ĐẤNG
KHUẤT MẶT XƯNG DANH
QUAN
LỚN TRÀ VONG,
VÙNG
BIÊN GIỚI TÂY NINH
*
Sau khi đăng bài về tâm linh : Người Chết Hiện Về Bằng
Xương Bằng Thịt, có người tỏ ý nghi ngờ. Như đã nói, tôi chỉ ghi lại câu chuyện
một cách trung thực mà không hề phán đoán. Người đọc tin hay không, còn tuỳ.
Tiếp theo đây, tôi ghi một chuyện khác, và tôi là người
trong chuyện. Như đã nói, tôi không có ý cổ xuý cho một vấn đề mà mình không
thể giải thích theo lý khoa học.
Tôi
đi tù từ năm 1975 đến 1985. Khi ra khỏi tù, thân mang nhiều mầm bệnh. Sau những
chuyến vượt biên thất bại, tôi không thể trở về quê cũ nên trốn trong căn nhà
nơi một vùng quê hẻo lánh, thuộc địa phận Trãng Bàng – Tây Ninh. Trong lúc đang
khó khăn, lại xuất hiện căn bệnh phù thũng quái ác, người tôi trướng nước phù
lên. Có kẻ nói tôi bị người ta bỏ bùa thư yểm, phải kêu thầy bùa, thầy pháp
giải cứu mới xong. Tôi không tin vào chuyện bùa chú. Tôi được thân nhân đưa vào
bệnh viện An Bình ở Chợ Lớn khám bệnh. Sau khi thử nghiệm bằng phương pháp khoa
học, bác sĩ cho biết tôi bị chứng phù thũng, và cho nhập viện.
Tôi
mang tên giả khi vào bệnh viện. Vì sợ công an bất ngờ xông vào bắt nên tôi phải
rời khỏi bệnh viện, sau ba ngày ở đó. Tôi trở lại Trãng Bàng, nằm trong căn nhà
cũ và tiếp tục uống thuốc theo toa bác sĩ. Vào thời bát nháo, thuốc giả nhiều
hơn thuốc thật. Tôi càng uống thuốc, bệnh chẳng những không thuyên giảm mà còn
nặng thêm. Thân thể tôi phù trướng gần nứt da. Khi tôi ngồi, nước dồn xuống
chân, chảy ra từng vũng trên sàn nhà, mùi tanh khó chịu.
Nhìn
thần sắc tôi lúc đó, không ai nghĩ tôi có thể sống được lâu dài. Và tôi chỉ còn
chờ thời gian sang qua thế giới bên kia. Trong những ngày chờ chết, tôi bình
tĩnh lạ thường. Tôi nhớ đọc ở đâu đó, có một vị thầy nói với đệ tử rằng: “Con
đến với trần gian bằng một thân xác trần truồng, thì khi ra đi cũng nên nhẹ
nhàng, bỏ lại tất cả, không bận lòng lưu luyến.” Tôi thâm nhiễm câu ấy, và sẵng
sàng trút bỏ tất để ra đi. Vì thế, lìa xa thể xác đối với tôi, cũng bình thường
như trút bỏ một chiếc áo cũ. Xưa nay, không ai vượt qua khỏi luật đào thãi của
tạo hoá. Xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàn. Tôi đã ở vào giai đoạn của
đông tàn. Ra đi là lẽ tự nhiên. Sợ hãi cũng chẳng thay đổi được gì.
Nhà
tôi đang tạm trú, trên căn gác nhỏ có những bàn thờ. Tôi bệnh hoạn mệt mỏi quá,
chẳng buồn tìm hiểu những ông thần, ông thánh nào được thờ trên đó. Ban ngày,
nhà cửa vắng hoe, chỉ một mình tôi nằm thoi thóp. Ban đêm, có một ông già trở về,
ngồi trước ngọn đèn dầu leo lét, chậm rãi quấn thuốc rê, hút và nhả những cuộn
khói âm thầm buồn bã. Ông già cô đơn. Tôi cũng cô đơn. Ông không hỏi tôi một
điều gì về sức khoẻ. Ông biết tôi sắp chết. Chẳng lẽ ông hỏi tôi có khoẻ không,
thì thật là vô lý. Nhưng, nếu ông hỏi chừng nào mày chết, thì quá tàn nhẫn.
