mấy ai hay.
Mở cửa bốn phương Nam Bắc Đông Tây, luồng gió mới thổi qua
miền quê lụa.
2. Đã từng trải bao phen sóng gió, tưởng vĩnh hằng trụ thế
với thời gian.
Ai ngỡ đâu bèo dạt mây tan, một quyết định tiễn về miền ký
ức.
NHỚ LINH XƯA !
3. Sừng sững Ba Vì trấn biên cương phía Bắc, thánh Tản Viên
uy ngự chốn linh thiêng.
Một rẻo Tây Nam, mây núi nước miên miên, Hương Tích động mở
một trời Phật pháp.
4. Dòng Đà giang độc lưu lên phương Bắc, sông Tích hiền tuôn
chảy xuống miền nam.
Sông Đáy trong kết bạn với Nhuệ giang, ôm ấp trọn cả bình
nguyên trù phú.
5. Suối Yến mơ ngọt ngào quyến rũ, nụ cười ai ngây ngất nón
ba tầm.
Tiếng ai ca vắt vẻo giữa rừng xuân, trái mơ vàng mọng căng
muôn điều ước.
6. Chùa Tây Phương giữa một miền non nước, bao năm rồi La Hán
vẫn lặng im.
Đất Bối Khê cung kính vị thánh hiền, nhận liền anh chùa Trăm
Gian linh ứng.
7. Trúc Lâm môn bàn tay ai xây dựng, Vũ Khắc Trường ngồi đó
với thời gian.
Vũ Khắc Minh kế tục hóa kim cương, chùa Đậu lành trở thành
miền cổ tích.
8. Đền Đồng Quan thênh thang và cô tịch, khói hương say phơ
phất bóng cửu trùng.
Tiếng đàn bay giữa Đại Lộ mênh mông, nhịp phách tiên nâng hồn
người lên cõi.
9. Dòng Nhị Hà xôn xao sóng dội, phù sa hồng kết thành bãi Tự
Nhiên.
Có ai người dội gáo nước thiêng, thăng hoa hết tình yêu và số
phận.
10. Thấy đâu đây túp lều tranh yên ấm, trái tim vàng Chử Đồng
Tử - Tiên Dung.
Sáo diều ai tha thiết giữa từng không, hay khúc hát quần tiên
ngày khánh hội
11. Đất Đường Lâm bàn tay nào đắp đổi, đá ong xây ngôi vị của
hai vua.
Dòng sữa nào nuôi dưỡng tự ngàn xưa , phủ Thường Tín sinh sáu
ba tiến sĩ,
12. Núi sông hùng vĩ, đất anh linh vạn thuở vẫn anh linh
Thiên địa tịnh minh, đời khang thái muôn năm còn khang thái.
13. Lụa Hàng Vân bàn tay ai kết sợi, áng tơ mềm vấn vít đất
Hà Đông
Gạo tám thơm dâng ngan ngát hương nồng, ai là người ươm gieo
miền Chợ Cháy.
14. Vành nón xinh nghiêng nụ cười con gái, ai là người cặm
cụi giữa làng Chuông.
Bàn tay ai đơm kết sợi chỉ hồng, thu muôn sắc về khung thêu
Quất Động.
15. Cả vũ trụ bao la thơ mộng, tranh sơn mài Duyên Thái gói
vào trong.
Muôn thần linh Nam - Bắc - Tây - Đông, thợ Sơn Đồng gọi về từ
gỗ đá.
16. Ai hữu duyên xin về miền Trạch Xá, tà áo dài bay hương
sắc Việt Nam.
Đất Phú Vinh chau chuốt mỗi sợi nan, kết mây tre thành diệu
huyền vĩnh cửu.
17. Mộc Chàng Sơn đem phụng long hoa điểu, châu tuần về tô
điểm cõi linh thiêng.
Tiếng thoi ai rắc ngọc đất quê hiền, khách tha hồ nhặt gom từ
Phùng Xá.
18. Con ốc nào mang trời mây biển cả, thổi hồn vào đồ khảm
làng Chuyên.
Bàn tay ai nơi Thượng Hiệp bình yên, điểm linh nhãn cho muôn
loài muông thú.
19. Giang sơn quyến rũ!
Nhân vật tài hoa!
20. Muôn năm rồi theo bước ông cha, vì Thủ đô đem thân làm
cửa ngõ.
Tấm lòng son trời cao còn soi tỏ, gậy Trường Sơn in dấu đất
quê hương.
21. Chiến tranh ư, trai tráng khắp làng thôn nắm tay nhau hát
bài ca Vệ quốc.
Bỏ lại sau mái tranh nghèo xơ xác, nguyện đem về cho Tổ quốc
quang vinh.
22. Hồn bay theo cánh gió đại ngàn, sá chi thân vùi sâu ba
thước đất.
Tấm bia lạnh nơi nấm mồ đóng chặt, lại mở ra cả chân lý tự
do.
23. Hòa bình ư, lại hát khúc đưa đò, lái thuyền đời vào giữa
dòng đổi mới.
Đất cha ông đã bao đời đắp đổi, nay hiến dâng cho sự nghiệp
sang trang.
24. Dù chẳng còn đâu nữa lũy tre làng, dù sáo diều không còn
nơi ca hát.
Dù thôn hương không còn đường gạch lát, dù chơi vơi giữa thế
giới thương trường.
25. Chỉ một tấm lòng chan chứa yêu thương
Luôn trọn vẹn dù vơi đầy cuộc sống.
THAN ÔI!
26.Núi vẫn cao, trời xanh kia vẫn rộng, mà địa đồ rơi mất chữ
Hà Tây!
Đông còn đây, Đoài cũng vẫn còn đây, mà ngơ ngác giữa phố
phường Hà Nội.
27. Cô gái quê dịu hiền nơi bến đợi đã sang sông xao xuyến
một chuyến đò.
Niềm vui kia chẳng khỏa hết âu lo, phận làm dâu mấy người hay
họa phúc
28. Chốn quan trường bị một phen chen chúc, còn công đường
hay ké ghế ngồi chơi.
Chốn dân thôn nghe ngóng khắp mọi nơi, còn ruộng đất hay hóa
thành vô sản.
29. Đã chao đảo mấy phen hợp tán, liệu còn không khi biến ngõ
thành nhà.
Hạnh phúc chăng khi thuyền mới ghé qua, phận làm hai đã bá
truyền đại chúng.
30. Ai bảo rằng cứ nhà cao cửa rộng, hạnh phúc hơn trong một
mái tranh nghèo.
Ai bảo rằng kẻ cả chẳng gieo neo, khi chứng kiến người giầu
kia cũng khóc.
NHƯNG THÔI THÔI
31. Chân đã bước có nề chi khó nhọc, ai bảo rằng phận dưới
chẳng có công.
Hồi môn kia cả mảnh đất danh hương, ai dám nói Thủ đô không
nhờ cậy.
32. Sông Hồng dữ, có hiền hòa sông Đáy, Ba Vì thiêng nâng đỡ
núi Nùng linh.
Chùa Một Cột như một đóa sen, được hái về từ Phật đài Hương
Tích
33. Dáng ai đi trong ngàn năm thanh lịch,, tà áo nào không
phải lụa Hà Đông.
Nhà ai cao ngất ngưởng giữa không trung, móng nào xây trên
đất miền Hòa Lạc.
34. Khách viễn du không chồn chân ngơ ngác giữa bốn bề mái
ngói xô nghiêng.
Tới Thủ đô có thủy bộ đôi bên, dắt hồn người vào bao miền
hương sắc
35. "Đáo giang tùy khúc”, luôn nhớ câu “Hữu xạ tự nhiên
hương”.
“Nhất phẩm thiên lương”, từng ghi dạ “Phúc đức tòng tại mẫu”.
36. Đem thân về cùng Thủ đô yêu dấu, cũng tự hào hộ đối môn
đăng
Bỏ lại sau một quá khứ mênh mông, tránh sao khỏi chút niềm
day dứt.
HÀ TÂY ƠI !
37. Đưa Người về một miền kí ức, Quốc Hương còn “Bóng chiếc
thoi đưa”
Hay đời thường sớm nắng chiều mưa, chỉ “sông Tích, sông Đà
giăng lụa”
38. Nguyễn Khắc Hiếu như còn ngồi đâu đó, gom Tản, Đà, sông
núi hóa thành tên.
Ức Trai xưa vẫn sừng sững uy nghiêm, cõi tâm thượng như sao
Khuê buổi sớm.
39. Cánh hạc trắng bay vào miền quên lãng, có ai người thổi
đến một áng mây.
Chẳng thấy ai nâng chén rượu đưa cay, chỉ sương lạnh ướt đầm
trên lối cỏ.
40. Tiễn Người đi thắp hương lòng cháy đỏ, cho tình đời bát
ngát một trời thương.
Cho lời ca tràn khắp nẻo văn chương, dựng tượng đài trong
chập chùng bể nhớ.
41. Dù ở đâu giữa đất trời muôn thuở.
Xin Người về chứng giám Hà Tây ơi!
Cung duy
THƯỢNG HƯỞNG !
(Tháng 9 Mậu Tý
Nhân việc sát nhập Hà Tây về Hà Nội!)
PHẠM VIỆT LONG
-
ĐẶNG XUÂN XUYẾN giới thiệu -
(Ảnh sử dụng minh họa trong bài được sưu tầm
từ nguồn: internet
Bài viết không thể hiện quan điểm của trang
Đặng Xuân Xuyến)
.
Cảm ơn tác giả Đặng Xuân Xuyến đã lập nên websie có nhiều thông tin hữu ích này.Tôi muốn download một số bài tôi tâm đắc nhưng không biết làm thế nào để tải xuống. Xin làm ơn chỉ dùm. Thanks!
Trả lờiXóaThưa bác!
XóaDo yêu cầu của một số tác giả không muốn người khác download bài nên trang nhà đã cài đặt chế độ không cho tải bài. Bác cần những bài nào thì gửi qua email: baothang_xuanxuyen@yahoo.com.vn, em sẽ chuyển bản word tới bac.
Chúc bác và gia đình luôn may mắn và bình an!