Trong tình huống này, lãng tránh những câu thăm hỏi là điều tốt nhất. Thỉnh
thoảng, để có chuyện nói với nhau cho bớt cái vẻ im vắng, ông kể những mẫu
chuyện rời rạc về nguyên nhân có cái bàn thờ trên căn gác.
Chuyện
rằng: ông có đưa con gái goá chồng lúc còn đang xuân sắc. Bỗng một hôm, có ông
thần nhập vào cô, yêu cầu gia đình phải lập bàn thờ, và cho mượn xác của cô để
ông thần trị bệnh giúp đời. Ông già phản đối tới cùng. Lý do, con gái của ông
dù goá chồng nhưng nó còn trẻ, còn cơ hội để làm lại cuộc đời. Nếu thần cứ nhập
vào nó hoài, người đời sẽ gọi nó là “cô cốt”. Đàn ông thanh niên nào lại chịu
lấy cô cốt làm vợ? Vì phản đối yêu cầu của thần, ông già bị bệnh. Bệnh cũng lạ.
Có lúc ông đau đớn vật vã, tự đánh vào mình. Nhiều khi ông điên khùng đến nỗi
nằm lăn lộn trong chuồng trâu. Tự lấy phân trâu trét đầy lên mặt và thân thể.
Những lúc ấy, con gái ông bị thần nhập. Thần nói: “Ngươi bằng lòng cho ta mượn
xác con gái của ngươi làm cốt, bệnh ngươi khỏi tức khắc. Nếu không, ta hành
ngươi đến chết.” Sau cùng, ông già chịu thua. Ông nói, không ai có thể chiến
thắng được kẻ vô hình. Ông chịu lập bàn thờ, và đương nhiên con gái ông là cô
cốt. Từ đó trở đi, ông khỏi bệnh mà không qua một thứ thuốc nào cả.
Theo
lời ông già nơi căn nhà tôi tạm trú, ông Trà Vong đã giúp cho nhiều người trong
vùng khỏi bệnh, nên người dân rất tin tưởng. Và điều lệ bắt buộc cô cốt phải
tuân:
*
Không được nhận tiền và quà của thân chủ.
*
Không được ăn bất cứ thứ gì thân chủ đem đến cúng trên bàn thờ.
Tôi
nghe chuyện lạ, nửa tin nửa ngờ. Hơn nữa, bệnh tôi cũng đang trong thời kỳ
tuyệt vọng, tại sao không thử một phen. Thế là một ngày, trên căn gác nhỏ diễn
ra buổi cầu thần nhập cốt, có những thân nhân của tôi chứng kiến.
Cô
cốt (con gái của ông già), ngồi xếp bằng ngay ngắn, hai mí mắt khép lại như
người đang tham thiền. Ông già lên đèn trên bàn thờ, đốt nhang, chắp tay khấn
vái. Xong, ông quay ra ngồi chung với mọi người, chờ đợi. Vài phút sau, cô cốt
gầm hừ hừ, mắt trừng lên sáng quắc như người đang giận dữ, và nói: “Ta là Quan
lớn Trà Vong. Các ngươi có chuyện chi mà gọi ta cấp bách trở về?”
Tiếng
nói của cô cốt, bây giờ đổi thành giọng nam, phát âm theo giọng của người Huế,
mà Huế giọng trầm nặng của những vùng quê hẻo lánh Thừa Thiên. Có một điều gì
lạ lùng khó hiểu, cô cốt là người miền Nam, chưa bao giờ đi ra miền Trung quá
khỏi lằn ranh Phan Thiết, sao lại nói được tiếng Huế, với cái giọng ồm ồm của
người đàn ông dũng mãnh?
Tôi
lên tiếng: “Con là ........., cầu ông về, xin ông cứu giúp. Thầy bùa thầy ngãi
nói con bị người ta thư yểm. Bác sĩ bệnh viện nói con bị chứng phù thủng. Xin
ông cho biết ý kiến của ông.”
“Chẳng
có ai thư yểm. Bác sĩ nói đúng bệnh đấy.” Ông Trà Vong nhìn tôi, quan sát một
hồi, nói: “Bệnh của “thằng cốc” này, bất cứ khi mô cũng có thể ngủ luôn một
giấc, không thức dậy nữa.”
Không
biết tại sao ông gọi tôi là “thằng cốc”. Tôi cũng chẳng hiểu “thằng cốc” có
nghĩa là gì, nhưng điều đó không quan trọng. Mục đích của tôi là cầu xin chữa
bệnh, tôi nói: “Con biết con đã nguy lắm rồi, xin ông cứu con.”
Thần
cười: “Thằng cốc thường ngày ngang bướng lắm. Bây giờ hạ mình năn nĩ tội
nghiệp. Ta bằng lòng cứu ngươi, nhưng phải hứa với ta một điều.”
Tôi
quả quyết: “Điều gì con cũng hứa.”
Thần
lại nói: “Ẩu! Chưa biết ta muốn gì, ngươi đã hứa. Thôi, ta nói cho rõ. Ngươi
vượt biên nhiều lần nhưng thất bại. Khi hết bệnh, ngươi sẽ vượt biên nữa. Cái
số của ngươi chưa đi được đâu. Phải chờ hết mùa xuân năm sau, ta sẽ giúp ngươi
đi thoát.”
Tôi
nghĩ từ nay đến hết mùa xuân năm sau, thời gian còn bảy tháng và nói: “Con ở
đây không yên. Người ta sẽ bắt con.”
Thần
cười, pha chút khôi hài: “Gần chết mà còn sợ bị bắt. Dù ngươi có dẫn xác tới
nạp cho nó, nó cũng đuổi ngươi về để khỏi tốn cái hòm. Ta nói cho ngươi yên
tâm. Cứ ở trong nhà này, có âm binh của ta che chở.”
“Xin
ông làm cho con lành bệnh, con mới tin.”
Bất
ngờ, thần chồm tới chụp lên vai tôi mà lắc, những ngón tay của cô cốt, bây giờ,
cứng như gọng kềm. Thần cười ha hả: “Thằng cốc này ranh hí! Dám thử thách ta.”
“Con
không dám, nhưng chưa có gì tạo niềm tin cho con.”
“Được!
Ta sẽ làm cho thằng cốc tin. Dù ta không phải thầy thuốc, nhưng ta hỏi người
khác để chỉ thuốc cho ngươi. Bây giờ, sẵn sàng giấy bút để ghi tên thuốc.”
Ông
thần Trà Vong ngồi im một lúc, như đang liên lạc với vị thần nào đó. Rồi ông
che bàn tay lên lỗ tai, một hình thức để nghe âm thanh từ xa vọng lại. Ông đang
nói chuyện với một đấng khuất mặt nào đó: “Hả? Mồng trâu hay muồng trâu? Muồng
trâu. Rồi, ghi vị thứ nhứt: muồng trâu. Rễ gì? Rễ tranh hả? Rồi, ghi vị thứ
hai: rễ tranh ...”
Bằng
cách ấy, ông Trà Vong cho tôi năm vị thuốc. Nói đúng hơn, năm vị cây cỏ, có thể
lấy từ những rào giậu quanh nhà, hoặc ngoài đồng nội. (Thời gian bao nhiêu năm
qua rồi, tôi không còn nhớ hết năm loại dược thảo này). Trước khi thăng, ông
Trà Vong căn dặn: Phải kiên trì uống thuốc của ông, kèm với thuốc của bác sĩ,
cho đến khi khỏi bệnh. Phải ẩn nhẫn chờ hết mùa xuân năm sau, ông sẽ giúp tôi
vượt biên thành công.
Tôi
sắc lấy nước năm vị dược thảo, uống thay nước mỗi ngày. Ba hôm sau, tôi thức
giấc giữa đêm, và nghe mắc tiểu đến cứng bàng quang. Từ ngày tôi bị bệnh, ít
khi nào tôi mắc tiểu đến thế. Tôi lần ra phía sau nhà, đêm khuya thanh vắng,
tôi đứng tiểu. Tiểu hoài không dứt, mỏi chân, tôi ngồi xuống và tiểu tiếp tục.
Khoảng nửa tiếng đồng hồ mới ngừng. Đêm ấy, tôi còn đi tiểu thêm mấy lần nữa.
Hai ngày trôi qua như thế, tôi thấy mình ốm tong teo, chỉ còn da bọc xương. Bao
nhiêu nước trong người đã tháo ra hết. Khi đang bị phù thủng, cả người trướng
nước, tôi cân nặng 70 ký, giờ đây tôi còn 39 ký.
Một
tuần sau, tôi chấm dứt thuốc của ông Trà Vong Tôi lo ăn uống tẩm bổ, và dùng
thêm thuốc Bắc cho mau lại sức để có thể tìm đường vượt biên trong vài ngày
tới. Khi đang chuẩn bị lên đường, bệnh tôi tái phát. Dự định bị trở ngại, tôi
dùng lại thuốc của ông Trà Vong. Không thấy thuyên giảm chút nào, bệnh lại càng
nặng hơn. Bụng tôi trướng to lên, như bụng đàn bà sắp đến ngày sanh nở.
Một
lần nữa, tôi cầu đến ông thần Trà Vong. Vừa nhập vào cô cốt, ông giận dữ đứng
dậy đi qua đi lại trên căn gác nhỏ, chân nện ầm ầm xuống sàn.
Ông
hỏi: “Thằng cốc muốn gì?”
Tôi
nói: “Bệnh con bị tái phát. Dùng lại thuốc của ông, không hiệu nghiệm. Bây giờ
phải làm sao?”
“Thì
chết đi!”
Tôi
năn nĩ: “Xin ông mở lòng từ bi cứu con.”
“Ngươi
biết lỗi chưa?”
“Biết.”
“Lỗi
gì, nói nghe thử?”
“Con
chuẩn bị vượt biên.”
“Ừ!
Ngươi hứa với ta là chờ hết mùa xuân năm sau, ta sẽ giúp. Nhưng ngươi thất hứa.
Ta biết ngươi chưa đi bây giờ được. Nếu đi, ngươi sẽ chết trên biển. Ta phải
cầm chân ngươi lại bằng cách làm cho bệnh của ngươi tái phát.”
“Xin
ông cứu con lần nữa. Con sẽ nghe lời ông. Con hứa, sau này ra được nước ngoài
con sẽ lập bàn thờ ông, sẽ ăn chay suốt quãng đời còn lại.”
Ông
Trà Vong nguôi giận, ngồi xuống, khoát tay và nói: “Thôi! Thôi! Đừng hứa hẹn
quá nhiều. Sắp chết, thì điều gì cũng hứa. Mai kia, ra tới nước ngoài sống yên
thân, rồi quên tất cả, bị tội. Ngươi nói một lần, ta không chấp, ta không nhận
lời hứa này. Chỉ cần ngươi chờ hết mùa xuân năm sau. Chịu không?”
“Con
chịu, nhưng thuốc cũ dùng không bớt.”
“Ta
làm cho bệnh nặng hơn kỳ trước. Thuốc cũ làm sao khỏi được.”
“Bây
giờ phải làm sao? Xin ông chỉ dạy.”
“Thời
gian ngươi ở tù quá lâu, sức lực đã bị vắt cạn hết rồi. Như một thân cây héo
úa, bên ngoài thấy còn vài chiếc lá, nhưng cốt lõi bên trong đã mục rồi. Muốn
cứu lại, phải tưới nước, bón phân từ từ. Tưới nhiều quá, cây bị úng gốc và chết
mau hơn. Ngươi cũng thế, đang ngắc ngoải mà tẩm bổ quá nhiều, cơ thể làm sao
hấp thụ kịp? Hãy nghe lời ta, kiên nhẫn chờ đợi, và nhớ câu “dục tốc bất đạt”.
Thôi, hãy chuẩn bị giấy bút, ghi tên thuốc mới.”
Và
cũng như lần trước, ông Trà Vong lại liên lạc với một vị thầy thuốc khuất mặt
nào đó, cho tôi năm loại dược thảo mới. Năm vị này thật khó kiếm. Chẳng hạn
như, phải trèo lên những cây cổ thụ, lấy cái “ổ rắn bay” (một loại cây tầm gửi)
lâu năm, lặn xuống sông rạch lấy những củ dứa màu hồng (giống như một loại hồng
sâm) v.v... Tất cả những dược thảo này, tôi phải mướn người lặn lội tìm kiếm
một thời gian lâu mới có được.
Tôi
dùng thuốc mới, nửa tháng sau, tôi lại đi tiểu ồ ạt và khỏi bệnh.
Thời
gian chờ đợi đến “mùa xuân năm sau” còn quá lâu. Quanh quẩn suốt ngày trong cái
nhà vắng hoe, làm tôi thêm buồn chán. Ý nghĩ tìm đường vượt biên lại thôi thúc,
lòng tôi không yên. Tâm lý này, những người vượt biên đã từng trải qua. Đã vượt
biên thất bại một lần, thế nào cũng tìm cách vượt biên nữa. Thất bại keo này,
ta bày keo khác. Vượt biên giống như một loại ma túy, vượt biên hoài sẽ ghiền
vượt biên. Vượt biên đến chừng nào bị công an bắt nhốt vào tù, hoặc hao tán hết
tài sản mới thôi. Kiên trì vượt biên, đến nỗi, thời đó có câu vè:
Má
ơi, lạy má, con đi
Một
là con nuôi cá
Hai
là má nuôi con
Ba
là con nuôi má
Tâm
trạng tôi cũng thế. Lời hứa chờ đợi với ông thần Trà Vong, không mạnh hơn tiếng
gọi vượt trùng dương. Lần thứ hai, tôi lo bồi dưỡng cấp tốc bằng sự ăn uống và
dùng thêm thuốc Tây, thúc đẩy cho cơ thể mau chóng phục hồi sinh lực. Quyết tâm
thực hiện hoài bão cho sớm. Và lạ thay, bệnh tôi tái phát không ngờ! Cường độ
tái phát rất nhanh. Chỉ trong vài ngày, thân tôi phù trướng lên như một con bò.
Hỡi ơi, cái mộng vượt biên, một lần nữa đã bị cầm chân bằng cơn phù thủng quái
ác.
Tôi
lập tức văn nài cô cốt, cầu khẩn ông thần Trà Vong. Thần trở về trong cơn thịnh
nộ. Mắt ông Trà Vong qua mắt cô cốt, nhìn tôi toé lửa.
“Thằng
cốc lại gọi đến ta?”
“Vâng!
Con thỉnh ông về để tạ lỗi.”
“Khỏi
tạ lỗi. Ta chưa vật chết ngươi là may rồi. Ta cũng chưa thấy “thằng cốc” nào
cứng đầu như ngươi. Mục đích ngươi chỉ muốn xin ta cho thuốc trị bệnh. Thôi,
hãy nằm đó chờ chuyện gì đến sẽ đến. Đừng cầu xin vô ích. Ta đi đây.”
“Khoan!
Khoan! Xin ông cho con nói thêm mấy lời...”
Nhưng
cô cốt đã thở hắt ra những hơi rất mạnh, và ngã người vào cánh tay của ông già
sẵn sàng đón đỡ phía sau.
Lần
này, bệnh tôi tưởng như không cách gì cứu được nữa. Nhưng tôi vẫn ở trong căn
nhà có căn gác thờ quan lớn Trà Vong. Một hôm, ông già chủ nhà dặn tôi 8 giờ
tối nay lên gác thắp nhang giùm, vì ông có việc phải về muộn. Đến 8 giờ tối,
tôi không thể leo lên gác bằng cái thang gỗ trong khi cả người phù thũng nặng
nề, mệt mỏi. Bỗng tôi nghe tiếng động như tiếng va chạm làm rung lắc bàn ghế
trên gác. Tôi đứng dưới chân cầu thang nhìn lên và nghĩ chắc có con mèo gây ra
tiếng động. Một lần nữa, tiếng động càng lớn hơn. Tôi nghe rợn người vì sợ ma.
Nghĩ lại thật buồn cười. Tôi sắp trở thành một con ma mà lại sợ ma. Không dám
đứng dưới chân cầu thang, tôi ra đứng trước hiên nhà. Tiếng động rung lắc càng
mạnh hơn nữa, tôi sợ hãi đi luôn ra ngồi ngoài đường nhựa, cách sân nhà khoảng
50 mét. Đêm ấy trăng sáng lắm, tôi mong có người đi qua, nhưng chẳng có ai. Đến
10 giờ tối, ông già chủ nhà về, thấy tôi ngồi ngoài đường. Ông hỏi, “sao mầy
ngồi đây?” Tôi nói với ông về những tiếng động lạ trên căn gác. Ông lại hỏi, “8
giờ tối mày có thắp nhang trên gác không?” Tôi nói không vì mệt mỏi quá. Ông
nói, “tao biết rồi, 8 giờ tối mà không thắp nhang cho Ông, nên âm binh nhắc nhở
thôi. Có gì mà sợ.” Dù ông gìa nói thế, nhưng từ đó trở đi, tôi bắt đầu sợ ma.
Sau
ba ngày lễ Tết, tôi được thân nhân chuyển vô bệnh viện Chợ Rẫy, cũng với một
cái tên giả. BS nhìn tôi và nói, bị xơ gan cổ trướng thì về nhà chờ chết, chứ
vào đây làm gì. Người nhà của tôi khóc lóc nan nĩ mãi, cuối cùng tôi cũng được
nhập viện. Tôi nằm trong khoa gan hay thận gì đó. Khoa này có hai phòng, mỗi
phòng có hai mươi giường. Nhưng bệnh nhân đông quá, nên hai giường phải đặt sát
vào nhau để nằm được ba người. Mỗi ngày có bác sĩ vào thăm bệnh. Bác sĩ và y tá
rất ít để ý đến tôi, người ta chăm sóc những bệnh nhân khác nhiều hơn. Tôi hiểu
lý do. Tôi là bệnh nhân vô phương cứu chữa, cho nằm đó để chờ chết mà thôi,
chăm sóc mất thì giờ. Cứ vài ngày, lại có người bệnh được đem lên phòng cấp
cứu. Và từ đó, họ đi luôn vô nhà xác, không về phòng nữa. Tôi nghĩ, rồi sẽ tới
phiên tôi. Tôi bình tĩnh chờ đợi, nhiều khi còn tỏ ra rất vô tư nữa.
Đến
một đêm, giữa khuya bỗng hai đầu gối tôi đau nhức không chịu nỗi. Tôi rên la
vang cả phòng. Những người bệnh khác vội gọi y tá, nhưng y tá không đến. Tôi
đau nhức đến nỗi mình mẫy tháo đầy mồ hôi, đau đến vọt nước đái xối xả trên
giường. Gần sáng, tôi thiếp đi. Khi tỉnh lại, tôi thấy nhẹ người. Từ đó, tôi cứ
tiếp tục tháo mồi hôi ướt cả áo quần, và vịn theo vách tường, lần vào phòng
tiểu. Một tuần sau, người tôi xộp hẵn, chỉ còn da bọc xương.
Khi
tôi xuất viện, về nằm trốn trong một căn nhà ở miền quê, sức khoẻ chưa kịp phục
hồi, thì cũng vừa hết muà xuân. Không hẹn trước, mà có người từ Kampuchia trở
về dẫn tôi lên Nam Vang. Rồi lên cảng Kompongsom, xuống tàu vượt trùng dương,
tìm đất mới.
Đúng
như ông thần Trà Vong đã nói, tôi chỉ có thể đi thoát vào cuối mùa xuân năm
sau. Có sự phù hộ của ông hay không, tôi không biết, nhưng tôi đã trót lọt một
cách bình yên.
Bao
nhiêu năm ở xứ người, chuyện cô cốt xưng danh Quan Lớn Trà Vong, vẫn làm tôi
suy nghĩ. Đành rằng, tôi khỏi bệnh hoàn toàn, phần lớn nhờ vào bệnh viện của
Mỹ. Nhưng cứu tôi qua khỏi cơn ngặt nghèo lúc đầu là những vị thuốc Nam, từ ông
Trà Vong. Sau này, tôi có hỏi một ông thầy thuốc Nam về những vị thuốc tôi đã
dùng. Ông nói tất cả những dược liệu ấy đều có tính cách xổ độc và lợi tiểu.
Tôi
ghi lại việc này, như một hiện tượng lạ xảy ra trong đời tôi. Tuyệt nhiên không
có ý định cổ xúy cho một vấn đề mà mình không đủ tư cách và khả năng thẩm định.
Riêng
tôi, tôi tin tưởng tuyệt đối vào sự linh thiêng của Quan Lớn Trà Vong. Mỗi lần
về VN, việc đầu tiên là tôi đi thăm viếng lăng mộ Quan Lớn Trà Vong. Tôi cầu
xin điều gì cũng được ông đáp ứng, dĩ nhiên điều cầu xin đó không vì lòng tham
vị kỹ.
Tại
đền thờ Quan Lớn Trà Vong, có một quyển sách nhỏ ghi tiểu sử ông Trà Vong. Theo
đó, ông Trà Vong tên thật Huỳnh Công Giãn, làm quan triều nhà Nguyễn. Ông được
triều đình phái vào Nam, trấn đóng dọc theo biên giới Việt Miên, thuộc tỉnh Tây
Ninh. Cùng vào Nam với ông còn có hai người em tên Huỳnh Công Nghệ trấn đóng
vùng Bến Cầu, và Huỳnh Công Thắng trấn đóng vùng Cẩm Giang. Riêng ông Huỳnh
Công Giãn trấn đóng ở nơi hiểm yếu nhất, vùng Lò Gò thuộc Tân Biên ngày nay.
Thời ấy xa xưa ấy, quân Miên thường sang quấy phá xóm làng người Việt dọc theo
biên giới. Từ ngày có ba anh em ông Huỳnh Công Giãn về trấn đóng, mỗi lần quân
Miên kéo sang đều bị đánh và đẩy lui về bên kia biên giới. Và rồi, quân Miên
quyết tâm phục hận, chúng tập trung một lực lượng lớn kéo sang biên giới, bất
ngờ bao vây tấn công căn cứ phòng ngự của ông Huỳnh Công Giãn. Vì biết quân số
ít hơn, không thể chống cự lâu dài, ông cho người cầu cứu quân tiếp viện từ hai
người em đang trấn đóng ở Cẩm Giang và Bến Cầu. Nhưng thời ấy, di chuyển bằng
đường bộ còn rất khó khăn và chậm chạp, quân tiếp viện tới nơi chắc cũng mất
vài ngày. Cuối cùng do thế cô, ông Huỳnh Công Giãn đã tự sát sau khi đã chiến
đấu đến sức cùng lực tận.
Người
dân Tây Ninh nhớ ơn ba anh em ông Huỳnh Công Giãn, Hùynh Công Nghệ, Huỳnh Công
Thắng và lập đền thờ ở ba nơi mà những anh em ông từng trấn đóng. Riêng ông
Huỳnh Công Giãn nổi tiếng linh thiêng, đền thờ và lăng mộ ghi là QUAN LỚN TRÀ
VONG, thuộc vùng Lò Gò, Tân Biên. Theo tài liệu, nơi tự sát của ông Trà Vong
ngày xưa được tìm bởi nhà ngoại cảm ở một vùng rừng hẻo lánh. Và người dân ngày
nay lấy nơi đó lập thành lăng mộ Quan Lớn Trà Vong .
Quyển
sách nhỏ ghi tiểu sử Quan Lớn Trà Vong, tôi đọc lâu lắm rồi, nên có nhiều sai
sót. Xin người đọc lượng thứ.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
*
LÂM
CHƯƠNG
Địa chỉ: Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ messenger facebook Vũ Thị Hương Mai ngày 21.2.2022.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ
nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét